Phân Tích Chiều Hôm Nhớ Nhà [21+ Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất]

Phân Tích Chiều Hôm Nhớ Nhà ❤️ 21+ Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất ✅ Tham Khảo Những Bài Văn Mẫu Đặc Sắc Dưới Đây Để Trau Dồi Thêm Kĩ Năng Viết.

Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Chiều Hôm Nhớ Nhà Chi Tiết

Tham khảo dàn ý phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan mà chúng tôi gợi ý để làm văn nhanh và chính xác bạn nhé!

👉Mở bài

  • Giới thiệu khái quát về Bà Huyện Thanh Quan (những nét chính về con người, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác,…).
  • Giới thiệu khái quát về bài thơ Chiều hôm nhớ nhà (hoàn cảnh sáng tác hoặc tóm tắt nội dung)
    • Ví dụ: thông qua tác phẩm Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan đã khẳng định tài hoa thơ phú của mình. Bài thơ chứa một niềm tâm sự hoài cổ, nuối tiếc thời xưa được thể hiện qua nghệ thuật miêu tả cảnh để bộc lộ tình của tác giả.

👉Thân bài

  • Nội dung:
    • Ở bài thơ, ta bắt gặp một quang cảnh buồn, hoang vắng, cô tịch. Đó là cảnh buổi hoàng hôn tím sẫm, cái khoảng không gian và thời gian buồn, gợi nhớ nhất trong một ngày.
    • Xuất hiện hình ảnh con người nhưng chỉ thoáng bóng thôi, và quang cảnh chỉ có thế. Đó là những người dân lao động nghèo, vất vả làm ăn, sinh hoạt của họ thật tẻ nhạt, thiếu sinh động.
    • Bà luôn hoài cổ để chối bỏ thực tại và bày tỏ sự chán ghét thực tại. Đó là nỗi nhớ nước, nhớ nhà bà luôn giấu kín trong lòng.
    • Trước cảnh, bà bộc lộ được niềm tâm sự của mình, một tâm sự hoài cổ, đầy nuối tiếc, muốn níu giữ những kỉ niệm xa xưa.
  • Nghệ thuật
    • Bài thơ đã đạt đến sự chuẩn mực trong việc sử dụng thể thơ Đường luật.
    • Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được sử dụng tài năng và đem đến hiệu quả nghệ thuật to lớn.
    • Nghệ thuật đảo ngữ, chơi chữ cùng việc sử dụng các từ láy.

👉Kết bài: Khái quát những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ Chiều hôm nhớ nhà và cảm nghĩ của em về bài thơ.

Tuyển tập 🌸 Thơ Bà Huyện Thanh Quan 🌸 trọn bộ đầy đủ nhất!

Phân Tích Bài Thơ Chiều Hôm Nhớ Nhà Siêu Hay

Bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm nổi tiếng trong thơ ca Việt Nam, thể hiện tâm trạng hoài cổ và nuối tiếc của tác giả khi sống trong cung đình xa quê hương. Bài thơ được viết theo thể thơ Đường luật, gồm bốn câu, mỗi câu bảy chữ. Bài thơ sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, chơi chữ, đảo ngữ để tạo nên sự mới mẻ và sâu sắc trong cách diễn đạt.

Bài thơ mở ra bằng cảnh chiều hôm buồn bã, hoang vắng. Tác giả dùng hai từ “chiều hôm” để ám chỉ khoảng không gian và thời gian buồn nhất trong một ngày. Từ “chiều” cũng có nghĩa là “đã”, “xong”, “hết”, gợi ý cho người đọc về sự kết thúc và chia ly. Từ “hôm” cũng có nghĩa là “hôm nay”, “hiện tại”, “thực tại”, phản ánh sự chán ghét và khinh miệt của tác giả đối với cuộc sống hiện tại của mình. Cảnh vật được miêu tả trong câu đầu tiên là những hình ảnh buồn, lạnh lẽo, thiếu sinh động, như “mây xám”, “gió lạnh”, “trăng khuyết”. Những hình ảnh này cũng là biểu tượng cho tâm trạng u sầu, cô đơn, thiếu vắng của tác giả.

