Mời bạn đọc tham khảo ngay top 12+ bài văn mẫu phân tích thơ Haiku, Hai cư hay nhất. Hãy cùng đón đọc để có thêm nhiều tài liệu hữu ích.
Thơ Haiku là gì ?
Thơ Haiku là một thể thơ truyền thống của Nhật Bản, nổi tiếng với sự ngắn gọn và sâu sắc trong từng câu từ. Mỗi bài Haiku thường có 17 âm tiết, được phân chia thành 3 dòng với cấu trúc 5-7-5 (dòng đầu và dòng cuối có 5 âm tiết, dòng giữa có 7 âm tiết). Thơ Haiku không chỉ là sự ghi lại những khoảnh khắc trong thiên nhiên mà còn thể hiện sự tương quan giữa vũ trụ và con người, giữa cụ thể và trừu tượng.
Haiku thường tuân theo hai nguyên tắc cơ bản:
- Kigo (quý ngữ): Sử dụng từ ngữ gợi lên mùa màng một cách gián tiếp, như hoa anh đào cho mùa xuân, lá vàng cho mùa thu, tuyết trắng cho mùa đông.
- Tính tương quan: Liên kết một hình ảnh bao la của vũ trụ với một hình ảnh bé nhỏ của đời thường, tạo ra sự gắn kết giữa thiên nhiên và nội tâm con người.
Một ví dụ nổi tiếng của Haiku là bài thơ “Con ếch” của Matsuo Bashō:
Ao xưa;
Con ếch nhảy vào,
Vang tiếng nước xao.
Bài thơ này ghi lại hình ảnh một con ếch nhảy vào ao, tạo ra tiếng nước, và qua đó, tác giả muốn truyền tải cảm xúc và suy tư sâu sắc về sự vĩnh hằng của thiên nhiên so với cuộc sống phù du của con người
Cách Phân Tích Thơ Haiku
Phân tích một bài thơ haiku đòi hỏi bạn phải tập trung vào cấu trúc, ý nghĩa sâu xa đằng sau từng từ, ý tưởng được truyền đạt, và cảm nhận tác phẩm nghệ thuật ngắn gọn này. Dưới đây là cách bạn có thể phân tích một bài thơ haiku:
– Cấu trúc của Haiku:
- Đếm âm tiết: Một haiku truyền thống thường có 17 âm tiết, được chia thành 3 dòng với tỉ lệ 5-7-5 âm tiết tương ứng với mỗi dòng.
- Chia thành ba phần: Phần đầu (dòng 1) thường miêu tả một hình ảnh tự nhiên; phần thứ hai (dòng 2) phản ánh hoặc mở rộng hình ảnh đó; phần cuối cùng (dòng 3) thường là một góc nhìn khác hoặc một điểm nhấn mới.
– Hình ảnh và từ ngữ:
- Hình ảnh tự nhiên: Thơ haiku thường tập trung vào thiên nhiên hoặc những cảm nhận tự nhiên như mùa, hoa, chim, gió, hoặc mưa.
- Từ ngữ chọn lọc: Từ ngữ trong haiku thường được chọn lọc cẩn thận để tạo ra hình ảnh sắc nét và mạnh mẽ. Chúng thường dễ hiểu nhưng lại mang một ý nghĩa sâu xa.
– Ý nghĩa và cảm xúc:
- Từng từ, từng hình ảnh: Phân tích ý nghĩa của từng từ, từng hình ảnh, và cách chúng tạo ra một hình ảnh tổng thể.
- Sắc tố cảm xúc: Hãy tìm hiểu cảm xúc hoặc tinh thần mà tác giả muốn truyền đạt thông qua từng dòng thơ. Thường, haiku thể hiện sự đơn giản, nhưng chứa đựng một ý nghĩa sâu xa, thậm chí là triết học hoặc tâm linh.
Chia sẻ chùm 🌷 Thơ Haiku Nhật Bản 🌷 nổi tiếng
Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Hai Cư
Hãy cùng tham khảo ngay mẫu dàn ý phân tích bài thơ hai cư được biên soạn chi tiết nhất dưới dây.
I. Mở bài
– Thơ hai cư là thể loại thơ truyền thống Nhật Bản.
– Đây là thể thơ ngắn nhất thế giới chỉ có mười bảy âm tiết. Trong tiếng Nhật, mười bảy âm tiết đó được viết thành một hàng.
– Đậm chất lãng mạn, trữ tình.
II. Thân bài
-> Bài 1: Các bài thơ hai cư của Ba-sô vốn không có nhan đề, người đọc gọi tên bài thơ bằng những hình ảnh ấn tượng trong bài, như bài thơ này quen gọi là con quạ:
Trên cành khô
Chim quạ đậu
Chiều thu”.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1679 khi Ba-sô ba mươi năm tuổi. Tác giả sử dụng quý ngữ chỉ chiều thu kết hợp với hình ảnh cành khô gợi sự trơ trụi, không lá vàng và cũng không có chồi non.
-> Bài 2: Không còn là bức tranh thủy mạc đơn sơ nữa, tất cả những âm thanh của tiếng chuông như kéo người đọc đến một không gian khác:
“Hoa đào
Như áng mây sa
Chuông đề U-ê-nô vang vọng
hay đền A-sa-cư-sa”.
Sử dụng quý ngữ hoa anh đào chỉ mùa xuân của Nhật Bản, vẻ đẹp của thiên nhiên.
-> Bài 3: Tâm trạng cô đơn và trống vắng thể hiện nỗi niềm thầm kín. Cảnh tượng đó cảm giác được thưởng ngoạn cái đẹp, hòa tan với tâm trạng cô đơn.
“Cây chuối trong gió thu
Tiếng mưa rơi tí tách vào chậu
Ta nghe tiếng đêm”
Cây chuối là một loại chuối của Nhật Bản, tượng trưng cho sự trong sáng.
-> Bài 4: Viết nhiều về mùa xuân và được mệnh danh là “thi sĩ của mùa xuân”:
“Gần xa đâu đây
Nghe tiếng thác chảy
Lá non tràn đầy”.
“Thác” là biểu tượng cho sức mạnh của mùa xuân, là biểu hiện của sự sống.
