Phân Tích Hai Đứa Trẻ Thạch Lam (18+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất)

Phân Tích Hai Đứa Trẻ Thạch Lam ❤️️ 18+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Văn Đặc Sắc Được SCR.VN Tổng Hợp, Chọn Lọc Dưới Đây.

Cách Phân Tích Hai Đứa Trẻ

Để phân tích truyện ngắn “Hai Đứa Trẻ” của nhà văn Thạch Lam, bạn có thể theo dõi các bước sau:

  1. Hiểu về tác giả và bối cảnh sáng tác: Tìm hiểu về Thạch Lam và hoàn cảnh xã hội thời đó để nắm bắt được tâm trạng và quan điểm của tác giả khi viết tác phẩm.
  2. Nắm bắt nội dung truyện: Đọc kỹ tác phẩm, ghi chú lại các chi tiết quan trọng, những hình ảnh, sự kiện và nhân vật chính trong truyện.
  3. Phân tích nhân vật: Xem xét tính cách, hành động và tâm trạng của các nhân vật, đặc biệt là hai đứa trẻ, để hiểu rõ hơn về thông điệp mà tác giả muốn truyền tải.
  4. Phân tích hình ảnh và biểu tượng: Chú ý đến việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh và biểu tượng trong truyện để thấy được cách Thạch Lam miêu tả cuộc sống và con người.
  5. Phân tích phong cách và kỹ thuật viết: Đánh giá phong cách viết của Thạch Lam, cách ông sử dụng ngôn từ, cấu trúc câu và kỹ thuật kể chuyện.
  6. Kết nối với thực tế: So sánh và liên hệ những vấn đề trong truyện với cuộc sống hiện đại, xem xét sự phản ánh của tác phẩm đối với xã hội ngày nay.

Bằng cách theo dõi các bước trên, bạn sẽ có thể phân tích sâu sắc và toàn diện tác phẩm “Hai Đứa Trẻ”, hiểu được giá trị nghệ thuật cũng như thông điệp nhân văn mà Thạch Lam muốn gửi gắm qua tác phẩm của mình.

SCR.VN tặng bạn 💧 10+ Mẫu Phân Tích Nhân Vật Liên 💧Hay Nhất

Dàn Ý Phân Tích Hai Đứa Trẻ

Cùng tham khảo mẫu Dàn Ý Phân Tích Hai Đứa Trẻ đầy đủ ý dưới đây để triển khai bài văn logic và hấp dẫn.

I. Mở bài:: Giới thiệu về tác phẩm Hai đứa trẻ

II. Thân bài: Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ

a. Bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo

  • Bức tranh thiên nhiên
    • Một làng quê yên ả, thanh bình nhưng gợi buồn
    • Cảnh vật lúc chiều tối buông xuống hết sức thân thiết và gần gũi
  • Bức tranh sinh hoạt của con người
    • Cảnh chợ nghèo nàn, xơ xác, tiêu điều
    • Cuộc sống của con người khốn khó và vô cùng cơ cực
    • Cuộc sống của con người nơi đây nghèo nàn, không lối thoát

b. Cảnh đợi tàu:

  • Lí do đợi tàu:
    • Đợi tàu trở thành một công việc, một nhu cầu của con người nơi phố huyện nghèo
    • Đợi tàu thể hiện sự khát vọng có một cuộc sống tốt đẹp hơn, có một cuộc sống ấm no hơn
  • Hình ảnh đoàn tàu:
    • Đoàn tàu như biểu tượng của cuộc sống tươi đẹp, cuộc sống đẹp đẽ hơn
    • Đoàn tàu mang một tia hi vọng, một chút mơ ước của con người nơi phố huyện nghèo

III. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về truyện ngắn Hai đứa trẻ.

Ngoài Phân Tích Hai Đứa Trẻ, SCR.VN Gợi ý 🌠Sơ Đồ Tư Duy Hai Đứa Trẻ ❤️️ 17 Mẫu Tóm Tắt

Phân Tích Tác Phẩm Hai Đứa Trẻ Của Thạch Lam – Bài 1

Phân Tích Tác Phẩm Hai Đứa Trẻ Của Thạch Lam, cùng đón đọc bài mẫu được chia sẻ dưới đây nhé!

Đọc Thạch Lam, càng thấy ông thật sự là cây bút tài hoa, một nhà văn mà tri thức phương Tây rất phong phú cũng không lấn át được một tâm hồn “thuần Việt”. Sáng tác của ông trong cái vẻ ngoài bình dị là một tấm lòng mẫn cảm, một nhân cách văn hóa, một người bạn của lớp người nghèo khổ ở thời đại ông. Những truyện ngắn “Nhà mẹ Lê”, “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam chỉ khác với “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”… ở điển hình và tiếng nói riêng của tác giả và cái chung duy nhất giữa họ là một tấm tình hòa cảm, bao dung.

Khi nghiên cứu khu vực lưu trú của người Việt, chúng ta thường chú ý tới hai khu vực cơ bản: thành thị và nông thôn, ít lưu tâm tới khu vực cư trú tồn tại ở “ranh giới mờ” giữa lối sống đô thị và làng xã là cái phố huyện. Phố huyện có thế được coi như trạm trung chuyển của sự giao lưu giữa thành thị và nông thôn.

Dấu ấn của hai nhịp điệu sống, hai lối sống cơ bản của xã hội để lại khó rõ nét trong sinh hoạt cộng đồng phố huyện. Ở thời của Thạch Lam (thậm chí tới ngày nay) văn minh đô thị chưa là tiêu biểu cho xã hội, làng xã và các phố huyện mới thật sự là bộ mặt của xã hội.

Dạo quanh bất kỳ một phố huyện nào cũng có thể xác định những nét cơ bản về phương thức sinh tồn, đặc điểm kinh tế… của một cơ cấu địa phương. Rộng hơn, có thể hiểu được những nét lớn của xã hội, vì lẽ, mấy nghìn năm nay “Văn hóa lúa nước” tạo dựng nên một xã hội Việt nam truyền thống; bên những ưu điểm còn buộc nó phải vận hành trong một vòng quay tù túng, ngưng trệ.

Đã từ lâu, nhiều người nhận ra, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” dường như đã nhận chân theo kiểu văn chương. Nên không ngẫu nhiên, Thạch Lam lại chọn một phố huyện để nhận chân sự mòn mỏi đơn điệu của lớp người đông nhất trong xã hội lúc đó là những người nghèo.

“Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều về. Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn trong lò. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”…

Phố huyện lúc chiều tàn thật thanh bình, yên ả; cũng là lúc cư dân của nó bước vào một đêm mới, lặp lại những gì đã diễn ra như bao nhiêu đêm trước: Chị em cô hàng xén lại ngồi trước cửa ngóng trời, ngóng đất, ngóng người; mẹ con chị hàng nước lại dọn cái bàn nước; bác hàng phở nhóm lại bếp lửa; gia đình bác Xẩm lại chờ khách đến nghe…”. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đại một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”…

Thật ra, nhịp điệu sống không nhất thiết chỉ có những ngày vui vẻ. Xã hội đù tươi đẹp vẫn có những ngày hè mưa buồn, những ngày thu heo hắt, những ngày đông ảm đạm, nhưng đó là sự bất thường của tự nhiên. Còn cái đêm u tịch được Thạch Lam dựng lại là cái đêm buồn mang số nhiều: “Từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối của quãng phố xung quanh”, “Chị Tí chả kiếm được bao nhiêu, những chiều nào chị cũng dọn từ chập tôi cho đến đêm”…

Dạng huống số nhiều của hành động chỉ ra sự lặp lại nhàm chán của sinh hoạt phố huyện, nhàm chán nhưng vẫn lặp lại vì miếng cơm, manh áo: “Ôi chao, sớm muộn gì thì có ăn thua gì”. “Cũng như mọi đêm Liên không còn trông mong còn ai đến mua nữa”, một cách kiếm sống hú họa, vật vờ.

Tác giả đồng điệu với Liên và những người xung quanh cô bằng cách dựng lại mọi chi tiết từ không gian rộng đến sự vật nhỏ nhoi đang chìm trong bóng đêm: “Đường phố và các con ngõ rộng dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn”, “đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”. Tối đến mức cả phố huyện đều “thu nhỏ lại”.

Vài ánh sáng len qua phên nứa, ngọn đèn con của chị hàng nước, cái bếp lửa của bác hàng phở trở nên lắc lay thảm hại trước bóng đêm, đến ngay cả âm thanh cũng chìm nghỉm trong đó: “Tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng”. “Trống cầm canh ở phố huyện đánh tung lên một tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối”, “tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ rồi, và mất dần trong bóng tối”.

Bóng tối nhấn chìm cả âm thanh thì quả là rất gợi, nhưng rất thực, thực bởi diễn biến tâm trạng của nhân vật: “đêm tối với Liên quen lắm”, “tâm hồn Liên yên tình hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”, “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết”. Trạng thái bàng bạc của tâm hồn Liên là trạng thái của cả nhóm người quanh Liên qua những mẩu đối thoại rời rạc, vẩn vơ, những câu hỏi đã quen và những câu trả lời cũng đã quen. Nghĩa là mọi người cùng mòn mỏi, cùng u ám, cùng vô định.

Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng đêm, giữa âm thanh và tĩnh lặng đem lại cảm giác nặng nề và chị em Liên “buồn ngủ ríu cả mắt”, “vẫn cố gượng để thức khuya chút nữa”, “vì muốn được nhìn chuyến tàu”. Chuyến tàu như ngôi sao băng đêm nào cũng vụt qua thinh không phố vắng vào lúc chín giờ. Chuyến tàu đến rồi đi, nó thuộc về một thế giới khác.

Nó lướt qua phố huyện đang chìm trong đêm đen. Nó tỏa sáng. Nó vang động. Nó xa xăm. Nó là giấc mơ huyền ảo. Nó như không có thật. Chuyến tàu vụt qua chỉ đủ sức an ủi những con người lam lũ đang an phận nghèo. Tuy thế nó vẫn là một hy vọng. Chuyến tàu chấm dứt một ngày sinh sống của phố huyện về một thời gian và làm tăng nỗi đợi chờ khắc khoải cho ngày hôm sau.

Ngoài Phân Tích Hai Đứa Trẻ, Mời bạn tham khảo 🌠 Tóm Tắt Hai Đứa Trẻ ❤️️15 Bài Tóm Tắt Văn Bản Truyện Hay

Phân Tích Truyện Hai Đứa Trẻ Ngắn Nhất – Bài 2

Chia sẻ đến bạn đọc bài mẫu Phân Tích Truyện Hai Đứa Trẻ Ngắn Nhất giúp các em chuẩn bị tốt cho kì thi của mình.

Thạch Lam cây bút văn xuôi lãng mạn tiêu biểu của văn học 1930 1945, các sáng tác của ông tập trung đi sâu khai thác vào cuộc sống đời thường, bình dị. Với những tác phẩm thường “truyện không có chuyện” nhưng lại để lại những dư âm sâu sắc trong lòng người đọc về vẻ đẹp cuộc sống, tâm hồn con người. Hai đứa trẻ là một tác phẩm mang trong mình vẻ đẹp giản dị, sâu lắng như vậy.

Tác phẩm được xuất bản năm 1938 in trong tập Nắng trong vườn. Tác phẩm là lát cắt hiện thực cuộc sống nơi phố huyện nghèo từ khoảnh khắc chiều tàn cho đến đêm khuya. Nhưng với ngòi bút tinh tế, Thạch Lam đã đi sâu khám phá vẻ đẹp của con người, cuộc sống nơi đây.

Mở đầu tác phẩm là khung cảnh thiên nhiên hết sức nên thơ nhưng đượm buồn với tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, tiếng trống thu không văng vẳng vang lên, tiếng muỗi vo ve khắp nơi. Nếu có âm thanh cất lên cũng không mang lại sự tươi vui, rộn rã, ngược lại chỉ gợi lên sự tĩnh mịch của cảnh và sự ảm đạm của không gian.

Trong không gian của buổi chiều tàn, bức tranh sinh hoạt của con người hiện lên cũng chẳng mấy sáng sủa hơn. Chỉ có một âm thanh duy nhất xuất hiện “tiếng ồn ào cũng mất” khi chợ đã họp và vãn từ lâu, trả lại cho phố huyện sự tĩnh lặng vốn có. Trên nền chợ chỉ còn lại vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn,… những thứ người ta bỏ đi sau một buổi chợ phiên.

Những đứa trẻ con nhà nghèo vẫn cố tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại trên mặt đất. Cuộc sống ở đây không chỉ buồn mà còn nghèo nàn, xơ xác. Không gian ấy khiến ta không khỏi ám ảnh và cảm thương cho những số phận, sinh linh tội nghiệp đang phải sống những ngày mòn mỏi ở nơi đây.