Câu thứ hai là câu hỏi của tác giả với chính mình: “Ai về Chương Đài kể chuyện xưa?”. Chương Đài là quê hương của tác giả, nơi có những kỉ niệm đẹp và hạnh phúc của tuổi thơ và tuổi trẻ. Từ “ai” thể hiện sự mong mỏi và vô vọng của tác giả, bởi không ai có thể trở về quá khứ để kể lại những chuyện xưa. Từ “kể” cũng có nghĩa là “nói”, “nêu”, “bày tỏ”, cho thấy tác giả muốn được nghe và nói về những điều mình yêu quý và quan tâm. Từ “chuyện xưa” cũng có nghĩa là “sự kiện xưa”, “lịch sử xưa”, cho thấy tác giả có lòng yêu nước và quan tâm đến những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc.

Câu thứ ba là câu trả lời của tác giả cho câu hỏi của mình: “Chỉ có gió mây với trăng sao”. Đây là câu trả lời mang tính phủ định và bi quan, cho thấy không ai có thể đáp ứng được mong ước của tác giả. Chỉ có những cảnh vật thiên nhiên vô tri vô giác mới ở lại Chương Đài, còn con người thì đã xa xôi, lãng quên. Từ “chỉ” cũng có nghĩa là “duy nhất”, “đơn độc”, “cô độc”, cho thấy tác giả cảm thấy bị cách biệt và bỏ rơi. Từ “có” cũng có nghĩa là “tồn tại”, “sống sót”, “sống dai”, cho thấy tác giả cảm thấy mệt mỏi và chán nản với cuộc sống hiện tại của mình.

Câu thứ tư là câu kết luận của bài thơ: “Đêm đêm nghe tiếng chuông chùa xa”. Đây là câu diễn tả sự nhớ nhung và khát khao của tác giả về quê hương và tôn giáo. Từ “đêm đêm” thể hiện sự lặp đi lặp lại, kéo dài và không ngừng nghỉ của nỗi nhớ. Từ “nghe” cũng có nghĩa là “lắng nghe”, “chú ý nghe”, cho thấy tác giả muốn được nghe những âm thanh quen thuộc và ý nghĩa của quê hương. Từ “tiếng chuông chùa” là biểu tượng cho Phật giáo, tôn giáo mà tác giả theo đuổi và tin tưởng. Từ “xa” cũng có nghĩa là “cách trở”, “không gần gũi”, cho thấy tác giả cảm thấy bị xa lánh và xa cách với quê hương và tôn giáo của mình.

XEM THÊM 👉 15+ Bài Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang [Hay Nhất]

Phân Tích Bài Thơ Chiều Hôm Nhớ Nhà Của Bà Huyện Thanh Quan Ngắn Gọn

Tham khảo bài văn phân tích ngắn gọn về tác phẩm “Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan dưới đây để biết cách làm đề văn này nhé!

“ Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
( Qua đèo Ngang)

“ Nhớ nước” – “ Thương nhà” là hai dòng tình cảm sâu sắc của Bà Huyện Thanh Quan. “ Nhớ nước”, bà có bài thơ “ Thăng Long thành hoài cổ”, “ Thương nhà”, bà có bài thơ “ Chiều hôm nhớ nhà”. Dưới triều Tự Đức, bà được mời về kinh nhậm chức Cung trung giáo tập để dạy các công chúa, cung phi. Sống trong cung đình, nhưng bà tự coi mình như kẻ “ lữ thứ”, tấm lòng của bà luôn luôn hướng về chốn “ Chương Đài”. Tâm sự thương nhà của bà được diễn tả một cách tài hoa trong bài thơ “ Chiều hôm nhớ nhà”:

“ Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn,
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”

Bà Huyện Thanh Quan đã chọn luật bằng vần bằng cho bài thơ “ Chiều hôm nhớ nhà” ( Bài “ Thăng Long thành hoài cổ” là luật trắc vần bằng) hợp với điệu hoài cảm của tâm hồn thi nhân. Mở đầu bài thơ là hình ảnh buổi hoàng hôn với điệu nhạc chiều êm ái, thổn thức:

“ Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn”

Trong cả ba bài thơ nổi tiếng, bà Huyện Thanh Quan đều nói đến chiều tà.

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà”
( Qua đèo Ngang )

“ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”
( Thăng Long thành hoài cổ )

“ Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn”

Từ “ bảng lảng” tả ánh sáng buổi hoàng hôn thật là đặc sắc. Cảm nhận về ánh sáng như vậy thật là thi sĩ. “ Bảng lảng” là ánh nắng đã nhạt, loãng, yếu ớt của buổi chiều tàn. Ánh nắng hạ xuống thì nhạc chiều nổi lên . Điệu nhạc trầm buồn của “ tiếng ốc” từ xa đưa lại , tiếng trống cũng xa, chỉ nghe văng vẳng nhưng dồn dập thổn thức.

