Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám ❤️️ 36+ Bài Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Văn Mẫu Đặc Sắc Giới Thiệu Một Di Tích Lịch Sử Nổi Tiếng Của Đất Nước.
Dàn Ý Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám
Việc lập dàn ý thuyết minh về văn miếu Quốc Tử Giám sẽ giúp các em học sinh nắm được bố cục và định hướng viết bài. Tham khảo thuyết minh về văn miếu Quốc Tử Giám dàn ý chi tiết như sau:
I. Mở bài: Giới thiệu về đối tượng thuyết minh – Văn Miếu Quốc Tử Giám
II. Thân bài
-Lịch sử hình thành:
- Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 dưới thời vua Lê Thánh Tông, còn Quốc Tử Giám được khởi công xây dựng cùng thời sau đó vào năm 1076, ngay bên cạnh Văn Miếu.
- Tọa lạc tại phía Nam kinh thành Thăng Long, thuộc quận Đống Đa, thủ đô Hà Nội.
- Diện tích là 54331 m2.
-Kiến trúc:
- Nhà Thái học có ba gian, có tường nang, lợp bằng ngói đồng.
- Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dãy đều 14 gian.
- Phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người.
- Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch Bát Tràng.
- Gồm các bộ phận chính là Hồ Văn, khu Văn Miếu thờ Khổng Tử, Vườn Giám và Quốc Tử Giám.
- 4 cổng chính: Cổng Văn Miếu, Đại Trung, Đại Thành, Thái Học
-Các di tích bên trong bao gồm:
- Tứ trụ và Bia Hạ Mã
- Khuê Văn Các
- Giếng Thiên Quang và 82 tấm bia Tiến sĩ.
- Khu Đại Thành, khu Thái Học,…
-Vai trò, ý nghĩa:
- Là hình ảnh tiêu biểu của Hà Nội.
- Là nơi tượng trưng cho truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam.
III. Kết bài
- Vào tháng 3/2010, 82 tấm bia Tiến sĩ triều Lê – Mạc tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
- Đến ngày 27/7/2011, 82 bia Tiến sĩ lại tiếp tục được công nhận là Di sản tư liệu thế giới trên phạm vi toàn cầu.
- Di tích làm rạng rỡ văn hóa, lịch sử sâu rộng của dân tộc Việt Nam; tôn vinh nền văn hóa, nền giáo dục, truyền thống hiếu học, hiếu nghĩa, tôn sư trọng đạo, quý đức, quý tài của dân tộc Việt Nam.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử ☀️ 17 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Bài Văn Thuyết Minh Văn Miếu Quốc Tử Giám – Mẫu 1
Đón đọc bài văn thuyết minh văn miếu Quốc Tử Giám giúp bạn đọc có thêm những thông tin thú vị và phong phú về địa danh này.
Văn Miếu Quốc Tử Giám tọa lạc giữa thủ đô Hà Nội, được xem là trường đại học đầu tiên tại Việt Nam. Từ những năm đầu tiên, ngôi trường này đã tụ họp rất nhiều người tài, đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay Văn Miếu vẫn là điểm đến của nhiều du khách khi ghé thăm Hà Nội bởi kiến trúc độc đáo, ấn tượng.
Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua bao nhiêu biến động, thăng trầm của lịch sử nhưng nó vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của con người Hà Nội. Đó là giá trị tinh thần cao đẹp được gìn giữ từ bao nhiêu năm. Văn Miếu nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long thời Lí. Văn Miếu được được vào hoạt động trong khoảng thời gian từ 1076 cho đến 1820, đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước.
Văn Miếu bao gồm hai di tích chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy đầu tiên của trường học. Trải qua bao nhiêu năm nhưng Văn Miếu vẫn giữ được những nét đẹp cổ xưa. Ban đầu Văn Miếu là nơi học tập của các hoàng tử, sau này mới mở rộng ra cho những người tài trong cả nước. Văn Miếu có diện tích 54.331 m2 bao gồm Hồ Văn, vườn Giám và nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ. Với những kiến trúc được thiết kế từ thời xa xưa, in dấu biết bao nhiêu thăng trầm của thời gian, của những đổi thay đất nước.
Khi bước vào khu Văn Miếu, du khách sẽ đến với cổng chính, trên cổng chính là chữ Văn Miếu Môn. Phía ngoài cổng có đôi rồng đá thời Lê, bên trong là rồng đá thời Nguyễn. Khu thứ hai chính là Khuê Văn Các được xây dựng năm 1805 gồm 2 tầng, 8 mái rất rộng rãi. Đây là nơi tổ chức bình các bài thơ và văn hay của sĩ tử thời xưa. Khu thứ ba chính là từ gác Khuê Văn tới Đại Thành Môn, ở giữa có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tĩnh. Ở hai bên hồ là nơi lưu giữ 82 bia tiến sĩ có ghi tên, quê quán, chức danh của những người nổi tiếng như Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn…
Cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung; có những hiện vật quý hiếm được lưu truyền từ bao đời nay như chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc vào năm 1768. Đây được xem là chiếc chuông lớn, có giá trị lịch sử và văn hóa lâu đời. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ Xương, mặt ngoài khắc bài mình biết theo kiểu chữ lệ nói về công dụng loại nhạc cụ này. Khu thứ 5 chính là Trường Quốc Tử Giám. Ở đây là nơi dạy học, tuyển chọn người tài, đỗ đạt cao giúp cho vua nâng cao trí thức. Có rất nhiều người từ ngôi trường này đã gây nên tiếng vang lớn cho đến ngày nay như Chu Văn An, Bùi Quốc Khải…
Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hàng mang nét nghệ thuật của triều Lê và Nguyễn. Những nét kiến trúc độc đáo ấy được xây dựng khéo léo bởi những bàn tay tài hoa.
Cho đến ngày nay Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn là địa điểm du lịch của rất nhiều người, vừa nhớ về cội nguồn, vừa khấn bái, vừa tìm hiểu được lịch sử của cha ông ta. Nơi đây còn được xem là tâm điểm của Hà Nội, của thủ đô nghìn năm văn hiến.
Mời bạn tham khảo 🌠 Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Ở Địa Phương Em 🌠 22 Bài Mẫu Hay
Văn Mẫu Mở Bài Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám Hay Nhất – Mẫu 2
Văn mẫu mở bài thuyết minh về văn miếu Quốc Tử Giám hay nhất sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho bạn đọc và các em học sinh.
Văn miếu Quốc Tử Giám là một trong những địa điểm thu hút du khách bậc nhất của Hà Nội, nơi đây cũng chính là chứng nhân lịch sử cho nền văn hóa nho học, đã đào tạo ra vô số nhân tài cho đất nước từ thuở thành lập, được xem là ngôi trường đại học chính quy đầu tiên của Việt Nam.
Quốc Tử Giám chính là minh chứng cho quyết tâm nâng cao học thức nhân dân, phát triển nền giáo dục nước nhà lên đến đỉnh cao của vua Lý Nhân Tông, và quả thực ông đã thành công, khi lịch sử đã đánh giá triều Lý là triều đại có nền giáo dục phát triển mạnh mẽ nhất. Với lối kiến trúc độc đáo và bề dày lịch sử gắn liền với sự hưng thịnh phát triển của nhiều triều đại, Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã mang đến trong trái tim nhiều người sự trân trọng và ngưỡng mộ vô cùng.
Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 dưới thời vua Lê Thánh Tông, còn Quốc Tử Giám được khởi công xây dựng cùng thời sau đó vào năm 1076, ngay bên cạnh Văn Miếu. Quần thể di tích này tọa lạc tại phía Nam kinh thành Thăng Long, thuộc quận Đống Đa, thủ đô Hà Nội. Công trình có tổng diện tích là 54331m2, bốn phía được bao quanh bởi các tuyến phố chính của quận, hướng Nam là cổng chính giáp với phố Quốc Tử Giám, phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây giáp phố Tôn Đức Thắng, và phía Đông giáp với phố Văn Miếu.
Khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám có kết cấu tường gạch vồ bao quanh toàn bộ diện tích, phía bên trong lại chia làm 5 tầng không gian có kiến trúc khác nhau, mỗi lớp như vậy được ngăn cách bằng một tường gạch dày có ba cửa thông với nhau. Nhìn tổng quan quần thể di tích gồm ba bộ phận chính là Hồ Văn, khu Văn Miếu thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám.
Bắt đầu từ cửa chính ở phía Nam, giáp phố Quốc Tử Giám, ta nhìn thấy Hồ Văn nằm đối diện với khu Văn Miếu, từ Hồ Văn bước sang bên kia đường là bức tường gạch ngoài cùng của khu di tích gồm có Tứ trụ được xây bằng gạch, hai trụ giữa xây cao vượt lên hình con nghê chầu vào, hai trụ ngoài đắp hình chim phượng, hai bên là hai Bia Hạ Mã, tại đây có là công hầu, bá tước cũng phải xuống ngựa đi từ bia này sang bia kia rồi mới được lên xe ngựa đi tiếp.
Đi vào trong gặp đầu tiên là cổng Văn Miếu với cổng giữa xây vuông và cao hai tầng, hai cổng bên nhỏ hơn đối xứng nhau, khu vực thứ nhất này gọi là Nhập đạo bao gồm khu Văn Miếu, bên cạnh là Vườn Giám nơi chiếm gần nửa diện tích của cả quần thể. Đi tiếp vào trong gặp cổng Đại Trung, qua cổng này khu vực bên trong gồm Khuê Văn Các nằm ngoài cùng, là một lầu vuông tám mái, bốn cửa tròn, được ví như nơi giao hòa của đất trời, hiện nay hình ảnh của Khuê Văn Các được in trên tờ tiền polyme 100.000 đồng của nước ta.
Tiến vào bên trong là giếng Thiên Quang hay còn gọi là Văn Trì đặt ở trung tâm, các Bia Tiến Sĩ được đặt ở hai bên phải trái của giếng, mỗi bên gồm 41 bia xếp thành 2 hàng ngang, mỗi bia được đặt trên lưng một con rùa đá xanh, trên đó khắc tên các tiến sĩ đã thi đậu trong từng đợt khoa cử. Đi vào trong nữa ta lại gặp cổng Đại Thành, phía trong này bao gồm khu Đại Thành là nơi đặt điện thờ Khổng Tử, sau đó gặp tiếp cổng Thái Học, bên trong bao gồm khu Thái Học, Lầu Chuông và Lầu trống chính là nơi học tập của các sĩ tử, đã đào tạo nhân tài cho nhiều triều đại của nước ta.
Văn Miếu trong những năm đầu mới xây dựng thì đóng vai trò là nơi thờ cúng các bậc tiên thánh người đã khai sinh ra nho học, đồng thời là trường học hoàng gia đầu tiên của Đại Việt mà học sinh đầu tiên là thái tử Lý Càn Đức sau là vua Lý Nhân Tông. Sau khi Quốc Tử Giám hoàn thiện thì khu di tích này chính thức trở thành trường đại học đầu tiên của Việt Nam, ban đầu chỉ dành cho con cái nhà quyền quý, sau mở cửa cho cả con em thường dân nhưng có tài trí hơn người đến học.
