Phân Tích Đây Mùa Thu Tới ❤️️ 23+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Mẫu Văn Đặc Sắc Phân Tích Về Tác Phẩm Của Nhà Thơ Xuân Diệu.
Cách Phân Tích Bài Thơ Đây Mùa Thu Tới Của Xuân Diệu
Cách phân tích bài thơ đây mùa thu tới của Xuân Diệu đơn giản, hiệu quả thông qua các bước cơ bản sau đây:
- Bước 1: Nhận xét khái quát bài thơ. Gồm các mặt như thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu nói chung. Đặc biệt là bố cục gồm bao nhiêu ý chính và định hướng cách phân tích theo bố cục như thế nào (cắt ngang, bổ dọc, hay kết hợp cả hai).
- Bước 2: Lần lượt phân tích theo định hướng bố cục trên. Thao tác này gồm các bước: lời dẫn hay chuyển ý, trích ngữ liệu thơ. Phải trích dẫn đầy đủ, chính xác.
- Bước 3: Bám vào những từ ngữ, hình ảnh trọng tâm, các biện pháp nghệ thuật… để phân tích sâu, kỹ. Đây là bước cơ bản nhất, nó thể hiện khả năng cảm thụ về thơ ca của người viết.
- Bước 4: So sánh, đối chiếu để làm nổi bật đoạn thơ. Có nhiều cách liên hệ, so sánh như về các hình ảnh, chi tiết, nghệ thuật trong bài thơ, ngoài bài thơ; so sánh với cùng một tác giả, khác tác giả hoặc những tác phẩm cùng viết về đề tài…
Tham khảo thêm 🌹 Phân Tích Thơ Duyên 🌹 của tác giả Xuân Diệu
Dàn Ý Phân Tích Đây Mùa Thu Tới
Chia sẻ đến bạn đọc mẫu dàn ý phân tích đây mùa thu tới cụ thể sau đây, cùng đón đọc ngay nhé!
1. Mở bài: Giới thiệu tác phẩm: Xuân Diệu là một trong những nhà thơ đặc biệt thành công khi viết về mùa thu, với bài thơ “Đây mùa thu tới”, thi sĩ đã mang đến cho người đọc những cảm nhận vừa tinh tế, vừa mới mẻ về một bức tranh mùa thu đẹp, lãng mạn nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn, sự xót xa.
2. Thân bài
– Mùa thu đến thật nhẹ nhàng, nó không rộn rã, ồn ào để dễ dàng nhận biết như ngày hè. Thu về trên những rặng liễu đìu hìu, trong cảnh vật yên bình mà thấm đượm nỗi buồn mơ hồ.
– Thu đến mang theo những nỗi buồn và sự phấn khích, bất ngờ cho cảm nhận của con người, đó là tiếng reo vui của nhà thơ khi chợt nhận thấy mùa xuân đã về “Đây mùa thu tới, mùa thu tới”.
– Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ Xuân Diệu đã có những cảm nhận sâu sắc hơn về những dấu hiệu của ngày thu.
–> Khung cảnh mùa thu diễm lệ, lãng mạn có thể làm xao xuyến lòng người nhưng cũng gợi ra nỗi buồn về sự phôi pha, tàn úa.
– Khung cảnh thi vị, lãng mạn nhưng cũng khẳng khiu, mỏng manh đến nao lòng “ Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
– Trăng thuộc về thiên nhiên nhưng được nhân hóa như một con người với những cảm xúc buồn vui như con người mang đến sự đồng điệu giữa thiên nhiên và con người.
– Những chuyến đò nhộp nhịp thường ngày cũng đổi khác khi thu về, đó là sự thưa thớt, vắng lặng đến đìu hiu
– Trong khổ thơ cuối cùng, thi sĩ Xuân Diệu vẫn mải miết cảm nhận từng bước đi của nàng thu, mùa thu còn được cảm nhận qua những chuyển động cụ thể của cánh chim và sự rộn rã trong lòng người
+ Nỗi buồn về sự chia li được nhà thơ gửi gắm thông qua hình ảnh cánh chim đang di cư tránh rét.
+ Bầu không rộng lớn nhưng trầm buồn, u uất vì nhuốm màu chia li
+ Hình ảnh người thiếu nữ đa tình hay chính Xuân Diệu đa tình đã mang hết nỗi lòng hòa vào mùa thu, để mặc cho những suy nghĩ xa xăm trôi dạt cùng mây trời.
3. Kết bài: “Đây mùa thu tới” là thi phẩm xuất sắc của Xuân Diệu viết về mùa thu, thi sĩ không chỉ mang đến cho người đọc bức tranh mùa thu tuyệt đẹp mà còn gửi gắm những nỗi niềm, cảm xúc của bản thân trước mùa thu và những đổi thay của đất trời.
Xem thêm 💧 Thơ Về Mùa Xuân Của Xuân Diệu 💧 nổi tiếng
Phân Tích Đây Mùa Thu Tới Khổ 1 – Mẫu 1
Đầu tiên, hãy cùng SCR.VN tham khảo mẫu bài văn phân tích đây mùa thu tới khổ 1 ngắn gọn dưới đây.
Xuân Diệu là nhà thơ đại diện xuất sắc trong nền thơ ca lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 – 1945. Thơ Xuân Diệu bộc lộ niềm yêu đời, yêu cuộc sống, con người và khát khao hạnh phúc. Thơ ông luôn thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, với vũ trụ. Ông luôn mở rộng tâm hồn để đón nhận hương sắc muôn màu của cuộc sống. Từ mối giao hòa ấy, Xuân Diệu đã để lại nhiều bài thơ đặc sắc.
Một trong số đó là bài Đây mùa thu tới viết trước Cách mạng (1938). Cả bài thơ gợi tả phong cảnh khi mới chớm vào thu, mang nỗi buồn của mùa thu và gieo vào lòng người đọc nỗi buồn thấm thía nhưng thật đẹp. Đoạn thơ đầu rất tiêu biểu in đậm nét thu riêng của hồn thơ Xuân Diệu:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Bài thơ mở đầu bằng cảnh thật buồn. Cái buồn của lòng người thấm vào cảnh vật: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang. Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Trong thơ ca truyền thống, nói đến mùa thu là nói đến sen tàn, là ngô đồng rụng, cúc nở hoa:
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu.
Chỉ cần một chiếc lá ngô đồng rụng là biết đất trời đã vào thu, nào cần phải nói gì nhiều. Chiếc lá ngô đồng lìa cành trong thơ xưa trở thành biểu tượng của mùa thu. Xuân Diệu không cần đến chiếc lá ngô đồng rụng mà vẫn cứ là mùa thu. Mùa thu của ông không hẳn đã là sự tàn tạ, chết chóc mặc dù nỗi buồn cũng là đến độ vô cùng:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Mùa thu được Xuân Diệu cảm nhận trước hết bằng hình ảnh rặng liễu. Đây là hình ảnh ước lệ xuất hiện nhiều trong thơ trung đại: “Khi về hỏi liễu Chương Đài”, “Lơ thơ tơ liễu buông mành” – (Nguyễn Du), “Dặm liễu sương sa khách bước dồn” (Bà Huyện Thanh Quan). Đối với Xuân Diệu, liệu lại được nhân hóa như con người: lá mướt dài rủ xuống, thướt tha như người thiếu nữ đứng cúi đầu cho những làn tóc mây đổ xuống, đồng thời cũng gợi ngàn dòng lệ tuôn rơi hàng nối hàng.
Quả thật khi mùa thu vừa tới mà cảnh đã buồn thê lương, không phải là nỗi buồn man mác, hắt hiu như Nguyễn Khuyến, Tản Đà… mà là một nỗi buồn vợ ra bằng nước mắt, bằng ngàn dòng lệ tang tóc. Nỗi buồn ấy thật mênh mang.
Nó mở ra cả không gian ba chiều dày đặc bởi đâu có phải một cây liễu mà là một “rặng liễu”, một hàng người… Những từ “đìu hiu”, “chịu tang”, “tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”… cách sử dụng thanh điệu và láy âm đã tạo ra một âm điệu buồn, gợi rất đạt cái dáng buông xuống, rủ xuống mềm mại của những hàng tơ liễu. Nhưng ngay ở hai câu thơ này, mùa thu tuy buồn mà vẫn đẹp và nhất là vẫn trẻ trung.
Với Xuân Diệu thì ngược lại, ông lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp, thiên nhiên được nhân hóa một cách nghệ thuật. Do vậy mặc dù cảnh buồn đến thế nhưng với cách nhìn trẻ trung của nhà Thơ mới, luôn nhìn đời bằng cặp mắt “xanh non, biếc rờn” nên người đọc vẫn thấy cảnh buồn mà lại đẹp:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Câu thơ vang lên như một tiếng reo khẽ. Được nhắc lại tới hai lần với từ “đây” ở đầu câu biểu hiện nỗi niềm đầy hứng khởi, xác nhận một sự thực bấy lâu vẫn chờ mong: ấy là sự hiện diện trọn vẹn của mùa thu. Nhịp điệu câu thơ bỗng trở nên gấp gáp, một sự ngỡ ngàng chợt đến nhẹ nhàng, một chút yêu đời, yêu cuộc sống.
Câu thơ cuối là hình ảnh bầu trời thu, không gian mùa thu, cái không gian mùa thu ấy như chiếc áo màu “mơ phai” choàng cho cảnh vật, tạo cho mùa thu một dáng vẻ tươi sáng thanh nhẹ.
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Xuân Diệu cũng nằm bất rất đúng cái sắc vàng của mùa thu ấy nhưng mà vàng nhạt, màu của chiếc áo “mơ phai” dệt bằng sắc lá vàng tươi. Cái đẹp của chiếc áo thu vàng như chứa đựng một sự tàn phai quên lãng, nhưng chính nhờ cái sắc màu tươi sáng thanh nhẹ ấy mà đoạn thơ tuy buồn nhưng không hiu hắt bi thương.
Chỉ với bốn câu thơ/ Xuân Diệu đã làm sống dậy cả một cảnh thu, một sắc thu Việt Nam với những vẻ đẹp vừa thân quen, vừa mới lạ của một hồn thơ nhạy cảm và tinh tế. Nhưng thấm sâu trong cảnh thu vẫn là một nỗi buồn man mác. Đó là nỗi buồn của thời đại, nỗi buồn của một thế hệ thi nhân mất nước mang cái “tôi” bé nhỏ của các nhà thơ lãng mạn bơ vơ trước cuộc đời. Nỗi buồn ấy, vẻ đẹp ấy đã làm nên một nét thu riêng của Xuân Diệu nhưng lại là một nét thu tiêu biểu cho thơ lãng mạn bấy giờ.
Có thể nói đoạn thơ đầu là đoạn hay nhất trong bài thơ mùa thu của Xuân Diệu, được cảm nhận với những hình ảnh! màu sắc, âm thanh rất riêng, rất Xuân Diệu. Đoạn thơ thể hiện cảm xúc tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, tất cả được diễn tả bằng ngôn ngữ mới lạ. Đúng như nhà phê bình văn học Hoài Thanh nói: “Xuân Diệu là nhà Thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới”.
Tìm hiểu thêm tập thơ của ✅ Xuân Diệu Huy Cận ✅ cặp bài trùng thơ
Phân Tích Đây Mùa Thu Tới Khổ 2 – Mẫu 2
Tiếp theo là bài văn mẫu phân tích đây mùa thu tới khổ 2 hay và ấn tượng nhất.
Nếu ví Đây mùa thu tới của Xuân Diệu là một bức tranh thu thì bốn khổ thơ có thể coi như bộ tứ bình hợp làm nên kiệt tác ấy. Trong đó, khổ thơ thứ hai tuy chỉ là một mảng nhỏ nhưng là mảng màu đậm nhất, sống động nhất, đã thâu tóm bước đi của mùa thu trong một góc vườn:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rầy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
Mùa thu đã đến thật rồi. Từ phút giao mùa đầy ngỡ ngàng “Đây mùa thu tới, mùa thu tới”, sang khổ hai, mùa thu đã bất đầu hành trình xâm chiếm của nó ở cấp độ vĩ mô, từ những tế bào của sự sống:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Câu thơ mang đậm phong cách Xuân Diệu. Tại sao lại là “Hơn một loài hoa’’ chứ không phải “Đã mấy loài hoa rụng dưới cành” như Thế Lữ đã từng sửa cho Xuân Diệu? “Một là duy nhất nhưng “hơn một” thì cái thế độc tôn ấy đã bị phá vỡ. “Hơn một” chứ không phải “nhiều” vì mùa thu chỉ mới vừa chạm ngõ đất trời, chỉ mới vừa dột những đường chỉ đầu tiên của chiếc “do mơ phai” tuyệt đẹp.