-> Bài 5: Cảm thức thẩm mĩ của ông thiên về Karumi (trong trẻo, nhẹ nhàng) và mềm mại trữ tình.
“Dưới mưa xuân lất phất
Áo tơi và ô
Cùng đi”.
Tác giả sử dụng quý ngữ mưa xuân, thơ Bu-sôn hay viết về mùa xuân, một thứ mưa xuân nhẹ nhàng và tươi tốt. Đây là khoảng thời gian sự vật bung tỏa ra một nguồn sinh khí mới.
-> Bài 6: Vừa là vẻ đẹp của tự nhiên, hình ảnh con người rộn ràng và cũng là cái nhìn tinh tế của thi nhân.
“Hoa xuân nở tràn
Bên lầu du nữ
mua sắm đai lưng”
Ở Nhật Bản, mùa xuân về thì hoa anh đào nở. Tác giả miêu tả cảnh thiên nhiên đẹp đẽ và hài hòa.
III. Kết bài
– Tình yêu cuộc sống là tình yêu quê hương đất nước, tình yêu con người và đó là giá trị nhân sinh trong thơ của Ba-sô.
– Dù là nhà thơ nào nhưng cũng có những đóng góp cho thơ hai-cư truyền thống của Nhật Bản.
Ngoài bài phân tích, tìm đọc thêm tập 💧 Thơ Haiku Bằng Tiếng Anh 💧 ấn tượng
12+ Bài Văn Phân Tích Thơ Haiku Hay Nhất
Dưới đây là top 12+ bài văn phân tích thơ Haiku hay nhất được SCR.VN biên soạn chi tiết.
Phân Tích Thơ Haiku Nhật Bản Siêu Hay
Thơ là một thể loại văn học nảy sinh rất sớm từ đời sống con người, “thi” và “nhân” ở giữa vòng liên đới không thể nào tách rời khỏi nhau, nó giống như một mối quan hệ cho dù người ta có cố gắng giằng xé đến đâu thì thơ với đời sống vẫn quấn quýt không rời.
Đi vào trong kho tàng văn hoá Á Đông vĩ đại, giàu sang và trở thành một tài sản vô giá của nền văn hóa Nhật Bản theo một cách rất riêng, thơ Haiku là kết tinh nhiều giá trị văn hóa tinh thần của người Nhật nói riêng và người phương Đông nói chung.
Xuất hiện vào khoảng thế kỉ XVII và thịnh hành vào thời kỳ Edo những năm 1603-1867 thơ Haiku mang hơi thở của Thiền tông, in đậm dấu ấn của thế giới u huyền, thoát tục, đồng thời chứa đựng trong mình bức tranh thiên nhiên rộng lớn với những âm thanh màu sắc đặc trưng cho bốn mùa, được thể hiện dưới một hình thức ngắn gọn, cô đọng.
Linh hồn của văn học Nhật Bản không phô trương, hoa mỹ về mặt hình thức bởi mỗi bài thơ chỉ vỏn vẹn 17 âm tiết. Tuy vậy, sức chứa về mặt tư tưởng, triết lí nhân sinh của thơ Haiku lại vô cùng sâu và rộng. Nhà thơ Tago từng nhận xét về thơ Haiku: “Nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài, rồi bước tránh sang bên”. Chẳng cần phải nói nhiều bởi tâm hồn con người ta là phong phú, hãy để bạn đọc tự vẽ ra thế giới mà họ mong muốn.
Thơ thiên về gợi hơn là miêu tả và diễn giải. Sức sống và sự hấp dẫn của Thơ Hai -cư nằm ở khả năng kiệm lời mà vẫn khơi gợi nhiều cảm xúc suy nghĩ. Tưởng chừng như cô đọng làm thơ Haiku thêm nặng nề, nhưng không! Thơ Haiku lại nhẹ nhàng, bay bổng đến kì lạ. Sự nhẹ nhàng ấy đến từ tâm hồn yêu thiên nhiên, muốn hoà hợp với đất trời được thể hiện qua “quý từ” chỉ mùa mà bài thơ Haiku nào cũng có.
Đến với đất nước Nhật Bản là đến với xứ sở huyền bí của Thần đạo với vô số các tập tục và nghi lễ; với vẻ đẹp lãng mạn của những cánh hoa anh đào nở rộ nên còn gọi là “Xứ sở hoa anh đào”; với những “Thiếu nữ duyên dáng trong tà áo Kimono”. Đây còn là xứ sở dũng mãnh của “Truyền thống võ sĩ đạo” và “Kiếm đạo”, của những môn phái võ thuật nổi tiếng như: Sumo, aikido, karate, judo.
Trên sân khấu kịch Nô là những gương “Mặt nạ” người trầm lặng không nói và bất động. Chúng ta sẽ bị chìm đắm trong những trang tiểu thuyết dài hàng nghìn trang nhưng lại ấn tượng với những vần thơ hai-cư cực ngắn gắn liền với tên tuổi của Basho, Chiyô, Issa…với những nét thơ riêng nhưng chung quy lại đều là sự tinh tế của tâm hồn người Nhật.
Thơ Haiku có rất nhiều đặc tính nhưng điều làm Bashô – nhà thơ có công lớn trong việc hoàn thiện thơ Haiku để tâm hơn cả đó chính là cảm thức về sự tịch mịch, sâu xa vô hạn của sự vật, nhìn thấy sự vật tự bộc lộ một cách kì diệu, cảm thức ấy được gọi với cái tên Sabi-niềm cô đơn huy hoàng được Bashô thể hiện sâu thẳm nhất trong bài thơ:
“Trên cành khô
Chim quạ đậu
Chiều thu”
Thoạt nghe ta thấy bài thơ như một bức tranh thuỷ mặc với gam màu trầm tối, lạnh lẽo. “Cành cây khô” và “chim quạ đậu” dường như đã mang hết thảy những đặc điểm của một “chiều thu” u buồn. Thu về lá cây như trút hết khỏi cành chỉ để lại sự gầy guộc, khẳng khiu vô cùng. Nó như chừa lại chỗ đứng cho chim quạ với cái màu đen tuyền và con mắt sắc lẹm.
