Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh (14+ Bài Văn Hay Nhất)

Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh ❤️️ 14+ Bài Văn Hay Nhất ✅ Gợi Ý Cho Bạn Đọc Tuyển Tập Văn Mẫu Đặc Sắc Để Có Thể Tham Khảo.

Cách Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh

Bài thơ Hương Sơn Phong Cảnh của Chu Mạnh Trinh là một bài thơ hát nói, hát ả đào, miêu tả vẻ đẹp của dãy núi Hương Sơn, nơi có chùa Hương nổi tiếng. Bài thơ gồm 19 câu, được chia thành 3 phần: phần đề, phần thực, phần luận.

Để phân tích bài thơ, bạn có thể theo 4 bước sau:

  1. Xác định ý chính của bài thơ: bài thơ nói về cảnh đẹp và tâm trạng của người du khách khi đến Hương Sơn, thể hiện tình yêu thiên nhiên và quê hương của tác giả.
  2. Xác định bố cục của bài thơ: bài thơ có thể được chia thành các phần nhỏ, theo nội dung, hình ảnh, tâm trạng, v.v. Ví dụ, bài thơ Hương Sơn Phong Cảnh có thể được chia thành 3 phần: phần đề (4 câu đầu), phần thực (10 câu giữa), phần luận (5 câu cuối).
  3. Phân tích nội dung bài thơ: bài thơ nói về điều gì, tác giả muốn truyền đạt điều gì, có những ý nghĩa nào. Ví dụ, bài thơ Hương Sơn Phong Cảnh nói về cảnh đẹp của Hương Sơn, với những hình ảnh đặc trưng như trời xanh, cần trúc, nước biếc, khói phủ, song thưa, trăng vào, hoa năm ngoái, tiếng ngỗng nước. Bài thơ cũng nói về tâm trạng của người du khách, khi anh cảm thấy vui mừng, say mê, nhớ nhung, u hoài, khiêm tốn, kính trọng. Bài thơ có những ý nghĩa về sự thanh cao, lãng mạn, nhớ nhung, u hoài, khiêm nhường, kính trọng, v.v.
  4. Phân tích nghệ thuật bài thơ: bài thơ sử dụng những phương thức biểu đạt nào, có những phép tu từ nào, có những ưu điểm và nhược điểm nào. Ví dụ, bài thơ Hương Sơn Phong Cảnh sử dụng thể hát nói, hát ả đào, có những phép tu từ như ẩn dụ, so sánh, liên tưởng, đồng âm, đồng điệu, v.v. Bài thơ có ưu điểm về sự đối xứng, hài hòa, thanh thoát, giàu cảm xúc, có nhược điểm về sự khó hiểu, thiếu sức sống, v.v.

Ngoài ra để phân tích bài Hương Sơn Phong Cảnh một cách logic và đầy đủ ý bạn cần nắm được ý chính của bài dưới đây:

  • Chùa Hương, Là danh lam thắng cảnh số một của nước Nam. Cảnh như có hồn, nhuốm màu Phật giáo. Câu thơ giàu chất hội họa, cảm hứng thấm mĩ, gây sự ngỡ ngàng, thể hiện lòng yêu thiên nhiên và lòng tự hào về Nam thiên đệ nhất động của tác giả. Nỗi lòng của du khách xúc động thành kính. Càng xa càng lưu luyến mê say.

Tiếp theo là tìm hiểu về phần bố cục của bài thơ chia thành 3 phần:

  • Phần 1 (Bốn câu đầu): Giới thiệu khái quát cảnh Hương Sơn.
  • Phần 2 (Mười câu giữa): Tả cảnh Hương Sơn.
  • Phần 3 (Năm câu cuối): Suy niệm của tác giả.

Cuối cùng là lập dàn ý chi tiết trước khi triển khai bài văn, hãy cùng tham khảo ngay dàn ý trong phần tiếp theo sau đây nhé!

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Nhớ Con Sông Quê Hương 🍀 ngắn hay

Dàn Ý Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh

Chia sẻ đến bạn dàn ý Hương Sơn Phong Cảnh chi tiết sau đây.

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả Chu Mạnh Trinh và bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca, một trong những tác phẩm có giá trị nhất miêu tả vẻ đẹp của dãy núi Hương Sơn.

2. Thân bài

– 4 câu thơ đầu: Bầu trời cảnh Bụt.

Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây,
“Đệ nhất động” hỏi là đây có phải?

+ Vẻ đẹp chốn bồng lai tiên cảnh, núi non hùng vĩ, mây trời bảng lảng, sông nước mênh mông, một vẻ đẹp siêu thực mà con người ao ước bấy lâu được diện kiến.
+ Câu thơ hỏi khẳng định vẻ đẹp “đệ nhất động”, hang động đẹp nhất

– 12 câu thơ tiếp theo: Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,

”Lững lờ khe Yến cá nghe kinh.

Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt.”

+ Từng khung cảnh, từng sự vật đều mang không khí thần tiên mà không kém phần hùng vĩ. Suối dẫn tới chùa, hang nối tiếp động, hệ thống núi nước được thiên nhiên ban tặng có một không hai.
+ Trong cảm xúc choáng ngợp về khung cảnh Hương Sơn, tác giả bày tỏ tình yêu và lòng ngưỡng mộ đối với quê hương, đất nước.

– 3 câu thơ cuối: Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật;

Cửa từ bi công đức biết là bao!
Càng trông phong cảnh càng yêu.

+ Màu sắc linh thiêng và kì bí của Phật pháp → Người đọc cảm nhận được sự giao thoa và hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, không chỉ có núi non nước ngự trị mà còn có cả đình chùa do con người xây dựng, lòng hướng Phật do con người truyền bá.

3. Kết bài: Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, vẻ đẹp nước non phong cảnh hữu tình của cảnh sắc Hương Sơn.

Sơ Đồ Tư Duy Hương Sơn Phong Cảnh

Cùng tham khảo ngay mẫu sơ đồ tư duy bài Hương Sơn Phong Cảnh sau đây nhé!

Sơ Đồ Tư Duy Bài Ca Phong Cảnh Hương Sơn Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Bài Ca Phong Cảnh Hương Sơn Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Phân Tích Bài Ca Phong Cảnh Hương Sơn
Sơ Đồ Tư Duy Phân Tích Bài Ca Phong Cảnh Hương Sơn

Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh 4 Câu Đầu – Mẫu 1

Bài mẫu phân tích Hương Sơn Phong Cảnh 4 câu đầu được rất nhiều bạn đọc quan tâm và chia sẻ.

Hương Sơn là dãy núi ớ huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây. Trên núi là quần thể những suối, chùa, am, động, trong đó có chùa Hương thờ Phật Bà Quan Thế Âm. Tương truyền, khi chúa Trịnh Sâm đến nơi đây đã khắc vào vách đá cửa động Hương Tích dòng chữ “Nam thiên đệ nhất động”, nghĩa là động đẹp nhất trời Nam.

Bài thơ được kết cấu theo thế hát nói song người đọc cùng dễ dàng nhận ra diễn biến tâm trạng của thi nhân thể hiện trong tác phẩm, đi từ ấn tượng chung về cảnh Hương Sơn đến tả thực cảnh đẹp và cuối cùng là những suy nghĩ về giang sơn đất nước. Bài thơ mở đâu với 4 câu:

Bầu trời cánh Bụt.
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.
Kìa non non, nước nước, mây mây,
“Đệ nhất động” hỏi là đây có phải?

“Bầu trời cánh Bụt”, bốn từ đã gợi cho người đọc cảm giác đến một nơi thần tiên thoát tục, không gian mênh mông thanh khiết.

Hương Sơn đẹp còn bởi khung cảnh hùng vĩ của núi non trùng điệp. Nhịp 2/2 và điệp từ non non, nước nước, mây mây, như bày ra một quần thể núi non sông nước hang động trập trùng, vốn là nét độc đáo của nơi này.

– Giọng điệu câu thơ thể hiện vẻ ngạc nhiên thích thú, niềm sung sướng thoả mãn khi được đến một nơi nổi tiếng:
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.
“Đệ nhất động” hỏi lờ đây có phải?
Câu hỏi và cách nhắc lại lời người xưa để khẳng định một lần nữa vẻ đẹp của Hương Sơn.

Chỉ với bốn câu thơ, tác giả đã mang đến cho người đọc niềm thú vị trước một nơi vừa thanh cao mang màu sắc tôn giáo, vừa là một thắng cảnh đẹp của đất nước. Người ngắm cảnh không chỉ là tín đồ hành hương mà còn là du khách yêu cảnh thiên nhiên, yêu đất nước, một thi nhân dào dạt cảm xúc. Bốn câu thơ đầu giới thiệu về cảnh và người vừa tự nhiên vừa khéo léo.

Chu Mạnh Trinh là nhà thơ lớn ở cuối thế kỉ XIX, nổi tiếng tài hoa, giỏi cả cầm kì thi hoạ, nhất là nghệ thuật kiến trúc. Chuyện kể lại, quan án Chu làm quan mà chẳng mấy để tâm đến xét xử, chỉ thích rong chơi đến cảnh đẹp của đất nước. Con người và tài năng ấy đã in dấu khá rõ trong bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca.

Đừng vội bỏ lỡ mẫu bài 🔻 Phân Tích Nắng Đã Hanh Rồi 🔻đặc sắc

Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh Ngắn Nhất – Mẫu 2

Đón đọc bài phân tích Hương Sơn Phong Cảnh ngắn nhất dưới đây để có thêm tư liệu ôn tập.

Chu Mạnh Trinh (1862-1905) đậu tiến sĩ, nổi danh tài hoa phong nhà văn chương lỗi lạc, âm nhạc, hội họa, kiến trúc đều tinh thông. Chu Mạnh Trinh là người vẽ kiểu, trùng tu chùa Thiên Trù ở Hương Sơn. Thi sĩ Xuân Diệu đã xếp Chu Mạnh Trinh vào hàng ngũ những tao nhân – tài tử – tài tình trong nền văn học Việt Nam thời cận đại.

Hương Sơn thuộc huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây, một vùng sơn thuỷ hữu tình có động Hương Tích với nhiều chùa chiền tuyệt đẹp, được coi là “Nam thiên đệ nhất động”. Hội chùa Hương là một lễ hội lớn nhất ở miền Bắc nước ta, kéo dài từ tháng giêng đến tháng ba âm lịch hàng năm, có ngày đông tới hàng vạn người. Thám hoa Vũ Phạm Hàm đã từng viết:

Người tai mắt kẻ nhân gian,
Ai chẳng đến Hương Sơn thì cùng tục.

(Hương Sơn phong cảnh)

Lễ hội nói chung, hội chùa Hương nói riêng thể hiện bản sắc vãn hóa dân gian Việt Nam vô cùng phong phú. Cảnh Hương Sơn vốn đã được chúa Trịnh Sâm ngợi ca là Nam thiên đệ nhất động. Đó là một niềm thiên nhiên kì thú hữu tình.

Bài thơ của Chu Mạnh Trinh giúp chúng ta chiếm lĩnh vẻ đẹp hồn thiêng núi sông. Thơ nên họa nên nhạc cho thấy chất tài hoa nghệ sĩ của Chu Mạnh Trinh. Bài thơ đã làm đẹp làm phong phú thể ca trù – hát nói của dân tộc. Có đi lễ hội chùa Hương mới thấy hết cái hay của bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca.

Có được nếm vị chua giòn mơ Hương Tích, có được ăn rau sắng chùa Hương ta mới yêu hơn nhiều lần Hương Sơn, mới thêm tự hào vẻ đẹp thiên nhiên đất nước. Đất nước ta không chỉ có Hương Sơn mà còn có trăm sông nghìn núi tráng lệ, bao thắng cảnh kì quan. Hãy làm cho đất nước mãi mãi thanh bình, nhân dân được sống yên vui trong những mùa xuân tưng bừng lễ hội…

Gợi ý thêm bài 👉 Phân Tích Câu Cá Mùa Thu ❤️️ đặc sắc

Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh Nâng Cao – Mẫu 3

Xem thêm bài mẫu phân tích Hương Sơn Phong Cảnh nâng cao để ôn tập thật tốt cho kì thi nhé!