Liên là một cô gái mới lớn, tinh tế và nhạy cảm, trong khoảnh khắc của ngày tàn đã nhanh chóng nắm bắt những biến chuyển của thiên nhiên. Em cảm nhận thấy mùi vị của quê hương trong phiên chợ đã tàn: “một mùi ẩm mốc bốc lên trộn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá…” ấy là mùi vị đã thấm sâu trong tâm hồn em, tâm hồn của một người gắn bó tha thiết, sâu nặng với quê hương.

Khi màn đêm buông xuống, cuộc sống nơi phố huyện vẫn tiếp diễn. Liên sửa soạn, vội vàng “thắp đèn, xếp những quả sơn đen lại” và nhẩm tính những món hàng đã bán được trong ngày. Rồi lần lượt chị Tí, bác xẩm, gánh phở bác Siêu xuất hiện. Chị Tí dọn hàng nước chờ đợi những khách hàng quá quen thuộc đi qua vào uống chén trà.

Trong khoảnh khắc của ngày tàn, khi bóng tối đã ngập đầy mọi nơi, Thạch Lam một cách rất tinh tế đã tìm ra những khoảnh khắc đẹp đẽ, đầy lãng mạn của cảnh vật thông qua những cảm nhận nhạy bén của nhân vật Liên. Cô bé thích thú ngắm bầu trời đêm với ngàn sao lấp lánh, tưởng tượng đó là dòng sông ngân hà với hai con vịt đi theo chân thần nông. “Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ…”

Liên quả là người có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, khi “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối” em vẫn tìm thấy những nguồn sáng khác nhau từ thiên nhiên, cảm nhận cái rơi thật khẽ, thật êm của hoa bàng rụng. Liên tìm đến ánh sáng không phải là một điều ngẫu nhiên, ánh sáng ấy chính là mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn của Liên.

Em tìm nguồn sáng sáng xua tan đi bóng tối: khe sáng, hột sáng, quầng sáng… Nhưng những nguồn sáng ấy dù phong phú nhưng nhỏ bé, mong manh, yếu ớt, không đủ để xua đi bóng đêm. Đây đồng thời cũng là khao khát đổi đời để thoát khỏi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc của thực tại.

Nhưng có lẽ đẹp nhất, rực rỡ nhất chính là khoảnh khắc khi đoàn tàu vụt qua phố huyện nghèo. Không ai ngủ, không ai về trước khi đoàn tàu đi qua, ai cũng cố thức để chờ đoàn tàu đến, không phải là để cố gắng bán thêm được thứ gì, vì hầu như không có ai mua, mà là bởi để thấy được chút ánh sáng của sự sống, của niềm tin, hy vọng.

Cũng bởi vậy mà, mặc dù đã buồn ngủ nhưng An vẫn cố nhắc chị khi nào đoàn tàu đến hãy gọi em dậy, trong mong manh vô thức, An cũng có khao khát đổi đời như tất cả người dân nơi đây. Khi đoàn tàu xuất hiện, tiếng reo lên đầy vui sướng: “đèn ghi đã ra kia rồi”, hồi còi tàu hỏa kéo dài, làn khói sáng trắng xuất hiện từ phía xa. Đoàn tàu vụt qua mang đến biết bao âm thanh: “tiếng xe rít mạnh vào ghi” , “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng còi rít lên”, đó là sự náo nhiệt, ồn ã, đông vui trái ngược hẳn với sự tĩnh lặng của phố huyện.

Trên các toa tàu sáng rực “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường”, “đồng và kền lấp lánh” nó gắn liền với cuộc sống sang trọng, giàu có trong phút chốc xua đi bóng tối, sự ảm đạm của cuộc sống nơi đây. Đoàn tàu đi qua, người ta vẫn cố nhìn theo đóm lửa xanh cho đến khi nó mất hẳn.

Nếu đoàn tàu đi qua mang lại ánh sáng rực rỡ như sao băng thì giờ đây ở phố huyện chỉ còn lại vầng sáng nhỏ bé, leo lét, đêm tối lại bao bọc xung quanh. Đoàn tàu là hình ảnh của quá khứ, của Hà Nội, gợi về một thế giới thần tiên mà hai đứa trẻ từng được trải nghiệm, là biểu tượng của thế giới hạnh phúc mà hai đứa trẻ cũng như tất cả người dân phố huyện đang khao khát.

Ngoài Phân Tích Hai Đứa Trẻ, Gợi ý cho bạn 🍀Nghị Luận Hai Đứa Trẻ ❤️️ 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Phân Tích 2 Đứa Trẻ Hay Nhất – Bài 3

Bài mẫu Phân Tích Hai Đứa Trẻ Hay Nhất được nhiều bạn đọc chia sẻ rộng rãi trên các diễn đàn văn học nổi tiếng.

Thạch Lam là cây bút nhẹ nhàng, sâu lắng trong nhóm Tự lực văn đoàn, một phong cách không thể lẫn lộn với bất cứ ai. Mỗi trang văn của ông là những lời thủ thỉ tâm tình cuốn hút người đọc. Đó là những câu chuyện không có cốt truyện được viết lên bởi chất liệu nhẹ nhàng, man mác, tiêu biểu là tác phẩm Hai đứa trẻ.

Sự tinh tế, nhẹ nhàng trong những câu văn làm nên nét độc đáo của Thạch Lam. Câu chuyện Hai đứa trẻ xoay quanh cuộc sống của Liên và An ở phố huyện nghèo với công việc lặp đi lặp lại hằng ngày. Qua Liên và An, nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc thông điệp cuộc sống mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Ẩn hiện trong truyện ngắn là khung cảnh phố huyện nghèo. Mở đầu là tiếng trống thu không vang lên trong buổi chiều tà, khi cảnh vật và con người đang đắm mình vào không gian lơ đãng. Tại sao Thạch Lam chọn buổi chiều tà mùa thu để vẽ lên bức tranh phố huyện? Phải chăng mùa thu gợi buồn, gợi nhớ, gợi cho con người ta nhiều cảm xúc.

Khu phố nghèo lúc ngày tàn gợi sự đìu hiu, tàn phai trước mắt người đọc, đó cũng chính là hiện thực xã hội thời bấy giờ ở nước ta, mọi thứ không có sức thu hút và dường như không thấy có sự sống, mọi thứ gần gũi nhưng phảng phất sự nghèo đói.

Trong con mắt của Liên và An, phố huyện hiện lên xơ xác, nghèo đói trước cảnh bãi chợ vắng vẻ, khi người về hết. Ống kính của Thạch Lam lia qua những rác rưởi khi chợ quê vãn người và miêu tả một mùi vị đặc trưng riêng khiến hai đứa trẻ tưởng là mùi riêng của đất, của vùng quê này. Cứ thế, phố huyện ám ảnh hai đứa trẻ, ám ảnh bạn đọc bởi những hình ảnh, màu sắc và hương vị như thế suốt bao năm qua.

Những đứa trẻ nghèo khổ hiện ra trong khung cảnh tiêu điều, xác xơ thêm nhếch nhác. Chúng đi nhặt những thứ rơi vãi còn sót lại. Mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ống, tối tối xác điếu đóm dọn hàng, gia đình bác Xẩm ngồi bên manh chiếu rách với chiếc thau sắt trắng để trước mặt, bà cụ Thi điên uống rượu rồi cười khanh khách đi vào trong bóng tối… Từng ấy những kiếp sống lầm than, tàn tạ có cả chị em Liên. Trong con mắt của Liên, cuộc sống chìm trong màn đêm mênh mông không lối thoát, chỉ có ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, rồi ngọn đèn hoa kỳ vặn nhỏ….

Phố huyện lúc chiều tà tựa như khúc nhạc buồn điệp đi điệp lại chẳng biết bao giờ chấm dứt, đơn điệu và buồn tẻ. Liên và An làm sao có thể ý thức được sự buồn chán, bế tắc mà bọn trẻ đang phải sống cũng như những khát vọng mơ hồ của mình về cảnh tù đọng nơi đây. Nhưng với sự nhảy cảm, bé Liên cảm nhận được khát vọng tinh thần của chính mình, khát vọng thoát khỏi cảnh tối tăm, tù đọng mà tới một thế giới khác.

Minh chứng cho khao khát này là hành động thực đợi chuyến tàu đêm đi qua. Con tàu đi ngang qua phố huyện như đem một thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn với thế giới hai đứa trẻ đang sống, cũng là ánh sáng nhưng không phải là vầng sáng của ngọn đèn chị Tí hay ánh lửa của bác Siêu.

Thạch Lam không đi sâu miêu tả xung đột xã hội, ông là một nhà văn lãng mạn vì thế một bức tranh phố huyện nghèo, dung dị tới từng chi tiết. Một bức tranh làng quê Việt Nam mù xám với những người lao động nghèo khổ đang phải sống quanh quản trong tối tăm, bế tắc. Nhà văn đã bày tỏ niềm cảm thương chân thành tới những phần người ấy, muốn thay đổi cảnh nghèo khổ, tối tăm cho những con người ấy.

Ngoài Phân Tích Hai Đứa Trẻ, Xem nhiều hơn 🌼Bình Giảng Hai Đứa Trẻ ❤️️ 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Phân Tích Hai Đứa Trẻ Chi Tiết – Bài 4

Đón đọc bài mẫu Phân Tích Hai Đứa Trẻ Chi Tiết để các em có thể tham khảo và trau dồi thêm kiến thức cho mình.

Nội dung bao trùm của truyện Hai đứa trẻ là tấm lòng “êm mát và sâu kín” của Thạch Lam đối với con người và quê hương, ở đây, nhà văn vừa thể hiện niềm xót thương đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ, quẩn quanh trong xã hội cũ vừa bộc lộ thái độ đồng cảnh, trân trọng đối với khát vọng tuy rất mơ hồ của họ. Qua truyện Hai đứa trẻ, người đọc còn cảm nhận được phần nào tình cảm gắn bó với quê hương đất nước của Thạch Lam.

Đọc truyện Hai đứa trẻ, trước hết chúng ta có ấn tượng về cuộc sống lụi tàn, tù túng của những kiếp người sống nghèo đói, quẩn quanh, không ánh sáng, không tương lai trong xã hội cũ.

Câu chuyện mở đầu bằng những câu văn êm dịu, với những âm thanh và hình ảnh báo hiệu một ngày tàn: “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Bên cạnh cảnh ngày tàn, chợ tàn là những kiếp người tàn tạ. Chị Tí ban ngày mò cua, bắt tép, tối đến dọn hàng nước chè tươi, thắp một ngọn đèn dầu leo lét. Hàng vắng khách, tuy chiều nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm, nhưng “chả kiếm được bao nhiêu”. Bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau để trước mặt, “góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng.

Cảnh Liên xếp hàng vào hòm, cách hai chị em tính tiền, niềm nuối tiếc cái thời còn ở Hà Nội nhiều khi “được đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”, cái ý nghĩ phở bác Siêu là “một thứ quà xa xỉ” không bao giờ chị em Liên có thể mua được… khiến chúng ta có thể hình dung ra gia cảnh khó khăn và mức sống eo hẹp của gia đình Liên. Thế nhưng, có lẽ dẫu sao, gia đình hai đứa trẻ cũng còn có phần khấm khá hơn gia đình chị Tí và bác Xẩm, vì còn có “một gian hàng bé thuê lọi của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”…

Như vậy, từ gia đình chị Tí, gia đình bác Xẩm đến bà cụ Thi và chị em Liên, mỗi người một cảnh, nhưng họ đều có chung sự buồn chán, mỏi mòn… Điều đáng nói hơn là tất cả những nhân vật bé nhỏ này đã hiện ra trong cái nhìn xót thương của Thạch Lam, được thể hiện qua lời văn và những chi tiết dường như rất khách quan.

Khi trời tối hẳn, cả phố huyện dường như chỉ thu vào ngọn đèn của chị Tí. Ngoài ngọn đèn này ra, “thứ bóng tối nhẫn nại uất ức đời thôn quê” (Thế Lữ) làm chủ tất cả. Không phải ngẫu nhiên trong tác phẩm, nhà văn nhắc đi, nhắc lại chi tiết ngọn đèn chị Tí tới 7 lần. Kết thúc truyện, hình ảnh gây ấn tượng, day dứt cuối cùng, đi vào giấc ngủ của Liên cũng vẫn là “chiếc đèn con của chị Tí chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.

Phải chăng, hình ảnh này chính là biểu tượng của những kiếp người nghèo khổ, lam lũ sống vật vờ, leo lét trong màn đêm của xã hội thực dân nửa phong kiến? Nhịp sống ở phố huyện này cứ lặp đi, lặp lại một cách đơn điệu, quẩn quanh và tẻ nhạt.