Thì ở đây Ba-sô cũng gợi ra cho ta những hình ảnh như vậy nhưng với một cảm giác khác hoàn toàn. Một chiều thu sầu não, vắng lặng đến cô tịch khiến lòng ta phải cảm thấy u hoài. Nhưng thật kì lạ, bày ra trước mắt là cái vẻ cô liêu nhưng tâm hồn ta lại chẳng hề thấy chán chường hay bi luỵ, oán đời. Khác với Xuân Diệu trong “Đây mùa thu tới”:
“Mây vẩn từng không, chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li”
Đây chính là cảm thức Sabi, một cảm thức hùng vĩ chứ không phải nỗi cô đơn, bi luỵ cá nhân. Đọc bài thơ ta mới hiểu thế nào là chất Sa-bi đơn sơ, tao nhã, cô liêu đến tiêu điều nhưng lại chẳng đem cho ta cái cảm giác đau khổ.
Nhắc đến Nhật Bản là nhắc đến xứ sở hoa anh đào, mặt trời mọc, áo kimono, nhắc đến một dân tộc thấm đẫm chất thiền, mà thơ Haiku như là một biểu trưng. Ví như Đường luật của Trung Hoa hay Lục bát của Việt Nam mỗi nền văn hoá đều có những tư tưởng, đặc trưng riêng. Nhưng chúng ta biết rằng văn hóa không có cao hay thấp mà chỉ có sự khác biệt.
Cũng như bao thể thơ khác, thơ Haiku đến với văn hoá của người Nhật như một mối cơ duyên trùng phùng vậy. Thơ bắt nguồn từ đời sống, đi qua những chặng đường dài để đến với độc giả và sau cùng lại trở về với đời sống với một vai trò là một “người mẹ” chứ không phải là một “đứa con” như thuở trước. Thơ trở về “đất mẹ” với trọng trách cao cả là giáo dục và tái tạo lại con người và xã hội.
Cho nên trong quá trình “mở đường” cho thơ quay trở lại độc giả cần “mở lòng” đón nhận thơ bằng tất cả những gì mình có. Khoan đổ lỗi cho nhà thơ sáng tác tệ, khoan đổ lỗi cho bài thơ không hay, hãy tự xem rằng bản thân đã nâng tâm hồn lên gần với thi sĩ hay chưa? Đã góp công vào quá trình đồng sáng tạo nghệ thuật hay chưa? Khi đã ý thức được điều ấy, hãy để thi ca, nghệ thuật trở về với cuộc đời.
Người Nhật thực sự đã mở ra một con đường trải đầy những cánh anh đào cho thơ Haiku xuất hiện vào bốn thế kỉ trước quay trở lại với đời sống của người dân Nhật Bản, hơn thế con đường ấy đưa thơ Haiku đi vào ngôi đền của những điều vô giá.
Cho đến ngày nay, thơ Haiku Nhật Bản vẫn lôi cuốn người đọc nhiều nước trên thế giới bởi nội dung phong phú và nghệ thuật đặc sắc của nó. Đồng thời thể thơ này vẫn được nhiều người bắt chước sáng tác, nhưng không ai có thể vượt qua được thơ haiku Nhật Bản với những thi hào nổi tiếng. Thơ haiku là sản phẩm tinh thần riêng của người Nhật là niềm tự hào của đất nước Phù Tang, của xứ sở hoa anh đào.
Share tập 🌼 Thơ Tiếng Nhật 🌼 ngoài phân tích thơ Haiku
Phân Tích Thơ Haiku Dài Hay
Hai-cư là thể loại thơ ca truyền thống Nhật Bản. Đây là thể thơ ngắn nhất thế giới, chỉ có 17 âm tiết. Trong tiếng Nhật 17 âm tiết đó được viết thành một hàng, khi phiên âm La tinh nó mới được ngắt thanh ba đoạn theo thứ tự 5/7/5. Cá biệt có những bài có 19 âm tiết.
Ba dòng (đoạn) thơ Hai cư có chức năng khác nhau: Dòng thứ nhất dùng để giới thiệu; Dòng thứ hai tiếp tục ý trên và chuẩn bị cho dòng thứ ba; Dòng thứ ba: Kết lại tứ thơ, nhưng thường không bao giờ rõ ràng và đủ ý mà phải mở ra những suy tư cảm xúc cho người đọc.
Trong mỗi bài thơ đều phải có quý ngữ (từ chỉ mùa). Mỗi bài thơ là một khoảnh khắc của cảnh vật và đỉnh điểm của cảm xúc.
Thơ Hai-cư bao giờ cũng có nội dung liên quan đến thiên nhiên và đưa ra những triết lí về thiên nhiên
Bài 1: Là nỗi cảm về Ê-đô (Ê-đô là Tô-ki-ô ngày nay). Đã mười mùa sương xa quên, tức là mười năm đằng đẵng nhà thơ sống ở Ê-đô. Có một lần trở về quê cha đất tổ ông không thể nào quên được Ê-đô. Mười mùa sương gợi lòng lạnh giá của kẻ xa quê. Vậy mà về quê lại nhớ Ê-đô. Tình yêu quê hương đất nước đã hòa làm một.
Bài 2: Ki-ô-tô là nơi Ba-sô sống thời trẻ (1666 – 1672). Sau đó ông chuyển đến Ê-đô. Hai mươi năm sau trở lại Ki-ô-tô nghe tiếng chim đỗ quyên hót ông đã làm bài thơ này. Bài thơ là sự hoài cảm qua tiếng chim đỗ quyên, loài chim báo mùa hè, tiếng khắc khoải gọi lại kỉ niệm một thời tuổi trẻ. Đó là tiếng lòng da diết xen lẫn buồn, vui mơ hồ về một thời xa xắm. Thơ Ba-sô đã gây ấn tượng đầy lãng mạn. Giữthơ cũng bồng bềnh trong khẳng định thầm lặng của nỗi nhớ, sự hoài cảm.
Bài 3: Một mớ tóc bạc di vật còn lại của mẹ, cầm trên tay mà Ba-sô rưng rưng dòng lệ chảy. Nỗi lòng thương cảm xót xa khi mẹ không còn. Hình ảnh “làn xương thu” mơ hồ gợi nỗi buồn trống trải bởi công sinh thành, dưỡng dục chưa được báo đền. Tình mẫu tử khiến người đọc cũng rưng rưng.