Chu Mạnh Trinh (1862-1905) là một viên quan dưới triều Nguyễn, là người tài hoa, lại giỏi làm thơ Nôm, hơn thế nữa còn rất am hiểu kiến trúc. Hương Sơn là một là một quần thể kiến trúc và thắng cảnh nổi tiếng ở huyện Mỹ Đức, Hà Nội, hằng năm thu hút biết bao nhiêu du khách ghé lại thăm quan vãn cảnh.

Chính vì phong cảnh duy mỹ của Hương Sơn, mà trong lần tham gia trùng tu chùa Thiên Trù thuộc quần thể này, Chu Mạnh Trinh đã hết lời khen ngợi, thưởng thức mà viết nên bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca hay còn gọi là bài ca phong cảnh Hương Sơn.

Mở đầu bài thơ là một câu thơ bao quát khung cảnh Hương Sơn nghe có vẻ lạ:

“Bầu trời cảnh Bụt”

Sao lại là “cảnh Bụt” mà chẳng phải một thứ cảnh núi non, nước biếc nào khác, ấy là vì tác giả đang đứng trước một phong cảnh mà nơi ấy là chốn tâm linh Phật giáo thật linh thiêng, tác giả đứng giữa đất Hương Sơn mà tưởng như phía trên có thần phật đang chiếu xuống khắp núi rừng quang cảnh.

Bốn câu thơ:

“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
Vẳng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”

Gợi cho chúng ta liên tưởng đến sự tĩnh lặng và khoan thai của cảnh vật nơi đây, chim thì “thỏ thẻ” nhẹ nhàng vờn hoa trái, chay tịnh, dòng nước “lững lờ” trôi bình lặng, cá cũng chẳng tung tẩy trong dòng nước mà lại lặng lẽ “nghe kinh”. Khách đến viếng thăm như lạc vào nơi chốn Bồng lai tiên cảnh, lòng ngẫm nghĩ về thế sự đổi thay, rồi chỉ một “tiếng chày kình” văng vẳng đâu đây cũng làm bừng tỉnh đại mộng, khách vãng lai bỗng như được giác ngộ.

Trải qua bao trầm luân thế sự, nhưng chỉ một tiếng chuông nơi cửa phật cũng đủ để “Thương hải biến vi tang điền” – Biển xanh cuối cùng cũng nương dâu, những gì là chấp niệm cuối cùng cũng được rũ bỏ nhờ chốn linh thiêng đầy sinh khí tươi đẹp này.

Trong những câu thơ tiếp bức tranh phong cảnh Hương Sơn được tác giã vẽ nên một cách thật tinh tế, vừa mang cái tình cái hồn thổi vào cảnh vật, khiến cho mọi thứ trở nên sinh động, trong trẻo đến lạ thường. Tưởng như nơi đây là chốn ở của thần tiên thoát tục, rời xa khỏi chốn hồng trần hỗn tạp, để tìm kiếm sự thanh tịnh, khoáng đạt, yên ổn nơi tâm hồn.

Và những vị khách du ngoạn đến đây hành hương, thưởng ngoạn cảnh đẹp cốt là để lấy cái thanh tịnh từ sâu trong tâm hồn, để được thư giã thoải mái với một tấm lòng đầy thành kính dưới chân Phật, bưới cảnh Bụt.

“Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quynh
Nhác trông lên ai khéo họa hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây”

Những câu thơ chỉ đơn giản là liệt kê những địa điểm nổi tiếng nằm trong quần thể Hương Sơn, nhưng lại nhấn một chút ở vài chữ “ai khéo họa hình”, chính tỏ phong cảnh Hương Sơn phải tuyệt mỹ lắm, tựa như được người họa sĩ khéo léo vẽ lên. Và đỉnh cao sự khen ngợi đó là câu “Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”, đá mà lại có thể mịn màng xinh đẹp như gấm dệt long lanh.

“Chừng giang sơn còn đợi ai đây
Hay tạo hóa khéo ra tay sắp đặt
Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao
Càng trông phong cảnh càng yêu”

Có thể thấy, đứng giữa khung cảnh chốn linh thiêng, non nước hữu tình, trong tâm hồn của tác giả đã có những nỗi niềm mới bén rễ trong lòng.Tiếng chuông chùa văng vẳng từ xa, bỗng đánh thức người thi nhân từ trong mộng mị và thi nhân muốn một phút quên đi tạp niệm hồng trần mà bước vào cửa từ bi ăn chay niệm phật, tích chút công đức cho đời.

Hương Sơn quả thực có sức hấp dẫn không thể chối từ, đi từ cái không khí thanh tịnh, chan hòa giữa thiên nhiên và Phật giáo, giữa hương khói và tâm hồn người khách vãng du.

Thi nhân hoàn toàn cảm nhận được vẻ đẹp của chốn Hương Sơn xinh đẹp bằng một tâm hồn thanh tịnh, rũ bỏ sạch bụi trần, để bản thân hoàn toàn chìm đắm vào cảnh sắc mà cảm nhận linh khí nơi thiền tu trầm tĩnh. Như vậy, những câu thơ với từ ngữ trong sáng vừa khẳng định vẻ đẹp của Hương Sơn vừa thể hiện lòng ngưỡng mộ của tác giả trước phong cảnh duy mỹ, đồng thời cũng thể hiện lòng yêu quê hương đất nước đầy sâu kín trong tâm hồn tác giả.

Gợi ý cho bạn 🌹 Phân Tích Bài Ca Huế Trên Sông Hương 🌹 ấn tượng

Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh Chi Tiết – Mẫu 4

Tìm đọc thêm bài mẫu phân tích Hương Sơn Phong Cảnh chi tiết được SCR.VN sưu tầm dưới đây nhé!

Chu Mạnh Trinh sinh năm 1862, mất năm 1905. Tự là Cán Thần, hiệu là Trúc Vân, quê làng Phú Thị, huyện Mễ Sở, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu (nay là Mễ Sở, huyện Văn Giang) tỉnh Hưng Yên. Ông là người tài hoa, thạo đủ cầm, kì, thi, họa, lại giỏi cả nghệ thuật kiến trúc, và đặc biệt say mê cảnh đẹp.

Chính cái lòng yêu cảnh đẹp kết hợp với tài hoa của tâm hồn thi sĩ đã kết tinh thành những áng thiên cổ kỳ bút mãi còn tỏa sắc hương nơi hậu thế. Một trong số đó là áng thơ “Hương Sơn phong cảnh”.

Hương Sơn phong cảnh là một trong ba bài thơ được Chu Mạnh Trinh viết vào dịp ông đứng trông coi việc trùng tu tôn tạo quần thể thắng cảnh Hương Sơn. Bài thơ viết theo thể hát nói. 19 câu thơ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên xinh đẹp và nên thơ về phong cảnh Hương Sơn.

Đây là một bài thơ vịnh cảnh và thể hiện tâm sự. Không chỉ vẽ cảnh đẹp, mà còn vẽ lòng người, đó là tâm sự yêu nước, tự hào với cảnh đẹp quê hương đất nước của nhà thơ.

Bốn câu thơ đầu giới thiệu bao quát toàn cảnh Hương Sơn và trực tiếp nêu cái thú ban đầu khi đến với Hương Sơn của tác giả:

“Bầu trời, cảnh bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?”

Qua 2 câu thơ đầu, Chu Mạnh Trinh đã khái quát cảnh sắc Hương Sơn bằng một nhận xét tinh tế: vừa là danh lam thắng cảnh do tạo hoá ban tặng vừa là công trình tôn giáo. Thể hát nói tạo nên tính nhạc du dương, cảnh đẹp thiên nhiên đượm mùi Thiền, được miêu tả và cảm nhận qua tâm hồn nghệ sĩ tài hoa là nét đặc sắc của bài thơ này.

Phong cảnh Hương Sơn được tả từ xa trong tầm mắt của du khách. Giọng thơ trang trọng, từ điệu khoan thai thể hiện du khách vừa đi vừa đứng lại ngắm cảnh và suy ngẫm. Một thiên nhiên mênh mông chan hòa với màu sắc Phật giáo. Hương Sơn là thiên tạo nhưng cũng là cảnh Bụt đã và đang vẫy gọi người đời. Đi lễ hội chùa Hương là thú vui, là niềm ước ao bấy lâu nay của nhiều người.

Ba khổ tiếp theo miêu tả cảnh đẹp cụ thể của Hương Sơn. Khổ thơ tiếp theo trong bài hát nói gọi là khổ giữa, nhà thơ nói về suối, rừng và tiếng chuông chùa. Ba chi tiết nghệ thuật này đều tô đậm nét đặc trưng của Hương Sơn.

Rừng là rừng Mai với trái mơ đặc sản của chùa Hương. Tiếng chim hót thỏ thẻ – chậm rãi, nỉ non – gọi bầy tìm bạn, kết đôi. Bầy chim trời vừa hót vừa mổ trái mơ. Hình ảnh chim cùng trái là nét vẽ độc đáo, tài hoa. Bầy chim mổ trái mơ như khách hàng hương đứng dưới mái chùa cổ trong hang động đang khom lưng khấn vái trước mâm ngũ quả dâng trên bàn thờ Phật.

Suối ở đây là suối Yến. Chơi chùa Hương ai cũng phải đi đò dọc bến Đục suối Yến? Đàn cá nơi suối Yến lững lờ bơi từ từ thong thả – như đang cùng du khách thưởng ngoạn cảnh trí.

Cảnh vật nhuốm màu sắc của Phật giáo. Những loài chim cá dường như cũng hoà cùng không khí thần tiên. Cá bơi lững lờ như để nghe những bài thuyết pháp của đức Phật, ở đây, cảm hứng tôn giáo không mang màu sắc mê tín dị đoan mà là nhu cầu về mặt tinh thần mang tính tâm linh trong tâm hồn một thi sĩ tài hoa. Khách vãn cảnh Hương Sơn khi nghe tiếng chuông chùa cũng phải thảng thốt:

Vẳng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.

Khách hành hương như trút đi bao nỗi ưu phiền trong cuộc đời tang hải – bể dâu – đầy biến động, nhọc nhằn. Tiếng chuông như ru hồn khách tang hải, giật mình trong khoảnh khắc chìm sâu hơn vào giấc mộng diệu huyền: Thoảng bên tai một tiếng chày kình / Khách tang hải giật mình trong giấc mộng. Câu thơ cho ta nhiều thú vị về nhạc điệu du dương.

Hai thanh bằng có K âm vang ngân nga, ngọt ngào vần với nhau: kình – mình tạo nên nhạc điệu, âm hưởng trầm bổng của vần thơ. Chỉ một tiếng chày kình êm ái trầm bổng nơi chùa Hương cũng đủ rửa sạch bụi trần làm thanh thản, thảnh thơi tâm hồn khách tang hải.

Chu Mạnh Trinh không chỉ tạo nên những vần thơ có nhạc có họa khi tả chim, tả cá, tả tiếng chuông chùa mà còn thể hiện sự kì diệu của hồn cảnh vật Hương Sơn Nam thiên đệ nhất động.

Hai khổ thơ 3 và 4 tiếp theo là hai khổ đầu của bài hát nói. Hương Sơn có biết bao cảnh đẹp nên thi sĩ phải sử dụng khổ dôi để diễn tả cảm xúc và miêu tả cảnh vật. Du khách như đi dần vào thế giới Hương Sơn, nơi bầu trời cảnh Bụt.

Chừng giang sơn còn đợi ai đây,
Hãy tạo vật khéo ra tay xếp đặt”.