Ngày nay Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã trở thành khu di tích lịch sử nằm trong danh sách 23 Di tích Quốc gia đặc biệt, là chứng minh cho sự phát triển của nền giáo dục của nước ta dưới chế độ phong kiến, đồng thời là địa điểm du lịch hấp dẫn đối với nhiều du khách. Nơi đây cũng lưu giữ lại những tư liệu lịch sử quý giá, những nét kiến trúc độc đáo, cùng với những dấu vết về một thời thịnh trị của Nho giáo tại Việt Nam.
Quần thể khu di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám chính là đại diện cho truyền thống hiếu học, lễ nghĩa, tôn sư trọng đạo, đề cao nhân tài với những giá trị tinh thần, văn hóa vô cùng sâu sắc và quý giá, là biểu tượng của cả đất nước. Chính vì vậy mỗi chúng ta cần có ý thức giữ gìn, bảo tồn khu di tích để không chỉ hôm nay mà con cháu chúng ta ngày sau có thể ý thức được và kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp này.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Văn Mẫu Kết Bài Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám Ấn Tượng – Mẫu 3
Tham khảo bài văn mẫu kết bài thuyết minh về văn miếu Quốc Tử Giám ấn tượng với những ý văn hay và cách diễn đạt khéo léo, thu hút đọc giả.
Hằng năm, cứ đến mùa thi, nhiều sĩ tử miền Bắc luôn hướng về Văn miếu Quốc Tử Giám để cầu mong may mắn, rồi cũng có rất nhiều những cử nhân lựa chọn địa điểm này để lưu lại những bức ảnh kỉ yếu của một thời sinh viên đẹp đẽ. Tại sao nơi này lại thường gắn với những hoạt động học tập như thế? Đó là bởi vì đây là một nơi giàu truyền thống văn hóa, khoa cử.
Văn miếu Quốc Tử Giám được biết đến là một địa danh tọa lạc tại thủ đô Hà Nội, được coi như biểu tượng của sự trường tồn tinh hoa văn hóa, giáo dục dân tộc, của truyền thống tôn sư trọng đạo. Văn Miếu, theo Đại Việt sử kí toàn thư, được xây dựng năm 1070, đời vua Lí Thánh Tông, thờ các bậc tiên thánh, tiên sư cuả đạo Nho. Đồng thời, đây cũng là một trường học hoàng gia. Năm 1253, Trần Thái Tông mở rộng Quốc Tử Giám, thu nhận cả những học sinh là con nhà thường dân có học lực xuất sắc.
Khu Văn miếu tọa trên khu đất hình chữ nhật với tổng diện tích là 54000 m2, bao quanh bởi khu tường gạch vồ cỡ lớn tạo không gian cổ kính trang nghiêm. Bước vào bên trong, những mái kiến trúc cổ ẩn hiện trong cành lá sum suê tạo sự thu hút đặc biệt với du khách. Trong Văn Miếu có một hồ Văn, đây là nơi diễn ra các cuộc bình thơ.
Khu nội tự được chia thành 5 khu vực. Khu vực một từ Văn miếu môn đến Đại trung môn. Để vào Văn miếu môn phải đi qua bốn thần trụ, bước qua ba cửa cuốn vòng là vào Văn miếu môn. Theo con đường thẳng tắp từ Văn miếu môn đi vào chính là Đại trung môn gồm ba gian dựng bằng gạch. Con đường lát gạch sẽ tiếp tục đưa du khách đến Khuê Văn Các, là lầu vuông gồm hai tầng tám mái. Đây là biểu tượng của văn hóa văn học Việt Nam.
Qua Khuê Văn Các đến giếng Thiên Quang, hình vuông, quanh năm mặt nước bằng phẳng, con đường lát gạch quanh giếng Thiên Quang dẫn du khách đến nhà bia tiến sĩ, gồm 82 tấm bia đá khắc các bài thi văn, bia đặt trên lưng rùa biểu hiện tinh hoa dân tộc. Qua nhà bia Tiến sĩ sẽ đến khoảng sân rộng được lát gạch Bát Tràng. Khu vực cuối cùng là nhà Thái học, xưa là nơi đào tạo nhân tài. Văn miếu là nơi tôn vinh nhà giáo lỗi lạc Chu Văn An và các vị vua có công dây dựng.
Với giá trị lịch sử, văn hóa to lớn, Văn Miếu Quốc Tử giám còn là nơi được lựa chọn để tổ chức các buổi hội thảo, chuyên đề, là nơi vinh danh các thủ khoa xuất sắc. Tháng 5 – 2012, Văn Miếu được công nhận là di tích đặc biệt cấp quốc gia. Đây cũng là địa điểm du lịch nổi tiếng thu hút khách du lịch muốn tìm hiểu văn hóa lịch sử Việt Nam, là nơi các sĩ tử đến xin chữ cầu may mắn, là nơi được chọn để chụp các bức ảnh kỉ yếu của học sinh, sinh viên,…
Bởi đây là di tích đặc biệt cấp quốc gia nên cần lưu ý một số điều cơ bản: Không xả rác bừa bãi, không giẫm chân lên thảm đỏ và không xoa đầu các cụ rùa, ăn mặc trang nghiêm, thái độ thành tâm, thánh kính,..
Dù bước thăng trầm của thời gian có thế nào đi nữa, Văn miếu – Quốc Tử Giám vẫn sẽ là một di tích mang dấu ấn của một quốc gia giàu truyền thống khoa cử và trở thành biểu tượng đẹp của thủ đô Hà Nội.
Tiếp tục đón đọc ☘ Thuyết Minh Về Văn Miếu Trấn Biên ☘ 15 Bài Văn Hay Nhất
Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội – Mẫu 4
Bài văn thuyết minh về văn miếu Quốc Tử Giám Hà Nội sẽ mang đến cho bạn đọc những trải nghiệm thú vị về không gian và ý nghĩa lịch sử của địa danh này.
Trong số hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, hơn 500 di tích đã được xếp hạng, thì Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô Thăng Long dưới triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, với quy mô khang trang bề thế nhất, tiêu biểu nhất cho Hà Nội và cũng là nơi được coi là biểu tượng cho văn hóa, lịch sử Việt Nam.
Từ hàng ngàn năm trước, vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đặt tên thành là Thăng Long. Trải qua bao biến cố của thời gian và lịch sử, Hà Nội vẫn lưu giữ trong lòng nó những ” dấu xưa oai hùng” cùng với những danh lam thắng cảnh. Một trong những nơi đó là Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Văn Miếu – Quốc Tử Giám được nhà Lý xây dựng vào thế kỉ 11, với mục đích chính là dạy học cho các hoàng tử và những người tài trong thiên hạ. Đây còn là nơi thờ các danh nhân có công trong nền giáo dục nước nhà, tổ chức các kì thi của quốc gia, cao nhất là kì thi tiến sĩ.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam thành Thăng Long xưa. Nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Ở vị trí đắc địa, bốn mặt đều là những con phố đông vui, nhưng không vì thế mà Văn Miếu mất đi vẻ yên tĩnh, cổ kính vốn có. Quần thể kiến trúc này nằm trên diện tích 54331 m² bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám. Hồ Văn nằm ở đối diện cổng chính Quốc Tử Giám, đã được trùng tu nhiều năm nay. Đây là một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát, giữa hồ có gò Kim Châu. Cảnh trí rất yên bình, nên thơ giúp cho các sĩ tử giải tỏa bớt căng thẳng trước giờ thi.
Khu nội tự Văn Miếu – Quốc Tử Giám được ngăn cách với vườn Giám và không gian bên ngoài bằng tường gạch vồ, không trát bên ngoài và có bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam. Những lối đi trong Văn Miếu đều được trải sỏi hoặc lát đá sạch sẽ. Từ cổng chính Văn Miếu Môn, vào khu Nhập đạo, theo đường thẳng tới cổng Đại Trung môn. Ở hai khu vực này trồng cây bóng mát gần kín mặt bằng và có bốn hồ nhỏ đăng đối hai bên phải trái. Trong hồ được trồng hoa sen, hoa súng tạo cho cảnh quan càng thêm tươi đẹp. Quanh hồ được xây những bức tường hoa để ngăn cách lối đi với hồ.
Nối tiếp tới Khuê Văn Các là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa tia sáng. Tầng dưới là bốn trụ gạch vuông, chạm trổ hoa văn. Tầng trên làm bằng gỗ sơn màu đỏ có thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái.
Khu tiếp theo là bia Tiến sĩ và hồ nước vuông Thiên Quang Tỉnh (giếng soi ánh mặt trời). Sát bờ hồ là lối đi và những dãy bia đá trang nghiêm, cổ kính dựng thành hai khu Đông và Tây. Mỗi khu chứa hai dãy bia đá, tất cả gồm 82 tấm bia ghi tên họ quê quán của những người đã đỗ Tiến sĩ triều Lê. Bia được đặt trên lưng các cụ rùa vì theo quan niệm của ông cha ta, rùa chính là thần Kim Quy, là một vật biểu linh cho tinh thần, sức mạnh, sự yêu thương, đoàn kết của dân tộc.
Kế tiếp khu bia tiến sĩ và hồ Thiên Quang Tỉnh là Cửa Đại Thành. Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng hàng ngàn mét vuông, lát gạch Bát Tràng. Đây là nơi xưa kia được dùng làm nơi tổ chức lớp học nghe giảng đạo. Ngày nay là nơi tập trung tổ chức các sự kiện văn hóa lớn của Hà Nội và quốc gia. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn trải suốt chiều rộng của sân. Phía sau và song song với Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện gồm chín gian, tường xây ba phía, mái cong vẩy cá.
Thượng điện khi xưa là nơi thờ tự và học hành. Ngày nay chỉ còn là nơi thờ Khổng Tử và các vị danh nhân. Ở gian chính của Thượng điện đặt các lớn, bên trong có bài vị và tượng đồng của Khổng Tử. Hai gian bên phải, trái đặt ngai thờ bốn vị Tăng Tử, Mạnh Tử, Nhan Tử và Tử Tư. Ngoài bài vị ra cả 4 vị đều có tượng gỗ sơn thiếp. Hai bên của sân là hai dãy Hữu Vu và Tả Vu, cũng là khu triển lãm, trưng bày, bán đồ lưu niệm cho khách tham quan.
Phần sau cùng là khu Tiền đường và Hậu đường: đây là công trình hoàn toàn mới, nằm trong dự án trùng tu khu Thái Học khởi công xây dựng ngày 13 – 7 – 1999. Tiền đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, văn hoá nghệ thuật dân tộc. Hậu đường là kiến trúc gỗ hai tầng.