Ngày qua ngày, chiều nào chị Tí cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm”, tối nào bác Siêu bán phở cũng nhóm lửa, gia đình bác Xẩm cũng chờ khách, người nhà cụ Thừa, cụ Lục cũng đi gọi người đánh tổ tôm. Chị em Liên tối nào cũng tính tiền hàng, “cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng” và “ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên lại tạo ra thăm hàng một lần”…

Hãy nhớ đến cuộc sống đơn điệu, nhạt nhẽo “cơm mai rồi lại cơm chiều, rút cục mỗi ngày hai bữa cơm” của những nhân vật như Quỳnh và Giao trong thiên truyện ý tưởng Tỏa nhị Kiều của Xuân Diệu. Tuy thế, những người dân phố huyện vẫn hy vọng cho dù hy vọng đó rất mơ hồ: “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Chính sự mong đợi mơ hồ này dường như càng tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của những nhân vật trong truyện. Họ sống đấy, nhưng đâu biết ngày mai số phận mình sẽ ra sao! Một niềm xót thương da diết của Thạch Lam thể hiện kín đáo ngay trong cách dựng người: dựng cảnh và cái giọng văn đều đều, chậm buồn của ông.

Quà VIP 👉 Thẻ Cào 50k Miễn Phí

Phân Tích Hai Đứa Trẻ Học Sinh Giỏi – Bài 5

Bài mẫu Phân Tích Hai Đứa Trẻ Học Sinh Giỏi được SCR.VN chọn lọc và chia sẻ đến bạn đọc dưới đây.

Đến với “Hai đứa trẻ”, trước hết ta được thấm cảm bức tranh thiên nhiên và đời sống con người nơi phố huyện qua cái nhìn tinh nhạy của cô bé Liên nhân vật chính trong truyện. Bức tranh thiên nhiên gói gọn trong hay từ “êm ả” và “đượm buồn”. Có âm thanh của tiếng trống thu không đánh lên từng hồi xa vọng, âm thanh của tiếng ếch kêu rên gợi tĩnh lặng một miền quê, âm thanh của tiếng muỗi vo ve đậm tô sự nghèo nàn.

Không gian mở ra bởi màu “đỏ rực” của phương Tây, màu “ánh hồng” của mây trời, màu “đen sẫm” của tre làng. Có chút thanh bình, êm ả, nhưng cũng không ít thê lương, ảm buồn, nó đưa ta vào một miền không gian nửa lạ nửa quen, nửa quê nửa tỉnh, với những xúc cảm giăng mắc nhẹ nhàng.

Nơi phố huyện được nới rộng ra theo không gian của một phiên chợ tàn: “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Không còn là “lao xao chợ cá làng ngư phủ”, phiên chợ buổi vãn chiều thưa thoáng người, vắng sự náo nhiệt, tô đậm thêm sự lụi tàn.

Hiện lên trên nền cảnh của một buổi chiều tàn, một phiên chợ tàn là những kiếp người tàn. Không phải những người nông dân bị rượt đuổi bởi sưu cao thuế nặng, đồng tiền bát gạo như trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nam Cao. Không phải những ông quan Tây học, cô gái thôn quê sống an nhàn dưới nếp khói lam chiều như trong sáng tác của Nhất Linh, Hoàng Đạo. Phận người mà Thạch Lam quan tâm là những kiếp người bé mọn vô danh, sống lụi tàn trong một xã hội đen tối mịt mùng.

Thạch Lam đã viết về họ bằng tất cả niềm ai hoài cảm thương rung lên từ “chân cảm” của mình. Đó là những đứa trẻ nhà nghèo “cúi lom khom” nhặt nhạnh những thanh tre thanh nứa còn sót lại trên nền chợ, là mẹ con chị Tí với quán hàng bán chẳng được bao nhưng đêm nào cũng dọn, là bà cụ Thi với tiếng cười ghê rợn đi lần vào trong bóng tối, là bác Siêu với gánh phở ế ít người vào ăn, là gia đình bác xẩm với tiếng đàn bầu run bần bật trong đêm.

Họ đều là những phận người nhỏ bé, sống lê lết từng ngày trong sự tù đọng quẩn quanh trên cái “ao đời phẳng lặng”. Viết về những kiếp người vô danh ấy, Thạch Lam bày tỏ một mối quan hoài sâu sắc về cuộc sống của hai đứa trẻ. Giữa lứa tuổi mà đáng lẽ thơ ngây còn chưa hết, Liên và An đã phải lo toan cho cuộc sống gia đình. Hai chị em trông coi hàng giúp mẹ ở một gian hàng nhỏ thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng phên nứa dán giấy nhật trình.

Thức hàng cũng chỉ là vài quả sơn đen hay mấy bánh xà phòng. Cơ cực đã đành, nhưng điều làm ta xa xót hơn là đời sống tinh thần của hai đứa trẻ ấy dường đang dần ngưng trệ. Chúng ngày ngày phải giam mình trong không gian u tối của phố huyện, tự cầm cố tuổi xuân và sức trẻ, và có thể sẽ chẳng bao giờ biết đến thế giới xa xăm ngoài kia.

Nhưng vốn là người “yêu mến và trang trọng trước sự sống”, Thạch Lam sẽ không bao giờ muốn dừng lại ở việc phản ánh hiện thực cuộc sống dẫu hiện thực ấy có chân thật đến đâu. Cố tìm mà hiểu chất ngọc sáng ẩn tàng nơi mỗi con người, khơi sâu “cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới”, đó mới là điều Thạch Lam luôn muốn làm.

Có người nói, Thạch Lam sinh ra là để hóa giải hai khuynh hướng sáng tác, có lẽ điều ấy thể hiện rõ nhất là ở những vẻ đẹp trong tâm hồn cô bé Liên được nhà văn viết bằng cảm hứng lãng mạn. Giữa một phố huyện nghèo nàn xơ xác vẫn sáng lên những xúc cảm tinh nhạy của một cô bé biết rung động trước thiên nhiên. Liên nghe tiếng chiều buông xuống mà lòng tự thốt lên: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru”, chị thấy ở đó sự yên bình, và thấy cả lòng “buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.

Nghe hương ẩm từ nền chợ bốc lên mà tưởng như đó là “mùi riêng của đất, của quê hương này”. Trong cuộc sống lụi tàn, có mấy ai cảm được từ “một đêm mùa hạ êm như nhung” những gợn gió thoảng qua, thổi mát tâm hồn, mấy ai để tâm đến hoa bàng rụng xuống vai khe khẽ từng loạt một? Vậy mà những chứng tích của một tâm hồn mới lớn đã gọi về hết thảy những cảm xúc ấy: vừa rung động trước cái đẹp nhẹ nhàng, vừa buồn thoáng qua trước yên bình tĩnh lặng.

Không chỉ có một tâm hồn tinh nhạy, ở Liên còn có một niềm trắc ẩn sâu sắc, một mối đồng cảm nồng hậu với những kiếp người nhỏ bé quanh mình. Cuộc sống chẳng khá hơn họ, nhưng không vì thế mà Liên khép lại lòng thương đối với những đứa trẻ nghèo, hay bớt đi lời quan tâm với mẹ con chị Tí.

Trân trọng, yêu thương và không ngừng tin tưởng, Thạch Lam còn nhìn thấy ở những đứa trẻ kia một khát vọng luôn thường trực mà chúng tự nhiên lên ngay trong cuộc sống bế tắc của mình. Sinh thời, Thạch Lam từng tâm niệm: “Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Người khổ cách này, người cách khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ.”

Hai đứa trẻ đã tự tìm cho mình niềm vui ở những lần chúng ngược dòng tâm tưởng, trở về quá khứ, miên man trong những tháng ngày vui vẻ ở Hà Nội nơi chúng từng được vui chơi, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Hay những lần chúng ngước lên bầu trời đầy sao, tìm kiếm dòng sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông, cũng chính là lúc chúng để cho lòng mình lặng theo mơ tưởng.

Nhưng có lẽ khao khát vẹn tròn nhất, ước mơ đủ đầy nhất, hai đứa trẻ gửi cả vào đoàn tàu. Không chỉ hai chị em Liên mà “từng ấy người trong bóng tối trông đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ của họ”, và có lẽ đoàn tàu chính là nguồn sáng mãnh liệt nhất.

Đoàn tàu hoạt động cuối cùng của một ngày trong con mắt Liên và những người dân nơi phố huyện lại chính là động lực cho họ cố bám bíu vào cuộc sống này. Đoàn tàu xuất hiện bắt đầu bằng tiếng reo của bác Siêu: “Đèn ghi đã ra kia rồi”. Đoàn tàu mang theo ánh sáng rực rỡ, mang theo âm thanh náo nhiệt, chứ không tù đọng như không gian phố huyện, không leo lét như ngọn đèn của chị Tí hay ánh lửa của bác Siêu.

Chị em Liên cố thức chờ tàu không phải vì để bán được dăm ba món hàng, mà để được chìm đắm trong những cảm xúc mãnh liệt nhất về một “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo”. Hà Nội ấy từng đựng đầy những kỉ niệm thân thương về một thời gia đình còn khấm khá, Hà Nội ấy trong tâm thức hai đứa trẻ là miền không gian đẹp vô tận và bạt ngàn niềm vui.

Vì lẽ đó mà đoàn tàu vừa như một tia hồi quang đưa hai chị em ngược dòng về quá khứ, vừa như một tia vọng quang thắp sáng cả tương lai. Nhưng nhìn ở một góc nào, phải chăng chính đoàn tàu lại càng tô đậm cuộc sống bế tắc của người nông dân, khi mà niềm vui lớn nhất trong ngày của họ chỉ là chờ tàu, chẳng thể làm gì hơn để vượt thoát khỏi không khí tù đọng cứ ôm trùm ấy. Qua đây, nhà văn muốn gửi một thông điệp: Cần phải thay đổi xã hội để cho những con người vô danh kia không phải sống vô nghĩa.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Phân Tích Bài Thơ Bác Ơi Tố Hữu 🌹 13 Bài Văn Mẫu Hay

Phân Tích 2 Đứa Trẻ Cảnh Đợi Tàu Ngắn Gọn – Bài 6

Bài Phân Tích Hai Đứa Trẻ Cảnh Đợi Tàu Ngắn Gọn, súc tích giúp các em có thể học hỏi và trau dồi thêm nhiều kĩ năng viết hay.

Thạch Lam nhà nhà văn với nhiều câu chuyện trữ tình, đi sâu vào lòng người. Chỉ khi phân tích cảnh đợi tàu, bạn mới thấy ý nghĩa của cốt truyện, mà tác giả truyền đạt. Tác phẩm “hai đứa trẻ” là sự nhạy cảm của Thạch lam trước cảnh vật, làng quê nghèo và lòng người. Tác giả không đề cập đến những biến cố, mà hầu hết là tình cảm, và chiều sâu tâm trạng. Cảnh chờ tàu của Liên và An được Thạch Lam miêu tả chi tiết, tinh vi từng cảm xúc một.

Hai chị em Liên đợi tàu bởi vì “Mẹ vẫn dặn phải thức đến khi tàu xuống – Ðường sắt đi ngang qua ngay trước mặt phố – để bán hàng, may ra còn có một vài người mua”. Tuy nhiên, lý do mà chị em Liên đợi vì đoàn tàu đến mang theo ánh sáng, người đông đúc của chốn đô thị. Bán hàng lúc tàu đến chỉ ít ỏi, “với lại đêm họ chỉ mua bao diêm, hai gói thuốc là cùng”. Liên và An dù rất buồn ngủ, chỉ ngồi trong bóng tối nhưng vẫn cố gắng đợi tàu đến.

Liên đợi chuyến tàu đêm như là một việc làm cuối cùng của ngày, lúc tối muộn. Thực chất, Liên chỉ muốn thay đổi không khí của một ngày buồn bã, ảm đạm, đoàn tàu mang sự vui nhộn tới. Không chỉ Liên, An cũng vậy, hầu hết các đứa trẻ ở quê nghèo đều đợi tàu đến.

Qua đây chúng ta thấy Liên là người chị mẫu mực. Trước khi tàu đến, An buồn ngủ, “mí mắt sắp sửa rơi xuống”. Tuy nhiên, em vẫn cố dặn chị Liên “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Liên ngồi im ỉm trong bóng đêm và mong ngóng, tập trung chờ đợi tàu. Hình ảnh “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi” là dấu hiệu quen thuộc báo tàu đến. Từ xa, Liên nghe được tiếng còi và đánh thức An dậy. Liên gọi An với tâm thế vội vàng, cuống quýt, giục giã, chỉ trễ 1 chút sẽ bị bỏ lỡ. An nhanh chóng dậy với động thái ngây thơ là “lấy tay dụi mắt” rất đáng yêu.