Bài 4: Người đọc bắt gặp nỗi buồn nhân thế. Bố mẹ đẻ ra con không nuôi được vì nghèo đói mà mang bỏ trong rừng sâu. Sự thực ấy đi vào thơ gợi lên biết bao nỗi buồn tê tái. Tiếng vượn hú không phải rùng rợn mà “não nề” cả gan ruột, không còn nỗi buồn mà là nỗi đau nhân thế. Tiếng trẻ “than khóc” vì bị bỏ rơi không phải vì cha mẹ nó độc ác mà vì cực chẳng đã, không nuôi nổi. Nỗi buồn ấy gửi vào gió mua thu tái tê. Nỗi buồn ấy đã nâng bổng giá trị thơ Ba-sô tới đỉnh cao của chủ nghĩa nhân đạo. Điều đáng nói trong cái buồn ấy có nỗi đau đời, càng đau hơn vì “đau đời có cứu được đời đâu”.
Bài 5: Vẻ đẹp về khát vọng trong tâm hồn nhà thơ. Mưa giăng, một chú khỉ con thầm ước (khát vọng) có một chiếc áo tơi để che mưa. Mượn mưa để nói về một hiện thực nào đó trong cuộc đời (đói khổ, rét mướt chẳng hạn). Chú khỉ con ấy là một sinh mạng một con người, một kiếp người và là con người chung trong cuộc đời. Chú khỉ mong hay nhân vật trữ tình mong mỏi làm thế nào để khỏi đói rét, khỏi khổ. Vẻ đẹp tâm hồn ấy lấp lánh giá trị nhân đạo thiết thực.
Bài 6: Chúng ta bắt gặp cánh “hoa đào lả tả” và sóng nước hồ Bi-oa. Hoa đào lả tả hoa rụng báo hiệu mùa xuân ở Nhật Bản đã qua. Đây là thời kì chuyển giao mùa.
Cái nhỏ bé nhất, đơn sơ nhất, tưởng như không có sinh linh nhưng cũng vẫn mang trong mình mối tương quan giao hòa, chuyển hóa của vũ trụ. Một cánh hoa đào mỏng tang nhỏ xíu cũng khiến hồ Bi-oa nổi sóng.
Bài 7: Ta bắt gặp “tiếng ve ngân”, đặc trưng của mùa hè. Sự liên tưởng về giao mùa được hòa cảm trong cái nhìn, sự cảm giao và lắng nghe âm thanh. Xúc cảm ấy củạ nhà thơ thật tinh tế. Hình ảnh thơ rất đẹp: Hoa đào, hồ Bi-oa và tiếngve ngân không chỉ lan tỏa trong không gian mà còn thấm sâu vào đá, đang vật chất biểu tượng cho tính cứng cỏi. Câu thơ đằm trong cảm nhận sâu sắc, thắm trong cái tình của con người với thiên nhiên, tạo vật.
Bài 8: Bản chất Ba-sô rất thích đi lãng du (đi nhiều nơi trên đất nước). Con người đã đến lúc này (bài thơ này tác giả sáng tác trước khi mất) còn có khát vọng gì nữa khi gần đất xa trời rồi. Không! Ba-sô vẫn có khát vọng sống để đi tiếp cuộc du hành. Khát vọng sống không phải để hưởng thụ mà thực hiện sở thích của mình, du hành trên đất nước. Lạc quan biết bao! Bài thơ không chỉ nói lên tình yêu của nhà thơ với cuộc sống mà còn là sứ mệnh của thi nhân. Yêu đời, yêu người, yêu cái đẹp, Ba-sô sẽ còn mãi làm thơ về cuộc đời này ngay cả khi mộng hồn đã rời sang thế giới bên kia.
Phân Tích Thơ Haiku Ba Sô Hay Nhất
Ba-sô là một danh sĩ lỗi lạc thời kỳ Ê-đô của Nhật Bản. Những tác phẩm của ông để lại nhiều giá trị, phổ biến không những trong nước mà còn nổi tiếng khắp thế giới. Thơ ông là sự dung hợp và hài hoà giữa thiên nhiên và tấm lòng của người thi sĩ, nhẹ nhàng, bình dị mà trong sáng, gần gũi. Những bài thơ Hai cư tiêu biểu cho hồn thơ ấy của ông.
“Đất khách mười mùa sương
về thăm quê ngoảnh lại
Ê-đô là cố hương”
Sau hơn mười năm ròng xa cách quê nhà, sống ở vùng đất Ê-đô bận rộn với cuộc sống thường ngày, ông trở về quê hương trong niềm vui của người con bao năm xa quê nhưng vẫn đong đầy tình cảm với vùng đất thương mến – nơi đã cùng ông gắn bó suốt một khoảng thời gian. Với Ba-sô giờ đây, Ê-đô như quê hương thứ hai của mình vậy, vẫn khôn nguôi nỗi nhớ da diết về cõi “cố hương”.
Phải chăng, nhà thơ đang muốn nhắn nhủ mỗi người nên trân trọng những gì gần gũi gắn bó quanh ta, những nơi ta đi và ta đến đều để lại những dấu ấn và kỉ niệm khó phai nên được trân trọng như một điều đẹp đẽ nhất. Bài thơ tuy ngắn gọn mà đong đầy những cảm xúc chân thành, bình dị, xinh xắn mà quá đỗi đáng quý, đáng yêu.
Qua bài thơ thứ hai, tình cảm lớn lao dành cho quê hương đất nước càng được tác giả thể hiện rõ với những dòng cảm xúc thấm đẫm:
“Chim đỗ quyên hót
ở Kinh đô
mà nhớ Kinh đô.”
Sau bao năm bôn ba, phiêu bạt nơi xứ người, đứng trên mảnh đất kinh đô nơi quê nhà, tác giả nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà dâng lên nỗi nhớ. Tiếng đỗ quyên hót giữa không gian rộng lớn kinh đô gợi nên vẻ vắng lặng, u tịch, không gian tĩnh lặng đượm buồn khiến lòng người thổn thức.
Đứng trên đất kinh đô mà hồn lại nhớ kinh đô, thời điểm hiện tại nhớ về quá khứ nhớ về những tháng ngày kinh đô tươi đẹp, nhân dân được phồn vinh, ấm no, thịnh vượng. Kinh đô giờ đây hoang tàn chẳng còn vẻ huy hoàng xưa cũ.