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Thu đến thì lá chuyển màu, điều này Xuân Diệu không phai là người đầu tiên nói đến. Bức tranh dịu dàng với sắc “mơ phai” ở khổ một đã được chấm phá thêm hai mảng màu đậm, làm nổi bật lên hình hài, vết dấu của mùa thu. Chính vì vậy mà tuy không có một chữ “thu”, bước đi của mùa thu trong câu thơ vẫn hiện nên rõ nét.
Và không chỉ cảm nhận mùa thu bằng thị giác, Xuân Diệu còn mở rộng hồn mình để đón nhận “những luồng run rẩy” của cảm xúc, của mùa thu:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Biện pháp điệp phụ âm ở khô đầu lại một lần nữa tỏ ra vô cùng đắc địa. Bốn âm rung liên tiếp không chỉ khắc họa tinh tế chuyển động run rẩy của lá cây mà còn khiến câu thơ đọc lên cũng nghe rung rinh một điệu nhạc. Có người vè đoán rằng “luồng run rẩy” ở đây là luồng gió nhưng nếu vậy thì câu thơ chỉ dừng lại ở việc tả chứ đâu gợi rét, đâu thể chuyển tải được những cảm nhận tinh vi, bén nhạy ở nhà thơ.
Khổ thơ kết thúc ở hình ảnh những nhánh cây khô gầy, gân guốc như chạm khắc lên nền trời. Mùa thu đã hoàn tất giai đoạn của một hành trình đi tới. Nó không chỉ tước hết lá trên cành mà còn tước đi cả sự sống, cả dáng vẻ mạnh mẽ của những thân cây.
Đôi nhánh khô gày xương mỏng manh
Câu thơ bảy chữ mà đã có đến sáu thanh bằng, tạo cảm giác ngưng đọng, ngừng nghĩ như dấu lặng giữa ban nhạc, lẽ dư ba, dư âm của khổ thơ ngân mãi và bắc cầu sang khổ thứ ba.
Tuy chỉ là bốn câu trong bài. Đó mùa thu tới nhưng nếu đứng một mình, khổ thơ trên có thể sánh ngang với một bài tứ tuyệt hoàn mĩ bởi sự dồn nén của cảm xúc, nói ít nhưng gợi nhiều vần lá hoa lá cỏ cây – những thi liệu cổ điển, nhưng đến với Xuân Diệu, dưới lăng kính một tâm hồn “dào dạt sức sống”, chúng bỗng như được thổi một luồng gió mới mang nặng cảm quan của tác giả.
Và đằng sau những dòng chữ run rẩy, xao động kia phải chăng là nỗi ám ảnh khôn nguôi về thời gian của Xuân Diệu, là sự “vội vàng“, cuống quýt trước “độ phai tàn sắp sửa” cua cái đẹp, của thiên nhiên. Bức tranh mùa thu không chỉ đóng khung trong 28 chữ mà như cựa quậy, xôn xao trên mặt giấy, trong lòng người.
Ngòi bút tài hoa của Xuân Diệu như tung hoành trên trang giấy, chấm phá mảng kia mà tạo nên cái hồn của khung cảnh. Khổ thơ đã góp một phần không nhỏ làm nên thành công cho toàn bài cũng như chứng tỏ lời nhận định của tác giả thi nhân Việt Nam: “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới” là hoàn toàn chính xác.
Giới thiệu tuyển tập 🌹 Thơ Tình Xuân Diệu 🌹 bất hủ
Phân Tích Đây Mùa Thu Tới Khổ 3 – Mẫu 3
Xem thêm mẫu văn phân tích đây mùa thu tới khổ 3 hay nhất được SCR.VN biên soạn sau đây nhé!
Xuân Diệu được coi là “nhà thơ mới muộn nhất”, thơ ông là tiếng nói của cái tôi yêu đời và khát khao giao cảm mãnh liệt. Vì vậy, ông luôn nhạy cảm trước mọi biến đổi của đất trời, tạo vật. Bài thơ “Đây mùa thu tới” là một minh chứng sinh động thể hiện rõ nét phong cách độc đáo đó của nhà thơ. Khổ thơ thứ ba đưa mắt tác giả đến những nơi xa xăm, cao vời vợi:
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Sự xuất hiện hình ảnh trăng cô lẻ, ngẩn ngơ buồn, hình ảnh non xa nhạt nhòa tạo cảm giác không gian quạnh hiu xa vắng, đặc biệt là chữ “vắng” càng giúp người đọc cảm nhận nỗi buồn vô cùng.
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió”
“Nghe” có sự chuyển đổi cảm giác từ xúc giác sang thính giác. Câu thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa rét mướt – luồn, gió rét đã hòa làm một, nhưng từ luồn đã tách đôi gió rét ra làm 2 vật thể riêng biệt.
Đó là một cách vật thể hóa cái lạnh, chỉ mức độ cái lạnh của mùa thu, cái vô hình đã thành cái hữu hình nhờ động từ luồn. tác giả đã mở hết các giác quan để thụ cảm cái nhạt nhòa quạnh hiu buồn. Ta thấy đát trời quạnh quẽ xa mờ hơn, vầng trăng như cùng bơ vơ, ngẩn ngơ, núi không rõ nét, tất cả như đang chia ly như rời bỏ nhau.
Có thể nói, Đây là mùa thu là một bức tranh phong cảnh với màu sắc đa dạng, đường nét phong phú. Tất cả đã tạo nên một bức tranh cô đơn, mông lung, hoang mang và tâm trạng buồn bã. Phải thực sự ham sống, khát sống, gắn bó với cuộc sống trần thế, nhà thơ mới thấy được những biến động tinh vi của sinh vật và con người. từ đó, người đọc trân trọng và đồng cảm với tâm hồn nhà thơ.
Xem thêm tập 🌱 Thơ Xuân Diệu Về Tình Yêu 🌱 lãng mạn nhất
Phân Tích Đây Mùa Thu Tới Xuân Diệu – Mẫu 4
Gợi ý thêm đến bạn đọc mẫu văn phân tích đây mùa thu tới của tác giả Xuân Diệu nổi tiếng sau đây.
Xuân Diệu ông hoàng của thơ tình yêu, chưa kể những bài thơ của ông đều mang những quan niệm rất mới về cuộc sống, tuổi trẻ và về tình yêu. Ông cũng được xem là thi sĩ của mùa thu, cũng chính vì cái lãng mạn, khoảnh khắc xao xuyến của thu mà những vần thơ của nhà thơ hồn hậu và có hồn biết bao nhiêu.
Đây mùa thu tới là một trong số những sáng tác tiêu biểu của Xuân Diệu. Mùa thu đó hiện ra thật đáng yêu, làm cho tâm hồn thi sĩ như dây đàn rung lên những điệu nhạc xao xuyến lòng người.
Nhưng có lẽ hình ảnh mùa thu tới trong tác phẩm khiến cho người đọc cảm nhận một không khí tang thương bi ai,những hình ảnh không phải hoa lá, không phải gió đưa cần trúc, không phải mặt nước xanh biếc mà gắn với hình ảnh những cành liễu
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”.
Không gian hiện ra với vẻ “đìu hiu”, buồn và vắng vẻ. Rặng liễu trầm mặc như “đứng chịu tang”. Lá liễu buông dài như tóc nàng cô phụ “buồn buông xuống”. Sương thu ướt đẫm trên những nhánh liễu khiến tác giả ngâm nga một câu khiến chúng trở nên có hồn
. Những cành liễu giống như những cô giá thướt tha, nhưng mắt buồn đẫm lệ. Biện pháp láy âm được Xuân Diệu vận dụng tài tình để tạo nên vần thơ giàu âm điệu, nhạc điệu: “đìu hiu – chịu”, “tang – ngàn – hàng”, “buồn – buông – xuống”. Đây tạo nên những nét thú vị của thơ Xuân Diệu những năm đầu thế kỉ 20.
Ngắm nhìn rặng liễu, đột nhiên tác giả chợt nhận ra màu thu đã tới, với cách ngắt nhịp 4/3 với điệp ngữ “mùa thu tới” đã diễn tả bước đi của mùa thu và niềm mong đợi thu về bấy lâu nay trong lòng thi sĩ.
“Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”.
Cách hiệp vần lưng thần tình: “tới – với”, một chữ “dệt” tinh tế trong miêu tả và cảm nhận. Thu tới cũng chính muôn nơi được nhuộm bởi một màu vàng của cây đổi lá, nó được dệt một cách tỉ mỉ mang tới một vẻ đẹp không phải tự dưng mà có.
“Với áo mơ phai dệt lá vàng” là một câu thơ thi vị biết bao, nói lên cái hồn thu với sắc lá, gợi lên cảm giác thanh nhẹ, tươi sáng về mùa thu đáng yêu vô cùng. Tuy nhiên mùa thu đó lại bắt đầu với một nỗi buồn ảm đạm hắt hiu.
Thu về cũng chính là lúc cảnh vật đổi khác, khoác lên mình những màu sắc rực rỡ. Thu đã về và thu dần trôi,thời gian trôi nhanh không tưởng. Cảnh vật một lúc một khác, hoa rơi, màu đỏ lấm chấm dần và rủa màu xanh. Cây cối cảnh vật bắt đầu rụng lá trơ cành như đang “run rẩy”, khẽ “rung rinh” trước những làn gió thu lành lạnh, se sắt.
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
Những luồng run rẩy, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
Ở khổ thơ này, tác giả sử dụng những từ láy như: “run rẩy”, “rung rinh”, “mỏng manh” là những nét vẽ thần diệu gợi tả cái run rẩy, cái rùng mình của cây lá buổi chiều thu. Đặc biệt hình ảnh sắc đỏ “ rủa “ màu xanh khiến cho câu thơ mang một nét đẹp nghệ thuật độc đáo. Màu xanh đó không mướt như ngọc mà từ từ từ lan rộng ra, và mọi thứ như ngấm chất thu vào đó.
“Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ… “
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió,
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Chúng ta thấy có chuyển đổi cảm giác giữa xúc giác và thính giác. Sự cảm nhận của thi nhân về rét, về gió, về cái xa vắng không chỉ bằng giác quan mà còn bằng cả linh hồn nữa. Như chính tác giả dang đứng giữa chiều gió thu, se se lạnh,chữ “luồn” đã cụ thể hóa cái rét, cảm nhận được nó bằng trực giác.
Đâu đẹp bằng hình ảnh thiên nhiên rất đẹp ở khổ thơ cuối. Có vẻ đẹp của thiên nhiên, của mây trời, cánh chim, xuất hiện vẻ đẹp thiếu nữ. Cảnh đẹp, người đẹp nhưng mà thoáng buồn mơ hồ mênh mông. Mây và cánh chim gợi lên nỗi buồn đẹp chia li như “bèo dạt mây trôi” của tình ca!
“Mây vẩn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia li”…
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”
Bao giờ trong thơ Xuân Diệu luôn xuất hiện hình bóng của giai nhân.Đây mùa thu tới cũng vậy, xuất hiện hình bóng một giai nhân trong tương tư, đang mộng tưởng. Đó cũng là một nét mới nói về mùa thu trong thơ Xuân Diệu.
Bài thơ Đây mùa thu tới” lắng đọng trong độc giả những cảm xúc rất riêng, không những vậy cách cảm nhận của tác giả cũng rất mới mẻ. Mọi cảnh vật trong bài thơ mặc dù có thiên nhiên nhưng không thể thiếu được trong thơ Xuân Diệu là hình bóng giai nhân. Bao nhiêu nét thu là bấy nhiêu nét vẽ tài hoa. Dáng thu, sắc thu, tình thu đều đẹp đều hiện ra với nỗi buồn mênh mang không biết từ đâu đến.
Khám phá thêm tuyển tập 🌼 Thơ Xuân Diệu 🌼 nổi tiếng nhất
Phân Tích Đây Mùa Thu Tới Ngắn Nhất – Mẫu 5
Giới thiệu thêm đến bạn đọc mẫu văn phân tích đây mùa thu tới ngắn nhất dưới đây.
Xuân Diệu được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam. Ông là nhà thơ tình viết hay nhất và nhiều nhất trong kho tàng thơ văn nước nhà. Với ngôn từ lãng mạn và nhịp điệu thơ đậm chất trữ tình, những tác phẩm của Xuân Diệu luôn lay động tâm hồn người đọc. Đối với ông, mùa thu cũng là nguồn cảm hứng bất tận, cảnh thu chứa đựng nhiều rung động bồi hồi, bởi lẽ “Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”.