Liên và An vô cùng háo hức, đợi tàu đến như đang chờ một điều gì đó mới mẻ, tươi sáng hơn. Sau một ngày dài ảm đạm, đêm đến bóng tối bao phủ, đoàn tàu đến mang lại ánh sáng, hy vọng lớn. Khi tàu đến “Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Đoàn tàu “vụt qua” chỉ trong thời gian ngắn, ánh sáng bao phủ, 2 chị em chỉ kịp thoáng nhìn.

Đoàn tàu chỉ đi ngang, thoáng qua nhanh chóng, nhưng mang đến những điều khác biệt. Mỗi ngày 2 chị em đều chờ tàu, An còn hỏi “tàu hôm nay không đông, chị nhỉ?”. Câu hỏi thể hiện sự so sánh, chú ý kỹ, tập trung nhất mỗi khi tàu qua để nhìn hết được. Tuy nhiên, Liên không trả lời câu hỏi của An, cảm xúc của cô vẫn còn xao xuyến. Đoàn tàu làm Liên mơ về Hà Nội, nơi rất xa xăm, giàu sang, ánh sáng rực rỡ. Qua đó chúng ta thấy Liên càng thêm chán nản, ngán ngẩm cuộc sống của cô.

Đoàn tàu mang đến cho 2 chị em Liên hy vọng hơn về tương lai tốt đẹp, rực rỡ, vui tươi. 2 cô gái luôn mơ mộng về một cuộc sống mới năng động, vui sướng. Khi tàu đi “Tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ dần, và mất dần trong bóng tối, lắng tai cũng không nghe thấy nữa”. Liên và An lại trở về với nỗi buồn, tiếp tục hy vọng tàu đến vào ngày mai. Niềm vui, sự chờ đợi mỏi mòn của 2 chị em chỉ đến và đi trong nháy mắt.

Phố huyện lại im ắng, chìm trong màn đêm u tối, Liên và An đi vào giấc ngủ quên. Liên vẫn mang trong trình tâm trạng tiếc nuối, suy nghĩ lan man về cuộc sống hiện tại. Cảnh đợi tàu của 2 chị em liên nói riêng và hoàn cảnh của cả phố huyện nghèo nói chung giống nhau.

Cảnh đợi tàu của Liên và An có rất nhiều ý nghĩa, tác giả muốn nói về ước mơ của những người dân nghèo. Họ luôn khao khát, chờ đợi, mơ về một cuộc sống tốt, ý nghĩa hơn. Thạch Lam đã miêu tả rất lãng mạn. Đoàn tàu là điểm nhấn của cả một bài văn, làm cho tâm lí nhân vật thêm đa dạng.

Chia sẻ 🌼 Phân Tích Đò Lèn Nguyễn Duy 🌼 8 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích 2 Đứa Trẻ Cảnh Chiều Tàn Đặc Sắc – Bài 7

Phân Tích Hai Đứa Trẻ Cảnh Chiều Tàn Đặc Sắc, một trong những tình tiết đáng chú ý trong tác phẩm cần phân tích.

“Cây bút có biệt tài về truyện ngắn” không ai khác là Thạch Lam. Truyện ngắn của ông hài hòa giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn “mà vẫn nồng nàn tình quê, nặng lòng với dân tộc”. Bức tranh phố huyện lúc chiều tà trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một bức tranh hòa quyện giữa hai chất liệu ấy. Lãng mạn bởi cái nhìn tinh tế, hiện thực bởi ngòi bút đặc tả khung cảnh thiên nhiên và con người ở nơi đây.

Ngay từ khi còn nhỏ Thạch Lam sống ở quê ngoại là phố huyện Cẩm Giàng- Hải Dương, có điều kiện tiếp xúc với nơi thôn dã nên trong tác phẩm của ông luôn chất chứa cảnh làng quê có hình bóng những con người nghèo khổ.

Nhà văn miêu tả khung cảnh hoàng hôn của phố huyện bắt đầu bằng tiếng trống thu không, vang vọng rời rạc từng tiếng một báo hiệu giờ khắc của ngày tàn, điểm khắc cho trời sắp tối. Câu văn mở đầu dịu dàng như lời bài thơ gợi ra không khí ảm đạm nơi phố huyện nhỏ. Không chỉ vậy len lỏi là tiếng động của làng quê: “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”, tiếng “muỗi đã bắt đầu vo ve” khi chập choạng chiều tối.

Những âm thanh ấy gợi cảm giác buồn tẻ, tĩnh lặng mang đậm chất dân dã nông thôn. Phải là một con người nhạy cảm, yêu quê hương và có cái nhìn tinh tế, sâu sắc mới có thể lắng mình cảm nhận những điều bình dị như thế.

Màu sắc của bầu trời, của cảnh vật nơi đây là màu đỏ rực như lửa cháy, màu hồng như hòn than sắp tàn của đám mây cho thấy một ngày đã qua đi bóng tối bắt đầu lan dần bởi màu đen của dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời. Cách so sánh độc đáo với hình ảnh so sánh cụ thể, nổi bật đặc tả màn đêm buông xuống bao trùm lên tất cả.

Bóng đêm bao phủ “Các nhà đã lên đèn” những ánh sáng chẳng phải rực rỡ, chói lóa như chốn thị thành, nó là cái “đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách…” những ánh sáng ấy thật yếu ớt như đưa con người ta vào thế giới hư hư thực thực một bên sáng một bên tối.

Mùi vị thì sao? Một mùi ẩm mốc bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với của cát bụi quen thuộc quá cái mùi của quê hương, của đất mẹ nghèo khó. Ống kính của nhà văn lia gần xuống dưới mặt đất là những rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Tất cả đều được nhà văn thu vào ống kính quay phim.

Bức tranh thiên nhiên lúc phố huyện hoang vắng, hiu hắt nhưng cũng rất gợi cảm, thơ mộng được nhà văn khắc họa bởi những câu văn êm dịu, giọng điệu chậm rãi, nhẹ nhàng mà thấm đẫm nỗi buồn của con người trước cảnh ngày tàn.

Thiên nhiên buồn nhưng đượm chất trữ tình còn bức tranh cuộc sống con người lúc chiều tà như thế nào? Họ là những kiếp người tàn. Những con người nhỏ bé và nghèo khó như chị em Liên. Liên và An_hai con người đầu tiên xuất hiện trong cảnh chiều muộn với một tâm trạng “buồn man mác” bởi cảnh vãn chợ chiều cô quạnh.

Những con người quen thuộc của chị em Liên cũng được nhà văn để tâm khắc họa. Họ cũng khổ và nghèo như Liên. Đó là mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt tép trong bùn lầy nước đục, tối đến trông chờ vào gánh nước chè dưới gốc cây bàng để bán cho những người phu gạo, phu xe, mấy chú lính lệ hay người nhà thầy thừa thi thoảng cao hứng vào uống chén nước, hút điếu thuốc lào. Họ cũng chẳng dư giả hơn chị là bao. Thực sự đó không phải là sống mà là cầm cự để duy trì sự tồn tại trong vô vọng. Bởi con người ta quá vất vả cho miếng cơm manh áo.

Nhà văn Thạch Lam như nhà quay phim tài ba đã tái hiện lại khung cảnh phố huyện lúc chiều tà, từng câu văn của ông như ống kính lia chậm tỉ mỉ, quan sát tất cả cảnh vật và con người trong nhịp sống nơi đây. Đồng thời ông cũng giống như một họa sĩ tài năng vẽ lên bức tranh ngày tàn có những kiếp sống leo lét như ánh đèn đêm.

Ông cũng là một nhà tâm lí tài giỏi am hiểu thế giới nội tâm của nhân vật. Liên một cô bé nhạy cảm có tấm lòng nhân hậu hiếm thấy cô thương cho gia đình mình, thương cho những kiếp người tàn tạ quanh mình. Qua đó cho thấy tình cảm chân thành của nhà văn dành cho những con người có số phận nghèo khổ, tội nghiệp.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Đất Nước Nguyễn Đình Thi 🍀 12 Bài Mẫu Hay

Phân Tích Hai Đứa Trẻ Tâm Trạng Của Liên – Bài 8

Phân Tích Hai Đứa Trẻ Tâm Trạng Của Liên, một trong những nhân vật xuyên suốt tác phẩm.

Thạch Lam nổi tiếng với lối viết truyện không cần cốt truyện, những truyện ngắn của ông dường như không theo một sự kiện nào cả mà cứ bình bình đạm đạm kể về cuộc sống sinh hoạt của những con người, những kiếp người với giọng văn tinh tế, giản dị và sâu sắc. Thạch Lam rất giỏi trong việc miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật, ông không tả một cái gì trực tiếp mà thường qua những chi tiết, những hành động và lời nói của nhân vật và phác họa nên một tâm hồn phong phú, độc đáo.

Nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ là một điển hình của nghệ thuật ấy, từ những cảnh chiều tàn phố thị, những kiếp người tàn nơi tỉnh lẻ, bức tranh tâm hồn và tâm trạng của Liên đã được bộc lộ một cách tinh tế và sâu sắc.

Tâm trạng của Liên trước hết được bộ lộ thông qua sự tinh tế, nhạy cảm của cô trước biến chuyển của thiên nhiên lúc chiều tàn. Cái khung cảnh chiều nhá nhem tối, mọi thứ cứ mịt mù dường như thấm dần vào tâm hồn Liên, tựa như bóng tối ngoài kia đang ngập dần trong mắt cô và Liên “thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.

Một cô bé mới lớn có lẽ buồn vì nhiều thứ, trước hết là cảnh sắc dẫn tâm trạng, sự hiu quạnh, yên ả của làng quê khiến tâm hồn tươi trẻ của Liên cũng dường như chùng xuống. Ngày tàn, thế là lại qua một ngày ở nơi phố huyện nghèo khó, khi màn đêm buông xuống, nơi đây lại càng trở nên lặng lẽ và hiu hắt, với những thứ ánh sáng chập chờn, với những âm thanh rời rạc, thưa thớt. Liên cảm nhận được “một thứ mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương”.

Cái mùi âm ẩm ấy rõ ràng không phải là một mùi thơm tho, thoải mái mà là một thứ mùi hỗn độn, khó ngửi của rác rưởi, của hơi đất, thế nhưng đối với Liên thì nó lại rất đỗi thân thuộc, Liên thấy gắn bó, thấy yêu thương cái mùi ngai ngái ấy. Như vậy chính cái tình yêu, sự gắn bó với mảnh đất phố huyện này một thời gian dài đã xua đi hết những cái mùi khó chịu và thay vào đó trong tâm hồn Liên thì đó lại chính là mùi của quên hương, ấm áp, thân thuộc vô cùng.

Ở Liên người ta còn nhận thấy được một tâm hồn với vẻ đẹp nhân hậu, thương yêu con người, tâm trạng của cô đối với từng nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện rất rõ nét điều ấy. Với mấy đứa trẻ không quen biết đang lần mò, nhặt nhạnh rác rưởi “Liên động lòng thương, nhưng chị cũng không có tiền để cho chúng nó”, từ câu văn ấy ta thấy được sự thương cảm với những đứa trẻ tội nghiệp, cái nghèo khổ đã hành hạ, khiến chúng phải vất vả lần mò trong cảnh chiều tàn, dẫu chúng chỉ mới bắt đầu cuộc đời thôi, nhưng đó cũng có thể là một trong những kiếp người tàn chôn vùi cuộc đời nơi phố huyện.

Chị vừa thương lũ trẻ con, nhưng chính bản thân chị cũng bất lực, cũng buồn bã vì không thể giúp đỡ chúng, bởi chị cũng nghèo, chị cũng không có tiền để cho. Với mẹ con chị Tí, Liên vừa thể hiện tấm lòng yêu thương qua lời thăm hỏi, vừa bộc lộ tâm trạng xót xa, ái ngại khi kể về gia cảnh của hai mẹ con. Với bà cụ Thi, một người đàn bà già cả, hơi điên điên, ta lại thấy ở Liên sự thấu hiểu, thông cảm cho một kiếp người tàn tạ vì nghèo đói, dẫu rằng Liên có phần sợ cụ.

Liên dường như già dặn và sâu sắc hơn so với tuổi thật của mình, nhưng ở chị người ta vẫn thấy được những niềm vui thích trẻ con, cũng như An, Liên ưa thích được đi chơi như những đứa trẻ con khác, việc trông hàng quán khiến cô thấy chán nản. Nhưng ở khía cạnh khác Liên cũng lại thấy tự hào vì cảm thấy mình là người con gái lớn và đảm đang, có thể quán xuyến việc ở cửa hàng, cái xà tích và chiếc khóa rương tiền mà chị hằng yêu mến chính là minh chứng cho điều ấy.