Niềm tiếc nuối quá khứ cho thấy được tình yêu quê hương thiết tha của nhà thơ trước thực tại nhiều đau thương. Tiếp đến, tình mẫu tử được cất lên thật nghẹn ngào quá tiếng thơ:
“Lệ trào nóng hổi
tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu.”
Tình cảm mẹ con luôn thiêng liêng và cao quý nhất. Trở về khi mẹ đã mất chỉ còn lại nắm tóc bạc trên bàn tay mà lòng đớn đau, uất nghẹn, niềm tiếc hận khôn nguôi. Dòng lệ nóng hổi buông trên làn tóc mẹ là tiếng lòng thổn thức tâm can nơi đáy hồn con. Làn sương thu mỏng manh cũng mang màu buồn của nỗi tuyệt vọng khôn nguôi khi đứa con mất đi mẹ mãi mãi.
“Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc?
gió mùa thu tái tê.”
Qua bài thơ thứ 5, ta thấy được ở nhà thơ một tấm lòng nhân ái. Tiếng vượn hú trong rừng xa não nề, thê lương khiến người thi sĩ liên tưởng đến niềm đau của những đứa trẻ thơ. Chúng bị bỏ rơi giữa cuộc đời, thiếu đi tình thương của người thân, thiếu đi trái tim nhân ái của nhân loại, chúng trở nên cô độc giữa cuộc đời chính mình.
Gió thu về khiến nỗi đau ấy càng tê tái, càng buồn, càng xót xa hơn. Ta như cảm nhận được hình ảnh đầy thương cảm của những đứa trẻ mồ côi trong tiếng khóc đau thương giữa dòng đời nghiệt ngã. Những kiếp người bất hạnh ấy, sao không thể không thương tâm, động lòng cho được?
“Mưa đông giăng đầy trời
chú khỉ con thầm ước
có một chiếc áo tơi.”
Những vần thơ chứa chan niềm yêu thiên nhiên, vạn vật. Xót xa trước cảnh chú khỉ con run lạnh giữa cái lạnh, cái ướt của cơn mưa mùa đông, nhà thơ đã viết nên vần thơ bày tỏ cảm xúc ấy. Đó phải chăng còn là hình ảnh ẩn dụ cho những kiếp người lao động nghèo khổ trong xã hội xưa kia.
Họ làm lụng vất vả, sống cũng chẳng hề dư dả, cái nghèo cái đói vẫn cứ đeo bám lấy họ. Lời thơ chính là tiếng nói thương cảm và gửi gắm niềm ước mơ nhỏ nhoi về cuộc sống hạnh phúc, vươn tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống của con người.
“Từ bốn phương trời xa
cánh hoa đào lả tả
gợn sóng hồ Bi-oa.”
Khung cảnh mùa xuân nơi hồ Bi-oa thật ấn tượng và xinh đẹp. Giữa khoảng không bốn bề cánh hoa đào hồng phai rơi lả tả. Mỗi đợt gió nhẹ thổi qua, cành đào rơi theo chiều gió, chạm vào dòng nước, sóng gợn lăn tăn, khung cảnh thật nhẹ nhàng, bình yên. Vạn vật dường như có sự tương giao, hoà hợp tạo nên bức tranh sinh động, thanh thoát lạ thường.
“Vắng lặng u trầm
thấm sâu vào đá
tiếng ve ngâm.”
Vẻ tĩnh mịch vắng lặng của không gian được gợi lên qua vẻ u trầm của đá, có tiếng ve ngân – thứ âm thanh thân thuộc của mùa hè nhưng tiếng ve ấy không đủ để giúp bức tranh trở nên sống động hơn. Tiếng ve thấm sâu vào đá, âm thanh giao hoà với vạn vật tạo nên ý vị sâu sắc.
Qua cái nhìn tinh tế cùng cách cảm nhận độc đáo, bài thơ tựa như nốt nhạc độc đáo của mùa hè dành riêng cho đời sống. Giữa tâm hồn nhà thơ có sự giao cảm với thiên nhiên để cảm nhận, chiêm nghiệm và tâm tình, đó chính là trong cảnh có hồn, trong tâm có cảnh.
Những bài thơ Hai-cư tuy ngắn với số lượng âm tiết ít nhưng luôn mang lại cho người đọc những cảm xúc và ấn tượng vô cùng lớn. Đặc biệt là đối với thi sĩ Ba sô người cầm bút tài năng đã viết nên những tuyệt phẩm vô cùng giá trị, để lại cho thế hệ mai sau những vần thơ ý vị, giàu có về tư tưởng.
Đọc thơ Hai cư, ta như được đắm mình vào trong thế giới thiên nhiên, trong trường liên tưởng với những cảm xúc thẩm mỹ vô cùng lớn. Cùng với tác giả, người đọc trở thành những người đồng sáng tạo lý thú và hữu ích.
Xem ngay những bài 🍂 Phân Tích Bài Thơ Chốn Quê (Làm Ruộng) 🍂
Phân Tích Thơ Haiku Issa Đặc Sắc
Bài thơ “Chậm rì, chậm rì/ Kìa con ốc nhỏ/ Trèo núi Phu-gi” đã gợi cho em liên tưởng về hành trình chinh phục đỉnh cao của con người. Ngay từ dòng thơ đầu tiên, nhà thơ Ít-sa đã mô tả đặc điểm của loài ốc “Chậm rì, chậm rì”. Hình ảnh con ốc nằm trong thế đối lập với ngọn núi Phu-gi khi một bên thì nhỏ bé chậm chạm còn bên kia thì lớn lao, kỳ vĩ. Chú ốc nhỏ di chuyển chậm chạp trong khi ngọn núi vẫn đứng yên.
Con ốc không chỉ mang nghĩa tả thực mà còn tượng trưng cho những khả năng có hạn của con người. Dẫu khó khăn nhiều như độ cao của ngọn núi thì chúng ta vẫn phải kiên trì, cố gắng vươn lên. Bằng câu thơ bốn chữ ngắn gọn cùng hình ảnh giản dị, gần gũi, nhà thơ Ít-sa đã bày tỏ những triết lý, suy ngẫm sâu xa về cuộc đời.