Con người đã tìm thấy niềm vui trong thiên nhiên, thiên nhiên cũng như hòa quyện vào con người, con người lại càng góp phần điểm tô cho thiên nhiên, cảnh sắc. Vậy mới nói vậy thật mà ảo mộng như cõi tiên, tuy đẹp như chốn bồng lai mà lại chân thực, bình dị đến từng lá cây, ngọn cỏ!. Bởi thế mới nhớ, mới lại càng yêu. Tình yêu thiên nhiên cũng là tình yêu quê hương đất nước.

Trong những câu thơ trên, tác giả đã viết: ai khéo vẽ hình, đến đây lại nói: hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt. Phải tìm hiểu lịch sử, phải biết Chu Mạnh Trinh là người từng đem tiền của, công sức, tài năng ra trùng tu chùa Thiên Trù, tạc tượng đúc chuông… mới cảm nhận được một chữ” ai” đáng tự hào kín đáo đã hai lần xuất hiện trong bài thơ này.

Ba câu cuối gọi là khổ xếp của bài hát nói. Câu cuối chỉ có sáu từ gọi là câu keo. Luật thơ đã qui định chặt chẽ như vậy. Không gian nghệ thuật được miêu tả theo bước chân xa dần của khách tang hải.

Khách tang hải vừa chậm rãi đi vừa ngắm cảnh, tay lần tràng hạt miệng nam mô, lưu luyến chẳng muốn rời, đến mức phải thốt lên: “càng trông phong cảnh càng yêu!” Cách nói mới hồn nhiên làm sao, mới chân thật làm sao! giản dị nhưng giàu chất biểu cảm:

“Lần tràng hạt niệm nam mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao!
Càng trông phong cảnh càng yêu”

Không khí thành kính trang nghiêm phủ lên hai câu thơ trước, khiến người đọc càng thấy chân thật như đang thấy được hình ảnh một đoàn khách thập phương vừa đi vừa niệm nam mo, tay lần tràng hạt, tĩnh tâm theo tiếng chuông chùa, nổi bật giữa bạt ngàn hương sắc Hương Sơn huyền ảo.

Câu thơ cuối như một tiếng thổ lộ, lại vừa giống một tiếng reo cảm thán. Qua đó không chỉ nâng cao vẻ đẹp hoàn mỹ của phong cảnh Hương Sơn, mà còn bộc lộ được tình yêu, niềm tự hào dân tộc của “con rồng cháu tiên” với non sông gấm vóc.

“Hương Sơn phong cảnh” là một trong những tác phẩm hay nhất viết về đề tài cảnh sắc thiên nhiên. Đặc biệt, ở bài thơ này, không những chỉ vẽ lên bức tranh danh lam thắng cảnh đẹp tựa chốn bồng lai bao người mơ ước, mà còn khéo léo thể hiện lòng yêu thiên nhiên, yêu non sông đất nước, tự hào, tự tôn dân tộc của Chu Mạnh Trinh.

Cảnh thiên nhiên đẹp hài hòa khi kết hợp với bàn tay của con người, sự xuất hiện của con người. Con người đứng giữa thiên nhiên đẹp kỳ vĩ mà vẫn không hề thấy xa lạ, choáng ngợp. Hơn nữa còn qua đó mà càng thêm yêu, càng thêm muốn cống hiến, muốn giữ gìn. Quả là một bài thơ vừa đẹp, lại vừa hay!

Đón đọc mẫu 🌼 Phân Tích Hai Đứa Trẻ 🌼 của Thạch Lam

Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh Chọn Lọc – Mẫu 5

Gợi ý cho bạn đọc bài mẫu phân tích Hương Sơn Phong Cảnh chọn lọc được nhiều bạn đọc yêu thích dưới đây.

Chu Mạnh Trinh là một nhà nho tài tử sống ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, đây cũng là thời kì mà xã hội Việt Nam có rất nhiều biến loạn, tang thương. Mặt khác, ông thuộc dòng dõi có truyền thống về văn chương nên những chiêm nghiệm thực tiễn, những điều mắt thấy tai nghe cùng với tài năng văn chương thiên phú đã để lại trong thơ văn của Chu Mạnh Trinh nhiều dấu ấn mang đặc trưng, cá tính riêng biệt của nhà thơ.

Bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” là một trong những tác phẩm thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Chu Mạnh Trinh, bài thơ thể hiện được cảnh sắc tươi đẹp của một địa danh nổi tiếng – Hương Sơn, đây cũng là địa danh gắn liền với loại hình tôn giáo – Phật giáo.

Vì vậy qua bài thơ này, nhà thơ vừa thể hiện được sự tự hào trước cảnh đẹp của non sông, gấm vóc mà còn thể hiện được một cảm xúc trào dâng khi có dịp đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng, tươi đẹp mà mình luôn muốn đến đấy.

“Bầu trời, cảnh bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?”

Ngay trong khổ thơ đầu tiên, nhà thơ Chu Mạnh Trinh đã vẽ ra một khung cảnh rộng lớn, tươi đẹp của địa danh Hương Sơn, đồng thời nhà thơ cũng thể hiện được sự choáng ngợp trong cảm giác và tâm trạng náo nức, hân hoan của mình khi đến được địa danh mà mình hằng ngưỡng mộ, mong muốn một lần có thể đặt chân đến. “Bầu trời, cảnh bụt”, câu thơ vô cùng ngắn gọn nhưng lại diễn đạt được cái dạt dào của cảm xúc.

Khung cảnh Hương Sơn mở ra trước mắt, nhà thơ như nghẹn ngào, không nói lên lời mà chỉ thể hiện qua sự cảm thán, tuy nhiên qua sự cảm thán đó người đọc cũng bước đầu có những hình dung đầu tiên về địa danh này.

Trước cảnh sắc của Hương Sơn, Chu Mạnh Trinh dâng lên cảm xúc choáng ngợp, xúc động, nhà thơ xúc động trước cái đẹp của non sông, cái đẹp của tạo hóa đã ban tặng cho địa danh này “Kìa non non, nước nước, mây mây”, đó là khung cảnh rộng lớn của non nước, trời mây.

Và trong cách đánh giá của nhà thơ thì Hương Sơn chính là “đệ nhất động”, Việt Nam là đất nước nhiều đồi núi nên những hang động đẹp không thiếu nhưng Hương Sơn là động đẹp nhất, sự cảm thán của nhà thơ đầy chân thành, tha thiết, đó chính là sự rung cảm trước cái đẹp, cảnh đẹp.

“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lửng lơ khe yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”

Từ cái nhìn bao quát, khách quan của nhà thơ về địa danh Hương Sơn thì đến những khổ thơ tiếp theo nhà thơ trình bày một cách cụ thể những cảnh sắc khiến cho nhà thơ xao xuyến, xúc động. Đó chính là không gian của rừng mai “Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái”, câu thơ vừa gợi ra hình ảnh, đối tượng cụ thể là rừng mai, chim mà còn gợi ra âm thanh phát ra từ khu rừng ấy, là tiếng chim thỏ thẻ.

“Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Chập chờn mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt??

Hang đá Hương Sơn không chỉ đẹp bởi sự điểm xuyết của những viên đá ngũ sắc, không chỉ ở những hình thù độc đáo, kì dị mà còn có sự giao lưu với thế giới bên ngoài, tuy là hang nhưng sự thông thoáng của mặt hang còn làm cho ánh trăng chiếu rọi “Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt”, và dưới ánh trăng ấy, cảnh vật không tồn tại độc lập mà nó đan lồng với ánh trăng, tạo nên một vẻ đẹp độc đáo.

Những lối vào, đường đi vào hang cũng không phải những con đường thẳng tắp mà là những lối đi uốn khúc, mà trong cảm nhận của nhà thơ thì nó như một lối uốn thang mây “Chập chờn mấy lối uốn thang mây”.

“Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao
Càng trông phong cảnh càng yêu”

Câu thơ đã chuyển đổi cảm nhận của nhà thơ từ sự cảm nhận vẻ đẹp của non sông gấm vóc sang sự chiêm nghiệm sự màu nghiệm của Phật Pháp “Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật”, câu thơ gợi cho chúng ta liên tưởng về hình ảnh của chính nhà thơ khi thành tâm cầu khấn, với chuỗi hạt và miệng thì niệm Nam mô Phật đầy thành kính, gợi ra không khí thật linh thiêng.

Và xuất hiện nơi đây không chỉ có nhà thơ, những con người đam mê với vẻ đẹp của non sông gấm vóc mà còn là những tín đồ của Phật giáo ở khắp nơi đổ về thể hiện lòng thành kính, thiện nguyện, cầu mong những điều kì diệu đến với cuộc sống của mình, vì vậy những từ bi, công đức không sao kể xiết “Cửa từ bi công đức biết là bao”.

Vẻ đẹp của tự nhiên hòa quyện cùng với vẻ đẹp của văn hóa, tín ngưỡng đã làm cho Hương Sơn mang vẻ đẹp độc đáo, đặc trưng riêng biệt.

Như vậy, bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” của nhà thơ Chu Mạnh Trinh đã phác họa ra một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp về địa danh Hương Sơn, bức tranh ấy không chỉ sống động về màu sắc mà còn chân thực về âm thanh, và điều đặc biệt nữa là tràn đầy cảm xúc thiết tha, say đắm của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đây là niềm đam mê đầy chất nghệ sĩ của một hồn thơ đa cảm.

Và trong bức tranh này không chỉ có cảnh sắc mà còn thiêng liêng hơn nữa đó chính là văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng được duy trì từ bao đời nay trên địa danh này.

Giới thiệu tuyển tập 🌻 Phân Tích Bài Thơ Quê Hương  🌻Của Tế Hanh

Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh Ấn Tượng – Mẫu 6

Dưới đây là bài văn phân tích Hương Sơn Phong Cảnh ấn tượng nhất, cùng tham khảo nhé!

Hương Sơn được vào hàng “Nam thiên đệ nhất động”. Còn Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh cũng đáng là một áng thơ long lanh như gấm dệt. Có thể gọi là “Hương Sơn đệ nhất thi” được chứ sao? Thơ ca và thắng cảnh đâu phải lúc nào cũng được đẹp duyên như thế!

Phải nói ngay rằng âm nhạc đã góp phần tạo nên vẻ đẹp quyến rũ của bài thơ này. Bình thường, bài thơ chân chính nào cũng có một nền nhạc riêng của nó, cho dù nó được viết lối tự do hay theo cách luật. Nhưng khi một thi sĩ lại chủ động viết theo thể hát nói, thì rõ ràng nhạc điệu (gồm cả của âm nhạc lân của ngôn ngữ) càng muốn giành lấy địa vị tiên phong.

Có thế thấy khá rõ lời thơ chập chờn, chấp chới bay trong nhịp điệu, còn nhạc điệu như đang đìu từng lời thơ bay lượn trong cái thế giới trong lành, thanh tịnh của chốn Hương Sơn. Tất cả cứ lâng lâng chơi vơi, cứ khoan hòa dìu dặt như cái nhịp chèo, nhịp bước của du khách càng ngày càng nhập sâu vào lòng cảnh trí thanh vắng, mơ màng, vừa trần gian, vừa thoát tục.

Nếu như đang nghe lời thơ được hát ngâm theo thế thức ca trù, với lối ngàn rung, buông bắt, với tiếng đàn, tiếng phách, tiếng trống điểm nhịp rất riêng thì tất cả giọng ngất ngây, khoan khoái của một tâm hồn đang ân thưởng cái “Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay” càng có dịp tràn ra đầy đủ.

Vâng, chọn hát nói để phô bày những cảm xúc Hương Sơn của mình, dường như hồn thơ của Chu Mạnh Trinh đã gửi mình đúng chỗ. Vậy là thơ và nhạc đã được Hương Tích xe duyên nên thi phẩm này. Chẳng phải đây cũng là một nét duyên nữa của Hương Sơn phong cảnh ca đó ư?