Tầng một là nơi tôn vinh Danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An và là nơi trưng bày về Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long và nền giáo dục Nho học Việt Nam. Tầng hai là nơi tôn thờ các danh nhân đã có công xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám và đóng góp vào sự nghiệp giáo dục Nho học Việt Nam. Đó là vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông. Bên ngoài Hậu đường, còn có nhà chuông, lưu giữ chuông Bích Ung được đúc từ năm 1768, và nhà trống có treo trống lớn màu đỏ.
So với trường đại học Bologna ở Italia – ngôi trường đại học cổ nhất còn tồn tại ở châu Âu. Ra đời năm 1088 cho đến nay, trường vẫn giữ được những nét cổ kính với kiến trúc thời Trung cổ. Nổi bật với các dãy nhà màu cam. Mái vòm ở các hành lang được trang trí những họa tiết cầu kỳ. Quần thể Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng dựa trên việc kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Phật Giáo, Nho giáo và văn hóa dân gian Việt Nam.
Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về, hình ảnh cổ kính, nét xưa lại hiện về thông qua những ông đồ “bày mực tàu giấy đỏ, bên phố đông người qua”. Và việc xin chữ đầu năm đã trở thành nét văn hóa riêng của người Hà Nội.
Có thể nói,Văn Miếu – Quốc Tử Giám là biểu tượng của tri thức, văn hóa, khát vọng trong con đường học tập của các sĩ tử nói riêng và con người Việt nam nói chung, là nét son thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế. Và là khu di tích văn hoá Hà Thành.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8 🍀 15 Bài Hay Nhất
Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám Ngắn Nhất – Mẫu 5
Bài văn thuyết minh về văn miếu Quốc Tử Giám ngắn nhất sẽ giúp bạn đọc nhanh chóng nắm bắt được những thông tin cơ bản và quan trọng về di tích lịch sử nổi tiếng của vùng đất thủ đô văn hiến.
Văn miếu Quốc Tử Giám là một trong những di tích lịch sử quan trọng bậc nhất của Quốc gia. Đây được xem là trường đại học đầu tiên của Việt Nam lưu giữ và tôn vinh những học giả tài trí của dân tộc. Với bề dày lịch sử và chiều sâu văn hóa, Quốc Tử giám được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ngày 28/4/1962 và cho đến nay, đây vẫn luôn là một điểm thu hút nhiều khách du lịch không thể bỏ qua khi tới thăm thủ đô Hà Nội.
“Năm canh tuất, niên hiệu Thần Vũ thứ 2 đời lý thánh tông, mùa thu tháng 8 làm văn miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây”. Từ nền tảng đó, Văn miếu Quốc tử giám tiếp tục trùng tu và xây dựng cho đến ngày 13/7/1999, khi thành Phố Hà Nội khởi công xây dựng công trình nhà thái học trong khu Văn Miếu quốc tử giám.
Nơi đây đã cho ra đời rất nhiều nhân tài của đất nước. Trải qua bao nhiêu năm, vô vàn các bia gạch đá tiến sĩ đã được xây dựng nhằm tôn vinh, tưởng nhớ các nhân tài. Di tích lịch sử Văn Miếu có diện tích 54.331m2 gồm: Hồ Văn, vườn giám và nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ. Phía trước cổng lớn là tứ trụ, hai bên tứ trụ có hai bia “Hạ mã”. Nội tự được chia làm năm khu vực, mỗi khu vực được phân chia nhằm dựng bia và thờ bài vị của các học giả tài ba khắp cả nước.
vKhi du khách tới tham quan khu bia đá, chúng ta có thể tìm thấy tên tuổi của nhiều danh nhân từng được nhắc đến trong các sách sử Việt nam như: nhà sử học Ngô Sĩ Liên- Tiến sĩ năm 1442 đã soạn bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư hay nhà bác học Lế Qúy Đôn,… Thông qua các tấm bia, chúng ta không chỉ được mở mang hiểu biết về thân thế sự nghiệp của các sử thần Việt nam, ta còn được biết thêm về mối quan hệ bang giao giữa các nước khu vực Đông Nam á.
Đây được xem là những tác phẩm vô giá, góp phần làm nên truyền thống văn hóa, giáo dục của Việt nam. Cho đến nay, phần lớn các hoa văn và văn tự trên bia đá còn rõ nét. Chữ viết và phong cách trang trí của mỗi dáng bia, đầu rùa đều mang dấu ấn thời đại tạo nên chúng. Nổi bật trong khuôn viên Quốc Tử Giám là chiếc chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc vào năm 1768. Đây được xem là chiếc chuông lớn, mang nhiều giá trị lịch sử lâu đời. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ xương, mặt ngoài khắc bài mình viết theo kiểu chữ lệ nói về công dụng của chiếc chuông.
Văn Miếu Quốc tử giám luôn đề cao “nhân tài đối với quốc gia quan hệ rất lớn” và “phải có đào tạo sau mới có nhân tài”. Vì thế nơi đây là chiếc nôi nuôi dưỡng rất nhiều tài năng được trọng dụng qua thời nhà Lê, Mạc, Nguyễn…Điều này tạo nên một tập tục của người Việt, trước khi đi thi đều tìm đến nơi đây để cầu mong được may mắn và tịnh tâm, để đạt được thành tích tốt trong các cuộc thi.
Một sự kiện nổi bật về di tích này chính là đã được UNESCO công nhận bia tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám là di sản tư liệu quốc tế. Đây là niềm tự hào của toàn thể dân tộc Việt Nam, và của lịch sử phát triển loài người nói chung.
Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới
Bài Văn Thuyết Minh Về Quốc Tử Giám Đạt Điểm Cao – Mẫu 6
Để viết bài văn thuyết minh về Quốc Tử Giám đạt điểm cao, các em học sinh cần nắm vững phương pháp làm bài và luyện tập cho mình cách hành văn hay.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích tiêu biểu của thành phố Hà Nội nói riêng và miên Bắc nói chung. Hãy viết bài văn thuyết minh về quần thể di tích trên.
Thăng Long – Hà Nội là Thủ đô ngàn năm văn hiến, nơi quy tụ tinh hoa, khí phách dân tộc. Trải qua bao thăng trầm, nhiều giá trị văn hóa lịch sử lắng đọng dẩn tạo nên chất riêng của kinh đô hơn ngàn tuổi. Trong đó, phải kể đến biểu tượng của trí tuệ và truyền thống giáo dục nước nhà, đó là quần thể di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, trường đại học đẩu tiên của nước ta.
Với vẻ đẹp cổ kính, quần thể di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám tọa lạc giữa Thủ đô tại đường Quốc Tử Giám, quận Đống Đa như một chứng nhân lịch sử vô giá của thành phố Hà Nội. Quẩn thể di tích nằm giữa bốn phố chính gồm Nguyễn Thái Học, Tôn Đức Thắng, Văn Miếu và Quốc Tử Giám. Để có được quần thể di tích như hiện nay, Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã trải qua nhiều biến động cùng với Thủ đô ngàn năm văn hiến.
Về lịch sử, Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070 với mục đích ban đẩu là thờ những vị Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho và là nơi dạy học cho Thái tử Lý Càn Đức. Năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho xây dựng Quốc Tử Giám cạnh Văn Miếu để dạy học cho hoàng tử và con em quý tộc, đại thẩn. Sang đời Trần, nơi đây thu nhận thêm những con em thường dân xuất sắc. Cùng với sự tham gia của thẩỵ giáo Chu Văn An, Văn Miếu Quốc Tử Giám ngày càng trở nên quỵ củ hơn. Sau khi mất, ông cũng được thờ tự tại Văn Miếu.
Thời nhà Lê bắt đẩu từ vua Lê Thánh Tông cho dựng bia Tiến sĩ. Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử Giám chuyển vể Huế. Văn Miếu – Hà Nội được sửa sang lại một lần và mở rộng thêm ban thờ phụ mẫu của Khổng Tử. Tuy nhiên, đầu năm 1947, thực dân Pháp nã đạn làm sập căn nhà. Những công trình kiến trúc hiện tại của Văn Miếu – Quốc Tử Giám được mô phỏng theo kiến trúc truyền thống trên nền đất của Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Quần thể di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám có cấu trúc rất rõ ràng thuận tiện cho du khách tham quan từ Văn Hổ, Vườn Giám đến khu nội tự Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Trước khi vào tham quan, du khách sẽ được ngắm cảnh Hồ Văn hay còn gọi là Hổ Giám, hồ Minh Đường, nằm ngay trước cổng vào. Hổ nước trong xanh tạo tâm thế tĩnh lặng cho người xem trước khi bước vào quần thể di tích. Giữa hồ có gò Minh Châu, dựng Phán Thủy đường – nơi văn nhân thời xưa bình thơ văn. Bên cạnh hồ là khu đất trống thường được tổ chức các sự kiện mà tiêu biểu là lễ hội Thư pháp đầu năm.
Đối diện với Hổ Văn là Văn Miếu môn – cổng tam quan dẫn vào quẩn thể di tích. Nhìn từ bên ngoài, Văn Miếu môn có ba cửa vào nhưng nếu bước qua cánh cổng và nhìn từ bên trong lại là năm cửa. Theo quan niệm thời xưa, cổng năm cửa dành cho thiên tử sử dụng, còn vương hầu chỉ làm cổng ba cửa, nhà thường dân làm một cửa. Với cách làm cổng như vậy, Văn Miếu môn thể hiện quan niệm rất rõ của triều đại phong kiến Việt Nam trong đế ngoài vương. Tuy nhận sắc phong xưng vương từ Trung Quốc nhưng bên trong, Đại Việt là đất nước độc lập và hoàn toàn bình đẳng với các quốc gia khác. Quan niệm này không chỉ chi phối kiến trúc cổng của Văn Miếu mà thể hiện ở cả đại nội kinh thành Huế.
Bước qua Văn Miếu môn là quần thể di tích khép kín trong khuôn viên hình chữ nhật chia thành các khu vực riêng được ngăn cách bằng các cổng như Đại Trung môn, Khuê Văn các, Đại Thành môn. Cả khuôn viên được bao kín bằng tường ngang cách biệt quần thể với bên ngoài. Chạy dọc bên tường ở phần khu Nhập đạo giữa Văn Miếu môn và Đại Trung môn, giữa Đại Trung môn và Khuê Văn các là con đường thảm cỏ, cây xanh tươi mát cùng hai hổ nước nhỏ hai bên. Không gian trở nên yên bình, quang đãng và dễ chịu khác hẳn với không khí náo nhiệt, ổn ào và bụi bặm của đường phố bên ngoài.
Khuê Văn các là một nét kiến trúc đặc biệt trong quần thể di tích. Đây là một lẩu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ rất hài hòa và độc đáo. Tầng dưới là bốn trụ gạch vuông có chạm trổ hoa văn tinh vi và sắc sảo. Khuê Văn các vốn là nơi tụ họp bàn luận của văn nhân thời xưa. vẻ đẹp của Khuê Văn các được thể hiện ngay trong ý nghĩa cái tên của nó, căn lầu mang vẻ đẹp của ánh sao Khuê.