Trong cái tối bao trùm phố huyện của trời đất, Liên ngồi đợi chuyến tàu khuya, dẫu đã quen lắm rồi cảnh tối tăm của phố huyện, nhưng trong lòng Liên vẫn mãi không quên về một thời ký ức tuyệt vời ở thủ đô. Ngoài những tháng ngày sống khá giả được đi chơi hồ Tây, được ăn những thứ quà vặt ngon lành thì trong trong ký ức của Liên rõ nét nhất là ánh đèn điện của Hà Nội “một vùng sáng rực và lấp lánh, Hà Nội nhiều đèn quá!”, khác hẳn với những ánh đèn chập chờn leo lét nơi tỉnh lẻ.

Chính vì vậy đối với Liên, một đoàn tàu sáng rực từ Hà Nội về giữa đêm khuya chính là sự sống là hy vọng là niềm vui, là động lực của cuộc sống bế tắc và chật hẹp này. Trong tâm hồn Liên luôn phảng phất một nỗi buồn không tên đó là “những cảm giác mơ hồ khó hiểu”, trước khi đoàn tàu đến. Trông mong bao nhiêu thì khi đoàn tàu vụt qua cũng để lại trong lòng Liên nhiều cảm giác nuối tiếc và hụt hẫng, ánh mắt cô cứ cố dõi theo chuyến tàu đã khuất trong màn đêm mịt mờ như để cố níu giữ điều gì đó, có thể là một chút Hà Nội chăng?

Liên luôn có một đôi mắt và một tâm hồn tinh tế, đoàn tàu chỉ lướt qua trong giây lát nhưng chỉ cũng nhận thấy những khác thường “chuyến tàu hôm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sang hơn”, lời nhận xét ấy, đôi khi người ta cũng nhận ra chút gì đó gọi là hụt hẫng, buồn buồn trong lòng của cô gái.

Và rốt cuộc, ánh sáng con tàu đã khơi gợi những hy vọng, những ước mơ, nhưng chúng sẽ mãi chẳng trở thành hiện thực nếu con người ta không có những hành động thực tế. Như vậy bức tranh tâm trạng của Liên ngoài việc bộc lộ nghệ thuật xây dựng nhân vật tinh tế và tài tình của Thạch Lam, nó còn khiến độc giả phải nhận ra một thông điệp thật ý nghĩa về cuộc sống mà Thạch Lam muốn truyền đạt trong tác phẩm Hai đứa trẻ.

SCR.VN gợi ý 💧 Phân Tích Tiếng Hát Con Tàu Chế Lan Viên 💧 11 Bài Mẫu Hay

Phân Tích Hai Đứa Trẻ Phố Huyện Lúc Chiều Tàn Ngắn Hay – Bài 9

Bài Phân Tích Hai Đứa Trẻ Phố Huyện Lúc Chiều Tàn Ngắn Hay giúp các em có thể học hỏi được cách diễn đạt và cách dùng từ ngữ sáng tạo.

Trong nền văn học dân tộc, ít có người như Thạch Lam. Bằng những truyện ngắn tưởng như đơn giản, không có cốt truyện nhưng những gì nhà văn viết, tiếng nói nhè nhẹ của ông đã để lại những lắng sâu, những nghĩ suy, những dư âm nhẹ nhàng mà sâu sắc cho độc giả. “Hai đứa trẻ” (in trong tập “Nắng trong vườn”, xuất bản năm 1938) là một truyện ngắn như thế. Dưới con mắt ngây thơ của “Hai đứa trẻ”, người đọc dường như cùng nhập cuộc, cùng theo dõi, để rồi bức tranh thiên nhiên và bức tranh đời sống của phố huyện nghèo, của những con người bình dị, lam lũ hiện lên.

Trong nắng chiều dần tắt, trong cái nhập nhòe nửa sáng nửa tối và trong cái chập chờn của màn đêm bao la với vài ngọn đèn lay lắt, cuộc sống hiện lên như những vật thể nhỏ xíu, trong cái đèn kéo quân đang hết dầu chầm chậm quay, để rồi rơi tõm vào màn đêm sâu thẳm.

Cảnh không có gì hấp dẫn, hoạt động của con người thì lẻ tẻ, đơn điệu nhưng bức tranh chiều thì dần dần đen lại, chập chờn mấy ngọn đèn nhưng cứ lôi cuốn người đọc dõi theo cùng cô bé Liên bởi sự quan sát, cảm nhận, nhạy cảm, ngây thơ của cô bé, bởi sự hiện lên sống động, chân thực của bức tranh đời sống phố huyện nghèo đã gây nên cảm xúc trữ tình, tạo nên cảm giác buồn thương cho người đọc.

Mở đầu câu chuyện, Thạch Lam bằng sự quan sát tài tình của mình, bằng ngòi bút tài hoa của mình đã vẽ lên một bức tranh đơn giản mà huyền ảo, gây cho ta cảm giác như lạc vào thế giới thần tiên của truyện cổ tích: “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương Tây, đỏ rực như lửa cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn: dãy tre làng trước mắt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”.

Điệp từ “chiều” được nhắc đi nhắc lại, cái bóng tối lan nhanh thấm vào tâm hồn ngây thơ của cô bé Liên, cái âm thanh “êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng” tạo nên trong Liên nỗi “buồn man mác trước thời khắc của ngày tàn”. Phiên chợ đã “vãn từ lâu”, “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”, chỉ còn lại sự nghèo nàn, xa xác với những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá nứa”, chỉ còn lại “mùi âm ẩm bốc lên”, chỉ còn lại hơi nóng ban ngày, mùi cát bụi và cảnh mấy đứa con nhà nghèo lom khom đi lại, tìm tòi.

Ngày lại ngày, chiều và tối đơn điệu lặp lại sự buồn tẻ ấy như cuộc sống lầm than của người dân phố huyện này. Ánh sáng của cuộc sống ấy có chăng chỉ là sự lay lắt “chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ” như chiếc đèn của chị Tí. Sự sang trọng, vùng sáng lớn của con tàu đi qua phố huyện trong đêm chỉ lướt qua rồi mất hút vào đêm tối, chỉ là cái gì thật mơ hồ, xa lạ không biết bao giờ mới đến với cuộc đời của chị em Liên, của người dân phố huyện này.

Không một lời phê phán, không một sự lên án, không đặt ra một câu hỏi, ngòi bút tài hoa của Thạch Lam chỉ miêu tả đời sống thật, đời sống tối tăm, không hi vọng của người dân một vùng quê, một phố huyện nghèo mà sao làm nhức nhối chúng ta, gieo vào lòng ta một sự hoài nghi về xã hội thời nhà văn sống.

Đóng góp như thế cho cuộc đời, cảm thông như thế cho thân phận con người, miêu tả như thế trong tác phẩm của mình, tâm hồn nhà văn đẹp đẽ biết bao, giá trị văn học mà Thạch Lam sáng tạo tài hoa và đáng trân trọng biết bao. Chúng ta xếp Thạch Lam vào những tên tuổi lớn của văn học nước nhà giai đoạn 1930 – 1945, độc giả biết ơn nhà văn đã viết những trang sách cho đời và coi ông như một trong những cây bút truyện ngắn bậc thầy thật đúng với tài năng của ông, đúng như tuyên bố của nhà văn với độc giả.

Giới thiệu đến bạn 🌿 Phân Tích Người Lái Đò Sông Đà 🌿 19 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Hai Đứa Trẻ Cảnh Phố Huyện Về Đêm Đơn Giản – Bài 10

Phân Tích Hai Đứa Trẻ Cảnh Phố Huyện Về Đêm Đơn Giản, cùng đón đọc bài văn mẫu được nhiều bạn đọc quan tâm và tìm kiếm dưới đây.

Thạch Lam là nhà văn xuất sắc trước Cách mạng tháng Tám. Những việc hết sức bình thường trong đời sống đã được nhà văn miêu tả một cách chân thực, sâu sắc, gợi nên nhiều nghĩ suy. Truyện ngắn Hai đứa trẻ, với hình ảnh đoàn tàu đi qua phố huyện chỉ vài ba phút trong đêm là hình ảnh đầy ý nghĩa.

Giữa một buổi chiều là buồn tẻ, “tiếng trống thu không” vang lên “từng tiếng một” để gợi buổi chiều. Rồi màn đêm dần dần đến mà dấu hiệu là “dãy tre làng đen lại” và “bóng tối ngập đầy dần cái buồn của buổi chiều quê thấm thìa và tâm hồn ngây thơ” trong đôi mắt của Liên. Phố huyện về đêm gần như vắng tanh, chỉ có vài “ngọn đèn lay đọng trên chõng hàng của chị Tí”, gánh phở bác Siêu, vợ chồng bác xẩm. Tuy “buồn ngủ rức cả mắt”, chị em Liên vẫn có thức, để bán hàng với hi vọng “may ra còn có một vài người mua”.

Song “Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu, đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya”.

Thạch Lam khá am hiểu tình cảm của người dân nghèo nơi phố huyện nhỏ này. Đoàn tàu đến là hoạt động náo nhiệt nhất của đêm khuya, đem đến cho mọi người cái hi vọng được nhìn thấy “một chút thế giới khác”. Nhà văn đã miêu tả đoàn tàu đêm một cách chi tiết và trân trọng. Đó cũng chính là sự trân trọng ước muốn của con người.

Nhà văn đã miêu tả từ những dấu hiệu đầu tiên: “Mấy người làm công ở hiệu khách đi đón bà chủ ở tỉnh về”, “hai ba người cầm đèn lồng lung lay các bóng dài”, “đèn ghi đã ra”. Con tàu từ xa đang tiến đến với “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra ngọn gió xa xôi”. Dấu hiệu ấy khiến mọi người xôn xao; tiếng bác Siêu báo đèn ghi đã ra, tiếng của Liên gọi em An.

Và chuyến tàu đến: “Tiếng còi đã rít lên, và rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vượt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh sáng cả xuống đường”. Trước mắt Liên “những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Chuyến tàu đi qua, “để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”, “cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo lên trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”.

Thạch Lam đã quan sát và miêu tả bằng những chi tiết khá sâu nét. Ánh sáng, màu sắc, âm thanh, hoạt động được thể hiện phù hợp và đầy sức gợi cảm trong đêm tối.

Thạch Lam đã dẫn người đọc cùng ông về một phố huyện nghèo nàn, buồn tẻ và đơn điệu, cùng ông cảm thông với cuộc sống của cả một lớp người, sống không có hi vọng vào ngày mai, nếu có chăng là nhìn thấy thoáng qua sự ồn ào, vẻ sang trọng của người khác. Phố huyện bây giờ, khi đoàn tàu đã đi xa, “chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn”, chỉ còn “vợ chồng bác xẩm ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ”, và “hình ảnh thế giới quanh mình, mờ mờ đi trong đôi mắt” của Liên.

Phải chăng dưới ngòi bút của Thạch Lam, cuộc sống chẳng còn ý nghĩa gì? Không, dù chưa lạ được gì cho con người nghèo khổ, Thạch Lam đã góp một tiếng nói cảm thông, đã nhen nhóm trong họ một chút hi vọng để vượt lên trên cái tẻ nhạt, tầm thường của cuộc sống. Miêu tả cả một lớp người và tâm trạng của họ như thế, chúng ta thấy được lòng trắc ẩn của nhà văn trước số phận của con người. Vì thế, truyện ngắn Hai đứa trẻ là một truyện ngắn hay, gợi lên trong người đọc nhiều nghĩ suy trước số phận con người, nhất là những con người nhỏ bé.

Giới thiệu tuyển tập ☀️ Phân Tích Vợ Nhặt Kim Lân ☀️ 15 Mẫu Phân Tích Tác Phẩm Hay

Phân Tích Tác Phẩm Hai Đứa Trẻ Bức Tranh Phố Huyện Đầy Đủ Ý – Bài 11

Phân Tích Tác Phẩm Hai Đứa Trẻ Bức Tranh Phố Huyện Đầy Đủ Ý sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích và giàu ý nghĩa biểu đạt.

Trong Tự Lực văn đoàn, nhà văn Thạch Lam đứng thành một dòng riêng biệt. Nhất Linh với Khái Hưng còn có thể viết tiểu thuyết chung nhưng Thạch Lam thì không. Giọng điệu của Thạch Lam nhỏ nhẹ, điềm tĩnh, sâu lắng, nhiều dư vị, có sức truyền cảm đặc biệt. Thạch Lam lại hướng về các nhân vật bé nhỏ ở tầng lớp dưới của xã hội. Trong khi đó, các nhà văn khác của Tự lực văn đoàn lại hướng về các nhân vật thượng lưu. “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam, cho khuynh hướng tư tưởng của Thạch Lam, hướng về cuộc đời, hướng về cái Thiện, cái Mĩ.

Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”.

Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương day cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.

Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”.

Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế. Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ.

Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dày đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”.

Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những mảnh sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.

Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại. Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền, rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một chút hi vọng.

Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người khốn khổ ấy. Nhất Linh cũng từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vô thức hiện thực đó, khát vọng đó.

Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu.

“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó.

Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm của phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho những con người lao động nghèo khổ.

SCR.VN chia sẻ ☔Phân Tích Những Đứa Con Trong Gia Đình ❤️️ 14 Bài Văn Mẫu

Phân Tích Tác Phẩm Hai Đứa Trẻ Hình Ảnh Đoàn Tàu Ấn Tượng – Bài 12

Bài Phân Tích Tác Phẩm Hai Đứa Trẻ Hình Ảnh Đoàn Tàu Ấn Tượng được SCR.VN chia sẻ dưới đây giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài viết của mình.

Hình ảnh đoàn tàu trong phần cuối tác phẩm được coi là một chi tiết giàu ý nghĩa, góp phần làm nên thành công của truyện ngắn này. Đây là một hình ảnh được dựng xây để thấy được một số khía cạnh khác nhau của đời sống hiện thực. Hình ảnh con tàu trong Hai đứa trẻ mang mơ ước của chị em Liên về một phố thị đầy phồn hoa, nơi không còn những tù túng, quẩn quanh như Cẩm Giàng.

Hình ảnh sự tàn lụi cuối ngày được mở ra đầu câu chuyện, khi tiếng trống thu không cất lên. Phố huyện nghèo như đón nhận những huyên náo vui nhộn cuối cùng của một ngày khi con tàu xuất hiện. Hình ảnh hai chị em Liên trong Hai đứa trẻ hiện lên bừng lên trong chốc lát. Thạch Lam đã sử dụng ngòi bút tài hoa của mình để khắc họa hình ảnh đoàn tàu trong hai đứa trẻ với những chi tiết như anh đèn xanh lét của đèn ghi, tiếng còi xa lắm của xe lửa, tiếng dồn dập, tiếng xe rít, làn khói trắng với tiếng khách ồn ào huyên náo.

Những âm thanh ấy mang lại hi vọng của nhiều người trong cuộc sống mưu sinh. Từ hình tượng hai chị em Liên, đến gia đình bác Xẩm, quán phổ bác Siêu cho đến hai mẹ con chị Tí đợi tàu … tất cả họ đều mong ngóng sự xuất hiện của đoàn tàu. Với chị em Liên, hình ảnh đoàn tàu trong Hai đứa trẻ còn là những kí ức tuổi thơ. Có thể nói, chính sự xuất hiện của con tàu đã mang đến kí ức và niềm mơ ước.

Khi tàu đã về ga, An hỏi Liên “Tàu hôm nay không đông chị nhỉ?”Một câu hỏi tưởng như rất đỗi bình thường nhưng lại là khiến người đọc suy ngẫm rất nhiều. Hành khách ít đồng nghĩa với việc nhu cầu ít đi, nguồn cung cũng sẽ giảm, là nỗi trăn trở của những người bán hàng như bác Siêu, như gia đình hát Xẩm…

Vài ba quán cơm trước đây tấp nập sáng trưng ánh điện đến nửa đêm, nhưng giờ đây đều im lìm và đóng cửa. Vợ chồng bác Xẩm đã ngủ gục trên manh chiếu và mẹ con chị Tí thì đã về từ khi nào, chị em Liên cũng không bán thêm được xu nào. Ấy vậy nhưng ai cũng mong những chuyến tàu này, nó mang đến hy vọng, đem đến ánh sáng xua đi bóng tối của sự tù túng quẩn quanh.

Đón đọc văn mẫu 🍀Phân Tích Rừng Xà Nu ❤️️ 15 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm Hay

Phân Tích Hai Đứa Trẻ Chuyến Tàu Đêm – Bài 13

Cùng đón đọc bài mẫu Phân Tích Hai Đứa Trẻ Chuyến Tàu Đêm đặc sắc dưới đây để có cái nhìn tổng quan giá trị trong từng chi tiết mà tác giả muốn gửi gắm.

Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam được coi là “một bài thơ trữ tình đượm buồn”. Đây là một truyện ngắn độc đáo có sự kết hợp của chất tự sự và chất trữ tình. Sự xuất hiện của hình ảnh đoàn tàu ở cuối tác phẩm được coi là một chi tiết giàu ý nghĩa, góp phần làm nên thành công của truyện ngắn này.

Đoàn tàu xuất hiện trong hoàn cảnh đầy tăm tối của những kiếp người mỏi mòn nơi phố huyện mà cuộc sống của họ đang chìm ngập trong bóng tối. Tuy nhiên chừng ấy người trong bóng tối vẫn “mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Với hai chị em Liên thì sự mong mỏi ấy rõ ràng, cụ thể hơn. Chúng chờ tàu từ chiều cho đến khuya để được thấy đoàn tàu và ngày nào cũng thế. Khi nhìn thấy đoàn tàu chạy qua phố huyện thì dường như chúng mới được sống trọn vẹn một ngày.

Từ xa, hình ảnh đoàn tàu đã hiện lên với “ngọn lửa xanh biếc như trời”,với “tiếng còi vọng lại theo ngọn gió xa xôi”. Rồi đoàn tàu đến gần trong âm thanh dồn dập, ồn ào, rầm rộ, tiếng ghi rít mạnh lên. Khói bừng sáng, đèn sáng trưng chiếu sáng xuống mặt đường. Một thứ âm thanh mạnh mẽ và huyên náo hẳn. Một thứ ánh sáng lấp lánh, rực rỡ ngập tràn phố huyện. Nhưng đoàn tàu đi qua trong khoảnh khắc rồi dần dần mất hút vào khoảng sâu của đêm tối. Tiếng vang động nhỏ dần rồi tắt hẳn, trả lại phố huyện nét vẻ vốn có của nó.

Chi tiết đoàn tàu xuất hiện đã góp phần soi rõ tâm trạng các nhân vật, đặc biệt là chị em Liên. Hai chị em đã chờ tàu trong niềm thiết tha, khắc khoải rồi đón tàu trong niềm háo hức, say mê, tiễn tàu trong niềm nuối tiếc, bâng khuâng. Chúng chờ tàu không phải vì tò mò, không phải để bán hàng, không đợi người quen mà là để được nghe âm thanh, được nhìn ánh sáng và được sống với một thế giới khác.

Đây còn là chi tiết giàu ý nghĩa biểu tượng, góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Đoàn tàu là hình ảnh biểu trưng cho quá khứ. Nó chạy về từ Hà Nội, từ miền kí ức tuổi thơ thể hiện ước mơ và khát vọng của chị em Liên. Đó là ước mơ được quay trở về quá khứ, sống một cuộc sống tươi đẹp như quá khứ đã qua. Khi hiện tại cuộc sống làm con người không thỏa mãn, người ta thường có xu hướng quay trở lại quá khứ, đặc biệt là quá khứ tươi đẹp. Đặt trong mối quan hệ với hiện tại, đoàn tàu là một thế giới khác hẳn với cuộc sống tràn đầy bóng tối, tẻ nhạt, đơn điệu nơi phố huyện nghèo.

Thế giới rực rỡ ánh sáng, ngập tràn âm thanh, chứa đựng bao điều mới mẻ, thú vị. Và thế giới ấy còn giúp những người dân nơi phố huyện nhận ra còn có một cuộc sống đáng sống hơn nơi phố huyện nghèo – cái ao đời phẳng lặng kia. Chi tiết đoàn tàu xuất hiện còn khơi dậy khát vọng và ước mơ của chị em Liên, của những người dân phố huyện về một tương lai sáng lạn.

Nó đánh thức khát vọng mơ hồ trong cõi vô thức của hai tâm hồn thơ dại: khát vọng vượt thoát, khát vọng đổi thay, khát vọng kiếm tìm. Nhưng rồi đoàn tàu ấy lại biến mất. Ước mơ thoát khỏi hiện tại vốn đã rất mong manh, xa xôi. Hình ảnh đoàn tàu như niềm vui, tia hi vọng chợt lóe lên rồi vụt tắt. Tất cả trở nên mơ hồ hơn và càng khắc sâu vào nỗi khổ của chừng ấy con người nơi phố huyện nghèo.

Chi tiết nhỏ nhưng đã trở thành điểm sáng tư tưởng cho tác phẩm. Nó thể hiện lòng nhân đạo, niềm xót thương vô hạn đối với những kiếp người tàn lụi, vô vọng và bế tắc. Từ đó Thạch Lam muốn thức tỉnh những con người đang sống trong cái ao đời phẳng lặng, tù đọng một khát vọng sống, khát vọng vượt thoát, khát vọng đổi thay. Chính Thạch Lam cũng khao khát muốn đem đến cho họ tia ánh sáng của sự sống để văn chương trở thành “một thứ khí giới thanh cao và đắc lực”

Gửi đến bạn 🍃 Phân Tích Sông Hương 🍃 15 Bài Phân Tích Hình Tượng Hay

Phân Tích 2 Đứa Trẻ Đoạn Đầu Ngắn – Bài 14

Đón đọc bài mẫu Phân Tích 2 Đứa Trẻ Đoạn Đầu Ngắn để trau dồi thêm cho mình những ý văn hay và đặc sắc.

Trong giai đoạn văn học trước Cách mạng tháng Tám. Thạch Lam là một cây bút xuất sắc đa tài năng. Truyện ngắn Hai đứa trẻ rút trong tập Nắng trong vườn (1938) là một tác phẩm tiêu biểu của ông. Với cách viết giàu chất lãng mạn, truyện như một bài thơ trữ tình đượm buồn nhưng đầy cá tính nhân văn.

Trong mỗi tác phẩm truyện kể, ngoài yếu tố nhân vật còn phải kể đến một yếu tố khác, đó là hoàn cảnh. Xây dựng hoàn cảnh, tác giả nhằm xác lập mối quan hệ giữa nhân vật và môi trường xã hội mà nhân vật đó đang sống. Sự tác hợp giữa hoàn cảnh và nhân vật sẽ tạo nên chất keo kết dính các chi tiết và nhờ vậy nội dung tác phẩm trở nên liền mạch, nghệ thuật của tác phẩm đó sẽ hoàn chỉnh hơn. Đó là một trong những yêu cầu bắt buộc không chì của văn học hiện thực (Hoàn cảnh sinh tính cách).

Nhà văn Thạch Lam mở đầu truyện ngắn Hai đứa trẻ bằng những hình ảnh vào thời khắc của một ngày sắp tàn. Vào thời điểm đó cảnh vật của phố huyện nghèo hiện ra xơ xác, tiêu điều, với những con người mỏi mệt quẩn quanh nơi phố chợ. Cùng xuất hiện với những gì tàn tạ nhất ở phố huyện đó là nhân vật Liên và An. Qua cái cảm nhận của hai tâm hồn ngây thơ ấy, mọi cảnh vật được hiện lên một cách chi tiết và chân thực nhất.

Nhưng trước hết, cái cảnh chiều tàn nhưng vẫn được nhà văn miêu tả đậm chất thơ.

“Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cất hình rõ rệt trên nền trời… Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào…”.

Bức tranh ấy tuy đẹp nhưng ẩn ở trong đó cả một nỗi buồn mà người vẽ lên đã cố ý che lấp bằng những mảng màu sặc sỡ. Sở dĩ phải miêu tả cảnh vật ấy. Thạch Lam như muốn giúp người ta đi tìm chút cảm giác nhẹ nhõm sau những trăn trở của cuộc đời. Văn Thạch Lam bao giờ cũng giàu cảm xúc để rồi khiến người đọc như chìm vào cõi mộng của một bài thơ tình lãng mạn. Từng câu chữ cứ nhè nhẹ lan thâm vào lòng người trong cảm giác say mê.

Chỉ cần nhìn vào cái chợ tiêu điều này cũng có thể thấy cuộc sống của người dân khổ cực thế nào? Những người bán hàng về muộn đứng nói chuyện với nhau ít câu như thế trao lại cho nhau những nỗi buồn tẻ cuộc sống, ống kính tác giả không quên ghi lấy hình ảnh những đứa trẻ con nhà nghèo, đang mưu kế sinh nhai bằng những phế phẩm của phiên chợ. Những số phận ấy “cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay hất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”.

Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó. Đây là hiện thân đầy đủ nhất của sự khốn khổ. Tất cả nhưng đang cố sức để tống hi vọng. Sự cố gắng thì đã quá sức, còn hi vọng thì vẫn mơ màng”. Ở truyện ngắn này, các nhân vật đều đang tìm cách cầm cự trong cuộc sông hiện tại. Chị Tí với hàng nước bên cái móc gạch nhưng không biết bán cho ai.