Nếu người nghệ sĩ cảm nhận danh thắng Hương Sơn cũng như Bồng Lai hay Thiên Thai, Từ Thức…, thì xem như chưa bắt được cái “thần” của chốn này. Những nơi kia là cảnh tiên, là chốn mộng mơ tình tứ, hứa hẹn những mối phong tình lãng mạn. Còn Hương Sơn khác! Hương Sơn là cảnh bụt, là nơi du khách tìm đến văn cảnh nhưng cũng để hành hương.

Con người đến đây để thưởng ngoạn một danh lam, nhưng cũng là một dịp dọn lòng khỏi những tục lụy để mà thanh lọc tâm hồn, thanh thản tâm linh. Vì thế, thắng cảnh Hương Sơn thơ mộng mà linh thiêng, quyến rũ mà thanh tịnh, mĩ lệ nhưng bàng bạc vị thiền. Thi nhân có nhận ra điều đó, mới là thấm canh Hương Sơn. Hồn thơ phải dồi dào sự đắm say nhưng cũng không thể thiếu thành kính.

Có như thế mới đồng điệu được với Hương Sơn. Và may thay, Hương Sơn phong cảnh ca của Trúc Vân Chu Mạnh Trinh đã thu được vào từng lời thơ cái hồn riêng của cảnh.

Bài thơ mở đầu bằng một câu thơ ngắn với bốn tiếng.

Bầu trời cảnh bụt

Toàn bài đều viết bằng những câu dài với 7 hoặc 8 tiếng. Duy có câu mở đầu này là ngắn đặc biệt. Cái hình thức kia đâu phải ngẫu nhiên. Câu thơ vẽ không gian, nhưng vang lên như một vỡ lẽ kì thú của chốn nước non này: Đây là thế giới của cảnh bụt.

Câu thơ bốn tiếng khác nào như mỡ ra một cổng trời, một miền non nước, một thế giới, mà ở trên trán v,m cổng ấy khắc bốn chữ giới thiệu du khách về cái xứ sở sắp bước vào. Kia là thuộc về cảnh bụt. Nó không phải là đất Phật như Tây Trúc, nhưng canh sắc ở đây đều thuộc về bụt, đều ngấm vị thiền.

Phần lớn những nơi được xem là danh thắng đều là chốn sơn thủy hữu tình, có núi non, có rừng suối, với những chim bay, cá lượn. Hương Sơn cũng thế! Nhưng Hương Sơn là cảnh bụt, cho nên:

Thỏ thể rừng mai chim cúng trái,
Lửng lơ khe Yến có nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.

Những âm thanh, dáng diệu ấy tạo nên cái bầu không khí rất Hương Sơn. Chim cúng trái, cá nghe kinh, con người đi vào cảnh thảng thốt với tiếng chày kình… Tất cả đều cời bò hệ lụy trần gian, đang hòa nhập vào không khí linh thiêng. Tại khoảnh khắc ấy cả chim, cả cá, cả người đều dường như đang thoát tục. Làm sao Chu Mạnh Trinh có thể viết được như thế?

Cái sinh khí Hương Sơn vô hình là thế, vậy mà thi nhàn đã thấy nó hiện hình trong tất cả, hòa nhập vào tất cả, hòa tan trong tất cả! Có lẽ chỉ với những hình ảnh như thế thôi, cái thần thái của Hương Sơn đã nhập vào thơ rồi!

Thế rồi, thi sĩ cứ say sưa thưởng ngoạn cảnh Hương Sơn như một tạo tác nguy nga, mĩ lệ của tạo hóa bày ra sống động dưới trời Nam bằng lối kể điểm danh những địa đanh nổi tiếng của Hương Sơn:

Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Vũng
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quỳnh

Những từ “này” để trỏ liên tiếp gợi sự phong phú, gợi thê liên hoàn, lại gợi được cả cái cảm xúc được ân thưởng thỏa thuê. Cảnh sắc thật giàu có, đủ cả suối, chùa, am, động… tất cả cứ như bày đặt ra theo bước du khách. Chu Mạnh Trinh lại kết hợp cả lối tạo hình với những nét vừa mĩ lệ vừa hư huyền, với những màu vừa lộng lẫy vừa cách điệu, với những mảnh vừa trầm tĩnh vừa biến ảo.

Trong dăm ba câu mà ta thấy được con mắt tạo hình của thi sĩ lúc ngây ngất ngước lên, khi mải mê nhìn xuống, vừa nắm bát cái bóng nguyệt lồng trong thăm thẳm tầng hang, đã đuổi theo những thang mây lượn cùng vách núi:

Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngũ sắc Long lanh như gấm dệt.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt.
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.

Với những câu thơ này, du khách đường như đã đặt những bước chân cuối cùng vào chốn Hương Sơn. Tuy nhiên, thú Hương Sơn chưa phải đã hết.

Nếu như tiếng chày kình động tiếng chuông Hương Sơn mới đánh thức người khách tang hải trong cái giấc mộng lớn của cuộc đời, thì đến đây cuộc hành hương mới kết thúc. Ấy là cái khoảnh khắc thi nhân quên mình là thi sĩ để mà sống trong phút giây cái nỗi niềm Phật tử:

Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật,
Cửa từ bi công đức, xiết là bao

Kẻ vãn cảnh đã cởi bỏ lốt tục lấm bụi trần ai để tâm hồn chan hòa với chốn này. Vẻ đẹp của thắng cảnh, vị thiền của danh lam đã hòa nhập kẻ vãn cảnh với người hành hương trong cái trạng thái tâm linh thanh cao và yên tịnh ấy. Sức quyến rũ cuối cùng của Hương Sơn dường như ở đấy!

Tham khảo thêm 🌸 Phân Tích Bài Ca Ngất Ngưỡng 🌸 chi tiết

Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh Sinh Động – Mẫu 7

Tiếp tục bài viết là bài mẫu phân tích Hương Sơn Phong Cảnh sinh động nhất, đừng bỏ lỡ nhé!

Chu Mạnh Trinh sinh 1862 và mất 1905, đỗ Tiến Sĩ 1892. Ông là nhà thơ tài hoa của thơ ca Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Ông thạo đủ cầm, kì, thi hoạ, giỏi về nghệ thuật kiến trúc. Ông có sáng tác thơ về Hương Sơn được đánh giá là hay nhất từ trước đến nay, đặc biệt qua bài: Bài ca phong cảnh Hương Sơn.

Bài hát nói này tương truyền được sáng tác năm 1903, trong dịp Chu Mạnh Trinh trùng tu chùa Thiên Trù ở Chùa Hương. Hương Sơn thường gọi là Chùa Hương là một quần thể thắng cảnh và kiến trúc nổi tiếng của huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây. Chùa Hương được mệnh danh là “Nam thiên đệ nhất động” (Động đẹp nhất trời Nam).

Lễ hội Chùa Hương được tổ chức vào mùa xuân từ tháng giêng đến tháng 3 âm lịch hàng năm. Bài thơ được sáng tác theo thể hát nói. Đó là một điệu của ca trù nên có người gọi chung là ca trù. Hát nói khá phổ biến ở các thế kỉ trước, nhất là ở cuối thế kỉ XVIII, nhưng đến thế kỉ XIX hát nói mới có nhiều thành tựu, gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Công Trứ, Chu Mạnh Trinh,… Từ lâu, chùa Hương đã là một nguồn thơ, nguồn cảm hứng sáng tạo của nhiều nghệ sĩ.

Bầu trời cảnh Bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.
Kìa non non, nước nước, mây mây,
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?

Bốn tiếng trong câu thơ đầu đọc liền nhau, cùng chung một nhịp như những bước chân cuối cùng đưa du khách lên tận đỉnh cao của Hương Sơn. Dừng lại. Đúng là Hương Sơn rồi. Vì đã có dấu hiệu đặc trưng đậm chất Hương Sơn mà không đâu có; đó là cảnh đẹp thiên nhiên hòa hợp trong không khí tâm linh: “Bầu trời cảnh Bụt”.

Cái thú đến với Hương Sơn là đến với “Bầu trời cảnh bụt” là sự ao ước của bao người trong đó có nhà thơ “Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay”. Cảnh vật hiện ra là cảnh của thiên nhiên và cảnh tôn giáo. Lòng ngưỡng mộ với cảnh phật cộng với cảm nhận tinh tế của một nhà thơ, Chu Mạnh Trinh đã bật lên câu hỏi “Đệ nhất động hỏi là đây có phải?”.

Giọng thơ khoan thai, nhẹ nhàng như ru, như mời mọc. Tâm hồn thi sĩ như bâng khuâng, bảng lảng trong tĩnh tại của tâm linh mà vẫn tỉnh táo lạ thường. Con người đến nơi này như rũ sạch mọi thứ phàm tục. Bốn câu thơ đầu tạo cảm xúc cho bài thơ hát nói.

Mười hai câu tiếp theo, tác giả tập trung miêu tả thể hiện những nét đẹp tiêu biểu của Hương Sơn: vẻ đẹp thần tiên siêu thoát, đạm màu thiền và vẻ đẹp kì thú tự nhiên mà hết sức gần gũi đối với con người. Ở khổ thơ thứ 2 tác giả đã chú ý thể hiện hình ảnh của cảnh vật và con người gợi không khí thần tiên

Trong cảm nhận của tác giả, hình ảnh chim ăm trái giống như động tác cúng vái của phật tử. Con cái bơi lững lờ giống như đang chìm đắm vào tiếng kinh niệm Phật. Trong thế giới ấy, các con vật cũng mang dáng dấp của những tín đồ nhà Phật. Ở hai khổ thơ tiếp, tác giả tập trung làm rõ vẻ kì thú tự nhiên mà cũng rất gần gũi thân thuộc của cảnh sắc Hương Sơn:

Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên, ai khéo vẽ hình:
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.

Từ những cảnh sắc của tự nhiên, đất trời, nhà thơ Chu Mạnh Chinh đã liệt kê những địa điểm nổi tiếng của địa danh Hương Sơn, đó chính là suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, am Phật Tích, động Tuyết Quỳnh, đó đều là những địa điểm đẹp, hấp dẫn tạo nên nét đẹp của Hương Sơn. Nhà thơ đã điệp ngữ từ “này” vừa thể hiện được cảm xúc nồng nhiệt đồng thời cũng thể hiện được sự tự hào trước những địa điểm ấy.

Trong các hang động, tạo hóa đã tạo cho Hương Sơn một vẻ đẹp hiếm thấy “Nhác trông lên, ai khéo vẽ hình”, đó là những hình thù độc đáo do bàn tay của tạo hóa chế tác lên, những viên đá thạch nhũ trong những hang động ấy cũng mang vẻ đẹp độc đáo, khác thường “Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”.

Hai câu thơ: “Chừng giang sơn… sắp đặt” là những câu hỏi liên tiếp thể hiện tâm trạng say đắm trước cảnh bầu trời cảnh bụt. Ở đây, tình yêu cảnh Hương Sơn hòa vào với tình yêu lớn: tình yêu giang sơn, tổ quốc. Ca hát Hương Sơn tuyệt mĩ cũng là ca hát Tổ quốc ngàn đời tươi đẹp mà ta yêu. Bài ca kết lại trong sự hòa quyện cảm hứng đầy thành kính, trang nghiêm đối với đạo Phật và cảm hứng yêu quý cảnh đẹp Hương Sơn đến độ mê đắm.

Lần tràng hạt niệm “Nam vô Phật”,
Cửa từ bi công đức biết là bao.
Càng trông phong cảnh càng yêu!

Cảnh vật mang màu sắc tôn giáo (đạo phật) với tất cả tấm lòng ngưỡng mộ trang nghiêm nhưng gắn kết với yêu cái đẹp của thiên nhiên: “Thỏ thẻ rừng mai”, “Lững lờ khe Yến”, “Lồng bóng nguyệt”, “Uốn thang mây”. Lời kết của bài thơ nhưng lại có sức vang ngân tưởng chừng không dứt trong lòng thi nhân.