Đối với Xuân Diệu, mùa thu lúc nào cũng thật thơ mộng, khiến cho tâm hồn người thi sĩ như dây đàn đang rung lên xao xuyến. Và “Đây mùa thu tới” là cũng là một tuyệt phẩm về mùa thu của nhà thơ Xuân Diệu. Tác phẩm được trích trong tập “Thơ thơ”, xuất bản năm 1938, thể hiện bước chân của mùa thu làm xôn xao, rung động đất trời và lòng người.
Mùa thu thường gợi buồn và cũng gợi tình. Có lẽ chính vì thế, Xuân Diệu cũng không thể làm ngơ trước vẻ đẹp rất riêng của thu.
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”.
Cả không gian “đìu hiu”, vắng vẻ và gợi cho người ta một nỗi buồn mang mác. Rặng liễu trầm mặc như chỉ biết “đứng chịu tang”, như một lẽ dĩ nhiên phải như vậy và chỉ có thể cam chịu, âm thầm đón nhận mà thôi. Lá liễu buông dài như tóc nàng góa phụ “buồn buông xuống”. Lá liễu ướt đẫm sương thu tưởng như “lệ ngàn hàng”.
Nhành liễu đã được tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa, biến thành một người con gái yếu đuối, nhỏ bé với những tâm sự và cảm xúc riêng. Nàng “đứng chịu tang”, từ tóc liễu đến lệ liễu đều mang theo nỗi sầu man mác không biết ngỏ cùng ai. Chỉ một dáng liễu thôi cũng được Xuân Diệu miêu tả và cảm nhận đầy chất thơ, thổi vào đó hồn thu đầy hoài niệm.
Bên cạnh đó, biện pháp láy âm cũng được thi sĩ Xuân Diệu vận dụng tài tình để tạo nên những vần thơ giàu nhạc điệu: “đìu hiu – chịu”, “tang – ngàn – hàng”, “buồn – buông – xuống”, như bước đi uyển chuyển, thướt tha, nhẹ nhàng của nàng thu. Đó là một điểm mới mà Xuân Diệu đã học tập được trong trường phái thơ tượng trưng Pháp thế kỉ XIX.
Chắc hẳn điều đầu tiên mà người đọc cảm nhận được là nhịp thơ dồn dập, “mùa thu tới” được lặp lại trong câu cho thấy thu đã đến ngay trước hiên nhà, như tiếng reo hân hoan của thi sĩ trước mùa lãng mạn và tình nhất trong năm.
Thu vừa tới, sắc màu cỏ cây vạn vật đều đổi thay, trở thành “mơ phai” nhẹ nhàng và có chút mơ hồ đầy quyến rũ. Từ “dệt” cũng được sử dụng tinh tế cho thấy bước đi mùa thu như có sức chuyển biến mạnh mẽ tới vạn vật, đi tới đâu là nơi đó trở nên huy hoàng, lộng lẫy hơn bội phần. Câu thơ “Với áo mơ phai dệt lá vàng” là một câu thơ thi vị, nói lên cái hồn thu vừa mơ màng, lơ đãng nhưng cũng rất tươi sáng và rực rỡ.
Trong “Đây mùa thu tới” của nhà thơ Xuân Diệu phản ảnh hai sắc thái của mùa thu trong cảm nhận của con người. Ban đầu, người ta sẽ thấy mùa thu thật buồn và ảm đạm qua nhịp thơ chậm rãi, âm điệu nhiều thanh bằng và hình ảnh rặng liễu. Nhưng rồi khi mùa thu thực sự tới, vạn vật như thay áo mới, đẹp thơ mộng và huy hoàng.
Có thể nói, “Đây mùa thu tới” đã vẽ lên một bức tranh thu đượm buồn phủ lên cây cỏ và lòng người, nhưng không hề ảm đạm, thê lương mà trái lại, thu vẫn đẹp thơ mộng và làm lòng người khẽ reo vui mỗi khi mùa thu tới.
Đọc nhiều hơn 🌻 Phân Tích Vội Vàng 🌻 chi tiết
Phân Tích Đây Mùa Thu Tới Chi Tiết – Mẫu 6
Khám phá thêm mẫu văn phân tích đây mùa thu tới chi tiết để bạn đọc có thêm nhiều gợi ý hay để tham khảo.
Mùa thu là người bạn muôn đời của thi ca. Cái rét buốt tê tái của mùa đông qua đi để nàng xuân đến với bao nhiêu niềm vui và sự sống, có lẽ gây ấn tượng mạnh hơn trong lòng người, nhưng lại không gợi thi tử như mùa thu, phải chăng vì thu dịu dàng, thu buồn hơn. Với những tâm hồn thi sĩ đa cảm, đa tình, niềm vui phơi phới đã dễ rung động, những nỗi buồn thì càng gợi cảm xúc nhiều hơn.
Xuân Diệu cũng vậy. Thi sĩ đã để cho lòng mình, hồn mình rung lên những nhịp đập xốn xang khi mùa thu đến. Đây mùa thu tới phảng phất một nỗi buồn nhưng lại đẹp đến nao lòng.
Nhà thơ cảm nhận mùa thu tới trong vẻ đẹp của nỗi buồn:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh liễu – một hình ảnh quen thuộc trong Đường thi. Trước đó, Nguyễn Du đã từng có câu thơ rất hay về liễu: “Lơ thơ tơ liễu buông mành”. Mặc dù học tập hình ảnh ước lệ trong văn chương cổ, nhưng “liễu” của Xuân Diệu không có vẻ gì là vay mượn.
Cảnh mang hồn của Xuân Diệu, hồn Việt Nam tuy quen mà lạ, tuy ước lệ mà lại rất cụ thể bởi cách liên tưởng sáng tạo và độc đáo: “đìu hiu đứng chịu tang”. Với nét bút mềm mại và khoáng đạt, nhà thơ đã vờn vẻ vào không gian dáng hình yểu điệu, lả lướt của những rặng liễu thả dài sóng tóc gội đầm đìa trong những cơn mưa lệ. Từ láy “đìu hiu” cùng với nghệ thuật láy âm “buồn buông”, “ngàn hàng”… đầy sức gợi.
Câu thơ gợi cảm giác nhiều hơn là tả. Liễu buồn nhưng đẹp ảo não, thướt tha. Càng buồn, càng đẹp. Càng đẹp lại càng buồn. Cảnh thấm đậm tâm trạng khiến cho người đọc không khỏi vấn vương chút tơ lòng. Cái tài của tác giả là cảnh buồn nhưng không chết lặng mà có hồn.
Câu thơ thứ ba cất lên tiếng lòng thi sĩ: “Đây mùa thu tới – mùa thu tới”. Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của thi sĩ đã bắt kịp bức thông điệp của đất trời. Dường như giữa im lìm của vạn vật, chỉ một mình nhà thơ lắng nghe được bước chuyển rất nhẹ của thời gian.
Câu thơ có giá trị như một lời thông báo, xác nhận sự hiện diện của thời gian. Trong một câu mà có tới hai lần “mùa thu tới”, thi sĩ như vội vàng, cuốn quýt thốt lên khi mùa thu vừa bước đến. Như đã chờ đợi từ lâu, Xuân Diệu mở rộng lòng mình để đón thu. Ông cảm nhận thêm một dáng vẻ của mùa thu:
“Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Xuân Diệu đã khoát lên mùa thu một chiếc áo vàng sáng rạng rỡ, kiều diễm và sang trọng. Không gian như òa sáng bởi màu vàng mơ đầy gợi cảm. Mùa thu đẹp, thơ mộng, cảnh sáng nhưng buồn thì cũng buồn vô tận.
Bức tranh chớm thu có đường nét mềm mại của liễu, có màu sắc, có tình người. Hình ảnh liễu cùng với màu áo mơ phai mở đầu đã gây một ấn tượng ban đầu cho người đọc để đến khổ thứ hai, mùa thu được cảm nhận tinh tế và đầy cảm giác:
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh,
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
Cảnh thu có hoa, có lá, có gió, trổ vào không gian những cành trơ trụi khẳng định trong rét mướt. Ân tượng lớn nhất trong khổ thơ là cách diễn đạt rất mới, rất tinh vi: “hơn một loài hoa”, “rũa màu xanh”… Tất cả đều ở độ mới chớm, mới bắt đầu.
Hơn một loài hoa chứ không phải tất cả các loài hoa, trong vườn sắc đỏ mới “rũa” màu xanh, chứ không phải “rửa”, Ta có cảm giác màu đỏ đang lấn dần, lấn dần để cuối cùng tràn ngợp, khắc khoải một màu đỏ lụi tàn.
Câu thơ gợi cảm giác, như có sự nhói buốt trong tâm hồn. Lẽ ra, vào thu ở ta, mùa vàng là màu hợp hơn nhưng ở đây, Xuân Diệu đã chọn màu đỏ để đối chọi với màu xanh đang bị lấn dần tạo ấn tượng trong lòng người.
Chính vì vậy mà nhà thơ cảm thấy cô đơn, buồn sầu khi thu tới:
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò…”
Cảm giác cô đơn không khơi gợi từ mọi vật, vầng trăng được miêu tả trong câu thơ độc đáo và tinh nghịch: Trong một phút thả lòng, bâng khuâng, ngẩn ngơ khó nói thì bị thi nhân tinh quái bắt quả tang.
Giữa thiên nhiên và con người như có sự hòa đồng, giao cảm nên con người mới có thể hiểu được giây phút tự “ngẩn ngơ” của thiên nhiên. Hình ảnh non xa sương mờ thấp thoáng, nhạt nhòa gợi không khí sương khói bảng lảng, mơ hồ thật đẹp nhưng vẫn thoáng buồn.
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió…”
Có gió thì mới rét và rét thì mới gió, nhưng ở dây, Xuân Diệu đã tách gió và rét ra làm hai, cái rét luồn, ẩn trong gió, chưa thực sự hiện diện, chưa lộ mặt bởi đây mới chỉ là bắt đầu. Xuân Diệu đã phát huy cao độ khả năng cảm thụ với nhãn lực tinh tường.
Tất cả đều vắng vẻ. Đấy là sự cô đơn, chia lìa trên mặt đất, của người vì không đoàn tụ. Ở khổ cuối là sự chia lìa của thiên nhiên:
“Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li”
Nhà thơ đã cảm thấy bước chuyển rất nhẹ của thiên nhiên: “mây vẩn”, có sự xuất hiện của sự sống: đàn chim nhưng là “chim bay đi”. Đò đã vắng, chim lại bay đi, để lại một khoảng trống không mênh mông, xa vắng. Nỗi buồn thương tràn sang cảnh vật và quay trở lại xoáy vào lòng người, da diết thấm thìa khôn cùng. Không chỉ riêng thiên nhiên nói lên cái u uất chia li mà chính lòng người cũng phải cất lên thành lời “Khí trời u uất hận chia li”. Nỗi đau xót, u uất dằn xuống.
Hai câu kết bài thơ đầy sức gợi
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
Con người đẹp nhất khi có niềm vui và nụ cười, còn ở dây, thiếu nữ “buồn không nói”, trầm ngâm suy tư. Câu thơ không xác định ở số lượng “ít nhiều”, ở hướng nhìn “nhìn xa”, “không nói”, “nghĩ ngợi gì”.
Đây mùa thu tới có lúc sử dụng thi liệu ước lệ của thơ Đường nhưng kết thúc lại không giống thơ Đường, câu cuối của thơ Đường thường đóng lại, khép kín ý thơ từng bài. Nhưng ở đây, tác giả lại mở ra, khơi gợi ở người đọc một cảm hứng đồng sáng tạo. Nó để ngõ dành cho sự liên tưởng, cảm nhận của từng người đọc. Bài thơ kết thúc cũng là lúc ta bắt đầu cảm thấy được cái điều “ít nhiều thiếu nữ buồn không nói. Đó chính là tài năng của Xuân Diệu.
Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cách diễn đạt truyền thống và mới mẽ do học tập văn hóa Phương Tây, với tâm hồn thi sĩ giàu cảm xúc và tài năng, Xuân Diệu đã góp phần cho Thơ mới nói riêng và nền văn học nói chung một tác phẩm có giá trị: Đây mùa thu tới. Bài thơ mang hồn thơ Xuân Diệu, hồn Việt Nam.
Đây là “tiếng thở dài của những tâm hồn cô đơn tội nghiệp đi tìm nhau”.