Khá hơn đôi chút là hàng bác phở Siêu, nhưng đó cũng chỉ hé lên một mảng ánh sáng đèn dầu leo lét. Thế mà với cuộc sống ở phố huyện nghèo này thì hàng của bác vẫn là một thứ “xa xỉ”.

Cảnh của phố huyện thật là tiêu điều xơ xác. Cuộc sống của những con người ở đó thì mòn mỏi, nặng nề. Mọi hoạt động như để chống chọi lại với sự nghèo nàn khốn khó nhưng tất cả chỉ lâm vào bế tắc. Hoàn cảnh đó thường sản sinh ra những con người quái đản, đó là bà cụ Thi “hơi điên”, với tiếng cười khanh khách đi vào bóng đêm.

Cụ Thi điên là chứng tích của sự sa sút về cuộc sống, một biểu hiện tiêu biểu cho quá trình tìm tòi lối thoát trong tuyệt vọng. Sự xuất hiện của nhân vật cụ Thi “hơi điên” càng làm cho nhân vật truyện ngắn Hai đứa trẻ thêm cụ thể, sinh động, tạo cho bức tranh cuộc sống trở nên ngột ngạt.

Cảnh chiều tàn nơi phố huyện nghèo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ là một góc thu nhỏ của xã hội cũ. Ở đó những số phận con người được hiện lên rõ ràng nhất. Tất cả tập hợp lại trong một không gian chật hẹp và tăm tối.

Thông qua phần đầu của truyện, nhà văn Thạch Lam đã tái hiện lại bối cảnh cuộc sống của những năm trước Cách mạng tháng Tám. Bằng việc phác họa cảnh phố huyện ngày tàn, truyện ngắn Hai đứa trẻ đã chứng tỏ nhà văn am hiểu sâu sắc cuộc sống tù túng của người nông dân lao động đồng thời lên tiếng bảo vệ quyền sống và sự công bằng cho xã hội thời bấy giờ.

Với bút pháp tả cảnh đạt đến chuẩn mực truyện mang âm hưởng của một bài thơ trữ trình nhưng gợi cảm xúc buồn man mác. Nghệ thuật miêu tả cộng với niềm cảm hứng lãng mạn được tác giả sử dụng đã đưa truyện ngắn này xứng đáng với những tác phẩm xuất sắc cùng thời.

Đáng quý là trong cái cảnh chiều tàn ấy, tình cảm con người vẫn còn chưa tàn tạ. Dù không khấm khá hơn, nhưng Liên vẫn mong có tiền để đưa cho những đứa trẻ lam lũ đang tìm kiếm những vật rơi rớt lại sau phiên chợ tiêu điều. Liên không chỉ thương mình và An mà còn hướng đến cả bao số phận cơ cực khác.

Tất cả những con người trong phố huyện này, từ mẹ con chị Tí, ngày nào cũng như ngày nào quẩn quanh với những công việc chẳng có gì khác là ban ngày đi bắt tép, tối về dọn quán bán nước cho mấy chú lính tuần, cho đến hàng phở Siêu leo lét ngọn đèn dầu, bà cụ Thi “hai điên” với tiếng cười khanh khách… Tất cả chi nói lên cái mòn mỏi của cuộc sông nơi phố huyện mà chưa phải là những gì tha hóa, khiến con người phải độc ác.

Thạch Lam không phải là nhà văn hiện thực phê phán như Nam Cao hay Ngô Tất Tố, nên ngòi bút của ông không khai thác cái trần trụi của cuộc đời lam lũ. Mặc dù thế, trong các bài thơ rất đỗi tinh tế là truyện ngắn Hai đứa trẻ này, Thạch Lam đã gián tiếp phản ánh và tố cáo cái xã hội ngột thở, tù đọng, trong đó, cuộc sống con người đang mất hết ý nghĩa, đang bị dồn đến chân tường bế tắc.

Và từ thực tế ấy, tác giả đã chuẩn bị cho đoạn tiếp theo miêu tả cái khát vọng được đi xa, mơ hồ, kín đáo trong hình ảnh chuyến tàu đêm với tâm trạng háo hức của hai đứa trẻ.

Chia sẻ 🌼 Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ ❤️ 20 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Đoạn Cuối Truyện Hai Đứa Trẻ – Bài 15

Phân Tích Đoạn Cuối Truyện Hai Đứa Trẻ, một trong tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Thạch Lam.

Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam in trong tập Nắng trong vườn (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, năm 1938). Đây là một kiểu truyện ngắn trữ tình có nhiều chi tiết ngỡ như vụn vặt, vô nghĩa, nhưng kì thực đã được tác giả chọn lọc và sắp xếp một cách chặt chẽ để diễn tả tâm trạng nhân vật. Nội dung tác phẩm đi sâu miêu tả những cảnh đời thường, những số phận nghèo khổ, tối tăm trong xã hội cũ. Qua đó, tác giả gửi gắm một cách kín đáo, nhẹ nhàng nhưng không kém phần thấm thía tư tưởng nhân đạo đáng quý.

Truyện có nhiều cảnh: cảnh ngày tàn, chợ tàn và những kiếp người tàn. Hình ảnh chuyến tàu đêm chạy qua phố huyện có ý nghĩa sâu sắc khiến người đọc xúc động. Hình ảnh đoàn tàu đêm là thế giới ước mơ, khát vọng của người nghèo.

Hai đứa trẻ là chị em Liên và An, chị khoảng mười hai mười ba, em độ lên bảy lên tám. Các nhân vật khác như những đứa trẻ bới rác, mẹ con chị Tí hàng nước, bà cụ Thi điên say rượu, bác phở Siêu, vợ chồng con cái nhà xẩm mù… góp phần tô đậm bức tranh cuộc sống khốn khó và tẻ nhạt. Thời gian là từ xẩm tối cho đến nửa đêm. Bối cảnh của truyện là một phố huyện nhỏ nghèo nàn, hiu hắt nằm ở giữa thôn xóm và cánh đồng, có đường xe lửa chạy qua.

Buổi chiều nơi phố huyện với những âm thanh và hình ảnh báo hiệu một ngày tàn: tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Sau một ngày làm lụng cực nhọc, cái chờ đợi mọi người là bóng tối và sự yên lặng quạnh hiu. Cảnh chợ chiều đã vãn càng làm nổi rõ cái nghèo: rác rưởi vung vãi trên nền chợ và những đứa trẻ lom khom tìm kiếm những gì có thể dùng được cho cuộc sống nghèo khổ của gia đình chúng.

Tác giả miêu tả hình ảnh đoàn tàu và thói quen đón đợi đoàn tàu của hai đứa trẻ thật chi tiết, tỉ mỉ. Lí do chờ đợi tàu của hai đứa trẻ bao gồm cả việc chờ tàu đến để bán hàng cho khách xuống tàu và cái chính là để thỏa mãn niềm khao khát, mong mỏi được nhìn ngắm đoàn tàu.

Hai chị em Liên và An đã sống qua một ngày mệt mỏi và tẻ nhạt. Chúng chỉ bán được vài món hàng rẻ tiền như bao diêm, gói thuốc lào, bánh xà phòng… Đến tối thì kiểm hàng và đếm lại số tiền nhỏ nhoi. Hai đứa trẻ trơ trọi trong bóng tối, trên chiếc chõng cũ sắp gãy giữa không khí oi bức và tiếng muỗi kêu ran. Chỉ có một người đến với các em, đó là bà cụ Thi, một bà già hơi điên tối tối thường ghé mua rượu uống.

Các em chờ đoàn tàu đêm chạy ngang qua trong tâm trạng vô cùng háo hức. Sự xuất hiện của hàng nước chị Tí, gánh phở bác Siêu… là cái mốc để các em đo đếm thời gian đang xích lại gần với chuyến tàu. Cả hai chị em đều buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn cố thức để chờ. Cho đến khi An không thể thức được nữa, gối đầu lên đùi chị, mi mắt sắp sửa rơi xuống, còn dặn với: Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé.

Hai chị em cố thức chỉ vì muốn được nhìn chuyến tàu đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Với hai đứa trẻ, con tàu đâu chỉ đơn thuần là con tàu mà là cả một thế giới khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Có lẽ chính vì vậy mà hình ảnh chuyến tàu được Thạch Lam tập trung miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng theo trình tự thời gian, qua tâm trạng chờ mong của hai nhân vật Liên và An.

Đoàn tàu chưa tới nhưng đã được báo trước từ xa với ánh đèn của người gác ghi và tiếng còi tàu theo gió vẳng lại. Tiếp theo là Liên trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, rồi nghe thấy tiếng còi xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Sau đó, hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ..

Đúng là hai đứa trẻ vui vì niềm khao khát, đợi chờ vừa được thỏa mãn. Nhưng đoàn tàu ấy lại thuộc về một thế giới quá xa xôi và nó càng sáng rực, vui vẻ, huyên náo bao nhiêu thì càng làm cho cảnh sống nơi phố huyện trở nên tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng bấy nhiêu. Chỉ có hình ảnh đoàn tàu lướt qua hằng đêm mà những người dân phố huyện ai cũng nôn nao chờ đợi.

Truyện ngắn Hai đứa trẻ đi sâu vào phản ánh thế giới tâm hồn của những con người cùng khổ trong xã hội cũ. Hình ảnh đoàn tàu chỉ xuất hiện thoáng qua rồi vụt tắt nhưng nó vẫn là ánh sáng của niềm vui. Như một niềm an ủi, một nỗi khát khao, một mơ ước không bao giờ tắt, một chút tươi sáng cho cuộc đời tăm tối triền miên của những số phận hẩm hiu, bất hạnh nhưng vẫn hi vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn.

Xem thêm 💕Phân Tích Bài Ca Ngất Ngưỡng ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Tình Huống Truyện Hai Đứa Trẻ Chọn Lọc – Bài 16

Phân Tích Tình Huống Truyện Hai Đứa Trẻ Chọn Lọc giúp các em có thể học hỏi và trau dồi thêm cho mình nhiều tư liệu ôn tập hay.

Tình huống truyện trong Hai đứa trẻ diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn từ chiều đến đêm khuya. Đó là thời gian kết thúc một ngày và mở ra đêm tối. Đây là một khoảng thời gian nghệ thuật vì đó là lúc con người gạt bỏ hết mọi bộn bề của cuộc sống, nhịp sống cũng bắt đầu chậm lại để con người có thời gian suy ngẫm về những gì đã xảy ra, về cuộc sống tương lai.

Nhưng đó cũng là thời gian mà bóng tối bủa vây như nuốt chửng con người, nuốt chửng hết mọi hy vọng khát khao của con người vào màn đêm mịt mù. Chiều tàn cũng như kiếp người đang tàn tạ dần. Đêm đen cũng như bóng tối của đời người. Chính vì lẽ đó mà cảnh chiều tàn đã gợi ra trong Liên biết bao suy nghĩ.

Không gian êm ái tĩnh lặng của một buổi chiều đang kéo đến. Cảnh ngày tàn trước hết được gợi ra qua âm thanh của tiếng trống thu không. Đó là âm thanh báo hiệu thời gian. Tiếng trống vang lên từng tiếng một giữa không gian càng khiến cho không gian ấy trong cảm nhận của Liên trở nên tĩnh lặng, yên ắng đến bất ngờ. Âm thanh ấy cũng là cái hồn của buổi chiều quê khiến lòng người man mác bâng khuâng. Câu văn “Chiều chiều rồi, một chiều êm ả như ru” đậm chất trữ tình cất lên như một tiếng thở dài của đất trời.

Tình huống truyện trong Hai đứa trẻ còn thể hiện trong cái nhìn đầy tính thi vị của Thạch Lam với một vẻ đẹp đầy tinh tế, bất ngờ. Đầu tiên là hoàng hôn với hình ảnh mặt trời đỏ rực như lửa cháy, những đám mây hồng được so sánh với “hòn than sắp tàn”.

Dường như buổi chiều được nhìn bằng đôi mắt đầy nuối tiếc. Những ánh sáng cuối cùng của ngày tàn như rực rỡ hơn lung linh hơn để rồi sau đó tất cả chìm dần trong bóng tối. Tiếng ếch nhái hòa cùng tiếng muỗi vo ve tạo thành một bản giao hưởng của đồng quê. Âm thanh ấy vang lên như làm thấm sâu thêm nỗi buồn của cảnh vật vào lòng người trong giây phút này. Nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào tâm hồn Liên một niềm u uất trầm lắng.

Phiên chợ vãn “trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Chợ tàn người về hết chỉ còn cơ man bao nhiêu rác với rác mà thôi, gợi biểu hiện của một phố huyện nghèo. Liên nhìn “những đứa bé con nhà nghèo đang nhặt nhạnh thanh nứa, tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được”. Liên động lòng thương nhưng không biết làm gì để giúp chúng.