Nó còn ngân nga mãi trong lòng người đọc xưa, cả hôm nay và mai sau để ngợi ca những con người góp phần làm cho Hương Sơn thêm đẹp, thể hiện tình yêu say đắm đối với non sông đất nước. Sự hòa quyện giữa cảm hứng tôn giáo trang nghiêm này với lòng yêu quê hương đất nước là giá trị nhân bản cao đẹp trong tâm hồn thi nhân. Nó trọn tạo ra sự thanh cao, tinh khiết, lâng lâng của hồn người. Cảm hứng tôn giáo không phải là sự mê tín dị đoan mà là một nhu cầu tinh thần mang tính người của một bút pháp tài hoa.

Hương Sơn phong cảnh ca ghi nhận một bút pháp, một giọng thơ, một năng lực gợi cảm, gợi tình đầy tài hoa của một tấm lòng yêu cái đẹp của thiên nhiên đất nước. Bài thơ đã miêu tả thành công cảnh vật nên thơ, nên hoạ của Hương Sơn. Đồng thời thể hiện sự hòa quyện giữa cảm hứng tôn giáo đầy thành kính, trang nghiêm với tình yêu giang sơn đất nước tươi đẹp.

Giới thiệu đến bạn 🌟 Phân Tích Tức Cảnh Pác Bó 🌟 ngắn gọn

Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh Học Sinh Giỏi – Mẫu 8

Chia sẻ thêm đến bạn đọc mẫu phân tích bài Hương Sơn Phong Cảnh học sinh giỏi dưới đây.

Thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho những nhà văn, nhà thơ thể hiện tài năng và bày tỏ cảm xúc. Đứng trước một khung cảnh đẹp, con người khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp, say đắm, để rồi xuất khẩu thành thơ.

Đối với Chu Mạnh Trinh, cảm xúc ấy được đẩy tới đỉnh điểm khi có dịp thăm thú Hương Sơn, một dãy núi với hệ thống núi nước trùng điệp, phức tạp, được mệnh danh là “Nam thiên đệ nhất động”. Trong ba tác phẩm viết về cảnh non nước hữu tình nơi đây, “Hương Sơn phong cảnh ca” là bài thơ nổi bật và giàu tính miêu tả nhất.

Bài thơ nằm trong bộ tác phẩm viết về Hương Sơn, bao gồm Hương Sơn phong cảnh ca, Hương Sơn Nhật Trình và Hương Sơn hành trình. Điểm độc đáo của Hương Sơn phong cảnh ca là tác giả sử dụng thể thơ nói tự do, không bị bó hẹp trong khuôn khổ lục bát hay Đường luật thông thường. Với tinh thần sảng khoái và sự choáng ngợp trước cảnh thiên nhiên quá đỗi mộng mơ, tác giả thể hiện sự thích thú, đồng thời là sự tôn trọng thiên nhiên và tình yêu tổ quốc thiết tha, dạt dào.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bầu trời trong trẻo, mảng vẻ đẹp chốn thần tiên khiến lòng người xốn xang:

Bầu trời cảnh Bụt.
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây,
“Đệ nhất động” hỏi là đây có phải?

“Cảnh Bụt”, một cách miêu tả rất độc, lạ và sáng tạo. Miêu tả vẻ đẹp đến mức siêu thực của Hương Sơn, tác giả không dùng quá nhiều những từ ngữ mĩ miều. “Cảnh Bụt”, một cảnh đẹp chỉ có ở chốn thiên đình, lại phảng phất sự duy tâm, linh thiêng, tĩnh lặng. Đây chính là Hương Sơn trong truyền thuyết, Hương Sơn mà chúa Trịnh Sâm năm xưa phải trầm trồ tán thưởng, là “ao ước bấy lâu nay” được diện kiến.

Bầu trời cao rộng đưa hồn thơ cất cánh bay bổng, người đọc có thể hình dung sự rộng mở của không gian khiến ta cảm giác như đang bồng bềnh giữa những đám mây. Hòa cùng với cảnh trời ấy là non, là nước, là mây trời. “Kìa non non, nước nước, mây mây”, nước thiếp núi, núi tiếp mây, tất cả sự vật như hòa thành một tổng thể bức tranh, hòa quyện vào nhau như bất tận.

Mười hai câu thơ tiếp theo là mười hai câu thơ tả cảnh dọc theo điểm nhìn quan sát của tác giả. Từng cảnh vật dần hiện lên theo chiếc thuyền xuôi dòng nước:

Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh.

Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt

Tác giả khéo léo sử dụng những thủ pháp nghệ thuật như nhân hóa, đảo ngữ,… nhằm làm khung cảnh trở nên có tình, có hồn. Sống trong đất Phật, ngay cả động vật cũng một lòng hướng thiện. Chim, cá, những con vật thường được dùng để phóng sinh trong những dịp cúng bái tụ hội lại nơi đây, những tính từ “thỏ thẻ, lững lờ” thể hiện sự an nhàn, ung dung.

“Khách tang hải” ở đây được dùng để chỉ những người trần tục, khách vãng lai đến đây tham quan, thưởng ngoạn. Khách phương xa tới đây, gặp cảnh tượng yên bình, tâm hồn nhạy cảm rung động cùng thiên nhiên, bao vấn vương bụi trần đều được gột rửa sạch sẽ, tưởng như đang trong giấc mộng thần tiên. Một tiếng chày kình đánh thức giấc mộng ấy cốt cho thi sĩ nhận ra rằng, cảnh đẹp này không phải trong mơ, cảnh sắc Hương Sơn đang hiển hiện ngay trước mắt.

Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quynh.

Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt.

Suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, hang Phật Tích, động Tuyết Quỳnh, hàng loạt những danh lam thắng cảnh nằm trong quần thể Hương Sơn được tác giả liệt kê lần lượt. Người ta thấy có sự giao hòa của con người và thiên nhiên, nếu tự nhiên ban tặng cho suối, cho hang, cho động thì con người đã biết cách tận dụng cảnh đẹp có một không hai ấy để xây dựng chùa, nơi thờ tự và tu luyện nghiêm trang, thanh khiết.

Từng chi tiết hiện ra thật kì vĩ và sinh động, “đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”, “thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt”, “gập ghềnh mấy lối uốn thang mây”, cả một hệ thống non nước sơn thủy hữu tình trải qua hàng vạn năm hình thành, phát triển. Cái hoang sơ của Hương Sơn được bảo tồn trọn vẹn, lấp lánh của mẹ thiên nhiên, thăm thẳm hun hút những hang động huyền bí, giống như một bức họa trữ tình vẽ cảnh thiên giới hào nhoáng, lộng lẫy.

Hàng loạt từ láy đứng ở đầu câu khiến người đọc hình dung được độ sâu, độ cao và cả sự khó khăn, trắc trở của những vách đá. Dường như, tạo hóa ưu ái Hương Sơn, ban cho Hương Sơn một vẻ đẹp mĩ miều cốt để con người không thể kiềm lòng khi vãn cảnh nơi đây. “Tạo hóa khéo ra tay xếp đặt”, vẻ đẹp siêu thức ấy, không có một vị kiến trúc sư hay cỗ máy nào có thể tái tạo được.

Ngưỡng mộ Hương Sơn, tác giả cũng bày tỏ tình cảm với quê hương, đất nước một cách tế nhị, khéo léo. “Chừng giang sơn còn đợi ai đây”, giang sơn gấm vóc tươi đẹp nhường ấy cần những người hiền tài bảo vệ và phát triển.

Đứng trước cảnh sắc mĩ lệ như vậy, trong không gian ấy, văng vẳng tiếng niệm “Nam mô Phật” của những vị thiền sư đức hạnh, độ lượng.

Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao!
Càng trông phong cảnh càng yêu.

Không khí thần tiên là nơi để tu tập, để giũ bỏ tham sân si của cuộc sống trần gian, thả trôi tâm hồn về miền cực lạc. Đất Phật, đất tổ, nơi con người và thiên nhiên giao hòa, một hình ảnh trữ tình, nên thơ. Con người và thiên nhiên cùng nhau tồn tại, trao cho nhau tình yêu thương và sự tôn trọng. “Càng trông phong cảnh lại càng yêu”, một câu thơ thể hiện tâm trạng trực tiếp, câu thơ mang nặng cảm xúc tình tự, xốn xang.

Màu sắc linh thiêng và kì bí của Phật pháp, người đọc cảm nhận được sự giao thoa và hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, không chỉ có núi non nước ngự trị mà còn có cả đình chùa do con người xây dựng, lòng hướng Phật do con người truyền bá, làm thiên nhiên càng thanh tịnh hơn, yên bình hơn.

Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện cùng với tâm hồn lãng đãng, bồng bềnh, tác giả đã để lại một thi phẩm mang chiều sâu cả về khía cạnh miêu tả cũng như biểu cảm. Phong cảnh Hương Sơn hiện lên vừa kì vĩ, lý thú lại vừa gần gũi, yên bình, mang đến cho con người cảm giác khoáng đạt, thoát ly trần tục. Cảnh đẹp là thế, nhưng viết ra được, truyền tải được cảnh đẹp đến người đọc hay không, đó là cái tài hơn người của Chu Mạnh Trinh.

Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Bài Nhớ Rừng 🌳 ấn tượng

Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh Đặc Sắc – Mẫu 9

Đừng vội lướt qua bài mẫu phân tích Hương Sơn Phong Cảnh đặc sắc dưới đây nhé!

Chu Mạnh Trinh không chỉ là một vị quan công minh, chính trực mà còn là con người đa tài. Ông nổi tiếng với tài sáng tác văn chương. Đặc biệt, nổi bật trong số đó phải kể đến bài thơ “Hương Sơn phong cảnh”. Tác phẩm với những đặc sắc về nội dung và hình thức nghệ thuật đã để lại dấu ấn khó phai cho bạn đọc.

Với sự quan sát tinh tế cùng ngòi bút tài hoa, thi sĩ Chu Mạnh Trinh khéo léo khắc họa phong cảnh Hương Sơn chỉ với 19 câu thơ. Mỗi câu thơ có sự dài ngắn khác nhau đã tô đậm đặc trưng của thể hát nói, đồng thời gợi tả toàn diện cảnh sắc thiên nhiên nơi này. Từ đây, tác giả bộc lộ tình yêu cùng niềm tự hào về quê hương đất nước.

Mở đầu bài thơ là khung cảnh huyền diệu như chốn bồng lai tiên cảnh:

“Bầu trời cảnh Bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay”

Ngắm nhìn bầu trời nơi Hương Sơn mờ mờ ảo ảo, nhà thơ như lạc vào cõi Bụt. Vẻ đẹp thoát tục ấy không khỏi làm lòng người xao xuyến, bồi hồi. Trong giây phút ấy, người khách ghé thăm mới chợt nhận ra đây là Hương Sơn mà bản thân ao ước. Niềm khát khao ấy không thoáng chốc vụt qua mà đã có từ bấy lâu nay. Và rồi, khi được tận mắt chứng kiến, nhà thơ không khỏi ngỡ ngàng:

Theo bước chân chủ thể trữ tình nhập vai “khách tang hải”, ta sẽ được chào đón bởi nét thanh khiết, trong sạch của khung cảnh thiên nhiên đất Phật:

“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh.
Vẳng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”

Núi rừng Hương Sơn như mở rộng trước mắt vị khách tới thăm “rừng mai”, “khe Yến”. Nổi bật trong cảnh non xanh nước biếc ấy là hình ảnh “chim cúng trái”, “cá nghe kinh”. Sống ở ngưỡng cửa nhà Phật, các loài vật cũng được bồi đắp, nuôi dưỡng bởi lời hay, ý đẹp.