Phân Tích Thơ Haiku Của Issa Chọn Lọc
Nhà thơ Kobayashi Issa (1763-1828) là một trong bốn nhà thơ Haiku vĩ đại nhất Nhật Bản. Thể thơ Haiku là thể thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu thơ đầu của những liên ca có tính trào phúng của Nhật Bản.
Bài thơ Chậm rì, chậm rì là một trong những bài thơ haiku nổi tiếng nhất của ông. Bài thơ ngắn gọn, sử dụng hình ảnh ẩn dụ của con vật để truyền tải thông điệp sâu sắc, triết lý, đầy nhân văn.
Câu thơ đầu tiên sử dụng điệp ngữ “chậm rì” để miêu tả trạng thái chậm chạp, kiên nhẫn, chầm chậm của chú ốc sên nhỏ. Câu thơ thứ hai “Kìa con ốc nhỏ” thể hiện sự xuất hiện nhỏ bé, bình dị của chú ốc nhỏ. Trạng thái chậm rì được đảo lên câu thơ đầu để nhấn mạnh trạng thái, đặc điểm của chú ốc bình dị nhỏ bé ấy.
Câu thơ thứ ba “Trèo núi Fuji” chỉ có ba chữ tái hiện hình ảnh ngọn núi Phú Sĩ- biểu tượng Nhật Bản. Hình ảnh chú ốc sên nhỏ trèo chầm chậm lên núi Phú Sĩ- ngọn núi cao bậc nhất Nhật Bản.
Bài thơ ngắn gọn súc tích, với hình thức độc đáo đã truyền tải thông điệp mang đầy tính nhân văn đến người đọc. Trên thực tế cuộc sống, mỗi người đều là chú ốc nhỏ bé bình dị nhưng đều ấp ủ một giấc mơ cháy bỏng của riêng cuộc đời mình. Sức mạnh nội tại của chính bản thân chúng ta là nguồn sức mạnh động lực để thúc đẩy đưa chúng ta lên đến đỉnh cao của cuộc đời mình. Nếu như chú ốc sên khát khao chinh phục núi Phú Sĩ thì mỗi người đều có một đỉnh cao của cuộc đời mình mà muốn chinh phục.
Điều mà chúng ta cần làm đó chính là luôn luôn cố gắng không ngừng nghỉ trên hành trình, nỗ lực hết sức mình trên hành trình chinh phục lý tưởng sống của mình. Ta có thể đi chậm hơn so với người khác nhưng điều quan trọng đó chính là ta không ngừng lại mà luôn nỗ lực, kiên trì đến cùng với ước mơ của mình. Đó chính là điều làm nên ý nghĩa của cuộc sống của chúng ta.
Bài thơ không chỉ có hình thức ngắn gọn mà còn truyền tải thông điệp ngắn gọn, sâu sắc và đầy tính nhân văn. Bài thơ Chậm rì chậm rì đã sử dụng hình ảnh bình dị để truyền tải thông điệp nhân văn, sâu sắc về tinh thần vượt khó, kiên trì đến cùng để chinh phục mục tiêu to lớn của mỗi người trong cuộc sống.
Phân Tích Bài Thơ Hai Cư Chậm Rì Chậm Rì
Đọc bài thơ “Chậm rì, chậm rì/ Kìa con ốc nhỏ/ Trèo núi Phu-gi”, em vô cùng ấn tượng với hành trình chinh phục đỉnh núi của chú ốc nhỏ. Nhà thơ đặc biệt mô tả trạng thái di chuyển của chú ốc sên trong dòng thơ đầu tiên “chậm rì, chậm rì”. Chú ốc bé chậm chạp “Trèo núi Phu-gi”.
Lấy hình ảnh con ốc sên làm hình tượng trung tâm, nhà thơ muốn gửi đến độc giả bài học về hành trình vươn đến ước mơ. Dẫu biết sức lực của con người có giới hạn nhưng chúng ta cần nỗ lực không ngừng. Bằng thể thơ ngắn gọn, hình ảnh thiên nhiên quen thuộc, gần gũi, nhà thơ Ít-sa đã thể hiện những suy ngẫm sâu xa về cuộc đời.
Ngoài phân tích thơ Haiku, xem thêm mẫu văn 🌿 Phân Tích Bài Thơ Hoa Cỏ May 🌿
Phân Tích Bài Thơ Hai Cư Của Ít Sa
Nhà thơ Ít-sa trong bài thơ “Chậm rì, chậm rì/ Kìa con ốc nhỏ/ Trèo núi Phu-gi” đã thể hiện những suy tư về cuộc sống. Từ hình ảnh quen thuộc là chú ốc nhỏ, tác giả đem đến cho người đọc bài học về hành trình đi đến thành công. Trong khi ốc sên bé xíu, chậm chạp thì ngọn núi Phu-gi lại vô cùng lớn lao, kỳ vĩ. Loài vật này ẩn dụ cho những giới hạn của con người.
Chẳng ai có thể biết hết mọi điều trong cuộc sống nhưng quan trọng chúng ta không bao giờ bỏ cuộc và phấn đấu đi lên bằng sức lực, trí tuệ của bản thân. Bài thơ tuy ngắn gọn song hình ảnh thơ quen thuộc, gần gũi đã góp phần thể hiện quan niệm của nhà thơ cũng như tạo ra không gian để độc giả có thể bước vào và khám phá những trường nghĩa khác nhau.
Phân Tích Bài Thơ Hai Cư Trên Cành Khô
Bài thơ Trên cành khô của tác giả Mát-chư-ô Ba-sô là một trong những bài thơ Haiku hay tiêu biểu mang vẻ đẹp đơn sơ, tao nhã, cô liêu, trầm lắng, u buồn, nhẹ nhàng, bình dị mà trong sáng, gần gũi.
Trên cành khô
cánh quạ đậu
chiều thu.
Bài thơ Trên cành khô / cánh quạ đậu / chiều thu được sáng tác vào năm 1679 khi Ba-sô ba mươi lăm tuổi. Bài thơ tạo nên sức ám ảnh lạ kì và có tác động mạnh mẽ đến người đọc. Trong bài thơ này, yếu tố mùa được thể hiện rất rõ ở từng câu chữ chứ không đợi đến quý ngữ cuối bài.