Có lẽ, tác giả muốn gởi gắm một lời khuyên mang ý nghĩa nhân bản: Những con người lẻ loi cô đơn hãy xích lại gần nhau để giải tỏa nỗi cô đơn này.
Đây mùa thu tới như một bức tranh lụa cổ hòa sắc lạnh. Hình ảnh mùa thu nên thơ, nên họa trong tác phẩm không phải không liên quan đến những cảnh quan mĩ lệ của đất Việt. Phải chăng hồn dân tộc của bài thơ không hỏi mà hiện ra ở điều đó?
Xuân Diệu đã đem đến cho chúng ta một bức tranh thiên nhiên u buồn mà rất đỗi xinh đẹp, một tâm hồn chân thành và tha thiết, nỗi buồn trong sáng, nỗi cô đơn tràn ngập trong thơ ấy là nỗi buồn chung của cả một thế hệ thanh niên mất nước ngày đêm khao khát sự hòa nhập với cuộc đời.
Tham khảo mẫu 🌼 Phân Tích Hương Sơn Phong Cảnh 🌼 hay nhất
Phân Tích Đây Mùa Thu Tới Ấn Tượng – Mẫu 7
Đón đọc thêm mẫu văn phân tích đây mùa thu tới ấn tượng nhất được nhiều bạn đọc tìm kiếm sau đây.
Đây mùa thu tới là bài thơ viết về đề tài quen thuộc: mùa thu. Bài thơ vẫn dùng nhiều thi liệu truyền thống nhưng tác giả đã gửi vào đó những cảm xúc mới, đồng thời có nhiều cách tân táo bạo trong xử lí thi liệu, trong diễn đạt… Chính vì vậy, bài thơ vẫn được xem là một thành công xuất sắc, tiêu biểu cho hồn thơ của Xuân Diệu.
Kết cấu không gian trong bài thơ rất đặc sắc: khổ 1 là hồ thu, khổ 2 là vườn thu, khổ 3 và 4 là đất trời thu. Kết cấu đó xoáy và dụng ý nghệ thuật của Xuân Diệu: xây dựng một hình tượng thu – mĩ nhân, mùa thu hóa thành hình tượng một thục nữ mĩ miều, tha thướt và u buồn; đẹp một vẻ đẹp lãng mạn, cao sang. Nàng thu của Xuân Diệu đang nhón gót trên đường biên của phút giao mùa, từ hạ sang thu.
Khổ thơ đầu là cảnh hồ thu. Bài thơ mở đầu bằng hồ, hay đúng hơn là bằng hình ảnh liễu bên hồ:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc huồn buông xuống lệ ngàn hàng.
Thật lạ, liễu từng thướt tha trong Truyện Kiều:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiểu thướt tha.
Liễu của Xuân Diệu gay gắt hơn: chịu tang – một cảm nhận bất ngờ, đẫm màu tang tóc. Bất ngờ nhưng vẫn đúng. Lá liễu được so sánh, biến hóa: vừa đổ xuống song song như tóc giai nhân, vừa tuôn chảy như dòng lệ ướt. Để nhấn mạnh nỗi tang tóc, Xuân Diệu còn đưa ra từ láy âm đìu hiu, khiến câu thơ càng bị ru thêm vào một âm điệu thê lương, chua xót.
Với hai câu tiếp theo, nàng liễu trở thành linh hồn của mùa thu: Đây mùa thu tới, mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Điệp ngữ mùa thu tới là tiếng reo hay tiếng thở dài? Đó là cả hai: trong tiếng thở dài có tiếng reo thầm, vì mùa thu đâu chỉ mang tới cái buồn lạnh, mà còn chứa đựng cả cái xôn xao của sự sống. Đến câu cuối, mùa thu hiện hình cụ thể hơn: Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Hình ảnh thật diễm ảo: mùa thu nhuộm vàng cả đất trời, hay đất trời dệt áo vàng khoác lên nàng thu? Nàng thu trở nên đẹp lộng lẫy, sang trọng. Nhưng tinh ý, ta sẽ nhận ra đó là vẻ đẹp sắp tàn, khiến tiếng reo trong câu thơ ngầm chứa sự thảng thốt, lo âu. Cái đẹp xao xác buồn này sẽ định hướng cảm xúc toàn bài, cũng là một khuynh hướng thẩm mĩ quen thuộc của Thơ mới.
Với khổ thơ thứ hai, không gian thu dường như bị thắt lại nơi vườn thu:
Han một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Chỉ một không gian vườn bé hẹp. Xuân Diệu đã diễn đạt một điều ghê gớm: mùa thu lạnh buốt đang bòn rút sự sống của cỏ cây hoa lá, tức là của tạo hóa. Ở câu hai có một từ mới: rũa, đồng nghĩa với từ lấn (màu 199 đỏ lấn màu xanh), nhưng nếu đổi sang từ lấn thì giá trị câu thơ sẽ giảm đi rất nhiều. Lấn gợi lên một hiện tượng thiên nhiên, thiên về miêu tả thực tế.
Nếu khổ thơ thứ nhất buồn, khổ thứ hai buốt, thì khổ thơ thứ ba kết hợp hai cảm giác ấy và đẩy tới một trạng thái u uất hơn, trùm lên cả đất trời rộng lớn. Điều độc đáo là Xuân Diệu xen kẽ đất và trời thành những cặp đôi song song đi suốt hai khổ thơ cuối.
Trước hết là bầu trời, có trăng mây và chấp chới cánh chim. Câu thơ tả trăng có một âm điệu rất hay: Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ. Câu chữ và hình ảnh ngồ ngộ, ngơ ngác thế nào! Sao lại thỉnh thoảng và tự ngẩn ngơ?
Xuân Diệu viết văn tựa như trẻ con học nói hay người ngoại quốc mới võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái dáng bỡ ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người. Quả thật, đọc kĩ mới thấy câu thơ Xuân Diệu rất tinh và rất nghịch, vì nó đột ngột bắt quả tang một trạng thái mơ màng, ngẩn ngơ của nàng trăng. Có điều, Xuân Diệu bắt quả tang thiên nhiên hay chính cõi lòng mình?
Từ cánh chim trốn rét, Xuân Diệu chợt hốt hoảng khi nhận ra điều đáng sợ đang xảy ra giữa trời đất: Khí trời u uất hận chia li. Nỗi đau li tán dằn xuống trong thanh trắc của chữ hận như tiếng nấc trước một vũ trụ dường như trông rỗng.
Trời đã buồn, mặt đất còn buồn hơn. Trong không gian vắng người, vắng đò, chim di tản, có một câu thơ thật hoang lạnh:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió.
Từ luồn thật tinh điệu. Đúng là cái rét đang tàng hình trong tiết chớm thu, mà chỉ người nghệ sĩ – vốn là nhà bác học của các giác quan mới phát hiện ra được. Nhưng hình ảnh con người đột ngột xuất hiện trong hai câu kết mới là cái nấc cao nhất của cảm giác thu Xuân Diệu:
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gỉ?
Bức tranh thu của Xuân Diệu là sự thám hiểm phút chuyển mình cũ mà mới mẻ của thời gian từ hè sang thu, từ nóng sang lạnh bằng những giác quan tinh tế, tạo những rung động thẩm mĩ thấm thìa. Đó là một cống hiến quý báu của thi sĩ trong việc khám phá thiên nhiên bằng nghệ thuật thơ ca.
Linh hồn bức tranh là một tình thu buồn vắng cô đơn. Điều này do hai lẽ. Thứ nhất, do trạng thái riêng của mùa thu: không ồn ào như hạ, tê tái như đông, tươi tắn như xuân mà êm lắng u sầu một cách mơ màng, dễ gợi hồn thơ hướng nội.
Thứ hai, nỗi buồn thu gặp nỗi sầu tuổi trẻ của thời vong quốc, ngơ ngác trước ngưỡng cửa vào đời, càng khát khao nhập vào đời càng bị đẩy vào cô đơn. Cái lạnh thu là cái lạnh của linh hồn cô đơn đang thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau (Xuân Diệu). Giá trị nhân bản của bài thơ là ở nỗi buồn trong sáng ấy.
Đừng vội bỏ lỡ mẫu bài 🔻 Phân Tích Nắng Đã Hanh Rồi 🔻đặc sắc
Phân Tích Đây Mùa Thu Tới Đầy Đủ Ý – Mẫu 8
Mời bạn đọc xem nhiều hơn bài mẫu về phân tích đây mùa thu tới đầy đủ ý dưới đây.
Xuân Diệu được xem là một trong những nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Thơ ông luôn mang màu sắc khác biệt, với cách dùng từ ngữ độc đáo, sáng tạo và khác lạ khiến người đọc bị lôi cuốn và hấp dẫn. Những ai đã từng ngẫm qua thơ ông một lần ắt hẳn sẽ không bao giờ quên được niềm khao khát sống được hòa mình vào thiên nhiên của tác giả.
Ngay từ tiêu đề “Đây mùa thu tới”, độc giả đã phần nào hiểu được nội dung chủ yếu của bài thơ là gì. Đó là nói về mùa thu nhưng không phải là giữa mùa thu hay cuối thu. Mà là đương lúc mùa thu mới tới, đất trời vừa mới tiễn biệt mùa hè để đón thu tới. Khi ngắm nhìn sự chuyển đổi của đất trời đó, nhà thơ Xuân Diệu phát hiện ra:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”.
Đập vào mắt nhà thơ đầu tiên khi mùa thu đến là hình ảnh rặng liễu rũ. Nếu người thường, thấy rặng liễu ấy sẽ mang dáng vẻ dịu dàng ê ấp, thế nhưng, ở đây nhà thơ lại thấy rặng liễu như mang tâm trạng buồn bã như đang chịu tang, như đang trong cảnh biệt li chết chóc. Từng cành lá buông xuống, được nhà thơ ví như những giọt lệ tuôn rơi.
Thật là một cảnh sắc thật buồn thê lương. Dường như ẩn đàng sau hình bóng rặng liễu là hình ảnh một thiếu phụ đang khóc lóc trong cảnh đưa tang. Đọc câu thơ lên mà độc giả cảm thấy buồn đến nao lòng. Đến hai câu tiếp, nhà thơ thông báo “mùa thu tới mùa thu tới” với màu sắc mờ nhạt và lá vàng, lại càng nhán mạnh thêm sự ảm đạm trong bức tranh thu mới tới.
Ở khổ thơ này, nhà thơ đã dùng những từ ngữ nhân hóa, khiến cho mùa thu cũng mang dáng vẻ của con người, biết khóc, biết buồn, biết dệt lá. Qua đây, chúng ta có thể cảm nhận được tâm trạng sầu thảm trước cuộc sống của nhà thơ.
Đến khổ thơ 2, chúng ta càng thấm thía hơn khung cảnh ảm đạm của mùa thu. Dưới con mắt nhạy cảm, tinh tế nhưng đầy u uất của nhà thơ, mùa thu tới mang theo sự chia lìa, khi các loài hoa thay nhau rụng xuống. Thay vì sắc xanh tươi trẻ của mùa hè thì giờ đây sắc đỏ đã chiếm chỗ và xua đuổi màu xanh đi để chiếm trọn không gian thu cho riêng mình.
Không những thế, mùa thu tới mang theo những cơn gió heo may se se lạnh, khiến cho cành lá rung rinh một cách run rẩy chứ không phải rung rinh vui vẻ như khi mùa hè. Cùng với đó là những cành cây rụng hết là chỉ còn trơ xương gầy mỏng mảnh thiếu sức sống.
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
Cả khổ thơ, tác giả đã dùng màu sắc và các nét chấm phá để khắc họa lên bức tranh thu đầy xơ xác và khô héo. Dường như nó ẩn chứa dáng vẻ thất vọng, chán chường của tâm trạng con người Bốn câu thơ đều sử dụng phép đảo ngữ, nhằm nhấn mạnh những thay đổi của thiên nhiên khi mùa thu tới và cũng nhằm làm nổi bật nét thu đầy buồn thương.
Nếu như những câu thơ trên, nhà thơ mới phác họa bức tranh thu qua những đổi thay của thiên nhiên, thì tới khổ thơ tiếp theo nhà thơ đã nói tới sự vần chuyển của cả vũ trụ lẫn con người. Ở đây, nhà thơ không gọi là bóng trăng, hay ánh trăng mà gọi là “nàng trăng”.
Cụm từ ấy cho độc giả thấy nàng trăng như cô gái ngẩn ngơ tiếc nuối trước sự đổi thay của đất trời, của thời gian. Trăng thu không sáng vành vạch như thường mà lại thỉnh thoảng ngẩn ngơ như đang mơ tưởng hay tiếc nuối điều gì.