Chỉ với bốn câu thơ ngắn ngủi, nhà thơ đã cho thấy nét bút tài hoa trong việc miêu tả phong cảnh. Biện pháp đảo ngữ cùng từ láy “thỏ thẻ”, “lững lờ” kết hợp với phép nhân hóa “cá nghe kinh” làm thiên nhiên trở nên sống động. Bên cạnh đó, sự hòa hợp giữa cảnh và vật, âm thanh và hình ảnh như đưa người khách đến với chốn thần tiên thực thực ảo ảo.

Càng chú tâm ngắm nhìn, chủ thể trữ tình lại cảm thấy “giật mình trong giấc mộng”. Nhưng rồi, khi nghe thấy tiếng kinh Phật văng vẳng đâu đây, vị khách nhận ra đây là vẻ đẹp có thực chứ không phải giấc mơ. Tận hưởng không khí nhẹ nhàng, yên bình của Hương Sơn, vị khách phương xa đã rũ bỏ bao bụi trần phong ba để tìm về miền an yên trong tâm hồn.

Tiếp đến, cảnh sắc nơi đây còn là sự muôn màu, muôn vẻ:

“Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,

Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt.”

Đi sâu vào bên trong, chủ thể trữ tình lại khám phá được sự phong phú của Hương Sơn. Đó là vẻ đẹp tự nhiên của “suối Giải Oan”, “hang Phật Tích”, “động Tuyết Quynh”. Hay còn là sự sáng tạo của con người với “chùa Cửa Võng”. Ngắm nhìn bức tranh muôn màu, muôn vẻ ấy, khách tang hải ngỡ như có ai đó khéo léo phác họa nên “nhác trông lên ai khéo họa hình”.

Đứng trước nơi tôn nghiêm như ngưỡng cửa nhà Phật, chủ thể trữ tình đã thể hiện tấm lòng ngưỡng mộ, kính cẩn:

“Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao!
Càng trông phong cảnh càng yêu.”

Đến với đất Phật, chủ thể trữ tình gột rửa và rũ bỏ những tầm thường của thế giới ngoài kia. Lòng tham lam, sự sân si đã được thay thế bởi tấm lòng nhân hậu, từ bi. Ở câu thơ cuối, nhà thơ sử dụng quan hệ từ “càng – càng” như muốn nhấn mạnh vẻ đẹp của chốn tâm linh Hương Sơn và khẳng định tấm lòng yêu mến, tự hào đối với nơi đây.

Đặc sắc về hình thức nghệ thuật cũng là yếu tố làm nên thành công của bài thơ. Nhà thơ Chu Mạnh Trinh xây dựng các hình ảnh độc đáo “một hang lồng bóng nguyệt”, “mấy lối uốn thang mây” kết hợp với sử dụng từ ngữ “đệ nhất động”, “giật mình trong giấc mộng”,… để tô đậm vẻ đẹp của thiên nhiên Hương Sơn. Ngoài ra, các biện pháp tu từ như điệp từ, nhân hóa cũng góp phần lớn trong việc miêu tả, khắc họa cảnh sắc nơi đây.

Qua bài thơ “Hương Sơn phong cảnh”, nhà thơ đã mang đến cho người đọc những rung động sâu sắc trước khung cảnh tuyệt sắc, vừa kì vĩ, vừa nên thơ của Hương Sơn. Từ đây, thi sĩ khéo léo bày tỏ tấm lòng tự hào, yêu mến của mình với quê hương đất nước. Mong rằng, mỗi chúng ta sẽ luôn biết sống giao hòa, gắn kết cùng thiên nhiên đất trời.

Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Phân Tích Bài Thơ Đi Đường 🌺 ấn tượng

Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh Mới Nhất – Mẫu 10

Tham khảo thêm bài mẫu phân tích Hương Sơn Phong Cảnh mới nhất được cập nhật sau đây:

Chu Mạnh Trinh (1862- 1905) tự là Cán Thần, hiệu Trúc Vân, người làng Phú Thị, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu (nay là xã Mễ Sở, huyện Văn Giang), tỉnh Hưng Yên, đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Thìn-1892, và làm quan đến chức án sát (ở Thái Nguyên; Hưng Yên). Ông là người tài hoa, thạo đủ cầm- kì thi hoạ.

Chu Mạnh Trinh nổi tiếng về thơ từ sau khi đạt giải nhất thơ Nôm trong cuộc thi vịnh Kiều ở tỉnh Hưng Yên, tháng 3 năm 1905. Tác phẩm ông đê lại không nhiều: Trúc Vân thi tập (tập thơ chữ Hán), Thanh Tâm tài nhân thi tập (tập thơ chữ Nôm) và một số bài thơ lẻ. Hương Sơn phong cảnh ca là một trong số những bài thơ hay nhất của ông.

Hương Sơn phong cảnh ca được Chu Mạnh Trinh sáng tác khi ông có dịp đứng trông coi trùng tu tôn tạo quần thể danh thắng Hương Sơn. Bài thơ được viết theo thể hát nói biến cách đôi khổ (bài hát nói thường có 3 khổ, mỗi khổ có 4 câu: khổ đầu, khổ giữa, khổ cuối. Nếu không có khổ giữa, hoặc khổ giữa tách thành 2 khổ, người ta gọi là biến cách).

Hương Sơn là dãy núi thuộc huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây. Trên núi có chùa Hương (còn gọi là Hương tích) thờ Phật Bà Quan Thế Âm. Hương Sơn vừa là danh lam, vừa là danh thắng đã nổi tiếng từ xưa. Hiện trên cửa động Hương Tích (động lớn nhất trong quần thể) còn hàng chữ khắc trên vách đá:

Bầu trời cảnh Bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.
Kìa non non, nước nước, mây mây…
“Đệ nhất động'” hỏi rằng đây có phải?

Đọc bốn câu thơ, ta thấy Hương Sơn được giới thiệu ở nhiều góc độ: từ ao ước chủ quan của tác giả, từ hình ảnh thực đang bày ra trước mắt chúng ta và từ ý kiến xếp hạng của người xưa. Cách giới thiệu của tác giả, tựu chung lại là để nói điều chưa nói được: Hương Sơn rất đẹp, hứa hẹn những thú vị và hấp dẫn.

Ao ước đến với Hương Sơn của tác giả (và cả chúng ta nữa) không phải là ngày một ngày hai mà là bấy lâu nay, nghĩa là ao ước đã thành khao khát.

Khao khát đã được đáp đền khi Hương Sơn hiện ra trước mắt chúng ta. Khi chưa tận mắt chứng kiến, ta chỉ biết Hương Sơn đẹp trong tưởng tượng, và rồi trong tưởng tượng cái đẹp đó cũng không thể sánh được với cái đẹp của Hương sơn đang bày ra trước mắt chúng ta. Chính vì thế tác giả phải ngạc nhiên thốt lên: “Kìa non non, nước nước, mây mây”… Quả là một chốn bồng lai.

Hương Sơn không giống như một thắng cảnh bất kì nào, nghĩa là không chỉ có non nước mây trời mà là trập trùng non nước mây trời. Tác giả Chu Mạnh Trinh đã sử dụng phép lặp từ (ở tính từ gọi là láy toàn phần) tạo cho phong cảnh Hương Sơn cái đẹp trùng điệp, kì vĩ. Cách giới thiệu của tác giả thật khéo léo, thật thuyết phục, thật cuốn hút bởi vì cái hăm hở, tò mò trong mỗi con người chúng ta bị đánh thức.

Không khí thần tiên thoát tục đã bao trùm Hương Sơn. Cả một vùng trời đất, từ không gian đến cảnh vật, con người đều ngất ngây trong khí đạo, mùi thiền. Tác giả Hương Sơn phong cảnh ca gọi đó là cảnh Bụt. Thực ra cảnh Bụt cũng là cảnh Tiên (đẹp), người ta thường dùng nó để chỉ cái đẹp khác với cái đẹp thông thường.

Nhưng Chu Mạnh Trinh không gọi là cảnh Tiên mà gọi là cảnh Bụt, vì gọi như thế vừa tránh được cái sáo mòn của chữ, lại vừa gợi được khí vị thiêng liêng phù hợp với đối tượng miêu tả; mặt khác gọi là cảnh Bụt cũng vừa thể hiện được cái đẹp vừa thể hiện được hành động từ bi cứu nhân độ thế của đạo Phật.

Cảnh có hồn hay hồn người đã nhập vào cảnh? Ở đời có cái đẹp đánh thức cái ham muốn tầm thường của con người, nhưng cũng có cái đẹp làm cho con người thánh thiện hơn lên. vẻ đẹp đó là của Hương Sơn. Con người trong cuộc sống đời trần (như khách tang hải chẳng hạn) vốn nhuộm đầy ưu tư phiền muộn và cả bụi bặm đời thường. Nhưng khi đến vói Hương Sơn tất cả sẽ được rũ bỏ để thành cao khiết hơn lên, thánh thiện hơn lên, bởi ở đây con người có đủ điều kiện để trở nên trong sạch:

Này suối giải oan, này đền cửa Võng

Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.

Chỉ là một lời kể ngắn gọn trong hai câu thơ (2 câu đầu đoạn) nhưng đã khắc họa ấn tượng về một quần thể vừa thiên tạo, vừa nhân tạo và có đủ suối – chùa – am – động… nghĩa là có đủ tên gọi ở quần thể Hương Sơn này. Như vậy là không thể kể hết mà đã kể hết.

Bôn câu thơ tiếp theo tác giả tả chi tiết mà vẫn là điểm xuyết. Nhác trông nghĩa là chỉ trông thoáng qua chứ không soi xét kĩ càng, nhưng cảnh Hương Sơn vẫn long lanh cuốn hút. Câu thơ “Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây” cho ta một vẻ đẹp nhiều tầng của một quần thể hùng vĩ, tráng lệ, một vẻ đẹp của Thiên triều (cũng có thế hiểu theo nghĩa thực: đường lên Hương Sơn rất cao và gập ghềnh, uốn khúc).

Tựu trung lại, cả đoạn thơ tác giả nhằm thể hiện vẻ đẹp siêu thoát của Hương Sơn; nhưng siêu thoát chứ không siêu hình. Chính vì thế ai chưa một lần đến Hương Sơn, sau khi đã thưởng thức bài thơ này rất khao khát được đến và rồi sẽ nghiệm ra vẻ đẹp để càng yêu mến Hương Sơn hơn. Hương Sơn đẹp! vẻ đẹp của Hương Sơn suy rộng ra cũng là vẻ đẹp của giang sơn, đất nước:

Chừng giang sơn còn đợi ai đây
Hay tạo hóa khéo tay xếp đặt?

Một câu hỏi không cần câu trả lời nhưng chắc chắn ai cũng có thể trả lời được: đợi chủ nhân của nó. vẫn biết cảnh đẹp Hương Sơn chủ yếu là do thiên tạo, nhưng sao không phải là trên đất khác mà lại trên đất này- đất Việt Nam? Chính vì thế Hương Sơn là của người Việt Nam, của giang sơn Việt- Nam.

Và từ đó ta cũng có thể hiểu ra: yêu Hương Sơn là yêu giang sơn Việt Nam. Câu thơ kết thúc tác giả còn bỏ lửng: Càng trông phong cảnh càng yêu… như có ý để người đọc tự viết tiếp những từ mà tự mình cho là hợp lí nhất, ví như: nước mình chẳng chẳng hạn:

Chu Mạnh Trinh yêu Hương Sơn đến độ say sưa bằng tình yêu của một thi sĩ tài hoa, uyên bác. Ông có tới ba bài thơ viết về Hương Sơn, nhưng Hương Sơn phong cảnh ca có thể xem là bài hay nhất. Với tài năng nghệ thuật kiệt xuất, với tình yêu quê hương đất nước thiết tha, ông đã phát hiện ra và truyền tả được vẻ đẹp độc đáo, thanh cao, thoát tục của danh thắng Hương Sơn. Có thể nói, viết về Hương Sơn, cho tới nay chưa ai vượt tầm Chu Mạnh Trinh.