Ngay sau Khuê Văn các là Thiền’Quang tỉnh (giếng soi sáng bầu trời) và hai bên là tám mươi hai bia tiến sĩ. Giếng hình vuông, quanh bờ đều xây hàng lan can tới độ ngang lưng. Người xưa có quan niệm giếng hình vuông tượng trưng cho đất, cửa tròn gác Khuê Văn tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả trời và đất đều được tập trung ở trung tâm văn hóa giáo dục uy nghiêm Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Mỗi bên bờ giếng dựng bốn mươi mốt tấm bia tiến sĩ ghi nhận thành quả học tập của các tấm gương thời xưa.
Người đầu tiên được vinh danh là Nguyễn Trực – trạng nguyên đẩu tiên nhà Hậu Lê, cũng là Lưỡng quốc Trạng nguyên lỗi lạc của dân tộc. Những bia tiến sĩ được cõng trên lưng những chú rùa bởi rùa vốn được xem là biểu tượng cho vũ trụ – mai rùa tượng trưng cho trời, bụng rùa tượng trưng cho đất. Rùa cũng mang ý nghĩa của sự kiên trì, bền bỉ và sự trường tổn, vĩnh cửu.
Những tấm bia tiến sĩ khắc tên những con người tài giỏi, tinh hoa của đất trời, với mong muốn vinh danh nhân tài, đê’ cao học vấn, khích lệ người tài phấn đấu vươn lên. Tám mươi hai tấm bia tiến sĩ đã được Unessco công nhận là di sản tư liệu thế giới thuộc chương trình “Kí ức thế giới” vào năm 2010. Những tấm bia tiến sĩ không những trở thành biểu tượng cho con đường học vấn, cho nền giáo dục nước nhà mà còn trở thành niềm cảm hứng vươn đến đỉnh cao trí tuệ cho tất cả những bạn trẻ đến nơi đây.
Qua Đại Thành môn, nơi linh thiêng nhất của quẩn thể di tích mở ra là khu điện thờ các bậc tổ đạo Nho và danh nhân có công phát triển Văn Miếu. Khu Thượng điện có chín gian, tường xây ba phía, phía trước có cửa bức bàn đóng kín năm gian giữa. Bốn gian đầu hồi có cửa chấn song cố định tạo cho nơi đây một không khí thâm nghiêm, u tịch khiến du khách càng thêm kính ngưỡng những vị danh nhân thời xưa.
Nơi đây thờ Khổng Tử chính giữa, bên trái có hai ngai thờ Tăng Tử và Mạnh Tử, bên phải có hai ngai thờ Nhan Tử và Tử Tư. Tòa Đại Bái bên ngoài cũng xây chín gian có chức năng hành lễ trong những kì tế tự xuân thu. Chỉ gian chính giữa có hương án thờ còn các gian khác đều bỏ trống. Sau đó là đền Khải Thánh – nơi thờ phụ mẫu của Khổng Tử. Phần cuối cùng của quần thể di tích là Tiền đường – Hậu đường. Tiền đường trưng bày về truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo. Đây cũng là nơi tổ chức các hội thảo khoa học và các sự kiện văn hoá nghệ thuật quan trọng của quốc gia. Hậu đường có kiến trúc hai tầng.
Tầng dưới thờ Tư nghiệp Quốc Tử Giám (tương đương với Phó Hiệu trưởng) Chu Văn An. Đây là nơi trưng bày về Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long nói riêng và nển giáo dục Nho học Việt Nam nói chung. Đồng thời, nơi đây giới thiệu khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Văn Miếu – Quốc Tử Giám cùng những giá trị sâu sắc của truyền thống hiếu học, đề cao nhân tài, thừa kế và phát huy di sản văn hoá dân tộc. Tầng hai là nơi tôn thờ các danh nhân có công xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám và đóng góp vào sự nghiệp giáo dục Nho học của Việt Nam. Đó là các vpVua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám có giá trị nhiều mặt, đây vừa là di tích văn hóa, lịch sử, giáo dục, vừa là thắng cảnh nổi tiếng thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Vượt lên trên những giá trị vật chất, quẩn thể di tích này đã trở thành biểu tượng không thể thay thế cho tinh thẩn hiếu học và trí tuệ của dân tộc Việt Nam.
Tham quan trọn vẹn quần thể di tích, du khách được quay ngược thời gian trở vê’ với sự phát triển của nển giáo dục Nho học hưng thịnh một thời của đất kinh kì. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là cái nôi đào tạo nhiều nhân tài cho Nhà nước phong kiến Việt Nam, là nơi chủng kiến và ghi dấu thành công của biết bao danh nhân đất Việt. Nơi đây thực sự là một không gian học thuật, lịch sử để người người tìm vê’ như một cách tri ân, nối tiếp truyền thống hiếu học của cha ông.
Còn thêm gợi ý ☘ Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 10 ☘ 15 Mẫu Hay
Bài Văn Thuyết Trình Về Văn Miếu Quốc Tử Giám Đặc Sắc – Mẫu 7
Bài văn thuyết trình về văn miếu Quốc Tử Giám đặc sắc không chỉ mang đến những ý văn phong phú mà còn nuôi dưỡng tình yêu và niềm tự hào dân tộc đối với người đọc.
Đất nước thân yêu của chúng ta đã trải qua hàng triệu năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Để rồi, giờ đây, khi chiến tranh đã lùi xa nhưng những dấu ấn của lịch sử, của những chiến công hào hùng, của nền văn hóa truyền thống dường như vẫn còn mãi in dấu nơi những di tích lịch sử ở khắp cả nước. Và về với Hà Nội – thủ đô của cả nước, chúng ta sẽ nhớ ngay tới Văn Miếu Quốc Tử Giám – một trong số những di tích lịch sử nổi tiếng ở nước ta.
Như chúng ta đã biết, Văn Miếu Quốc Tử Giám là một di tích lịch sử, môt danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nằm ở phía nam của thành Thăng Long. Bốn mặt của di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám đều là phố – phía nam – cổng chính của Văn Miếu chính là phố Quốc Tử Giám, phía bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía đông là phố Văn Miếu và cuối cùng, phía tây là phố Tôn Đức Thắng.
Nhìn lại chặng đường lịch sử trong quá trình ra đời của Văn Miếu Quốc Tử Giám chúng ta sẽ thấy có nhiều nét độc đáo. Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070, vào thời vua Lí Thánh Tông. Vào thời kì này, Văn Miếu không chỉ là nơi thờ cúng các bậc tiên thánh, tiên sư của đạo Nho mà nơi đây còn là một trường học hoàng gia.
Đến năm 1253, vua Trần Nhân Tông đã mở rộng phạm vi, từ đó, nơi đây không còn chỉ là trường học hoàng gia mà còn có cả con cái trong các gia đình thường dân nhưng thông minh và có thành tích học tập xuất sắc. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, tức vào những năm 1484, mỗi khoa thi Tiến sĩ sẽ có một tấm bia được dựng trên lưng rùa để ghi danh những người xuất sắc. Trải qua thời gian, đặc biệt là trong thời gian thực dân Pháp xâm lược nước ta, đã làm hư hại một số công trình trong khu Văn Miếu Quốc Tử Giám và về sau, một số công trình đã được xây dựng, tu bổ, mô phỏng lại theo lối kiến trúc của truyền thống trên chính nền đất xưa của Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Là một trong số những di tích lịch sử độc đáo của nước ta, Văn Miếu Quốc Tử Giám có những nét độc đáo, đặc sắc riêng. Văn Miếu Quốc Tử Giám tọa lạc trên một khu đất hình chữ nhật với tổng diện tích hơn 54000 mét vuông. Xung quanh Văn Miếu Quốc Tử Giám được bao bọc bởi những tường rêu cổ kính đã tồn tại hàng nghìn năm nay.
Đi sâu khám phá Văn Miếu Quốc Tử Giám, chúng ta sẽ thấy rằng, Văn Miếu gồm có ba khu vực chính là Hồ Văn, vườn Giám và khu nội tự Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Trước hết, Hồ Văn nằm ở phía nam, ngay trước mặt của Văn Miếu, diện tích của nó là hơn 12000 mét vuông. Hồ Văn là một hồ nước trong, quanh năm cây cối tươi tốt, um tùm và giữa hồ có một gò đất nổi lên, ấn mình dưới những tán cây, càng làm tăng lên vẻ đẹp cho hồ.
Đây là nơi thường diễn ra hoạt động chơi chữ, đặc biệt là hội chữ mùa xuân và các hội bình thơ. Khu nội tự chính là khu vực chính, khu vực chủ thể của quần thể kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám và được chia làm năm khu vực chính. Đầu tiên đó chính là Văn Miếu Môn, đây chính là cổng tam quan phía ngoài. Để đi vào được Văn Miếu Môn phải đi qua tứ trụ và hai tấm bia Hạ Mã.
Cũng giống như nhiều cổng tam quan theo lối kiến trúc xưa, Văn Miếu Môn cũng có ba cửa, hai cửa hai bên nhỏ và cửa chính giữa to hơn, được xây hai tầng. Đặc biệt, trước Văn Miếu Môn có hai con rồng đá thời Lê và bên trong là đôi rồng đá dưới triều Nguyễn, đồng thời, hai bên công ở mặt ngoài còn có các câu đối bằng chữ Hán. Qua Văn Miếu Môn, theo con đường thẳng tắp sẽ tới Đại Trung Môn.
Cửa Đại Trung môn cũng được xây dựng theo kết cấu ba gian, trên một nền gạch cao và dược lợp bằng mái ngói. Dọc theo con đường thẳng tắp ấy sẽ dẫn chúng ta tới với Khuê Văn Các. Khuê Văn Các chính là một lầu vuông gồm với tám mái – bốn mái thượng và bốn mái hạ – một biểu tượng đẹp, độc đáo của nền văn hóa Việt Nam.
Qua lầu Khuê Văn Các, chúng ta sẽ tới với giếng Thiên Quang và bia Tiến sĩ. Nếu như những giếng khác có hình tròn thì giếng Thiên Quang lại có hình vuông. Đúng như tên gọi của nó, giếng Thiên Quang được xây dựng với ý muốn con người sẽ nhận được những tinh túy của vũ trụ, của trời đất để phát triển trí tuệ và nhân phẩm.
Đặc biệt, khi nhắc đến Văn Miếu, mọi người sẽ nghĩ ngay đến bia Tiến sĩ. Nhà bia Tiến sĩ với 82 tấm bia đá nhằm vinh danh những người đỗ đạt. Đặc biệt, những tấm bia này được đặt trên lưng rùa, điều đó càng làm tăng thêm giá trị của các bia Tiến sĩ. Và cuối cùng trong quần thể kiến trúc của Văn Miếu Quốc Tử Giám đó chính là khu Thái học – nơi rèn đúc, đào tạo nhân tài cho nhiều triều đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Là một quần thể kiến trúc từ lâu đời của nước ta, Văn Miếu Quốc Tử Giám có giá trị, ý nghĩa to lớn về lịch sử và văn hóa. Khi đến với Văn Miếu Quốc Tử Giám, các nhà nghiên cứu lịch sử có thể tìm thấy những thông tin hữu ích về lịch sử, về giáo dục của đất nước ta qua các giai đoạn lịch sử. Đồng thời, từ nơi đây, cũng cung cấp những vấn đề liên quan đến Nho giáo như sự hình thành, phát triển Nho giáo ở nước ta.
Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, Văn Miếu Quốc Tử Giám thường được lựa chọn là nơi để vinh danh thủ khoa xuất sắc. Đồng thời, nó là một trong số những địa danh thu hút khách du lịch trong và ngoài nước về tham quan, du lịch. Với những giá trị, đóng góp to lớn ấy của mình, vào tháng 12 năm 2005, quần thể kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám vinh dự được công nhận là Di tích đặc biệt cấp quốc gia.
Tóm lại, Văn Miếu Quốc Tử Giám là một công trình kiến trúc, một di tích lịch sử đặc biệt của nước ta. Nó là địa danh thu hút, hấp dẫn khách du lịch, đồng thời, mang lại giá trị, ý nghĩa to lớn về văn hóa, lịch sử, giáo dục cho đất nước ta.
Gửi tặng bạn 💕 Kể Về Một Cuộc Đi Thăm Di Tích Lịch Sử 💕 15 Bài Văn Hay
Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám Ngắn Gọn – Mẫu 8
Tham khảo cách hành văn súc tích mà vẫn giàu ý nghĩa biểu đạt với bài văn thuyết minh về văn miếu Quốc Tử Giám ngắn gọn dưới đây:
Có một nơi tại Việt Nam, một di tích lịch sử đặc biệt quan trọng, có một không hai trong cả nước, với dáng vẻ khiêm nhường và hài hòa với khung cảnh tự nhiên lại có sự cuốn hút kỳ lạ, và là điểm đến của các đoàn khách quốc tế khi tới Hà Nội. Đó chính là khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới, khi đến đây đã từng trầm trồ, thán phục trước bề dày lịch sử của khu di tích. Khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn hiến của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội không thể không nhắc đến di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, di tích lịch sử gắn liền với sự thành lập kinh đô Thăng Long xuyên suốt gần 1.000 năm lịch sử.
Bắt đầu từ mùa thu tháng 8, năm Canh Tuất, niên hiệu Thần Vũ thứ hai – 1070 Vua Lý Thánh Tông đã cho xây dựng Văn Miếu có tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối (Nhan Uyên, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử), đắp tượng 72 người hiền… việc ra đời của Văn Miếu là mốc đánh dấu sự tiếp nhận chính thức Nho giáo vào Việt Nam.
Sáu năm sau, năm 1076 Vua Lý Nhân Tông dựng trường Quốc Tử Giám đằng sau Văn Miếu. Vậy là trường Quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam đã được hình thành và phát triển, để rồi, tiếp nối những thời khắc của lịch sử. Các triều đại của triều đình phong kiến Việt Nam: Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều lưu lại dấu ấn tại nơi này.
Điều đặc biệt là dưới thời kỳ phong kiến, trước Cách mạng Tháng Tám, hầu như tỉnh nào của nước ta cũng có Văn Miếu, nhưng do biến động của thời gian, nhất là trong và sau chiến tranh, các Văn Miếu ở địa phương đã bị phá gần hết, một hệ thống Văn Miếu hàng cấp tỉnh chỉ còn lưu trong sử sách. Ngày nay, chúng ta chỉ còn lại một số Văn Miếu hàng tỉnh như Văn Miếu Mao Điền (Hải Dương), Văn Miếu Xích Đằng (Hưng Yên), Văn Miếu Trấn Biên (Đồng Nai), Văn Miếu Minh Hương, Văn Miếu Cẩm Phô (Hội An)… Hai địa chỉ duy nhất, văn miếu cấp Nhà nước là Văn Miếu – Quốc Tử Giám ở Hà Nội và Văn Miếu Huế.
Về Văn Miếu ở Huế thì sau khi tiêu diệt nhà Tây Sơn, Vua Gia Long chuyển Văn Miếu quốc gia ở Thăng Long vào Huế và đặt tên mới là Văn Thánh Miếu. Còn Văn Miếu Thăng Long bị đổi thành Văn Miếu Bắc Thành. Văn Miếu Thăng Long từ đó tàn lụi. Đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, quan Bố chánh Lê Hữu Thanh đã ra tay sang sửa.
Văn Miếu Quốc Tử Giám trải qua hơn 900 năm với nhiều biến động thăng trầm của lịch sử, di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn giữ được dáng vẻ cổ kính với nhiều kiến trúc có giá trị cao: tượng thờ, rồng đá, nghiên đá, và đặc biệt 82 tấm bia tiến sĩ khắc trên bia được đặt trang trọng trên mai rùa có từ thời Hậu Lê cùng với Hồ Văn, vườn Giám trở thành một biểu tượng của Hà Nội.
Có một điều lý thú, nếu du khách có dịp đến đây, mắt thấy tay sờ, sẽ cảm nhận được chứng tích của thời gian vẫn còn nguyên vẹn, đó là tường bao xung quanh khu di tích bằng gạch vồ, loại gạch đặc trưng từ thời Lê vào thế kỷ XVII- XVIII, có tuổi thọ đã trên 300 năm tuổi.
Các nhà nghiên cứu ngày nay đều thống nhất, quy mô và vị trí hiện tại của di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám tương tự như thời khởi thủy mới xây dựng ban đầu. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một trong những di tích đến nay khuôn viên còn lại gần như nguyên vẹn. Khu di tích đứng độc lập, không chen với các nhà dân xung quanh nên không có hiện tượng lấn chiếm như thường thấy ở các khu di tích khác. Văn Miếu – Quốc Tử Giám, biểu tượng của nền văn hiến nước nhà, một di tích văn hóa lịch sử quan trọng vào bậc nhất của thu đô Hà Nội.
Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào
Bài Thuyết Trình Về Văn Miếu Quốc Tử Giám Học Sinh Giỏi – Mẫu 9
Dưới đây là bài thuyết trình về văn miếu Quốc Tử Giám học sinh giỏi giúp các em học sinh nắm vững phương pháp thuyết minh và hoàn thành tốt bài viết của mình.
“Thăng Long Hà Nội đô thành
Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ
Cố đô rồi lại tân đô
Nghìn năm văn vật bây giờ là đây”
Hơn nghìn năm đã qua, kể từ khi vua Lý Thái Tổ rời đô về đất Thăng Long, Hà Nội đã trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, lưu giữ những nét đẹp cổ xưa, những dấu ấn của triều đại phong kiến Việt Nam qua các danh lam thắng cảnh. Tiêu biểu nhất trong số đó phải kể đến Văn Miếu – Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên của Việt Nam.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long thời Lý được xây dựng vào thế kỷ 11 được đưa vào hoạt động từ năm 1076 đến năm 1802 , nơi đây đã đào tạo ra rất nhiều nhân tài cho đất nước. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý. Từ năm 1253, vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc Tử giám và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc.
Nét đặc trưng của Văn Miếu – Quốc Tử Giám phải kể đến kiến trúc với bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, bao quanh bốn phía là bốn dãy phố sầm uất: Quốc Tử Giám, Nguyễn Thái Học, Tôn Đức Thắng và Văn Miếu nhưng nơi đây vẫn mang đậm hơi thở cổ xưa và đầy thành kính. Đối diện với cổng chính của Quốc Tử Giám là hồ Văn, giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh. Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh. Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, phía trên có ba chữ “Văn Miếu Môn” được tạo theo kiểu chữ Hán cổ .
Bên trong Văn Miếu có hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam và Quốc Tử Giám trường Quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam, vì vậy bên trong được chia làm năm khu vực chính.
Khu thứ nhất đi vào từ Văn Miếu môn đến khu Nhập Đạo với ba cửa chính theo thứ tự từ trái sang phải là Đại Trung, Thành Đức và Đại Tài. Khu vực thứ hai là Khuê Văn các với kiến trúc một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước được xây dựng dưới thời Nguyễn, là nơi khi xưa dùng để họp bình các bài văn hay của các sĩ tử đỗ kỳ thi hội. Khu tiếp theo là giếng Thiên Quang và hai vườn bia Tiến sĩ, nơi đây có 82 tấm bia Tiến sĩ hình con rùa bằng đá xanh theo quan niệm của ông cha ta rùa chính là thần Kim Quy biểu tượng cho tinh thần, sức mạnh, sự đùm bọc đoàn kết của dân tộc.
Kế tiếp khu tiến sĩ và giếng Thiên Quang là Đại Thành môn với kiến trúc ba gian và hai hàng cột hiên trước sau và một hàng cột giữa. Qua Đại Thành môn là đến khu điện thờ, đây là khu vực chính của di tích Quốc Tử Giám, là nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ Phối, Thất thập nhị hiền v.v… và cũng là nơi giảng dạy của trường giám thời xưa. Khu Khải Thánh hay còn gọi là khu Thái học là khu sau cùng của di tích, đây là nơi có kiến trúc hoàn toàn mới bởi khu Thái học xưa đã bị thực dân Pháp nã đạn phá hủy sạch và là nơi thờ cha mẹ Khổng Tử.
Nhà Tiền Đường, Hậu Đường là công trình mới nằm trong công trình trùng tu khu Thái Học trong đó Tiền Đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo ngày nay, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, văn hoá nghệ thuật dân tộc, Hậu Đường là nơi tôn vinh vị danh sư Chu Văn An, tôn vinh nền giáo dục Nho học Việt Nam và tôn vinh những người đã có công xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Có thể nói Văn Miếu – Quốc Tử Giám Là biểu tượng trường tồn, vĩnh cửu của những giá trị lịch sử và văn hóa, cung cấp tư liệu lịch sử xưa để các nhà nghiên cứu trong mọi lĩnh vực có cái nhìn rộng hơn về thời đại trước từ đó áp dụng vào những sáng tạo hiện đại, đặc biệt văn bia tiến sĩ được mệnh danh là “ sử đá” có nhiều giá trị về lịch sử, nghệ thuật chế tác, văn hóa,…. đối với Việt Nam và với thế giới.
Ta có thể thấy Văn Miếu – Quốc Tử Giám tuy có không ít sự thay đổi so với thuở ban đầu nhưng những giá trị truyền thống thì vẫn còn mãi, lưu lại những dấu ấn lịch sử đối với đời sau và là tài sản quý báu của quốc gia cần được lưu giữ và bảo tồn để những giá trị tinh hoa ấy được phát huy, gìn giữ nét đẹp lịch sử. Văn Miếu – Quốc Tử Giám chính là niềm tự hào của người dân thủ đô nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.