Cái tôi trữ tình của thi nhân lặng phía sau hình ảnh và âm thanh . Cái gì nữ sĩ nhìn thấy , gần gũi thì nhạt nhòa, tàn phai. Nữ sĩ lắng nghe, đón nhận những âm thanh vang từ xa, cho nên khúc nhạc chiều trầm buồn đó cũng là khúc nhạc lòng của thi nhân.

Nhà thơ mở rộng không gian của buổi hoàng hôn, trở về với những hình ảnh gần gũi thân quen của những người lao động:

“ Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn”

Bà Huyện Thanh Quan vẫn không thoát khỏi những đề tài “ngư , tiều, canh, mục” quen thuộc trong thơ cổ điển. Nhưng bà vẫn có sáng tạo riêng. Bà chỉ chọn hai nhân vật cho buổi “chiều hôm” là “ngư ông” và “mục tử”. Nét linh hoạt của câu thơ là ở những cử chỉ của nhân vật. Hai cử chỉ nghịch nhau mà lại cùng diễn tả một ý tưởng .

“Gác mái” là ngư ông nghỉ ngơi, đảo vị ngữ “ Gác mái” càng nhấn mạnh sự nghỉ ngơi thư thái của ngư ông. “Gõ sừng” cũng được đảo ra phía trước để nhấn mạnh cử động của mục tử ( người chăn trâu ) nhưng là cử động trở về, nghỉ ngơi. Nhưng cả ngư ông và mục tử trên đường trở về đều có khoảng cách “ngư ông về viễn phố”, ngư ông về bến xa, “mục tử lại cô thôn”, người chăn trâu về xóm lẻ loi.

Khoảng cách ấy cũng là khoảng cách trong lòng thi nhân với quê hương xứ sở của mình, thành ra có ba con người, ngư ông, mục tử và nữ sĩ chẳng gắn bó gì với nhau cả lại cùng giống nhau ở một điểm là chiều hôm, mỗi người đều hướng về nơi chốn thân yêu của mình. Tóm lại, hai câu thực đã thể hiện một cách tài hoa chủ đề “ chiều hôm nhớ nhà”.

Chuyển sang hai câu luận, không gian thơ được mở lên chiều cao với những hoạt động của thiên nhiên trong buổi “ chiều hôm”:

“ Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn”

Hình ảnh thật đẹp , thật gợi cảm. Nhà thơ đã chọn được những tín hiệu thẩm mĩ có khả năng diễn tả tâm tình của thi nhân. Hình ảnh “ ngàn mai gió cuốn” vừa rộng lớn, thoáng , vừa sôi động. Rừng mơ bạt ngàn càng thấy sự lẻ loi đơn chiếc của thi nhân , hình ảnh “ gió cuốn” gợi sự xao động bên trong của nữ sĩ . Hình ảnh cánh chim chiều “ bay mỏi” cũng gợi tâm trạng của thi nhân. Làm sao giữa không gian bạt ngàn của rừng mai mà nhận ra “ chim bay mỏi”? Phải có con mắt rất tinh, nhưng như thế vẫn chưa đủ, phải là con mắt của tấm lòng.

Còn “ dặm liễu” thì thơ mộng mà “ dặm liễu sương sa” thì vừa thơ mộng vừa lạnh lẽo. Cái lạnh của sương chiều đã thúc bước chân của người đi đường “ khách bước dồn”. Cái hay của hai câu luận là không gian được mở ra với những hình ảnh đẹp, thơ mộng, gợi cảm và chủ đề “ Chiều hôm nhớ nhà” cũng mở ra đến chiều sâu thẳm. Chỉ tiếc là từ “ dồn” ( bước dồn) trong câu luận đã lặp lại từ “ dồn” ( trống dồn) trong câu thừa đề khiến cho bài thơ nghèo đi một chút.

Dòng tình cảm ngầm chảy suốt qua các hình ảnh và nhạc điệu đến đây lộ ra tha thiết, nồng nàn:

“ Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”

Nữ sĩ dùng những từ phiếm chỉ như “ kẻ”, “người”, “ai” vừa thuận với thi pháp “ phi ngã” (không có cái tôi) thời bấy giờ mà cũng vừa hợp với tâm tình của thi nhân , tha thiết nhưng không ủy mị, người trí mà!, nồng nàn nhưng vẫn e ấp.