Tiếp tục đón đọc 🌳 Phân Tích Muốn Làm Thằng Cuội 🌳 chọn lọc

Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh Đầy Đủ Ý – Mẫu 11

Chia sẻ đến bạn đọc bài mẫu phân tích Hương Sơn Phong Cảnh đầy đủ ý để ôn tập thật tốt.

Hương Sơn là thắng cảnh nổi tiếng của xứ Bắc, có Chùa Hương kì lạ trong một cái động (động Hương Tích) trên đỉnh núi. Chỉ có một đường thủy (Khe Yến) vào Chùa Hương bằng đò dọc. Phong cảnh sơn thủy hữu tình. Hội Chùa Hương bắt đầu từ rằm tháng giêng hàng năm, thu hút nhiều khách thập phương, nhiều tao nhân mặc khách, người tu, kẻ tục.

Điều lí thú nhất khi trẩy hội Chùa Hương là giữa non xanh nước biếc của bầu trời cảnh bụt được nhìn những khuôn mặt người tứ xứ, họ trút hết những lo toan, những ưu phiền ngoài bến Đục mà vui sống nơi cõi Tiên, cảnh Phật, hội Người.

Thơ viết về Chùa Hương có nhiều, nhưng có lẽ nổi tiếng nhất ba bài: “Chùa Hương” của Hồ Xuân Hương, “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp và “Hưcmg Sơn phong cảnh ca” của Chu Mạnh Trinh.

Hồ Xuân Hương viết “Chùa Hương” theo thể thất ngôn bát cú luật Đường, Nguyễn Nhược Pháp viết “Chùa Hương” theo thể ngũ ngôn trường thiên, còn Chu Mạnh Trinh viết “Hương Sơn phong cảnh ca” theo thể Hát nói, một thể ca trù của dân tộc. Chọn thể Hát nói, tác giả “Hương Sơn phong cảnh ca” vừa thể hiện được tình cảm lãng mạn, phóng túng của thi nhân, lại cũng vừa thêm hương thêm sắc cho thể ca trù dân tộc.

Hình ảnh màu sắc trong bút pháp miêu tả của Chu Mạnh Trinh thanh tao, huyền ảo hợp với vẻ đẹp thần tiên của phong cảnh Hương Sơn:

“Nhác trông lên ai khéo họa hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Gập ghềnh mẩy lối uốn thang mây”

Phong cảnh Hương Sơn đã kì tuyệt, lại thêm con mắt của thi nhân, nên nhà thơ hướng vào đâu là ở đó hiện hình họa “Nhác trông lên ai khéo họa hình”, màu sắc lung linh lên hết thảy “Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”. Cảnh đẹp tự nhiên mà như có bàn tay của nhà điêu khắc, thật là kì ảo. Cảnh Hương Sơn nhìn lên đẹp, nhìn vào các hang động lại càng đẹp:

“Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây”

“Thăm thẳm” là hang sâu, tối, Chu Mạnh Trinh đã lồng vào hang “bóng nguyệt” khiến cảnh động trở nên huyền ảo. Con đường lên Chùa Hương thì vòng vo, “gập ghềnh” được mây phủ mà thành “gập ghềnh mấy lối uốn thang mây” như cảnh tiên. Thật ra Hương Sơn núi không cao, nhưng hội Chùa Hương lại vào mùa xuân, tiết trời ẩm ướt, mây sà xuống thấp, người bên trên nhìn thấy mây quấn người dưới thấp đến nỗi Chu Mạnh Trinh, nhà thơ say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên, nặng lòng với non nước phải thốt lên:

“Chừng giang sơn còn đợi ai
đây Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt?”

“Hương Sơn phong cảnh ca” là kiệt tác của Chu Mạnh Trinh. Bài thơ hay nhiều mặt: thể Hát nói thích hợp với tinh thần tự do, phóng khoáng của thi nhân, hình ảnh gợi cảm vừa hư vừa thực với bút pháp biến hóa, nhạc điệu trong trẻo thánh thiện với bản hòa tấu âm thanh của con người, của chim muông hoa lá. Mỗi chữ, mỗi lời, mỗi hình ảnh, âm điệu đều mang theo một mảnh tài hoa của Chu Mạnh Trinh và tình yêu non nước của thi nhân. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta biết yêu thêm một miền non nước kì tuyệt của Tổ quốc.

Đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Đập Đá Ở Côn Lôn 🔥 đặc sắc

Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh Hay Nhất – Mẫu 12

Mời bạn đọc thưởng thức thêm mẫu bài văn phân tích Hương Sơn Phong Cảnh hay nhất dưới đây nhé!

Cảnh sắc luôn là thứ khiến cho tâm hồn con người ta xao động, ngay cả người bình thường,đứng trước cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp cũng phải mềm lòng. Cho nên, đứng trước một cảnh tượng như thế những thi sĩ không thể không kiềm lòng mình lại.

Sự nhạy cảm của một tâm hồn tràn ngập thơ ca, cũng khiến cho không ít thi gia bối rối và phải đặt ngay ngòi bút xuống, để cho cảnh sắc đó ngấm vào cơ thể rồi mới lay ngòi bút xuống trang giấy. Cũng bởi chới với trước vẻ đẹp của thiên nhiên Hương Sơn, mà tác giả Chu Mạnh Trinh quả thật không sai khi đã dùng những mỹ từ để ca ngợi vẻ đẹp nơi đây.

Cùng với những sự nhạy cảm của bản thân và một con mắt tinh tế,mọi thứ ở Hương Sơn đã trở thành một đề tài cho giới văn nghệ sĩ tìm tới. Không chỉ xuất hiện trong các bài thơ mà còn xuất hiện trong những câu hát,người ta thấy Hương Sơn hiện ra như cảnh ở chốn tiên giới.

Đây quả thực là một món quà mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người chốn nhân gian. Sự kết hợp hài hòa giữa cảnh sắc con người càng làm cho bài thơ thêm đẹp đẽ. Đối với Chu Mạnh Trinh thì Hương Sơn chính là chốn thoát ra khỏi vẻ đẹp trần tục ở nhân gian. Chính vì vậy, ngay từ khi mở đầu , chỉ với 4 từ mà tác giả đã lột tả được đa số cái thần thái nơi đây:

“Bầu trời cảnh bụt”

Cảnh ở đây là cảnh bụt, vừa miêu tả một chốn bồng lai tiên cảnh lại miêu tả được sự yên tịnh linh thiêng. Dù dùng bao nhiêu từ cũng không thể miêu tả hết cái vẻ đẹp ấy. Không diễn giải dài dòng, chỉ với 2 từ ” cảnh Bụt” mà gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc bao nhiêu thứ.

Bầu trời mở rộng, không khí hư không, mọi thứ trở nên mở rộng hết cỡ, và có cái gì đó rất riêng.Ngòi bút của Chu Mạnh Trinh như bắt được nhịp chuyển động theo cảm hứng ấy và làm sống dậy từng nét thanh tú của danh lam, vừa đem lại vi thiền cho thắng cảnh.

Kìa non non, nước nước, mây mây,

Cảnh núi non trùng điệp cảnh mây trời lồng lộng cảnh sông nước hữu tình, càng làm cho không gian của Hương Sơn mở rộng ra, làm cho chúng ta cảm nhận như tác giả đang đứng từ trên một điểm cao để có cái nhìn bao quát nhất về phong cảnh hương Sơn.

Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lửng lơ khe Yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.

Bằng nghệ thuật nhân hóa những sinh vật ở đây có hồn, có suy nghĩ có tâm niệm, nhưng không chỉ là có tâm niệm không thôi, chúng cũng bị ảnh hưởng bởi vẻ linh thiêng nơi đây. “chim cúng trái, cá nghe kinh”, những nhân vật ở đây giống như những tín đồ của chốn này.

Du khách tới đây không chỉ để thưởng thức phong cảnh mà còn để hòa mình vào không khí nơi đây. Những âm thanh “thỏ thẻ”, hình ảnh “dáng cá lửng lơ” và kết thúc là tiếng chày kình tạo nên không khí chỉ có ở Hương Sơn.

Bước chân của tác giả không dừng lại đó, bằng việc liệt kê các địa danh ở đây, Hương Sơn lại càng nổi bật với cảnh vật phong phú:

Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Vũng
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh

Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt.
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.
Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật,
Cửa từ bi công đức, xiết là bao

Những bước chân cuối của du khách khi đến với Hương Sơn cũng đến chỗ dừng chân. Nhưng hình ảnh đấy hiện ra vẫn đẹp đẽ mĩ lệ. Những từ ngữ được tác giả sử dụng như đính thêm những hạt pha lên trong suốt trên nền màu sắc rực rỡ, càng làm thêm vẻ tráng lệ của Hương Sơn.

Những cảm xúc của tác giả khiến chúng ta cũng như vừa bước ra khỏi thế giới thần tiên. Tác giả như dẫn dắt chúng ta đi từ một nơi trần tục tới một nơi thần tiên thanh tịnh. Cho nên, cũng không kiềm lòng trước cảnh sắc ấy cho nên mới thốt lên.”

“Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật,
Cửa từ bi công đức, xiết là bao

“Hương Sơn phong cảnh ca” là một bức tranh phong cảnh nhưng được vẽ bằng ngôn từ, là một sợi dây kết nối giữa con người và thiên nhiên. Vẻ đẹp thiên nhiên càng được khắc họa với những nét vẽ vừa tráng lệ lại vừa yểu điệu uyển chuyển. Qua đó, cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên và cũng như sự tinh tế, con mắt tinh tường của tác giả trước vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng.

Phân Tích Đánh Giá Bài Hương Sơn Phong Cảnh – Mẫu 13

Cùng tham khảo thêm bài phân tích đánh giá Hương Sơn Phong Cảnh sinh động sau đây.

Đã từ rất lâu rồi những cảnh đẹp tự nhiên xuất hiện một cách vô hình, tất cả đều đẹp dần theo thời gian làm nguồn cảm hứng cho vô vàn những nhà văn nhà thơ lãng mạn yêu thiên nhiên, muốn đắm mình cùng những vẻ đẹp đó, rồi cũng từ thơ ca mà thiên nhiên gần gũi hơn với con người, đẹp lên đôi khi không thể dùng từ ngữ để lột tả hết được, dẫn chứng cụ thể cho những luận điểm trên là bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” của Chu Mạnh Trinh

Bài thơ được ông viết khi ông đứng coi trùng tu tôn tạo quần thể thắng cảnh Hương Sơn, một bài thơ với những vần thơ long lanh mềm mại như dải lụa đào, rồi thơ ca và thắng cảnh cũng hòa quyện vào nhau như là sinh ra để dành riêng cho nhau. Nhà văn đến với chùa Hương, phóng tầm mắt ra xa với cảnh nhìn bao quát đẹp vô cùng, bức tranh sơn thủy hữu tình hiện ra trước mắt:

Bầu trời, cảnh bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?

Bầu trời, cảnh bụt, toàn bài là những câu với 7 và 8 tiếng liền mạch, nhưng mở đầu lại vô cùng ngắn gọn và xúc tích, cái sự ngắn riêng biệt đó đâu phải là ngẫu nhiên, bầu trời hiện lên như vẽ lên hình ảnh thiên nhiên trong đó, cảnh bụt như chốn bồng lai mờ ảo mà vô cùng thơ mộng, ngắn gọn là vậy nhưng mang đầy đủ ý nghĩa, mở ra trước mắt người đọc cổng trời, chốn thần tiên, đưa con người bước vào một thế giới mà chỉ có ở trong mơ, chỉ có trong tưởng tượng.