Đây là bài thơ về mùa thu và thời điểm chính xác có lẽ là cuối thu, khi chim quạ đã xuất hiện, khi lá cây đã rụng hết chỉ còn lại cành khô. Tác giả sử dụng quý ngữ chiều thu kết hợp với hình ảnh cành khô gợi sự trơ trụi, không lá vàng và cũng không có chồi non. Đến với không gian của chiều thu buồn vắng ấy là độc giả đã cùng với thi nhân đắm chìm vào miền tịch tĩnh giữa bao la đất trời. Khoảnh khắc được thể hiện trong bài thơ của Ba-sô có thể khơi gợi nhiều cảm xúc ở người đọc.
Bài thơ mang nỗi buồn của buổi chiều tà, của lúc tàn thu, sự ngưng đọng, lặng im của cảnh vật… Giống như mọi bài thơ Hai-cư khác, cái tôi thi nhân không bao giờ xuất hiện trong thi phẩm nhưng từ những gì nhà thơ gửi gắm sẽ khởi sự cho trí tưởng tượng vô biên của độc giả. Cành khô màu nâu xám, chim quạ chắc chắn là màu đen (hoặc xám) và màu vàng (chiều thu). Đây là những gam màu chủ đạo của hội họa thủy mặc, một loại hình nghệ thuật mà chất liệt chính là màu nước đen và giấy trắng.
Hình ảnh cánh quạ đậu trên cành khô trong bài thơ gợi lên một không gian chiều thu vắng lặng, đơn sơ, nhẹ nhàng. Nhưng còn một yếu tố không kém phần quan trọng khiến thi phẩm “con quạ” của Ba-sô trở nên bất hủ là sự tương phản, đối lập một cách hài hòa trong sử dụng hình ảnh. Đó là sự tương phản, đối lập giữa hình ảnh trên cành khô quạ đậu và chiều thu. Một bên nhỏ hẹp, hiện hữu, một bên rộng lớn, mơ hồ.
Mặc dù bài thơ này không tuân thủ theo quy luật thông thường 5/7/5 của Hai-cư thường vẫn luôn được coi là thi phẩm mẫu mực bởi cấu tứ, ý tưởng và sự bứt phá trong cái hài hòa mà nó mang lại cho cảm giác của người đọc. Bài thơ, các nhà nghiên cứu thường nhận xét, đúng là một bức tranh thủy mặc
Ba-sô có nhiều đóng góp cho thơ Hai-cư truyền thống của Nhật Bản, mỗi bài thơ Hai-cư của ông đều thấm nhuần cảm xúc sa-bi tức là nỗi cô đơn huyền diệu của thiên nhiên, niềm cô đơn vô ngã và tịch mịch, vắng vẻ của muôn đời, đều đậm chất thơ, chất thi vị, lãng mạn. Tình yêu cuộc sống là tình yêu quê hương đất nước, tình yêu con người là giá trị nhân sinh cốt lõi trong thơ của Ba-sô, khiến thơ ông được bạn đọc trên khắp thế giới đón nhận nồng nhiệt.
Phân Tích Bài Thơ Hai Cư Ôi Hoa Triêu Nhan
Đọc bài thơ “Ôi hoa triêu nhan/ Dây gàu vương hoa bên giếng/ Đành xin nước nhà bên”, ta không khỏi xúc động trước tình yêu thiên nhiên sâu sắc của nhà thơ Chi-y-ô. Ngay dòng thơ đầu tiên “Ôi hoa triêu nhan!”, tác giả đã bày tỏ cảm xúc trực tiếp thông qua câu cảm thán. Đây không chỉ là sự phát hiện đầy bất ngờ của thi nhân mà nó còn cho thấy sự trân trọng, nâng niu vẻ đẹp tự nhiên.
Khi chứng kiến “Dây gàu vương hoa bên giếng”, bà “Đành xin nước nhà bên”. Mục đích của hành động này chính là để cho sự sống và cái đẹp được tiếp tục hiện hữu. Dung lượng bài thơ vô cùng ngắn gọn kết hợp với hình ảnh trong sáng, giản dĩ đã cho người đọc cảm nhận về thái độ trân quý tự nhiên của tác giả. Đồng thời, bài thơ còn đem đến thông điệp ý nghĩa về việc sống hòa hợp với thiên nhiên.
Mẫu văn ✅ Phân Tích Bài Thơ Thủ Vĩ Ngâm ✅ ngoài phân tích thơ Haiku
Phân Tích Đánh Giá Bài Thơ Hai Cư Chi Tiết
Trong văn học Nhật Bản, thơ hai-cư chiếm một vị trí khá quan trọng. Thể thơ này ra đời và phát triển rộng rãi trong thời kì Phục hưng văn học thế kỷ XVII – XVIII và song hành với đời sống văn hóa Nhật. Lúc đầu thơ hai-cư bắt nguồn từ các thể thơ ca truyền thống như trường ca, hòa ca, đoản ca…
Sau đó một phần của bài thơ trong các thể thơ này tách ra độc lập và tồn tại một thời gian dài không có tên gọi chính thức, đến khi nhà thơ Shiki (1867-1902) gọi đó là thơ hai-cư vào những năm cuối thế kỷ XIX rồi nó tồn tại cho đến ngày nay.
Bài thơ Hai-cư trong tiếng Nhật chỉ gồm 17 âm tiết chia thành 3 dòng thơ (dòng 1 và dòng 3 có năm âm tiết; dòng 2 có bảy âm tiết). Các bản dịch tiếng Việt thường không đáp ứng được đầy đủ đòi hỏi của quy tắc trên nhưng vẫn đảm bảo được sự ngắn gọn, hàm súc đặc trưng của thể thơ này. Một bài Hai-cư Nhật luôn tuân thủ hai nguyên lý tối thiểu, đó là bốn mùa của thiên nhiên và tính tương quan giữa hai ý tưởng.