Khi tìm hiểu về tình huống truyện trong Hai đứa trẻ, ta thấy tình thương đó xuất phát từ sự đồng cảm. Liên cũng như nhiều đứa trẻ khác, nhà nghèo, sớm vất vả lo toan, không được hưởng cuộc sống vui vẻ, vô tư. Liên và chúng đều có quá ít niềm vui trong cuộc sống. Liên cảm thương cho mình, cho mẹ con Tí “bán từ chập tối đến đêm” mà chẳng kiếm được bao nhiêu. Liên nhìn sững sờ bà cụ Thi với “dáng đi lảo đảo chìm dần vào bóng tối”. Cuộc sống của những con người phố huyện càng khiến Liên thêm ngao ngán cho kiếp người lận đận, bế tắc.

Nỗi buồn man mác, tâm trạng nặng nề của Liên khi ngày tàn là biểu hiện của một tâm hồn nhân hậu, nhạy cảm, dễ xúc động trước những biểu hiện tàn tạ của thiên nhiên hay của những cảnh đời mòn mỏi quanh mình.

Quà nhận ngay 👉 Acc VIP Miễn Phí (Nhận Nick Game NGON Free MỚI NHẤT

Phân Tích Tình Huống Đợi Tàu Trong Hai Đứa Trẻ Nâng Cao – Bài 17

Cùng tham khảo bài mẫu Phân Tích Tình Huống Đợi Tàu Trong Hai Đứa Trẻ Nâng Cao để các em có thể rèn luyện thêm kĩ năng viết của mình.

“Mỗi truyện của Thạch Lam như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao tình cảm mến yêu, chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người”. Quả thực đúng như vậy, những trang văn của Thạch Lam không đi vào những biến cố mà đi sâu vào chiều sâu tâm trạng của con người. Cảnh chờ tàu của hai chị em Liên và An đã được tác giả nắm bắt những chuyển biến tế vi nhất trong tâm trạng của hai nhân vật.

Liên và An vốn là những đứa trẻ đã từng sống ở thị thành, nhưng gia đình sa sút nên phải chuyển về phố huyện nghèo. Liên và An tuy còn nhỏ tuổi nhưng cũng tham gia vào việc nuôi sống gia đình bằng cách trông một cửa hàng nhỏ ở chợ.

Quanh Liên cũng là biết bao kiếp sống nhỏ bé, mòn mỏi như chị Tí cùng đứa con vất vả mưu sinh, chật vật để sống qua ngày, gia đình bác xẩm góp vào bằng tiếng đàn bần bật trong yên lặng,… Cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt, quẩn quanh nhưng những con người nơi đây vẫn luôn hướng về một ngày tươi sáng: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Đêm nào cũng vậy, dù buồn ngủ nhưng cả Liên và An đều cố thức để chờ hoạt động cuối cùng của đêm, đó chính là đợi đoàn tàu khuya từ Hà Nội đi ngang qua. Vì sao những đứa trẻ ngây thơ ấy lại phải cố gắng đợi đoàn tàu đi qua mới có thể ngủ? Có phải chúng nghe lời mẹ dặn? Có phải cố nán lại để bán thêm phong kẹo, cái bánh từ những người khách qua đường.

Trong thời gian đợi tàu xuất hiện, chị Liên thả tâm hồn mình vào vũ trụ để cảm nhận hết thảy vẻ đẹp của thiên nhiên khi đêm về. Qua những kẽ lá bàng, “ngàn sao vẫn lấp lánh” trên nền trời, những nụ hoa bàng nhỏ khẽ rơi trên vai chị. Tâm hồn Liên thả trôi theo những cảm xúc bâng khuâng mà chính chị cũng cảm thấy mơ hồ không hiểu hết.

Tiếng trống cầm canh ở huyện đánh vang cùng với lời thông báo của bác Siêu: “Đèn ghi đã ra kia rồi” xua tan sự tĩnh mịch của màn đêm, để chuẩn bị cho sự hoạt động cuối cùng của đêm – con tàu từ Hà Nội dần dần xuất hiện. Ban đầu là ngọn lửa xanh biếc như ma trơi, rồi tiếp đến là làn khói trắng bừng lên từ xa. Liên gọi em dậy và cả hai chị em quan sát kĩ từng chuyển động của chiếc tàu.

Khoảnh khắc tàu đến, lòng hai chị em vui sướng, hân hoan đến lạ kì, dù chỉ là thoáng qua nhưng cũng đủ để hai tâm hồn tinh tế ấy nắm bắt trọn vẹn sự vật, sự việc đang diễn ra trên tàu: “các toa đèn sáng trưng, chiếu sáng cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền vàng lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Con tàu trong khoảnh khắc đã chỉ còn lại chiếc chấm đỏ nhỏ, rồi khuất sau rặng tre.

Bé An hồn nhiên nhưng cũng đã nhận ngay ra dường như tàu hôm nay không đông như mọi khi. Còn Liên thì đã nhận thấy sự thưa thớt cũng như kém sáng hơn của đoàn tàu: “Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn”. Dẫu đoàn tàu hôm nay có kém sáng hơn, có kém đông vui hơn mọi khi nhưng nó từ Hà Nội về, nó mang theo một thế giới khác hẳn đối với liên, đó là thế giới của ánh sáng, của niềm vui và của hạnh phúc.

Đêm nào Liên và An cũng đợi tàu, dù có buồn ngủ díp mắt, chúng cũng phải chờ được đoàn tàu đi qua mới ngủ. Đây không phải là một hành động ngẫu nhiên, vô nghĩa mà nó dường như là một nhu cầu, một đòi hỏi thiết yếu đối với Liên và An. Đằng sau đó còn chứa đựng cả những mơ ước, khao khát về một cuộc sống mới đẹp đẽ và hạnh phúc hơn. Hình ảnh những đoàn tàu vụt xuất hiện rồi biến mất nhưng cũng đủ để chúng được trở lại, được sống với những kỉ niệm tuổi thơ êm ấm trước đây.

Khao khát chờ đoàn tàu đi qua cũng ánh lên những khát vọng mãnh liệt của những đứa trẻ, đó là khát vọng đổi đời. Tại sao lại đặt khát vọng ấy vào hai nhân vật Liên và An mà không phải là chị Tí, bác Siêu, … bởi chúng là những đứa trẻ, chúng là mầm non, là tương lai của cuộc sống. Bởi vậy, khao khát đổi đời khi được tập trung thể hiện ở hai nhân vật sẽ trở nên ý nghĩa hơn, giàu sức gợi hơn.

Đồng thời qua khung cảnh đợi tàu, Thạch Lam cũng thể hiện thái độ cảm thương đối với những số phận người nhỏ bé, bất hạnh phải sống mòn mỏi với cuộc đời chật vật, bế tắc; đồng thời ông cũng trân trọng, nâng niu những khao khát, những ước mơ đẹp đẽ của Liên và An nói riêng, của những người dân phố huyện nói chung. Không chỉ vậy, qua khung cảnh chờ chuyến tàu đêm, Thạch Lam còn dóng lên tiếng gọi tha thiết, lay động tâm hồn người đọc: hãy thay đổi cuộc sống, khiến nó trở nên đẹp đẽ hơn, biến nó thành môi trường sống lành mạnh để những đứa trẻ được sống cuộc hạnh phúc.

Với nghệ thuật miêu tả tâm lí và cảnh vật tài tình, cảnh đoàn tàu kết lại tác phẩm đã để lại dư âm, ấn tượng sâu lắng trong lòng người đọc. Đóng lại cuốn sách người đọc vẫn không khỏi thổn thức trước những số phận kiếp người mòn mỏi nơi phố huyện. Nhưng đồng thời cũng chân trọng, nâng niu những mơ ước tha thiết, mãnh liệt của họ về một cuộc sống khác, về sự đổi đời.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌹Phân Tích Sóng Khổ 1 2 ❤️️ 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Hai Đứa Trẻ Lớp 11 – Bài 18

Tham khảo bài mẫu Phân Tích Hai Đứa Trẻ Lớp 11 hay nhất sẽ mang đến cho các em học sinh những ý tưởng làm bài đa dạng và phong phú hơn.

Hai đứa trẻ là truyện ngắn được nhà văn Thạch Lam viết vào những năm 1937 1938 khi mà xã hội Việt Nam ở vào một trong những thời kì đen tối nhất. Đây là truyện mang đậm phong cách của Thạch Lam, cốt truyện không có những nút thắt nổi bật độc đáo nhưng khi đọc xong luôn ám ảnh lòng người. Một trong những thành công của truyện là tác giả đã tái hiện lại bức tranh sinh động về đời sống ở một ga xép khi màn đêm buông xuống mà qua đó nhà văn đã gửi gắm tình cảm của mình với những cảnh đời khác nhau.

Tác phẩm Hai đứa trẻ được bắt đầu bằng cảnh chiều tà trên phố huyện. Văn học xưa nay khi tả cảnh chiều thường có những hình ảnh chim về tổ, người đi xa nhớ nhà, nỗi buồn hoàng hôn… Ở Hai đứa trẻ ta không bắt gặp hình ảnh đó nhưng cảnh chiều vẫn thấm thía một nỗi buồn và trong cái buồn nhà văn vẫn phát hiện nét đẹp thi vị mang chút hoang sơ của làng quê “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn… Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”.

Cùng với cảnh chiều tà là chợ tàn với hàng loạt những hình ảnh phơi bày vẻ nghèo xơ xác ở chốn này: “Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đấ chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Ngay sau cảnh chợ tàn là cảnh bóng tối bao phủ. Dưới con mắt của Liên thì giờ đây tất cả đã ngập đầy bóng tối.

Thạch Lam miêu tả bóng tối thật kì diệu. Có đến 30 lần tác giả nhắc đến bóng tối. Bóng tối đến từ nhiều phía: từ đám mây sắp tàn, từ rặng tre đã đen kịt, từ tiếng muỗi vo ve trong góc nhà, tiếng ếch kêu ngoài đồng để rồi nó bao trùm lên đường phố và các ngõ hẻm: “Tối hết cả từ con đường khấp khểnh ra sông…, các ngõ hẻm vào làng thì càng tối đen hơn nữa”

Với cách miêu tả này người đọc sẽ cảm nhận bóng tối như một cái gì đó rất hãi hùng, như một sự hăm dọa. Nó luồn lách mọi nơi, nó thâm nhập vào cảnh vật. Nó trùm lên và đè nặng lên cuộc sống ngột ngạt ở phố huyện nghèo nàn này.

Trong chuyện cũng có những chi tiết nói về ánh sáng ấy vừa leo lét tù mù, yếu ớt không đủ sức xua đi bóng tối mà trái lại lại còn gây cảm giác bóng tối càng đậm đặc hơn. Cứ tối đến thì bóng những con người bắt đầu xuất hiện khiến người đọc liên tưởng đến những loài chim ăn đêm lặn lội. Mặt khác ta cũng nghĩ ngay đến cảnh đời tăm tối trong đêm đen của chủ nghĩa thực dân phong kiến.

Cách miêu tả với từng gương mặt cụ thể, mỗi người có một đời sống riêng: chị Tí cứ nhá nhem tối là xuất hiện. Sau một ngày mò cua bắt tép vất vả, mặc dù biết là chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng tối nào chị cũng dọn hàng. Hình ảnh ngọn đèn leo lét chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ở quán nước của chị lại khiến ta liên tưởng tới cuộc sống tù mù, leo lét

Khi bác phở Siêu xuất hiện với một chấm lửa nhỏ và lơ lửng trong đêm tối, chập chờn như ma trơi. Từ khi dọn hàng cho tới lúc về bác không bán được đồng nào. Bà cụ Thi điên từ trong bóng tối đi ra với tiếng cười khanh khách. Sau khi uống cạn cút rượu, tiếng cười của cụ lại chìm vào bóng tối. Ở nhân vật này ẩn chứa một sự tội nghiệp u uất đầy bí ẩn.

Nhưng cảnh ám ảnh nhất là hình ảnh vợ chồng bác Xẩm mà nhà văn đã ba lần nhắc đến họ. Họ xuất hiện với tiếng đàn bầu run bần bật trong đêm tối rồi với đứa con bò lê trên đất cát trong bóng tối và khi về đếm về khuya thì họ ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ.

Sau khi miêu tả từng gương mặt tác giả khái quát lại “Chừng ấy con người trong bóng tối như mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Rõ ràng nhà văn đã thấu hiểu đồng cảm sâu sắc với những cảnh đời trong bóng tối và chính Thạch Lam cũng mong đợi được đổi đời.

Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Tự Tình Hồ Xuân Hương 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất

Viết một bình luận