Mời bạn đón đọc 🌜 Tả Cảnh Đẹp Đất Nước 🌜 15 Bài Văn Tả Hay Điểm 10
Bài Văn Thuyết Trình Văn Miếu Quốc Tử Giám Chọn Lọc – Mẫu 10
Bài văn thuyết trình văn miếu Quốc Tử Giám chọn lọc sẽ là một trong những tư liệu văn mẫu không thể bỏ qua khi làm bài văn giới thiệu về di tích này.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long thời nhà Lý.
Là tổ hợp gồm hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam; và Quốc Tử Giám trường Quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam, với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến “cầu may” trước mỗi kỳ thi.
Văn Miếu được xây dựng từ “tháng 8 năm Canh Tuất (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông, đắp tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối vẽ tranh tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học.”. Bia tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất (1442) Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử giám, có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc Tử). Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.
Từ năm 1253, vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc Tử giám và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử. Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ khóa thi 1442 trở đi. Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 đổi thành nhà Thái học.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 đổi thành nhà Thái học. Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại
Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc.
Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh. Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh. Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa. Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau.
Khu thứ nhất bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn. Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805). Khuê Văn Các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt.
Kiến trúc khuê Văn Các gồm 4 trụ gạch vuông (85cm x 85cm) bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời toả tia sáng.
Hình tượng Khuê Văn Các mang tất cả những tinh tú của bầu trời tỏa xuống trái đất và trái đất nơi đây được tượng trưng hình vuông của giếng Thiên Quang. Công trình mang vẻ đẹp sao Khuê, ngôi sao sáng tượng trưng cho văn học. Đây là nơi thường được dùng làm nơi thưởng thức các sáng tác văn thơ từ cổ xưa tới nay. Hai bên phải trái Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sỹ.
Khu thứ ba gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời), có hình vuông. Hai bên hồ là 2 khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng một con rùa. Hiện còn 82 tấm bia tiến sĩ về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779, chia đều cho hai khu tả và hữu.
Trong đó, 12 bia đầu tiên (cho các khoa thi những năm 1442-1514) được dựng vào thời Lê sơ, 2 bia (cho các khoa 1518, 1529) được dựng vào triều nhà Mạc, còn 68 bia cuối cùng (các khoa thi những năm 1554-1779) được dựng vào thời Lê trung hưng. Mỗi khu nhà bia gồm có 1 Bi đình nằm ở chính giữa và 4 nhà bia (mỗi nhà 10 bia) xếp thành hai hàng, nằm hai bên Bi đình. Bi đình khu bên trái Thiên Quang Tỉnh chứa bia tiến sĩ năm 1442, còn Bi đình khu bên phải chứa bia tiến sĩ năm 1448.
Khu thứ tư là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Tòa ngoài nhà là Bái đường, tòa trong là Thượng cung. Khu thứ năm là khu Thái Học, trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nhưng đã bị phá hủy. Khu nhà Thái Học mới được xây dựng lại năm 2000.
Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tứ phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử). Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa. Đây là hình tượng rất đặc trưng tại các đền, chùa, lăng tẩm, miếu mạo ở Việt nam. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu…, hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm – dương. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý và thanh cao.
Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có nước. Điều này nói lên lòng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt.
Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Ô Nhiễm Môi Trường, Bảo Vệ Môi Trường 🍀 Các Bài Văn Ấn Tượng
Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Văn Miếu Quốc Tử Giám – Mẫu 11
Cùng khám phá những nét đặc trưng độc đáo của địa danh văn hoá lịch sử với bài văn thuyết minh về danh lam thắng cảnh văn miếu Quốc Tử Giám dưới đây:
Theo tư liệu lịch sử, năm 1070, Lý Thánh Tông cho dựng Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công, tứ phối, vẽ tượng thất thập nhị hiền, bốn mùa tế tự và cho Hoàng thái tử đến học. Năm 1076, triều đình lại cho lập Quốc Tử Giám. Năm 1253 (đời Trần), đổi tên Quốc Tử Giám thành Quốc Tử viện. Đến đời Lê (năm 1483), đổi tên Quốc Tử viện thành Thái Học đường. Thời Nguyễn, khu vực này được đổi thành Văn Miếu Hà Nội.
Trong lịch sử, di tích là nơi thờ Thánh Nho (Khổng Tử), Chu Công, tứ phối, thất thập nhị hiền, Chu Văn An và là trường Quốc Học đào tạo trí thức Nho học của nước ta từ thời Lý đến thời Lê; đồng thời cũng là nơi dựng bia “đề danh” (hiện còn 82 bia) những tiến sĩ đã đỗ đạt trong các kỳ thi tiến sĩ từ thời Lý đến thời Lê, trong đó có nhiều danh nhân trong lịch sử nước ta.
Trải qua thời gian gần 1000 năm, các công trình kiến trúc của di tích có sự thay đổi nhất định. Hiện nay, di tích còn bảo tồn được một số hạng mục kiến trúc thời Lê và thời Nguyễn. Khu nhà Thái Học mới được Nhà nước đầu tư phục dựng năm 1999- 2000. Dựa vào công năng kiến trúc, có thể chia di tích thành hai khu vực chính: Văn Miếu – nơi thờ tự tiên Nho, và Quốc Tử Giám – trường đào tạo trí thức Nho học.
Văn Miếu được xây dựng trên khu đất hình chữ nhật (dài 300m, rộng 70m), xung quanh là tường gạch vồ, gồm các hạng mục Hồ Văn, Nghi môn ngoại, Nghi môn nội. Hồ Văn ở trước mặt Văn Miếu, có diện tích 12.297m2. Trước đây, giữa hồ có gò Kim Châu, trên dựng một phương đình – “Phán Thuỷ đình”, là nơi diễn ra các buổi bình thơ của Nho sĩ. Nay phương đình đã mất, trên gò vẫn còn tấm bia dựng năm Tự Đức 18 (1865) ghi lại việc tu sửa Văn Miếu.
Nghi môn ngoại (tứ trụ) được xây bằng gạch, hai trụ giữa xây cao hơn, đỉnh trụ đặt hai tượng nghê chầu, hai trụ ngoài thấp hơn, đỉnh trụ đắp hình chim phượng, đuôi chụm vào nhau, 4 đầu quay về 4 hướng, thân trụ đắp nổi các đôi câu đối chữ Hán. Hai bên nghi môn có 2 bia “Hạ mã” (xuống ngựa). Đây cũng là cột mốc ranh giới hiện nay của di tích.
Nghi môn nội được xây 2 tầng, gồm 3 cửa cuốn vòm. Trên cửa chính nghi môn nội đề 3 chữ “Văn Miếu môn”, tầng dưới to, có cầu thang lên tầng 2, tầng trên thu nhỏ, xung quanh có hành lang rộng, 4 mặt có lan can. Kiến trúc tầng 2 giống như một nghi môn 2 tầng, 8 mái, mở 3 cửa cuốn, không có cánh cửa, trên bờ nóc đắp nổi đôi rồng chầu mặt nguyệt.
Khuê Văn các là một lầu vuông, gồm 2 tầng, 8 mái, dựng năm 1805, trên một nền vuông lát gạch Bát Tràng. Phía dưới là 4 trụ gạch, 4 phía để trống, bên trên là kiến trúc gỗ, có sàn gỗ, mái lợp ngói, 4 mặt bưng ván gỗ, mỗi phía trổ một cửa tròn, có các con tiện tượng trưng cho các tia của sao Khuê toả sáng. Phía trên treo biển đề “Khuê Văn các” (chữ Hán), cùng hệ thống câu đối. Hai bên Khuê Văn các có 2 cửa nhỏ (“Bí văn môn” và “Súc văn môn”).
Hai dãy nhà bia tiến sĩ gồm 82 bia tiến sĩ (được dựng từ năm 1484 đến năm 1780) của 82 khoa thi – từ khoa thi Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo 3 (1442) đến khoa thi năm 1779. Nội dung bia ghi tên, quê quán, khoa thi của 1305 vị đỗ đại khoa. Hai dãy nhà bia mới được dựng lại năm 1994, gồm 8 nhà che bia, sắp xếp bia tiến sĩ mỗi bên bốn dãy, mỗi nhà đặt 10 bia. Hai tấm bia ghi nội dung khoa thi năm 1442 và 1448 được đặt vào giữa hai toà Bi đình. Các nhà bia được dựng theo kiểu nhà có mái đao, lợp ngói mũi hài, kết cấu vì kèo “giá chiêng”, nền lát gạch bát.
Quốc Tử Giám xưa ở phía sau khu Văn Miếu, có giảng đường, khu nhà dành cho học sinh, kho chứa ván (gỗ) khắc in sách. Khi Quốc Tử Giám chuyển vào Huế thì khu vực này trở thành khu Khải Thánh, nơi thờ cha mẹ Khổng Tử. Hai bên tòa Khải Thánh là tả, hữu vu, giữa là một sân rộng. Nhà Thái học được dựng lại năm 1998 – 2000, gồm hai nếp nhà có kết cấu liên hoàn, mái lợp ngói mũi hài, các bộ vì đỡ mái kiểu “chồng rường, cốn chồng kẻ, bẩy hiên”, nền lát gạch bát. Cung thờ phía sau xây kiểu mái chồng diêm, lợp ngói mũi hài, kết cấu bộ vì kiểu “giá chiêng chồng rường”, nền lát gạch Bát Tràng.
Ngoài ra, trong khu Văn Miếu còn có một miếu thờ thổ thần và điện thờ Mẫu. Tại di tích hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị văn hóa, lịch sử và khoa học, như hệ thống đồ thờ tự, tượng thờ, cổ vật, đặc biệt là 82 bia tiến sĩ đã được UNESCO vinh danh là “Di sản tư liệu thế giới”.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là Trường Quốc học đầu tiên ở nước ta, đã đào tạo được nhiều thế hệ hiền tài từ thời Lý đến thời Lê – những người đã có nhiều đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước. Những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học “kết tinh” trong di tích là “tấm gương” phản chiếu về truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, coi trọng hiền tài của dân tộc ta trong lịch sử ngàn năm văn hiến. Trong số các di tích gắn với Nho học ở nước ta, đây là một di tích Nho học tiêu biểu, có giá trị cao về mặt kiến trúc – nghệ thuật và thẩm mỹ.
SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free
Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám Cho Hướng Dẫn Viên – Mẫu 12
Bài mẫu thuyết minh về văn miếu Quốc Tử Giám cho hướng dẫn viên sẽ giúp bạn đọc giới thiệu đầy đủ những thông tin cần thiết về địa danh này một cách sinh động và giàu hình ảnh.