Và thú vui đó đều là niềm ao ước của bất cứ ai trên thế gian này, không phải là ao ước bất chợt, không phải ngẫu hứng mà muốn có mà đây đã làm khát vọng từ rất lâu của tất cả những người có niềm khao khát được ngắm tác phẩm tự nhiên đó, và đến ngay chính bản thân tác giả cũng không thể kìm lòng trước những gì mình được chứng kiến, cảm giác đứng trên đỉnh núi có thể vươn tay tới mây trời thật là không có gì bằng trên thế gian này.

Cảnh vật hiện lên là cảnh của tôn giáo, những hình ảnh cổng phật với cảm nhận tinh tế khiến tác giả không thể không thốt lên đây có phải đệ nhất động.

Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lửng lơ khe Yến cá nghe kinh
Thoáng bên tai một tiếng chày Kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng

Hương Sơn là cảnh bụt, và cảnh bụt hiện lên bao trùm toàn bộ không gian và thời gian, âm thanh hình ảnh hòa quyện vào với nhau một cách hợp lí nhất, chim quên mất bản thân mình là chim để cất cao tiếng hót, cá quên mất bản thân mình là cá tung tăng vui đùa, chẳng biết từ đâu mà chúng trở nên như vậy, có phải sự thanh tịnh đã làm cho chính những sự vật tưởng chừng như không có nhận thức đó lại chậm dãi đến vậy.

Cũng chẳng biết là có phải phật đã khơi dậy cốt cách của phật trong chúng, thanh lọc tâm hồn chúng, khe Yến cá chẳng còn tung tăng, chẳng còn kiếm ăn nữa, lặng lẽ nghe kinh như có thể hiểu được phần nào đó cuộc sống trên thế gian này, những du khách từ thế giới đầy bon chen, thế giới của sự tranh giành, đấu đá lẫn nhau khi vào tới đây cũng chợt bừng tỉnh, xua tan đi những phiền muộn ở ngoài kia, giảm đi những áp lực trong cuộc sống này.

Hương Sơn phong cảnh ca là tác phẩm đặc sắc nhất cho thấy được nét đẹp của thiên nhiên qua nhịp điệu từng vần thơ, đặc biệt bài thơ không chỉ thể hiện những cảnh đẹp đó bằng mắt nhìn mà chúng được thể hiện bằng trái tim qua tình yêu quê hương đất nước, yêu con người, cuộc sống, phong cảnh quê hương, niềm tự hào tự tôn về đất nước của chính mình, qua đó muốn đưa đến người đọc cái đẹp mà không phải ai cũng có thể tận mắt chứng kiến, đồng thời thể hiện khát vọng gìn giữ lưu truyền tới muôn đời sau.

Giới thiệu tuyển tập 🔥 Phân Tích Nước Đại Việt Ta 🔥 hay nhất

Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh Lớp 10 – Mẫu 14

Cuối cùng là bài mẫu phân tích Hương Sơn Phong Cảnh lớp 10 được chia sẻ rộng rãi trên các diễn đàn văn học sau đây.

Chu Mạnh Trinh là một người tài hoa, ông thạo đủ cầm kì thi họa lại giỏi cả nghệ thuật kiến trúc và đặc biệt say mê cả cảnh đẹp. Thi sĩ Xuân Diệu đã xếp Chu Mạnh Trinh vào hàng ngũ những tai nhân tài tử tài tình trong nền văn học Việt Nam thời cận đại.

Hương sơn phong cảnh ca là một tác phẩm được ông viết khi ông đứng ra trông coi và trùng tu lại di tích quần thể thắng cảnh Hương Sơn. Hương Sơn là một thắng cảnh thuộc huyện Mỹ Đức Hà Tây. Bài thơ được viết theo thể hát nói giàu nhạc điệu, nhạc tính viết về cảnh đẹp của Hương Sơn cảnh sắc vô cùng xinh đẹp và nên thơ

Thơ viết về Hương sơn thì có rất nhiều nhưng “hương sơn phong cảnh ca”của chu mạnh trinh được xem là một áng kiệt tác. Bài thơ được viết theo thể hát nói tô đậm lên vẻ đẹp hoang sơ kì vĩ của đất trời hương sơn. Khổ thơ đầu là phong cảnh Hương sơn dần lọt vào mắt của du khách khi nhìn từ phía xa. Câu thơ đầu tiên cũng là câu thơ ngắn nhất của bài thơ:

“Bầu trời cảnh bụt”

Từ xa khung cảnh Hương Sơn dần lọt vào mắt du khách vừa thực vừa ảo, dường như ta đã lọt vào thế giới cực lạc nơi tâm hồn có thể bay bổng cùng thiên nhiên. Đó chính là thế giới của cảnh bụt. Đây không phải là thế giới nhà sư, của các nhà phật như trong chùa bái đính hay trong thần thoại tây du kí của tôn ngộ không mà cả thế giới của bụt.

Ta dường như cảm nhận được sự bình yên lắng đọng, cảm giác thuộc về thiên nhiên tràn ngập trong ta khi nhìn ngắm nơi đây từ xa trong màn sương khói nửa mơ nửa thực. Dòng thơ mở đầu chỉ vẻn vẹn có bốn câu nhưng đã xác định chủ âm của bài thơ. Từ đây nhà thơ sẽ viết lên những câu thơ mang cảm hứng ấy, vị thiền độc đáo của hương sơn. Sau cái nhìn bao quát ấy khung cảnh hương sơn dần lộ ra dưới nét bút điêu luyện của thi sĩ.

” Kìa non non nước nước mây mây”

Đọc đến đây ta như cảm giác có ai đó đang thúc giục ta nhanh nhanh lên đường tìm hiểu hương sơn tìm hiểu cảnh đẹp nơi đây. Nhịp thơ nhanh cho ta thấy cảm giác hối hả có phần háo hức của tác giả khi khung cảnh hương sơn phút chốc đã dần lộ ra.

Cảnh non nước đã được nhà thơ điệp trùng luyến láy khiến cho không cảnh đẹp nơi đây như đang trải dài ra cùng non nước trời mây. Cảnh trí hùng vĩ cùng non nước mây trời là vẻ đẹp riêng của bầu trời cảnh bụt. Du khách vui thú tự hỏi liệu đây có phải là đệ nhất động đầy ngạc nhiên tự hào xúc động. Những câu thơ sau là minh chứng cho khẳng định bầu trời cảnh bụt trong câu thơ đầu tiên.

“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lửng lơ khe yến có nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kinh
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”

Rừng mai và khe Yến là hai cảnh đẹp nổi tiếng của hương sơn. Chim “thỏ thẻ gọi nhai mổ trái mai vàng “chim cúng trái”. Cá lửng lơ bơi lội nơi khe yến “có nghe kinh”. Hình ảnh ẩn dụ với đường nét am thanh gợi mùi thiền. Đến chim cá là những con vật không hiểu được cũng lửng lơ nghe kinh.

Phải chăng ta đã lạc vào chốn thiên đường nơi chỉ có những đạo lí những điều tốt đẹp mà mọi người dành cho nhau không có bất cứ tranh đua nào. Đây rốt cuộc là chốn bồng lai tiên cảnh nào mà chim cúng trái cá lại có thể nghe kinh và con người lạc vào đây thì lại thảng thốt tiếng chày kinh bên tai.

Hương sơn kì thú đến thế nào mà cả con người, chim cá đều dường như thoát tục hòa nhập hòa tan vào trong tất cả để rồi giật mình ngỡ đang trong mộng. Những câu thơ cho ta nhiều thú vị về nhạc điệu du dương, âm hưởng trầm bổng của vần thơ.

Chu Mạnh Trinh không chỉ tạo lên những vần thơ nhịp nhàng khi tả về cảnh chim cá nơi đây mà còn thể hiện hồn cảnh của phong cảnh hương sơn nam thiên đệ nhất động. Thi sĩ mân mê dẫn đường khi tiếp tục kể ra những địa danh nổi tiếng của hương sơn.

“Này suối Giai Oan, này chùa Cửa Võng
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh

Hương sơn có rất nhiều danh lam thắng cảnh nhưng Chu Mạnh Trinh chỉ nêu lên bốn danh lam suối Giai Oan, chùa cửa võng, phật tích động tuyết quynh, nhà thơ chỉ kể mà không tả dường như cố ý muốn gây sự tò mò cho người đọc

Mời mọi người hãy đến đây để cùng thưởng ngoạn vẻ đẹp hương sơn và tìm hiểu vùng đất thiền bằng việc tác giả nêu ra những danh lam đậm chất “bụt”. Ta như đang được hòa cùng nhà thơ vào cảnh bụt đem lại nhiều tư tưởng hướng thiện trong ta khiến ta không khỏi mong muốn được đến thăm hương sơn một lần.

Tiếp tục ý thơ, tác giả lại đưa người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi miêu tà cảnh vật hương sơn lộ ra mỗi lúc một gần, ngày một chi tiết hơn.

“Nhác trông lên ai khéo họa hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây”

Nghệ thuật so sánh đá ngũ sắc với gấm dệt nhằm thể hiện niềm tự hào của nhà thơ về đất nước và con người Việt Nam. các từ “thăm thẳm”, “gập ghềnh” diễn tả sự cheo leo của các hang động và đây dường như các chướng ngại vật mà thiên nhiên cố tình tạo ra để con người phải vượt qua thì mới chiêm ngưỡng được hết thảy tất cả mọi cảnh vật kì thú nơi đây.

Phép đảo ngũ đã làm nổi bật cái độ sâu thẳm của các hang động, cái gập ghềnh của các sườn núi và những thang mây cao vút. Với những câu thơ này du khách dường như đã đặt những bước chân cuối cùng đến Hương sơn

Tiếng chày kinh động, tiếng chuông Hương sơn đánh thức người khách tang hải trong giấc mộng thì đến đây cuộc hành hương mới đi vào hồi kết thúc.

“Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật,
Cửa từ bi công đức, xiết là bao
Càng trông phong cảnh càng yêu”

Đoạn kết bài thơ là nơi tập trung thể hiện tư tưởng à cảm hứng tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ. Đồng thời cũng nhắc nhở mọi người có cùng trách nhiệm làm đẹp cho giang sơn đất nước.

Bài thơ sử dụng từ tạo hình, giọng thơ nhẹ nhành sử dụng nhiều kiểu câu khác nhau , ngữ điệu tự do phù hợp với tư tưởng phóng khoáng. Bài ca là một sự phong phú về giá trị nhân bản cao đẹp trong thế giới tâm hồn của thi nhân. Tình yêu mến cảnh đẹp gắn với tình yêu quê hương đất nước của tác giả.

Bài thơ của Chu Mạnh Trinh đã làm làm phong phú thể ca trù hát nói của dân tộc . Có đi lễ hội chùa Hương ta mới thấy hết cái hay của bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca.

Với ngòi bút tài hoa tác giả đã miêu tả cảnh sắc Hương Sơn rất đẹp, vẻ đẹp thiên nhiên với suối, hang đông, trời mây non nước, đượm mùi thiền mà thoát tục. Yêu hương sơn đến độ say sưa của một tâm hồn thi sĩ tài hoa, tác giả đã phát hiện ra vẻ đẹp thanh thoát độc đáo ở nơi đây.

Sống hòa hợp , chân thành hơn sau khi đến đây là chia sẻ của rất nhiều du khách. chính cái thiền cái đất trời bụt trong hương sơn đã tạo cho nó một cái gì đó khác lạ mà huyền bí đến lạ thường mà mỗi du khách sau khi đến đây đều mong một lần nữa được đặt chân lên mảnh đất thiền này.

Bởi cảnh đẹp nơi đây là vô tận là mênh mông non nước , cũng vì thế mà tác giả không hề nói chi tiết về các danh thắng mà chỉ nêu tên có lẽ vì vẻ đẹp và kiến trúc nơi đây không chỉ nói một hai câu là xong mà là cả một chặng đường dài mới có thể tìm hiểu được thiên nhiên phong phú nơi đây.

Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Sông Hương 🌠 hay nhất

Viết một bình luận