Trong thơ bắt buộc phải có kigo (quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả mùa màng một cách gián tiếp. Trong bà không nói rõ xuân, hạ, thu, đông nhưng sẽ nhắc đến hoa anh đào, lá úa vàng, tuyết phủ trắng… Ngoài ra bài thơ sẽ liên kết một hình ảnh bao la của vũ trụ ăn khớp với một hình ảnh bé nhỏ của đời thường. Đây chính là điểm đặc biệt, hấp dẫn của bài thơ hai-cư.
Thơ hai-cư thường thấm đẫm tinh thần Thiền tông và văn hóa phương Đông, đề cao sự vắng lặng, đơn sơ, u huyền và phản ánh sự vật trong mối tương quan, giao hòa, thể hiện những rung cảm của con người trước thiên nhiên bằng những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng nhưng cũng đậm tính tượng trưng. Khởi nguồn từ Nhật Bản, ngày nay, hai-cư đã trở thành thể thơ được sáng tác bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.
Thơ hai-cư hiện đại có những đặc điểm riêng về bút pháp trong khi vẫn bảo lưu một số nguyên tắc quan trọng của tư duy và mĩ cảm cùa thơ hai-cư truyền thống như bài thơ được cấu tứ quanh một phát hiện mang tính chất “bừng ngộ” về mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng, về sự tương thông đầy bí ẩn giữa thế giới và con người; thơ thiên về khơi gợi hơn là miêu tả và diễn giải. Sức sống và sự hấp dẫn của thơ hai-cư nằm ở khả năng kiệm lời mà vẫn gợi nhiều cảm xúc và suy tưởng.
Phân Tích Thơ Haiku Lớp 10 Nâng Cao
Bài thơ “Trên cành khô/ cánh quạ đậu/ chiều thu” của nhà thơ Ba-sô đã để lại cho em biết bao rung cảm. Nhà thơ Ba-sô đã trực tiếp bộc lộ tâm trạng của mình trước bức tranh thiên nhiên mùa thu. Bằng cách lấy “cánh quạ đậu” làm hình ảnh trung tâm, ông đã đem đến cho người đọc cảm nhận về sự tang thương, buồn bã. Để tô đậm hơn khung cảnh này, ông đặt con quạ vào trong không gian “cành khô” và thời gian “chiều thu”.
Vẻ khô cứng của cành cây kết hợp với chiều thu càng làm tăng thêm vẻ đìu hiu, quanh vắng. Tất cả như bị nhấn chìm trong bầu không khí tĩnh lặng, thiếu sự sống. Bằng thể thơ ba chữ ngắn gọn chỉ với tám âm tiết cùng ngôn từ cô đọng, hàm súc, hình ảnh giàu sức gợi đã khắc họa nỗi u hoài của nhà thơ ở khoảnh khắc chiều tà thu sang.
Phân Tích Thơ Haiku Lớp 10 Kết Nối Tri Thức
Thi pháp haiku của Basho được đặc trưng bởi quan niệm nghệ thuật về con người. Thơ Haiku tỏa ra một góc nhìn mới mẻ, tinh tế, nhạy cảm và sâu sắc về con người, liên quan đến nhiều khía cạnh văn hóa, đặc biệt là thiền định, thẩm mỹ, nhân học và tâm lý học. Tuy nhiên, để truyền tải một quan niệm nghệ thuật mới về con người, thơ Haiku đòi hỏi một kết cấu thẩm mỹ nhất định.
Những chi tiết kể trên thường chỉ xuất hiện như những phần hình ảnh biệt lập với đời sống con người, xã hội và thiên nhiên nhưng giữa chúng lại có mối liên hệ nội tại. Và quan trọng nhất, dòng cuối cùng của mỗi bài thơ thường bộc lộ ý nghĩa mới một cách đầy bất ngờ và thú vị.
Từ đó, ánh sáng tổng thể của toàn bộ bài thơ như một hệ thống nghệ thuật soi sáng thẩm mỹ cho từng chi tiết của bài thơ. Nghĩa là, ảnh hưởng tổng thể của toàn bộ hệ thống tạo ra sự kết nối giữa các chi tiết nghệ thuật và mang đến cho mỗi yếu tố một sắc thái thẩm mỹ riêng.
Vì vậy, vai trò của cấu trúc nghệ thuật là rất quan trọng. Mang đậm chất Thiền tông, thơ haiku của Matsu, chủ yếu có dạng thơ 17 âm tiết, là một bức tranh màu nước với bản chất giàu sức gợi, tạo ra những suy ngẫm về triết học sâu sắc và những giá trị tinh thần vượt trội. Tầm nhìn nghệ thuật về thế giới con người, thiên nhiên và sự kết hợp hài hòa, tự nhiên của vạn vật trong tinh thần thống nhất là đẹp đẽ.
Thơ Haiku đề cao sự huyền bí, tĩnh lặng, nhẹ nhàng và dịu dàng. Để tạo ra những giá trị tư tưởng, thẩm mỹ này, cấu trúc của thơ phải đạt đến mức độ tinh tế, gợi mở, cởi mở. Tiếp cận thơ Haiku dưới hình thức bên ngoài, người đọc thấy đó là một tập hợp những hệ thống ngôn từ giản dị, dân dã. Tuy nhiên, giá trị mà chúng gợi lên lại rất sâu sắc, tạo nên những ẩn dụ có giá trị, soi sáng ý thức, suy nghĩ, cảm xúc của người đọc, dựa trên mối liên hệ giữa các yếu tố trong hệ thống.
Các khía cạnh thơ ca trong thơ Haiku của Baso nói riêng và thơ Haiku nói chung không phức tạp cũng không cầu kỳ. Người đọc cảm giác như nhà thơ không mấy nỗ lực trong việc cấu trúc câu cũng như kỹ thuật làm thơ. Từ ngữ, chi tiết trong thơ thường đơn giản, giàu sức gợi hơn là miêu tả.
Nhưng để thơ thực sự có giá trị và nhiều tầng ý nghĩa thì quan niệm, tầm nhìn nghệ thuật của nhà thơ phải mới mẻ, giàu tính nghiên cứu, sáng tạo, khám phá những chân lý mới. Đặc biệt, kết cấu luôn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên giá trị tư tưởng và thẩm mỹ cho một bài thơ.
Đọc thêm 🌸 Phân Tích Bài Thơ Chút Tình Đầu 🌸 ngoài phân tích thơ Haiku