Kính thưa quý khách, điểm đến tiếp theo trong chuyến du lịch đầy ý nghĩa “Hà Nội – những dấu ấn vàng son” của chúng ta hôm nay sẽ là Văn Miếu Quốc Tử Giám – Nơi thờ Khổng Tử, trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại la, lập lên kinh đô Thăng Long – đế đô muôn đời. Để xây dựng quốc gia độc lập, tự chủ và hưng thịnh cần phải có hệ thống triết học làm nền tảng, một thể chế tổ chức xã hội vững mạnh và một nền giáo dục tiên tiến để đào tạo nhân tài cho đất nước. Đáp ứng nhu cầu đó, nhà Lý đã chọn Nho giáo, một học thuyết chính trị, đạo đức đã ra đời trước thời đó hơn 1500 năm, đã góp phần to lớn tạo lập nên nước Trung Hoa trật tự, kỷ cương với nền văn hoá phát triển rực rỡ và đã được du nhập vào nước ta từ lâu.
Sự kiện mở đầu cho quá trình lựa chọn đó được trịnh trọng ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư :“Năm Canh Tuất, niên hiệu Thần Vũ thứ hai (1070) đời Lý Thánh Tông, mùa thu, tháng Tám, dựng Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ tượng Thất Thập Nhị hiền, bốn mùa cúng tế. hoàng Thái Tử đến học ở đó”. Năm 1075 mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài và năm 1076 vua Lý Nhân Tông đã cho lập Quốc Tử Giám – Ban đầu đây là trường học dành riêng cho con em trong hoàng tộc, con em các vị đại thần quan lại trong triều đình, sau mới mở rộng đến đến các tầng lớp nhân dân bên ngoài.
Trước khi vào thăm Văn Miếu Quốc Tử Giám, chúng ta hãy cùng dừng lại bên tấm bia nhỏ, tuy nhỏ nhưng nó ghi lại một tập tục rất giàu ý nghĩa: “Cả hai tấm bia đều mang hai chữ “Hạ Mã” và được đặt ở trong toà miếu này. Trước tiên, tấm bia khẳng định: Chỗ này là cột mốc đánh dấu từ đây trở đi chúng ta có địa giới, có giới hạn của một vùng đất thiêng rất đáng quý trọng.
Thứ hai, đặt ra một yêu cầu đối với mọi người về việc bày tỏ tấm lòng tôn kính của mình với nơi thiêng liêng này và sự nể trọng của mình đối với nơi trung tâm của Hà Nội – Thăng Long nghìn năm văn hiến. “Hạ mã” tức là dù quyền cao chức trọng đến đâu, cao sang đến đâu, khi cưỡi ngựa qua đây thì đều phải xuống ngựa.
Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám bao gồm Hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám. Trước mặt Văn Miếu là Hồ Văn với diện tích 12.247m2, giữa hồ có gò Kim Châu, trên gò có dựng Phán Thuỷ đường, là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa. Nhà Phán Thuỷ nay không còn nhưng trên gò hiện còn lại một tấm bia dựng năm Tự Đức 18 (1865) trong dịp tu sửa Văn Miếu và nạo vét Hồ Văn do Hoàng giáp khoa Tân Hợi, bố chánh Hà Nội Lê Hữu Thanh soạn.
Sau này, trong thời Pháp thuộc, Tứ Trụ bị chia cắt với Hồ Văn bởi phố Quốc Tử Giám chạy ngang, như quý vị đang nhìn thấy. Và do điều kiện thời gian không cho phép, điểm đến chính của chúng ta hôm nay sẽ là khu nội tự Văn Miếu Quốc Tử Giám, còn khu Hồ Văn xin được hân hạn giới thiệu tới quý vị vào một dịp khác.
Quý khách đang đứng trước “Văn Miếu – Quốc Tử Giám” – Kiến trúc chủ thể của di tích. Chúng ta thường gọi chung chung công trình này là Văn Miếu Quốc Tử Giám, nhưng đây thực chất là hai công trình được xây dựng vào hai thời điểm khác nhau. Công trình thứ nhất – Văn Miếu chính là nơi thờ Văn Tuyên Công hay là Văn Tuyên Vương, chính là Khổng Tử, được Lý Thánh Tông cho xây dựng vào năm 1070.
Lý Thánh Tông là Lý gia đệ tam đế – phụ hoàng của Lý Nhân Tông (Lý gia đệ tứ đế). Và chính Lý Nhân Tông là người cho xây công trình thứ 2 – Quốc Tử Giám năm 1076. Do đó chúng ta có một tổ hợp kiến trúc vừa để thờ Khổng Tử, vừa để làm trường Đại học đầu tiên của nền văn hóa và khoa học dân tộc chúng ta. Ghép lại thành Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám được chia làm 5 khu rõ rệt, song liên hoàn với nhau theo một tổng thể kiến trúc hài hoà qua trục đường thần đạo nối từ đầu đến cuối khuôn viên. Khuôn viên có chiều dài 31 thước, chiều rộng 46 thước. Mặt chính của công trình quay về hướng Nam theo quan niệm “Thánh nhân Nam diện nhi trị thiên hạ” (bậc Thánh nhân quay mặt về phương Nam để cai trị thiên hạ).
Khu vực vườn bia là một di tích có giá trị bậc nhất ở đây, gồm 82 bia, dựng ở 2 bên phải trái của Thiên Quang Tỉnh, mỗi bên có 41 tấm bia dựng thành hàng nằm ngang quay mặt về phía giếng ( 82 tấm bia này để ghi khắc họ tên, quê quán của 1307 vị tiến sĩ…). Ý tưởng dựng bia ghi tên các tiến sĩ được khởi sự từ đời Lê Thánh Tông (1484) – một vị hoàng đế tài cao, học rộng quan tâm đến việc xây dựng nền văn hóa dân gian của dân tộc và các đời vua kế tiếp đã cho dựng bia tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giam nhằm mục đích biểu dương các Nho giáo sĩ đỗ đạt và khích lệ việc học hành thi cử.
82 tấm bia tiến sĩ là những di vật quý giá, có giá trị bậc nhất của di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giam. Đồng thời đó cũng là tấm gương nhắc nhở cho con cháu hôm nay và mai sau cùng học tập, phấn đấu theo gương ông cha ta thuở trước. 82 tấm bia ghi tên 1805 nhân vật, trong đó có 17 trạng nguyên, 19 bảng nhãn, 47 thám hoa, 284 hoáng giáp và 938 tiến sĩ.
Thưa quý khách! Hỵ vọng chuyến đi thăm Văn Miếu – Quốc Tử Giam này sẽ giúp quý khách có thêm nhiều thông tin về nền giáo dục nước nhà từ thời phong kiến xưa. Đã đến lúc chúng ta phải chia tay với Văn Miếu, tôi hy vọng sẽ được gặp quý khách trong những chuyến du lịch tham quan Hà Nội lần sau. Chào thân ái!
Giới thiệu đến bạn 🌟 Bài Văn Tả Cảnh Đẹp Quê Hương 🌟 15 Bài Điểm 10
Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám Lớp 8 – Mẫu 13
Tham khảo bài văn mẫu dưới đây giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài văn thuyết minh về văn miếu Quốc Tử Giám lớp 8 của mình.
Gắn liền với chiều dài ngàn năm văn hiến của thu đô Hà Nội, ta không thể không nhắc đến Văn Miếu – Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên của nước ta, là biểu tượng cho truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam ta.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng vào thế kỷ 11 dưới thời Lý, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Suốt hơn 800 năm, Văn Miếu- Quốc Tử Giám đã đào tạo ra nhiều nhân tài cho từng thời đại, người đỗ Tiến sĩ qua các khoa thi thời Lê sơ, thời Mạc và thời Lê Trung Hưng được dựng bia để tôn vinh các bậc hiền tài theo quan điểm Hiền tài là nguyên khí quốc gia.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, hiện nay Văn Miếu- Quốc Tử Giám đã có nhiều thay đổi về mặt kiến trúc so với thời nhà Lý với lối kiến trúc phương Đông, ảnh hưởng đậm nét bởi Nho giáo và Phật giáo. Nơi đây nằm giữa bốn dãy phố cổng chính là phố Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây là phố Tôn Đức Thắng, phía Đông là phố Văn Miếu. Văn miếu bao gồm hai di tích chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy đầu tiên của trường học.
Ban đầu nơi đây chỉ dành cho con vua và các bậc đại quyền quý, sau đã được mở rộng cho người ở cả nước. Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc thời đầu nhà Nguyễn, khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch vồ từ thời Hậu Lê. Hiện nay, quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được chia làm ba khu vực chính: Văn hồ, vườn Giám và khu nội tự. Hồ Văn nằm đối diện với cổng chính của Quốc Tử Giám, đây là một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát tạo cho hồ một không khí mát mẻ, thư thái để giải tỏa căng thẳng sau những ngày làm việc, học tập mệt mỏi.
Khu nội tự của Văn Miếu – Quốc Tử Giám được ngăn cách với Vườn Giám và không gian bên ngoài bởi bức tường gạch vồ, được chia làm năm lớp, mỗi lớp được giới hạn bằng tường gạch và các cửa thông nhau: một cửa chính giữa và hai cửa phụ hai bên với các kiến trúc chủ thể là: cổng Văn Miếu, cổng Đại Trung, Khuê Văn các, cổng Đại Thành, khu điện thờ, cổng Thái Học và kết thúc là khu Thái Học.
Trước khi khám phá kiến trúc bên trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám, ta phải bước qua Văn Miếu môn, tức cổng tam quan ngoài cùng, cổng có ba cửa, cửa giữa cao to và xây 2 tầng. Từ Văn Miếu môn vào là khu Nhập Đạo với ba cửa chính theo thứ tự từ trái sang phải là Đại Trung, Thành Đức và Đại Tài. Tiếp đến là Khuê Văn các với kiến trúc một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước được xây dựng dưới thời Nguyễn, là nơi khi xưa dùng để họp bình các bài văn hay của các sĩ tử đỗ kỳ thi hội.
Khu tiếp theo là giếng Thiên Quang và hai vườn bia Tiến sĩ, nơi đây có 82 tấm bia Tiến sĩ hình con rùa bằng đá xanh theo quan niệm của ông cha ta rùa chính là thần Kim Quy biểu tượng cho tinh thần, sức mạnh, sự đùm bọc đoàn kết của dân tộc. Kế tiếp khu tiến sĩ và giếng Thiên Quang là Đại Thành môn với kiến trúc ba gian và hai hàng cột hiên trước sau và một hàng cột giữa.
Qua Đại Thành môn là đến khu điện thờ, đây là khu vực chính của di tích Quốc Tử Giám, là nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ Phối, Thất thập nhị hiền v.v… và cũng là nơi giảng dạy của trường giám thời xưa. Khu Khải Thánh hay còn gọi là khu Thái học là khu sau cùng của di tích, không chỉ là nơi thờ cha mẹ của Khổng Tử mà còn là nơi rèn đúc nhân tài cho nhiều triều đại.