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…”
Không chỉ trăng ngẩn ngơ mà núi non cũng trở nên mờ nhạt. Dường như vạn vật đều trở nên hiu quạnh, mờ ảo khi bước chân mùa thu tới. Đã thế, đâu đó còn có những cơn gió lạnh đầu mùa, khiến cho cả đất trời lẫn con người bỗng trở nên buốt giá, là lạnh lẽo. Cũng chính vì thế mà những chuyến đò vốn tập nập hàng ngày giờ trở nên nên vắng vẻ, chẳng còn ai qua sông.
Điều đó chứng tỏ sức sống của con người cũng trở nên khô cằn, con người đều lui về ở ẩn. Điệp từ “đã” ở đây tác giả sử dụng nhằm nhấn mạnh rằng mùa thu đã tới thực sự. Mùa thu không còn mới tới nữa mà đã bao trùm lên khắp không gian, cảnh vật và hồn người.
Thu chẳng còn vẻ đẹp lãng mạn mộng mơ mà chất chứa đầy nỗi buồn u uất. Đó cũng chính là tâm trạng của hầu hết các thi sĩ, nhà văn Việt Nam trước Cách mạng tháng 8 khi đất nước còn trong cảnh lầm than, khi mọi sự đang còn trong vòng luẩn quẩn và đời sống con người đang bị chà đạp bởi những thế lực tàn bạo nửa thực dân nửa phong kiến.
“Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.
Chính bởi tâm trạng đang buồn rầu nên tác giả đã nhuốm màu buồn đó lên cảnh thu. Mặc dù có thể, mùa thu không đến nỗi sầu đau như thế. Nhưng vì quá uất hận, quá bi thương nên nhà thơ Xuân Diệu đã không thể giấu được lòng mình.
Ông đã gửi gắm qua những câu thơ về mùa thu đầy xót xa. Đặc biệt ở khổ thơ cuối. Nhà thơ đã cho xuất hiện một loạt hình ảnh thể hiện sự chia ly, sự tử biệt. Rồi giữa khung cảnh mùa thu tang thương ấy, hình ảnh người thiếu nữ buồn không nói càng làm cho bức tranh trở nên sầu thảm. Người thiếu nữ ấy nhìn xa xăm, vô định, nghĩ ngợi mông lung về điều gì mà không biết chính xác là điều gì.
Dường như đó cũng chính là tâm tư của nhà thơ khi đang khao khát điều gì đó nhưng lại không thể biết chính xác là điều gì. Cái hình ảnh “tự cửa” nhìn xa xăm không nói sao mà buồn thảm sao mà bất an và nhiều lo lắng đến thế. Dường như con người đang không biết bấu víu vào đâu, không biết đi đâu về đâu giữa cuộc đời đầy bất an đó.
Đã có rất nhiều nhà thơ lấy mùa thu làm chủ đề trong tác phẩm của mình. Nếu Nguyễn Khuyến là chùm thơ thu với nỗi buồn hoang vắng hiu quạnh thì ở đây, Xuân Diệu là nỗi buồn chia li đầy tang thương sầu muộn. Đó cũng chính là tâm trạng chung của hầu hết các thi sĩ, nhà văn của Việt Nam trước Cách mạng tháng 8.
SCR.VN gợi ý 🌺 Phân Tích Cảm Xúc Mùa Thu 🌺 chi tiết
Phân Tích Đây Mùa Thu Tới Chọn Lọc – Mẫu 9
Đừng vội bỏ qua gợi ý về bài văn mẫu phân tích đây mùa thu tới chọn lọc hay nhất sau đây nhé!
Mùa thu gắn liền với sắc vàng của sự tàn úa, khơi dậy những nỗi buồn mơ mồ về sự chia li, tàn úa. Mùa thu cùng với ánh trăng thu huyền ảo đã trở thành nguồn cảm hứng, “nàng thơ” của biết bao thi sĩ xưa nay.
Xuân Diệu là một trong những nhà thơ đặc biệt thành công khi viết về mùa thu, với bài thơ “Đây mùa thu tới”, thi sĩ đã mang đến cho người đọc những cảm nhận vừa tinh tế, vừa mới mẻ về một bức tranh mùa thu đẹp, lãng mạn nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn, sự xót xa
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Thi sĩ Xuân Diệu đã rất tinh tế khi cảm nhận bước đi nhẹ nhàng của nàng thu qua hình ảnh rặng liễu. “Đìu hiu” gợi ra sự yên ả, vắng lặng đến tịch mịch, hàng liễu buồn trầm mặc giữa thiên nhiên đất trời được nhà thơ liên tưởng với hình ảnh của con người, đó là hình ảnh buồn thương của người thiếu phụ.
Dường như nỗi buồn của thiên nhiên, nỗi xao xuyến trong lòng người được gửi gắm qua hình ảnh “đứng chịu tang” của hàng liễu. Hàng liễu buồn buông xuống mặt hồ như làn tóc buồn, như những giọt nước mắt tiếc thương của con người.
Thu đến mang theo những nỗi buồn và sự phấn khích, bất ngờ cho cảm nhận của con người, đó là tiếng reo vui của nhà thơ khi chợt nhận thấy mùa xuân đã về “Đây mùa thu tới, mùa thu tới”. Hình ảnh sang cũng thật ấn tượng với sự đan xen giữa sắc xanh của lá và sắc vàng quen thuộc của mùa thu “ Với áo ơ phai đã dệt vàng”.
Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ Xuân Diệu đã có những cảm nhận sâu sắc hơn về những dấu hiệu của ngày thu:
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồn run rẩy, rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
Bức tranh ngày thu hiện lên trước mắt người đọc với những màu sắc ấn tượng, đó là màu xanh của lá, sắc đỏ của hoa. Khung cảnh mùa thu diễm lệ, lãng mạn có thể làm xao xuyến lòng người nhưng cũng gợi ra nỗi buồn về sự phôi pha, tàn úa “Hơn một loài hoa đã rụng cành” những cánh hoa rực rỡ trong ngày hè cũng dần buông lơi theo những làn gió thu khe khẽ, những chiếc lá xanh cũng dần chuyển màu đỏ trong sự nuối tiếc của lòng người.
Khung cảnh thi vị, lãng mạn nhưng cũng khẳng khiu, mỏng manh đến nao nòng “ Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Ánh trăng thu huyền ảo đã khơi dậy bao cảm xúc của thi nhân, trong cảm nhận của Xuân Diệu ánh trăng thu đẹp và buồn như người thiếu nữ cô đơn với nỗi buồn ngẩn ngơ. Trăng thuộc về thiên nhiên nhưng được nhân hóa như một con người với những cảm xúc buồn vui như con người mang đến sự đồng điệu giữa thiên nhiên và con người.
Cùng với nỗi buồn mơ hồ của vầng trăng là sự mờ ảo của non xa kì vĩ đã khơi dậy mạnh mẽ hơn nỗi buồn, sự cô độc trong cảnh vật. Hơi lạnh của mùa thu đã len lỏi trong từng làn gió để tác động đến cảm nhận của con người. Những chuyến đò nhộp nhịp thường ngày cũng đổi khác khi thu về, đó là sự thưa thớt, vắng lặng đến đìu hiu “ Đã vắng người sang những chuyến đò”.
Trong khổ thơ cuối cùng, thi sĩ Xuân Diệu vẫn mải miết cảm nhận từng bước đi của nàng thu, không chỉ là những âm thanh, màu sắc và những cảm xúc mơ hồ nữa mà mùa thu còn được cảm nhận qua những chuyển động cụ thể của cánh chim và sự rộn rã trong lòng người:
“Mây vẫn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
Sự xuất hiện của con người trong hai câu thơ cuối của bài tạo ấn tượng đặc biệt, đó là hình ảnh con người đang trầm mặc trong nỗi buồn của bản thân. Người thiếu nữ tựa cửa với đôi mắt nhìn vào xa xăm như chất chứa những muộn phiền, tâm sự khó nói thành lời. Hình ảnh người thiếu nữ đa tình hay chính Xuân Diệu đa tình đã mang hết nỗi lòng hòa vào mùa thu, để mặc cho những suy nghĩ xa xăm trôi dạt cùng mây trời.
“Đây mùa thu tới” là thi phẩm xuất sắc của Xuân Diệu viết về mùa thu, thi sĩ không chỉ mang đến cho người đọc bức tranh mùa thu tuyệt đẹp mà còn gửi gắm những nỗi niềm, cảm xúc của bản thân trước mùa thu và những đổi thay của đất trời.
Mời bạn đón đọc 🌜 Phân Tích Bài Thơ Xuân Về 🌜 hay nhất
Phân Tích Đây Mùa Thu Tới Đặc Sắc – Mẫu 10
Tìm đọc thêm bài mẫu phân tích đây mùa thu tới đặc sắc dưới đây để ôn tập tác phẩm thật tốt.
Bài thơ Đây mùa thu tới. Bài thơ nằm trong tập Thơ thơ của Xuân Diệu, ra đời năm 1938. Qua bài thơ, chúng ta sẽ cảm nhận được mùa thu mang tới vẻ đẹp mơ màng nhưng ẩn chứa trong đó lại là nỗi buồn của chính tác giả.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh thiên nhiên khúc trở mình từ hạ sang thu:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”.
Mùa thu dưới ngòi bút Xuân Diệu vẫn đẹp, nhưng vẻ đẹp đó sao buồn quá. Rặng liễu trong gió thu nhè nhẹ không phải là thướt tha, yểu điệu mà lại là “đìu hiu”, cô quạnh, được Xuân Diệu ví như “đứng chịu tang”. Câu thơ tiếp theo, nhà thơ lại tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa cho rặng liễu, khiến cho nó sinh động, như là một người phụ nữ đang u sầu khi đứng chịu tang, tóc “buồn buông xuống”.
Rồi người phụ nữ đó còn “lệ ngàn hàng”, giống như từng lá liễu rủ xuống là từng giọt nước mắt đang rơi vậy. Khung cảnh mở đầu mùa thu thật ảm đảm, trầm uất. Giật mình ở câu thơ tiếp theo, tác giả thông báo mùa thu tới bằng nghệ thuật điệp ngữ nổi bật, khiến người đọc tưởng rằng đây là dấu hiệu mùa thu mang vui vẻ xua tan đi nỗi buồn.
Nhưng không, càng vào chính thu, quang cảnh lại khoác lên mình chiếc áo “mơ phai dệt lá vàng”, một màu sắc nhạt nhòa, không có sức sống, càng khiến cho thu thê lương hơn.
Khổ thơ tiếp theo, người đọc càng cảm nhận được rõ tâm trạng buồn rầu của nhà thơ qua cách cảm nhận khung cảnh xung quanh, bởi người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
Các loài hoa đến mùa thu đều “rụng cành”, các loài cây cũng thay nhau rụng lá, lá bị “rũa màu xanh”, trở thành sắc đỏ. Khung cảnh tiêu điều lại thêm sắc đỏ, khiến mùa thu đã buồn giờ còn thêm phần u ám. Cơn gió mùa thu tuy nhè nhẹ, thường đem lại sự dễ chịu cho con người giờ lại len lỏi qua các cành cây trơ trọi lá, tác giả so sánh chúng với những bộ xương khô gầy, “mỏng manh” yếu đuối.
Cây cối và hoa cỏ giờ đây đượm màu buồn thương. Cũng chính là tâm trạng của nhà thơ Xuân Diệu và nhiều người khác, trước cách mạng tháng tám năm 1945, cuộc sống của nhân dân vẫn chưa rõ bến bờ, vẫn phải chịu cảnh mất nước.
Hình ảnh con người bắt đầu xuất hiện trong khung cảnh mùa thu:
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…”
Nhà thơ Xuân Diệu sử dụng biện pháp nhân hóa vầng trăng thành một “nàng trăng”,như cô thiếu nữ với nhiều tâm sự, thường tự ngồi “ngẩn ngơ”. Núi non mùa hạ có thể nhìn thấy rõ sự hùng vĩ nay nhìn không rõ do bị sương mờ che phủ.
Mùa thu buồn vắng đi cả sự nhộn nhịp của cuộc sống con người, do vào thu trời đã chớm lạnh, nhiều hôm còn “rét mướt”, trong từng luồn gió thổi về, khiến con người dường như hoạt động chậm lại, không còn nhiệt huyết và sôi động như mùa hè. Chính vì thế mà những con đò vắng người hơn, nên mùa thu trên sông nước càng trầm lắng, hiu quạnh hơn bao giờ hết.