Không chỉ có ý nghĩa khuyến khích hiền tài giúp nước mà Văn Miếu – Quốc Tử Giám còn là biểu tượng lưu dấu quá trình hình thành và phát triển của tầng lớp trí thức Nho học Việt Nam, những người đã tiếp thu và phát huy xuất sắc tinh hoa của các nền văn minh phương Đông để sáng tạo ra cả kho tàng văn hiến Hán Nôm giàu đậm tinh thần yêu nước và bản sắc dân tộc, nơi đây gắn liền với nhiều nét mộc mạc của thời đại phong kiến, chứa đựng tinh hoa văn hóa qua các triều đại, đóng vai trò sử đá của nền giáo dục khoa cử Việt Nam.
Tuy có không ít sự đổi thay nhưng Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn giữ nguyên được những nét đẹp truyền thống. Nơi đây mỗi độ tết đến xuân về, hình ảnh cổ xưa lại hiện về qua hình ảnh những ông đồ già với hoạt động xin chữ đầu năm – nét văn hóa của người Hà Nội.
Với những giá trị lịch sử và văn hóa như vậy, Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã trở thành niềm tự hào của người dân thủ đô nói chung và người Việt Nam nói riêng.
Khám phá thêm 💧 Thuyết Minh Về Món Ăn Dân Tộc Truyền Thống 💧 15 Mẫu Hay
Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám Lớp 10 – Mẫu 14
Để đạt điểm cao với đề bài viết thuyết minh về văn miếu Quốc Tử Giám lớp 10, các em học sinh cần tham khảo những tài liệu mẫu hay để làm phong phú thêm ý văn của mình.
Việt Nam là một nước văn hiến. Cách đây gần một ngàn năm, vào năm 1070, Văn Miếu được xây dựng và đến năm 1076, tại đây, Quốc Tử Giám được chính thức thành lập, là nơi dạy học cho Thái tử và con các quan đại thần. Năm 1257, Quốc Tử Giám được đổi thành Quốc Học Viện. Sang đời Lê, lại đổi thành Nhà Thái Học.
Từ những ngày đầu tiên đó, Quốc Tử Giám thực sự là một trường đại học đầu tiên của nước Đại Việt. Và sau đó, trường đại học này đã được đặt dưới sự lãnh đạo của các vị Tứ nghiệp hoặc Tế tửu (như giám đốc ngày nay) mà tài năng và đức độ từng nổi tiếng trong lịch sử Chu Văn An, một nhà nho đầy khí phách và tài năng; Ngô Sĩ Liên, một sử gia cấn trọng; Lê Quý Đôn một học giả uyên thâm,…
Từ năm 1482, Lê Thánh Tông, một ông vua nổi tiếng hay chữ chủ súy Hội Tao Đàn đã cho dựng bia đá, khắc tên những người thi đỗ tiến sĩ. Vì thế mà một “rừng bia” đã được dựng lên theo từng khoa thi. Theo tài liệu để lại, đáng lẽ phải 106 tấm, nhưng cho đến nay chỉ còn 82 tấm đặt trên lưng những con rùa đá đồ sộ. Trong số 1306 ngưòi thi đỗ, có tên trên bia, có thể đọc thấy tên một số danh sĩ như Lương Thế Vinh (1441 – ?), Lê Qúy Đôn (1726 – 1783), Ngô Sĩ Liên (đỗ tiến sĩ năm 1544), Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) và rất nhiều người khác.
Đến đời Nguyễn, Thủ đô bị dời vào Huế. Quốc Tử Giám chỉ còn là Văn Miếu thờ Không Tử. Năm 1946, thực dân Pháp xâm lược nước ta, đã đốt phá gần hết Văn Miếu. Từ năm 1954, năm giải phóng Thủ đô đến nay, Văn Miếu – Quốc Tử Giám được trùng tu sửa sang, xây dựng lại, đúng quy cách như xưa, nhưng đẹp đẽ hơn nhiều. Nằm ở phía tây nội thành Hà Nội, trên một khoảng đất rộng, Văn Miếu là một khu di tích lịch sử, đẹp đẽ, trang nghiêm và còn nhiều tư liệu quý.
Trước cổng, có một hồ nhỏ, có đảo, gọi là Văn Hồ. Qua một cổng, có 4 cột trụ là một cổng lớn xây theo kiểu tam quan, có gác chuông và hai cổng phụ nhỏ hai bên, trên cổng còn rõ chữ Văn Miếu Môn. Trước và sau cổng có hai đôi rồng đá, tạc từ thời Lê. Qua một đoạn đường lát gạch là cổng Đại Trung và hai cổng nhỏ: Thành Đức và Đạt Tài. Lại qua một đoạn đường nữa đến Khuê Văn Các. Đây là một công trình độc đáo, được dựng lên năm 1805, với tám mái cong, xinh xắn, trên gác có cửa hình tròn, có những con tiện tỏa ra như nhũng tia sáng của một ngôi sao lớn: ngôi sao Khuê, tượng trưng cho văn học.
Bên trong và sát với Khuê Văn Các là một giếng hình vuông, quanh năm nước xanh trong vắt: Thiên Quang Tỉnh (giếng chứa ánh sáng mặt trời). Khuê Văn Các với Thiên Quang Tỉnh qua cửa số hình tròn và mặt giếng hình vuông, theo quan niệm của người xưa nói về vũ trụ: trời tròn, đất vuông. Hai bên giếng Thiên Quang là khu nhà bia. Những tấm bia đá đồ sộ, đã trải mưa nắng bão dông qua hàng trăm năm, có tấm bị nứt, có tấm đã mờ, có tấm rêu phong; thậm chí có tấm đã bị triều đình nhà Nguyễn đục đi mất một số tên tiến sĩ – những nhân sĩ tiến bộ đã làm việc với nhà Tây Sơn.
Vào khu vực này, lòng ai mà không xúc động về nền văn hóa và ý thức bảo tồn văn hóa, trọng người hiền tai của cha ông ta từ xưa? Qua hết khu vực này đến phần chính của Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Một chiếc sân khá rộng, lát gạch Bát Tràng cổ, hai bên là tả vu và hữu vu. Cuối sân là nhà Bái Đường và Chính điện, xây dựng vào cuối thế kỉ XIII với nhũng hàng cột gỗ lim vững chãi, nâng những cánh mái cong vút tám đầu đao.
Văn Miếu không những đẹp về cách sắp xếp các kiến trúc qua nhiều cửa cách nhau bằng những lối đi dài hun hút, tạo ra khung cảnh chờ đợi của người đi vào, mỗi bước đi lại mở ra một ảnh trí mới lạ, một công trình mới lạ, mà Văn Miếu còn đẹp vì những hàng cây cổ thụ, tỏa bóng um tùm mát rượi xuống những công trình cổ; những lối đi lát gạch vòng vèo và những thảm cỏ xanh bốn mùa không đổi. Những chiếc hoa gạo, lá xoài, lá đa rụng lác đác như những cánh hoa thêu nhiều màu trên nền xanh biếc.
Từ năm 1954 đến nay, Văn Miếu được chọn làm nơi tổ chức những cuộc vui chơi giải trí tao nhã của Thủ đô trong những dịp ngày lễ, ngày Tết như ca nhạc, ngâm thơ, chơi chim… Đặc biệt Tết năm 1962 trong một buổi ngâm thơ đón xuân những bài thơ hay đang được trình bày thì có một cụ già từ ngoài cửa bước vào. Nhưng mọi người nhận ra ngay và cùng reo lên: Bác Hồ! Bác Hồ! Đúng! Đó là Hồ Chủ tịch. Người đã ngồi nghe ngâm thơ suốt buổi và sau đó tặng các cụ hai câu thơ:
Tuổi già nhưng chí không già
Góp phần xây dựng nước nhà phồn vinh.
Hiện nay Văn Miếu – Quốc Tử Giám được chăm sóc chu đáo. Cây cỏ được chăm bón và trồng thêm, bổ sung thường xuyên. Khu vực bia tiến sĩ được vẽ sơ đồ, có chú thích từng tấm ra đời năm nào, ghi tên tiến sĩ khoa thi nào…Gian chính diện dùng để trưng bày một số tư liệu văn học nghệ thuật của Thủ đô và của các danh nhân viết về Thủ đô qua nhiều thế kỉ.
Văn Miếu – Ọuốc Tử Giám là niềm tự hào chung của chúng ta. Nó là chứng tích rất cụ thể của nền văn hiến trải hàng ngàn năm vẫn sừng sững tính dân tộc, không một thế lực nào đụng chạm được vào nó.
Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone
Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám Bằng Tiếng Anh – Mẫu 15
Bài mẫu thuyết minh về văn miếu Quốc Tử Giám bằng tiếng Anh dưới đây sẽ giúp bạn đọc luyện tập cách sử dụng các cấu trúc ngữ pháp cơ bản và trau dồi thêm vốn từ vựng.
Tiếng Anh
Van Mieu (The Temple of Literature) was constructed in 1070 during Ly Thanh Tong’s dynasty. Its original purpose was to honor Confucius. In 1076, the first university of Vietnam called Quoc Tu Giam (The Imperial Academy), was established within this temple by Emperor Ly Nhan Tong. That’s the reason why the complex has the name of Van Mieu – Quoc Tu Giam up to now. Initially, Quoc Tu Giam was the school for princes and children of royal families and then expanded in the following year to admit top students from around the country.
Nowadays, Van Mieu – Quoc Tu Giam is one of the most famous tourist destinations for both Vietnamese people and foreigners. It’s also a place to celebrate doctorates and high ranking scholars of Vietnam. One special thing about this place is that there are 82 Doctors’ stone tablets. They are tombstones with names and origins of 1304 doctors placed on the backs of stone tortoises. If you come here at the beginning of the year or in May, when many important examinations take place, you will catch sights of numerous families and students who come and pray for luck.
Tiếng Việt
Văn Miếu (Văn Miếu) được xây dựng vào năm 1070 thời Lý Thánh Tông. Mục đích ban đầu của nó là để tôn vinh Khổng Tử. Năm 1076, trường đại học đầu tiên của Việt Nam mang tên Quốc Tử Giám (Học viện Hoàng cung), được thành lập trong khuôn viên ngôi chùa này bởi vua Lý Nhân Tông. Chính vì vậy mà quần thể có tên gọi Văn Miếu – Quốc Tử Giám đến nay. Ban đầu, Quốc Tử Giám là trường học dành cho các hoàng tử và con em hoàng tộc, sau đó mở rộng vào năm sau để thu nhận những học sinh giỏi nhất trong cả nước.
Ngày nay, Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng nhất đối với cả người Việt Nam và người nước ngoài. Đây cũng là nơi tôn vinh các tiến sĩ, học giả cấp cao của Việt Nam. Một điều đặc biệt ở nơi đây là có 82 bia đá của các vị Tiến sĩ. Đó là những tấm bia mộ ghi tên tuổi và nguồn gốc của 1304 tiến sĩ được đặt trên lưng rùa đá. Nếu đến đây vào dịp đầu năm hoặc tháng 5, khi nhiều kỳ thi quan trọng diễn ra, bạn sẽ bắt gặp hàng loạt gia đình, học sinh đến cầu may.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Thuyết Minh Về Một Loài Cây Cối Em Yêu 🌹 15 Mẫu Hay Nhất