Toàn bộ cảnh vật nhuốm sắc thu buồn như vậy dường như vẫn không lột tả được hết nỗi buồn trong lòng nhà thơ Xuân Diệu, ở đoạn cuối bài thơ, nỗi buồn càng dâng cao hơn bao giờ hết:
“Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.
Giờ đây cảnh vật không chỉ còn buồn, mà còn sinh ly tử biệt với nhau. Mây tách ra thành “từng không”, không còn là những đám mây trắng nặng nề to lớn nữa. Chim thì bay đi các nơi không còn tụ tập hót líu lo yêu đời. Rồi tất cả nỗi buồn trước mùa thu, sự chia ly của nhà thơ Xuân Diệu đã uất hận đến tận “khí trời”.
Nhà thơ tự đặt mình vào tâm trạng những người thiếu nữ, có nỗi buồn thường không nói ra, hay thơ thẩn nhìn ra xa nghĩ ngợi về điều gì đó, có lẽ cũng là nỗi lo cho đất nước và mong ngóng người thương bảo vệ được tổ quốc, thắng lợi trở về chăng?
Bài thơ Đây mùa xuân tới của nhà thơ Xuân Diệu thật buồn và chất chứa nhiều tâm trạng. Cảnh vật mùa thu dưới ngòi bút trữ tình đa tài của Xuân Diệu đã được khắc họa thật sinh động và mang theo nỗi buồn giống tâm trạng của tác giả. Qua đó người đọc cảm nhận được khung cảnh mùa thu thật ảm đảm, thê lương và tâm hồn tinh tế, đa sầu đa cảm của nhà thơ Xuân Diệu.
Gợi ý cho bạn ☀️ Phân Tích Bài Thơ Trong Lời Mẹ Hát ☀️ hay nhất
Phân Tích Đây Mùa Thu Tới Học Sinh Giỏi – Mẫu 11
Tiếp tục tham khảo bài mẫu phân tích đây mùa thu tới học sinh giỏi sau đây để trau dồi thêm kĩ năng viết của mình nhé!
“Đây mùa thu tới”, Xuân Diệu lại mang đến bức tranh thu sinh động, ấn tượng đồng thời tác giả bày tỏ cảm xúc u sầu, trầm tư khi mùa thu đến.
“Đây mùa thu tới” được rút từ tập “Thơ thơ” xuất bản 1938, là một đại diện tiêu biểu cho nền thơ ca trước Cách mạng. Bài thơ chính là khung cảnh đất trời với “hơi thở” man mác buồn cùng với đó là nỗi bâng khuâng của người thiếu nữ khi mùa thu về.
Mở đầu bài thơ người đọc đã cảm nhận được cái buồn, vắng vẻ của cảnh vật
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
Tác giả dẫn dắt độc giả với hình ảnh đầu tiên – “liễu”. Xuân Diệu đã chọn hình ảnh này làm tín hiệu của mùa thu nhằm diễn tả một mùa thu buồn man mác nhưng cũng đầy lãng mạn. Tâm trạng mà tác giả xây dựng cho “nhân vật” này là cái “đìu hiu” – tức là sự vắng vẻ, đơn côi. Và sự cô đơn này không chỉ diễn ra trên một mà là “rặng” – với nhiều cây liễu càng làm cho nỗi buồn chồng chất, lây lan.
Chính từ láy “đìu hiu” đã miêu tả không khí buồn, lẻ loi của “liễu”. Nhà thơ đã dùng thủ pháp nhân hóa để nói lên hành động của “liễu” là “đứng chịu tang”. Lúc này, “liễu” không còn là một thực thể vô tri vô giác nữa mà thay vào đó là hình ảnh buồn, lặng lẽ nghiêng mình trước “tang”.
Hình ảnh “lệ ngàn hàng” gợi nỗi đau, nỗi buồn khi tác giả sử dụng số đếm “ngàn” để chỉ về nước mắt của cây liễu. Chính điều này làm người ta tự hỏi liệu nguyên nhân nào khiến cho “liễu” khóc, ai đã ra đi để “nàng” phải “chịu tang”. Hai câu thơ gợi mở và làm cho người đọc tò mò về những “diễn biến” tiếp theo
. Ở khổ thơ đầu này, một biện pháp nghệ thuật nữa mà tác giả sử dụng là láy âm gần nhau. Liên tiếp là ba chữ “Buồn – buông – xuống” là các âm tiết nửa khép nên khẩu hình khi phát âm là hẹp tạo cảm giác nỗi buồn ứ đọng và khi phát âm thì âm thanh trầm.
Thanh âm theo thứ tự là bằng thấp, bằng cao, trắc cao nên khi đọc câu thơ gợi cảm giác nỗi buồn đang “buông” từ từ, không vội vã . Cũng tương tự như vậy tác giả sử dụng láy âm cho ba chữ “tang – ngàn – hàng” cũng là âm tiết nửa khép.
Đi từ bằng cao xuống bằng thấp nên các từ này gợi nỗi trĩu nặng, giọng điệu trầm xuống cho sự xót xa, thương tiếc của “liễu”.
“Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.”
Niềm vui mừng, phấn khởi của tác giả khi mùa thu đã “chạm ngõ”. Điệp cấu trúc “mùa thu tới” càng nói lên sự hồ hởi, chào đón “nàng thu” của thi sĩ. Câu cuối chính với hình ảnh nhẹ nhàng, trong sáng, mang đậm sắc thu với “phông nền” là màu vàng. Cả hai câu thơ đều có cách ngắt nhịp 4/3 diễn tả được sự chuyển động của nàng thu, đồng thời thể hiện thái độ mong chờ thu tới của thi sĩ.
Nếu như ở khổ thơ đầu tiên tác giả đưa chúng ta đến với những cảm xúc thuần túy của mùa thu thì ở khổ tiếp theo Xuân Diệu lại đi vào chi tiết, khắc họa rõ nét hơn bức tranh thiên nhiên
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
Những luồng run rẩy, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.”
Thoạt đọc câu đầu khổ thơ hai, độc giả sẽ cảm thấy khá lạ tai với cụm từ “hơn một”. “Hơn một” tức là số nhiều, có thể là hai, ba, bốn…. nhưng thi sĩ lại không dùng một số đếm cụ thể mà lại dùng “hơn một”. Chính cụm từ này đã gây ra cho người đọc nhiều hứng thú. Chắc hẳn rằng không chỉ có một loài hoa “đã rụng cành” mà là rất nhiều loài hoa đã như thế.
Xuân Diệu quả là một nhà thơ tài tình khi ông liên tiếp đưa ra những từ ngữ đặc sắc và đầy chất gợi. Phải tinh tế lắm, nhạy cảm lắm thì ông mới chọn “rũa” để miêu tả cây trong vườn. Động từ này gây ra cho người đọc sự nhuốm màu, pha trộn giữa màu xanh và màu đỏ. “Sắc đỏ” đang dần xâm chiếm trên lá cây, như một tín hiệu cho mùa thu đã về.
Câu thơ kế tiếp thi sĩ sử dụng liên tục hai từ láy “run rẩy”, “rung rinh” như một sự lay động nhẹ của “nhánh khô gầy” khi có làn gió thoảng qua. Liên tiếp là bốn chữ “r” làm cho người đọc cảm nhận được cái lạnh, sự “run rẩy” cũng theo đó mà được cảm nhận rõ hơn.
Đến với khổ thơ thứ ba, người đọc bắt gặp hồn thơ vừa mang tính hiện thực lại có tính chất tượng trưng đầy sáng tạo. Ấn tượng ngay với độc giả là hình ảnh “nàng trăng”. Cũng với ý nghĩa đó tác giả có thể diễn đạt theo cách khác như trăng non hoặc trăng đầu mùa. Nhưng không, thi nhân đã nhân hóa trăng thành hình ảnh một con gái với tuổi xuân xanh mơn mởn như chính cái sắc vàng của trăng non.
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ”
Với phép tu từ nhân hóa, nhà thơ Xuân Diệu đã khắc họa tính cách của trăng y hệt như một người con gái đang suy nghĩ điều gì để rồi tự “ngẩn ngơ”. Cùng với hình ảnh trăng, tác giả còn khéo léo giới thiệu về núi non quê hương.
Từ “xa” cho thấy điểm nhìn của tác giả đã mở rộng ra. Thoạt đầu là từ trên cao khi chiêm ngưỡng “nàng trăng”, còn giờ đây là không gian có chiều dài với núi non được bảo vệ bởi một lớp sương “nhạt”. Chính từ này làm cho núi non không hiện ra một cách rõ nét cũng không bị bao phủ quá dày mà nó vừa đủ để tạo ra hình ảnh vừa thực vừa ảo.
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò.”
Cấu trúc song hành “Đã…” diễn tả một sự việc, hành động đã xảy ra. Thu về mang theo cái rét đặc trưng cùng “hội ngộ”. Lúc này tác giả đã chuyển xúc giác sang thính giác để nghe “lời thu nói”. Cái rét ở đây không phải là rét đậm cũng không là rét tê tái mà là “rét mướt”.
Động từ độc đáo “luồn” tạo cảm giác cái rét đang len lỏi vào từng cơn gió cùng về với mùa thu. Câu thơ cuối miêu tả hiện thực những chuyến đò giờ đã vắng người sang gợi cảm giác buồn, vắng vẻ.
Đến với khổ thơ cuối cùng:
“Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.”
Hình ảnh “thiếu nữ buồn không nói” cùng với nghệ thuật đảo ngữ đã khắc họa nỗi sầu thảm, lẻ loi, cô đơn của cô gái trước không gian mênh mông rộng lớn. “Nhìn xa”, “nghĩ ngợi” càng làm rõ hơn sự suy tư, trầm ngâm của nhân vật trước cảnh sắc mùa thu hay chính xác là bước “chuyển mình” của “nàng thu”. Mượn hình ảnh “thiếu nữ”, tác giả đã nói lên suy nghĩ, tâm sự của mình về bức tranh thu. Đó chính là cảm xúc buồn, suy tư khi mùa thu dần “tàn”.
Với “Đây mùa thu tới”, nhà thơ Xuân Diệu đã cho độc giả thấy cảm quan cực kì xuất sắc trong việc quan sát, miêu tả cảnh vật khi mùa thu tới. Bài thơ không những có đầy đủ hình ảnh, cảnh sắc mà còn chất chứa tình thu. Bằng tình yêu cuộc sống, thái độ trân quý thời gian thi sĩ đã vẽ nên bức tranh thu vừa sinh động nhưng đồng thời cũng mang nét u buồn, cô đơn.
Đọc nhiều hơn ☀️ Phân Tích Thu Điếu ☀️Nguyễn Khuyến
Phân Tích Bài Thơ Đây Mùa Thu Tới Hay Nhất – Mẫu 12
Xem thêm bài phân tích bài thơ đây mùa thu tới hay nhất được gợi ý sau đây nhé!
“Đây mùa thu tới” là một bài thơ rất hay về mùa thu là thu tuyệt bút của Xuân Diệu, rút trong tập “Thơ thơ”, xuất bản năm 1938. Thu đến, xôn xao rung động đất trời. Cảnh vật đẹp mà thoáng buồn man mác. Lòng thiếu nữ càng trở nên bâng khuâng buổi thu về.
Cảm nhận đầu tiên của thi sĩ Xuân Diệu về mùa thu không phải là âm thanh tiếng chày đập vải, không phải là ấn tượng “Ngô đồng nhất diệp lạc – Thiên hạ cộng trì thu” mà là ở dáng liễu, rặng liễu ven hồ, hay bên đường:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”.
Cả một không gian “đìu hiu”, buồn và vắng vẻ. Rặng liễu trầm mặc như “đứng chịu tang”. Lá liễu buông dài như tóc nàng cô phụ “buồn buông xuống”. Lá liễu ướt đẫm sương thu tưởng như “lệ ngàn hàng”. Liễu được nhân hóa “đứng chịu tang”, từ tóc liễu đến lệ liễu đều mang theo bao nỗi buồn thấm thía. Một nét liễu, một dáng liễu được miêu tả và cảm nhận đầy chất thơ.
Say mê ngắm “rặng liễu đìu hiu…”, nhà thơ khẽ reo lên khi chợt nhận thấy thu đã đến. Cách ngắt nhịp 4/3 với điệp ngữ “mùa thu tới” đã diễn tả bước đi của mùa thu và niềm mong đợi thu về bấy lâu nay trong lòng thi sĩ:
“Đây mùa thu tới/mùa thu tới
Với áo mơ phai/dệt lá vàng”.
Một vần lưng thần tình: “tới – với”, một chữ “dệt” tinh tế trong miêu tả và cảm nhận. Thu vừa tới, sắc màu cỏ cây vạn vật đều đổi thay, trở thành “mơ phai”. Đó đây điểm tô một vài sắc vàng của lá, đúng là “dệt lá vàng”. Câu thơ “Với áo mơ phai dệt lá vàng” là một câu thơ nhiều thi vị, nói lên cái hồn thu với sắc lá, gợi lên cảm giác thanh nhẹ, tươi sáng về mùa thu đáng yêu vô cùng.
Có thể nói, khổ thơ đầu đã vẽ lên một bức tranh thu đẹp, thơ mộng, thấm một nỗi buồn từ cây cỏ đến lòng người, nhưng không ảm đạm, thê lương làm nặng trĩu lòng người.
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
Những luồng run rẩy, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
Nghệ thuật sử dụng các phụ âm , “r” (rụng, rũa, run rẩy, rung rinh) và phụ âm “m” (một, màu, mỏng manh) với dụng ý thẩm mĩ trong gợi tả và biểu cảm đặc sắc. Đó cũng là một nét mới trong thi pháp của Xuân Diệu.
Khổ thơ thứ 3, thi liệu vừa hiện thực vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân sáng tạo. Cũng có trăng nhưng là “nàng trăng tự ngẩn ngơ” trên bầu trời. Không nói là trăng non đầu tháng, không hỏi “Trăng bao nhiêu tuổi trăng già” mà lại nói là “nàng trăng”.
Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Cũng ó núi, có non, lúc ẩn lúc hiện, “khởi sự” nhô lên cuối chân trời xa, qua lớp sương thu mờ. Trăng và núi trong thơ Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê hương, gần gũi và thân thuộc từ bao đời nay được vẽ lên thật đẹp:
“Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ… “
Hai tiếng “đã nghe”, “đã vắng” gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của những buổi chiều thu lành lạnh:
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió,
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Cấu trúc câu thơ song hành và cách diễn tả cũng rất mới. Có chuyển đổi cảm giác giữa xúc giác và thính giác. Như vậy, sự cảm nhận của thi nhân về rét, về gió, về cái xa vắng không chỉ bằng giác quan mà còn bằng cả linh hồn nữa.
Khổ cuối là một bức tranh thu tuyệt đẹp. Có vẻ đẹp của thiên nhiên, của mây trời, cánh chim. Có vẻ đẹp thiếu nữ. Cảnh đẹp, người đẹp mà thoáng buồn mơ hồ mênh mông. Mây và cánh chim gợi lên nỗi buồn đẹp chia li như “bèo dạt mây trôi” của tình ca! Thi sĩ đã lấy cái “động” của cánh chim bay, của áng mây chiều trôi để đặc tả cái êm đềm, yên tĩnh của cõi vật và lòng người:
“Mây vẩn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia li”…
Trong cái êm đềm, xa vắng ấy hiện lên hình ảnh thiếu nữ “ít nhiều” chưa xác định. Buồn tương tư, “buồn không nói”. Một dáng điệu “tựa cửa nhìn xa”, một tâm hồn “nghĩ ngợi gì” rất mơ hồ, xa xăm:
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”
Đây mùa thu tới” là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Điệu. Bao nhiêu nét thu là bấy nhiêu nét vẽ tài hoa. Dáng thu, sắc thu, tình thu đều đẹp mà buồn, bao nên cái hồn thu mênh mang, xao xuyến. Đáng yêu nhất là hình ảnh thiếu nữ, một dáng thu yêu kiều mộng tưởng “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”.
Một trái tim đa tình, một ngòi bút tài hoa. Cách cảm và cách diễn tả rất mới, rất thơ. Đằng sau những sắc thu của đất trời, hoa lá, cây cỏ, của núi xa, của nàng trăng, của làn gió thu se lạnh,… là tiếng thu xôn xao, rung động trong tâm hồn thi sĩ tuổi đôi mươi và trong lòng thiếu nữ tuổi trăng tròn. Bài thơ cho ta nhiều ngẩn ngơ say cái hương sắc mùa thu xưa, mùa thu Hà Nội hơn nữa.
SCR.VN chia sẻ ☔ Phân Tích Hoàng Hạc Lâu ☔Của Thôi Hiệu
Phân Tích Đây Mùa Thu Tới Ngắn Gọn – Mẫu 13
Đọc nhiều hơn với bài mẫu phân tích đây mùa thu tới ngắn gọn được nhiều bạn đọc quan tâm tìm kiếm sau đây.
Xuân Diệu là gương mặt nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ Mới ở Việt Nam. Thơ Xuân Diệu nổi bật với tình yêu cuộc sống, khát khao giao cảm với đời, với thiên nhiên. “Đây mùa thu tới” là bài thơ tiêu biểu cho nguồn cảm hứng dạt dào ấy, bài thơ không chỉ vẽ ra khung cảnh thiên nhiên những ngày chớm thu đẹp mà buồn mà còn bộc lộ những rung động, xao xuyến của nhân vật trữ tình.
Trong hai câu thơ đầu, tác giả đã gợi ra khung cảnh buồn với hàng liễu rủ bên hồ khi tiết trời sang thu:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
Mùa thu vốn là nguồn đề tài quen thuộc trong thi ca, đến lượt mình Xuân Diệu một mặt kế thừa nguồn thi hứng bất tận ấy, mặt khác mang đến những nét mới mẻ về mùa thu. Mùa thu được thi sĩ Xuân Diệu cảm nhận qua hàng liễu đìu hiu với những cành lá rủ xuống mặt hồ.
Có thể nói tác giả đã rất thành công trong việc sử dụng biện pháp láy âm (liễu-đìu-hiu- chịu, tang-ngàn hàng, buồn-buông-xuống) để tạo ấn tượng về hình ảnh thơ, đồng thời mang đến nhạc điệu buồn khiến cho nỗi buồn trong lòng người càng thêm lan tỏa.
Những rặng liễu rủ trong cảm nhận của nhà thơ tựa như mái tóc dài của người thiếu nữ “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang”. Hình ảnh thơ ấn tượng đến mức tái tê cõi lòng, rặng liễu không chỉ là loài thực vật vô tri nữa mà đã trở thành tiếng lòng của nhân vật trữ tình. Rặng liễu thu buồn với những cành dài rủ xuống mặt hồ như mái tóc người con gái đứng chịu tan, lại vỡ òa thành những tiếc khóc và đọng lại thành những giọt nước mắt xót xa.
Cảnh vật tuy buồn nhưng vẫn đẹp đẽ đến nao lòng, nhận biết những dấu hiệu sang thu ấy, người thi sĩ đã reo lên đầy náo nức:
Đây mùa thu tới- mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Lời reo mừng hân hoan khi phát hiện thu đã về “áo mơ phai dệt lá vàng”. Sắc vàng đã gắn liền với mùa thu, với sự phôi phai, tàn úa nhưng ở đây nhà thơ dùng “Mơ phai” lại gợi ra sắc vàng đầy tươi tắn, thanh nhẹ. Không gian rộng lớn đầy chất thu, thu về vạn vật như tươi sáng, nhẹ nhàng hơn nhưng cũng thấm đượm một nỗi buồn khó có thể giãi bày.
Bằng sự tinh tế trong cảm nhận và tài năng sáng tạo bậc thầy, chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn nhà thơ Xuân Diệu như kéo cả mùa thu về cho đất nước, làm xao xuyến lòng người. Bức tranh mùa thu trong thơ Xuân Diệu đẹp đẽ, lãng mạn nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn trong cảnh vật và sự tái tê trong lòng người.
Xem thêm🌱 Phân Tích Nhớ Con Sông Quê Hương 🌱 hay nhất
Phân Tích Bài Thơ Đây Mùa Thu Tới Nâng Cao – Mẫu 14
SCR.VN giới thiệu thêm đến bạn bài mẫu phân tích bài thơ đây mùa thu tới nâng cao dưới đây.
Xuân Diệu được biết đến là một thi sĩ đa tài với hồn thơ lúc tha thiết nhẹ nhàng, khi lả lơi đùa giỡn, rồi cũng có cả những buồn đau da diết, khắc khoải. Ông được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình” của nền thơ mới Việt Nam.
Đến với bài thơ ” Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu, chúng ta có cơ hội hiểu rõ hơn về tâm hồn nhà thơ, về tình yêu thiên nhiên trong trái tim người thi sĩ. Có lẽ khổ đầu bài thơ chính là những nốt nhạc dạo tuyệt vời nhất, vẽ lên một bức tranh thu tuyệt vời.
”Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với lá mơ phai dệt lá vàng”.
Thiên nhiên là nơi chứa đựng những cái đẹp tinh túy nhất của đất trời, cỏ cây, hoa lá…. Hiểu được thiên nhiên, có tình yêu thiên nhiên vô tận thì những thi sĩ của chúng ta mới viết nên những dòng thơ nặng tình vẹn ý. Ở ” Đây mùa thu tới” cũng vậy, mỗi dòng thơ là một miếng ghép tươi đẹp cùng ghép lại cho bức tranh mùa thu hoàn hảo.
Nói đến mùa thu, con người ta luôn cảm nhận một nỗi buồn rất đặc trưng. Dường như mùa thu trở thành mùa của những xuyến xao nồng nàn, của những bâng khuâng khó tả và của những nối buồn xa xăm.
Mùa thu- mùa của tình yêu thầm lặng và những khát khao trăn trở, mùa của ánh vàng miên mang úa phai màu thời gian. Viết về mùa thu, có rất nhiều nhà thơ dành tình cảm đặc biệt cho chủ đề này, cũng không ít tác phẩm thu thành công rực rỡ.
Nói đến thu, người ta không thể không nhớ đến Nguyễn Khuyến với những câu thơ thu tĩnh lặng: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” hay Hữu Thỉnh với cảm nhận:
“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Nhưng đến với ” Đây mùa thu tới” ta bắt gặp một ” nàng thu” hoàn toàn mới lạ với những cung bậc cảm xúc đầy sức hút.
” Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh của những cây liễu rủ lá xuống mặt hồ.Cành liễu mềm mại với những dải lá mềm mại buông rủ xuống mềm mượt khiến ta liên tưởng đến hình ảnh thuớt tha nhỏ bé của một người con gái.
Nghệ thuật sử dụng từ ngữ ” đìu hiu” với cách láy vần độc đáo gợi tả sự cô đơn đến đơn độc, một cảnh buồn rất lạ.
Bức tranh dần dần hiện lên qua từng nhịp thơ chậm rãi, êm ả. Rặng liễu xanh thẫm buông những cành lá một cách buồn buồn. Dường như ẩn chứa bên trong nó là một nỗi niềm sâu kín chưa biết tỏ cùng ai.
Nó cứ đứng giữa đất trời bao la, mặc cho thời gian trôi đi, mặc cho mọi thứ đang chuyển động. Ta cảm nhận dường như thấp thoáng đâu đó bóng dáng yếu mềm của cô gái với nét mặt u sầu man mác. Không gian cũng yên tĩnh, lặng trôi như chính nỗi buồn không tên vậy.
” Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
Giữa trời đất bao la ấy chẳng biết là cành liễu mỏng manh buông xuống hay chính là mái tóc dài mượt của cô gái nữa. Chỉ thấy rằng hình ảnh trước mắt thấm đẫm sự buồn và cô đơn. “Lệ ngàn hàng” là cách sử dụng rất đắt về ngôn từ của nhà thơ. Độc giả không chắc chắn được đó là dòng nước mắt hay là dòng nước tĩnh lặng của thiên nhiên. Cũng có thể đó lại là những giọt nước mắt của cô gái đang chảy dài, rơi xuống mặt hồ.
Dù hiểu theo cách nào thì sự thật về nỗi buồn cũng đang hiển hiện một cách rất cụ thể, rất rõ ràng. “Tóc buồn” là cách bày tỏ trực tiếp, nói một cách chân nguyên nhất về tâm trạng của con người lúc này. Phải chăng nỗi buồn đang lan trải từ con người sang cảnh vật, khiến cảnh vật cũng đượm màu sầu muộn? Hay chính cảnh vật mang hơi hướng của sự buồn nên khiến long người cũng buồn theo?
Bức tranh phong cảnh được nhà thơ vẽ nên chỉ bằng vài nét chấm phá tinh tế, khiến không gian và cảnh vật, con người hoà quyện lẫn nhau thành chỉnh thể hợp lý.
Ta bỗng nhiên nhớ đến một câu thơ thân thuộc: “Em là ai cô gái hay nàng tiên”. Bởi mọi thứ như thực như vô, vừa rõ ràng lại vừa mờ ảo, mông lung. Hai câu thơ mở ra cánh cửa đầu tiên của toàn cảnh bức tranh đất trời, của cái nhìn đầy sức hút với vạn vật trong khung cảnh ấy. Để rồi ở những câu thơ tiếp theo, mọi thứ đã có sự thay đổi:
“ Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với lá mơ phai dệt lá vàng”
Nhịp thơ lúc này không còn chậm rãi mang vẻ buồn thiu như những câu thơ đầu nữa; mà chúng trở nên nhanh hơn, gấp gáp hơn cùng điệp từ “mùa thu tới”. Vâng, mọi thứ ở hai câu thơ đầu tiên chính là những biểu hiện đặc trưng cho không khí và thời tiết sang thu. Để đến câu thơ thứ ba, nhà thơ khẳng định chính xác giây phút sang mùa đã đến, ngày thu đang cựa mình trong gió.
Xuân Diệu chẳng còn kìm được long mình, cũng chẳng cần kìm lại những cảm xúc đang dồn dập khi ông nhận ra mùa thu đã tới. Điệp từ “mùa thu tới” với nhịp điệu nhanh hơn, thái độ hào hứng vui mừng hơn đã xua đi phần nào không khí vắng lặng của không gian, đất trời. Mỗi mùa trong năm đều có những đặc trưng rất riêng, mang những biểu hiện rõ nét của từng giai đoạn.
Thế nhưng giây phút giao mùa, thời khắc chuyển mùa luôn là những khoảnh khắc đẹp đến khó tả, chỉ có thể cảm nhận và tận hưởng mà thôi. Mùa thu như một sự trông đợi từ lâu, cho nên khi thấy thu về, tâm trạng của con người cũng trở nên tươi vui hơn. Con người đón chào mùa thu với ánh mắt nụ cười thân thiệt, với nét mặt rạng rỡ như chút ấm áp dễ chịu trong trời thu.
Mùa thu e ấp, dịu dàng và thánh thiện như một người thiếu nữ; chẳng vồ vập, chẳng ồn ào; thu cứ đến một cách nhẹ nhàng, lan toả. Hương thu là làn gió nhẹ thổi bay bay những sợi tóc mai suôn dài, hong khô những giọt lệ buồn và phủ ánh vàng ấm áp cõi lòng đang cô độc. Có phải thu dịu dàng vuốt ve tâm hồn con người, mơn trớn với trái tim đầy yêu thương và không quên phù phép cho những sắc màu:
“Với lá mơ phai dệt lá vàng”
Không ồn ào mạnh mẽ như mùa hạ, chẳng lạnh lùng kiêu hãnh như mùa đông, chưa căng tràn sôi động như ngày xuân nhưng trời thu luôn được ưu ái bởi những nét riêng, rất riêng chẳng thể nhầm lẫn đi đâu được
Mùa thu- mùa của những trăn trở còn khôn nguôi, mùa của những bâng khuâng cứ âm ỉ day dứt mãi chưa dừng. Con người ta thường hay ưu tư mỗi độ thu về, tự thưởng cho mình ngụm trà ấm nồng bên thú vui ngắm nhìn hoa cúc, hay thả dòng suy tư về những hoài niệm xa xôi. Có thể thấy rằng, thu là bình yên đến cô độc, úa vàng và xơ xác mong manh. Và dù là sự úa vàng thì nó cũng vẫn luôn rất đẹp, đẹp trong từng hơi thở.
Mỗi cành cây, chiếc lá, đều được “dệt” bởi màu vàng đặc trưng của trời thu. Ga màu vàng loang lổ khắp cả không gian, sự úa vàng đang xâm chiếm lấy mọi thứ; như thể rằng tâm hồn con người cũng bị nhuộm màu theo đó. Mùa thu như một quãng nghỉ cho vạn vật trong suốt cuộc hành trình dài.
Nó không phải là sự héo tàn chết chóc, cũng không phải là sự chấm dứt hay đau thương; vàng úa để âm ỉ sự sống sau đó, để chuẩn bị cho một sự bắt đầu. Vòng tuần hoàn của sự sống luôn tiếp diễn, nếu không có quãng âm ỉ đợi chờ thì không bao giờ đến ngày xanh của sôi nổi căng tràn. Chúng ta ngắm nhìn bức tranh mùa thu mà thấy như chính chúng ta đang được sống giữa đất trời khi ấy.
Mọi thứ lan toả và hài hoà ở tất cả góc cạnh một cách chân thành nhất, đẹp đẽ nhất. Động từ “dệt” được dùng một cách chuẩn xác, khiến ý thơ vừa trọn vẹn về nội dung, vừa đẹp về hình thức. Mùa thu đang thay áo mới cho khung cảnh, chuẩn bị cho sự sống đang len lỏi cựa quậy chờ ngày hồi sinh. Đi qua úa tàn, tất cả sẽ trỗi dậy sự sống mãnh liệt và thái độ trân trọng nâng niu những gì ở quá khứ.
Nhà thơ Xuân Diệu đã mở cánh cửa của thời gian, dùng tài năng và tình yêu của mình dẫn dắt chúng ta vào với thế giới nơi ông đang cảm nhận, để chúng ta thấy như chính ta đang cảm nhận trời thu năm ấy. Chắc hẳn nhà thơ phải dành trọn tình yêu cho thiên nhiên thì mới có thể viết những vần thơ đầy tình đến thế.Mạch thơ xuyên suốt toàn bài với những tình cảm mãnh liệt trường tồn, thể hiện một cách chân thành dung dị nhất về cảnh thu.
Qua đây chúng ta thấy được tâm hồn đa cảm và trái tim đầy tình yêu của thi sĩ Xuân Diệu. Ông đã vẽ lên một bức tranh rất đẹp, có chiều sâu từ chính những điều giản đơn của cuộc đời. “ Đây mùa thu tới” xứng đáng là tác phẩm xuất sắc của thi ca.
Xem nhiều hơn mẫu 🍂 Phân Tích Mùa Hoa Mận 🍂 chi tiết
Phân Tích Bài Thơ Đây Mùa Thu Tới Lớp 10 – Mẫu 15
Cuối cùng là bài mẫu phân tích bài thơ đây mùa thu tới lớp 10 chi tiết nhất sau đây.
Cũng viết về đề tài mùa thu – một đề tài quen thuộc của thơ ca Việt Nam. Nhưng cái thu trong bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu không giống với cảnh thu, trời thu, sắc thu truyền thống trong chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ này tác giả gửi vào đó những xúc cảm mới, đồng thời có nhiều cách tân táo bạo trong việc xử lý thi liệu, trong diễn đạt,…đã làm nên một mùa thu rất độc đáo trong hồn thơ Xuân Diệu.
Nhạy cảm với những biến đổi của thiên nhiên đất trời trong khoảnh khắc giao mùa giữa hạ sang thu. Nhà thơ cảm thu từ hình ảnh thay đổi của rặng liễu- một hiện tượng rất mới lạ và độc đáo so với thơ trung đại. Hình ảnh rặng liễu ở đây được nhà thơ liên tưởng tới các thiếu nữ đứng xõa tóc chịu tang và tràn lệ. Điều đó làm cho rặng liễu mùa thu bỗng trở nên đẹp hơn, trẻ trung và có hồn hơn.
“ Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
Qua đó cũng thể hiện rõ cảm quan thẩm mỹ riêng của Xuân Diệu: lấy cái đẹp thanh xuân của người thiếu nữ để làm thước đo, phương tiện để tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Nhưng cảnh đẹp này vương vấn chút buồn. thật khiến lòng người man mác. Tiếp đó là tiếng reo vang như đang vui mừng trước sự xuất hiện của “Nàng Thu”:
“ Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Xuân Diệu sử dụng điệp ngữ “ đây mùa thu tới – mùa thu tới” thể hiện sự sôi nổi giống như là tiếng reo thích thú với sự tới của mùa thu. Đó chính là tình cảm, sự ưu ái của nhà thơ dành cho cái đẹp. Thông qua hình ảnh “áo mơ phai dệt lá vàng” cho thấy nhà thơ phát hiện ra nàng thu đang tới chậm rãi, khoan thai bước đến với tấm áo vàng màu mơ phai.
Giống như một thiếu nữ đoan trang, e lệ bước đi uyển chuyển, cười duyên nhẹ nhàng như hơi thở say đắm mà dịu ngọt của mùa thu.Đặc biệt, Xuân Diệu có con mắt rất tinh tế, rất độc đáo. Ông miêu tả mùa thu với màu “áo mơ phai”. Mơ phai không phải hẳn vàng, mà cũng chẳng hẳn là xanh. Đó màu vàng pha chút ánh xanh, vàng tươi non, một màu vàng còn vương vấn màu xanh của mùa hạ.
“ Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh”
Tới đây nhà thơ đi vào quan sát rất tỉ mỉ, miêu tả cụ thể cảnh thu đẹp trong vườn thu: có hoa, lá, cành, gió thu. Nghệ thuật liệt kê để kể ra hàng loạt cảnh vật phong phú. Về hoa đã có một số loài hoa đã lìa cảnh, những cánh hoa rơi nhẹ xuống mặt đất.
Cảnh thu được mở rộng ra không gian ba chiều với trăng cao, non xa, đò sâu:
“ Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió..
Đã vắng người sang những chuyến đò..”
Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa khiến hình ảnh nàng trăng hiện ra với khuôn mặt tròn đầy, tươi sáng nhưng lại vương một nỗi sầu ngẩn ngơ. Đó là sự tiếc nuối, vơ vẩn và mơ hồ. Trăng giống như một cô gái đẹp đang tựa cửa suy tư, ánh mắt trong veo nhìn vô định, ngẩn ngơ buồn giữa không gian xa và rộng.
Trong câu thơ:
“Non xa khởi sự nhạt sương mờ…”
Cụm từ “non xa” gợi tả những dãy núi nhấp nhô, trùng điệp, vươn lên trong biển khói sương một cách mạnh mẽ thể hiện thông qua từ “khởi sự” cho thấy phong cảnh rất hùng vĩ, tráng lệ và thơ mộng. Lại tiếp tục là một từ gợi hình “ rét mướt” để nói lên sự rét mướt của mùa đông đang luồn vào những sợi gió của mùa thu. Và ở đây tác giả cảm được sự giao thoa của ba mùa hạ- thu- đông.
“Đã vắng người sang những chuyến đò..”
Những chuyến đò đã vắng khách, ít người qua lại. Hơn nữa, qua khổ thơ cũng cho thấy mùa thu với Xuân Diệu còn là mùa của sự chia li: người chia tay với người, mùa chia tay với mùa, cảnh vật cũng chia ly với nhau. Điều đó được ông thể hiện thông qua các câu thơ:
“ Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
Màu sắc của sự chia li bắt đầu từ cảnh vật. Những loài chim di cư cũng đã cảm nhận được cái rét của mùa đông sắp tới nên chúng vội vã bay về phương Nam để tránh cái lạnh giá nơi phương Bắc. Bầu trời cũng nhuốm màu u uất của sự chia ly thể hiện ở những đám mây vần vũ, chao đảo. Tất cả đã khiến cho bầu trời trở nên vẩn đục, xám xịt. Và đó cũng chính là bầu trời của tâm trạng, sắc màu tâm lý.
Trong hai câu thơ cuối tác giả thể hiện tình thu:
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
Hình ảnh các thiếu nữ tươi trẻ hiện ra trong dáng đứng tựa cửa, yểu điệu duyên dáng nhưng ánh mắt thì nhìn xa xăm và ẩn chứa một nỗi buồn rất mơ hồ, không xác định được nguyên nhân biểu hiện của những thiếu nữ nhạy cảm. Các thiếu nữ là trung tâm, điểm sáng và là linh hồn cho bức tranh khiến cho bức tranh bằng ngôn từ của Xuân Diệu trở nên đẹp và gợi cảm hơn.
Đây mùa thu tới trích trong tập Thơ thơ của Xuân Diệu đã vẽ lên một bức tranh phong cảnh mùa thu trong thời khắc giao mùa và được nhà thơ cảm nhận tinh tế, tái hiện bằng bút pháp hiện đại. Đây cũng là một trong những bài thơ đánh dấu thành công xuất sắc tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu. Một bức tranh thu đẹp, rất đẹp nhưng buồn, khiến ta đọc xong cứ ngẩn ngơ, vương vấn mãi.
Khám phá thêm 💕 Phân Tích Bài Thơ Gặp Lá Cơm Nếp 💕 chi tiết