“Kẻ chốn Chương Đài” là tác giả dùng điển cố. Xưa có người gửi thư về cho vợ là Liễu Thị hỏi : “ Cây liễu Chương Đài xanh xanh trước kia nay còn không?”. Và từ đó “ Chương Đài” thành ước lệ quê nhà trong văn chương . “ Kẻ chốn Chương Đài , người lữ thứ” là kẻ ở quê nhà, người ở quán trọ ( lữ thứ ) xa xôi cách trở.

Nữ sĩ dùng chữ “ lữ thứ “ thật bất ngờ. Bà đang dạy học cho các công chúa và cung phi trong cung vua, còn đâu hoa lệ và sang trọng hơn?. Vậy mà nữ sĩ coi đấy cũng chẳng qua là quán trọ. Tác giả dùng từ Hán Việt “ lữ thứ ” phần nào trung hòa được tinh thần ngạo mạn của bà. Cho nên trong sâu thẳm tình cảm nhớ nhà của bà là tình nhớ nước. Bà chẳng tha thiết, chẳng gắn bó gì với triều đại đương thời, nữ sĩ cảm thấy như bị lưu đày nơi đất khách quê người. Và câu hỏi tu từ “ Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?” càng trào dâng lên nỗi nhớ nhà của kẻ “lữ thứ”.

Bài thơ “ Chiều hôm nhớ nhà” được Bà Huyện Thanh Quan viết theo bút pháp tả cảnh gợi tình quen thuộc trong thơ cổ điển. Từng hình ảnh , từng âm thanh đều gợi đến tâm trạng nhớ nhà của nữ sĩ. Nỗi nhớ nhà của nữ sĩ thật là thâm trầm, sâu sắc, nhân bản. Trong quan hệ xã hội, bà không được chia sẻ, sống với một triều đại mà bà chỉ hướng về ánh hào quang của quá khứ, “ một mảnh tình riêng ta với ta “ ( Qua Đèo Ngang ) nên bà dồn tình cảm nhớ thương cho gia đình , cho những người thân yêu.

Trước tình trạng lỏng lẻo của những mối quan hệ gia đình hiện nay thì một tiếng thơ ( cũng là tiếng lòng ) của Bà Huyện Thanh Quan cũng có giá trị tinh thần nhân bản, cao quý của gia đình.

Quà cho nhiều bạn cần 👉 Shop Nhận Nick Miễn Phí

Phân Tích Nội Dung Nghệ Thuật Chiều Hôm Nhớ Nhà

Bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm độc đáo trong thơ ca Việt Nam, thể hiện tâm trạng nhớ nhà và yêu nước của tác giả khi sống trong cung đình xa quê hương. Bài thơ được viết theo thể thơ Đường luật, gồm bốn câu, mỗi câu bảy chữ. Bài thơ sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, chơi chữ, đảo ngữ để tạo nên sự mới lạ và sâu sắc trong cách diễn đạt.

Bài thơ khai mạc bằng cảnh chiều hôm u ám, vắng lặng. Tác giả dùng hai từ “chiều hôm” để ám chỉ khoảng không gian và thời gian buồn nhất trong một ngày. Từ “chiều” cũng có nghĩa là “đã”, “xong”, “hết”, gợi ý cho người đọc về sự kết thúc và chia ly. Từ “hôm” cũng có nghĩa là “hôm nay”, “hiện tại”, “thực tại”, phản ánh sự chán ghét và khinh miệt của tác giả đối với cuộc sống hiện tại của mình. Cảnh vật được miêu tả trong câu đầu tiên là những hình ảnh buồn, lạnh lẽo, thiếu sinh động, như “mây xám”, “gió lạnh”, “trăng khuyết”. Những hình ảnh này cũng là biểu tượng cho tâm trạng u sầu, cô đơn, thiếu vắng của tác giả.

Câu thứ hai là câu hỏi của tác giả với chính mình: “Ai về Chương Đài kể chuyện xưa?”. Chương Đài là quê hương của tác giả, nơi có những kỉ niệm đẹp và hạnh phúc của tuổi thơ và tuổi trẻ. Từ “ai” thể hiện sự mong mỏi và vô vọng của tác giả, bởi không ai có thể trở về quá khứ để kể lại những chuyện xưa. Từ “kể” cũng có nghĩa là “nói”, “nêu”, “bày tỏ”, cho thấy tác giả muốn được nghe và nói về những điều mình yêu quý và quan tâm. Từ “chuyện xưa” cũng có nghĩa là “sự kiện xưa”, “lịch sử xưa”, cho thấy tác giả có lòng yêu nước và quan tâm đến những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc.

Câu thứ ba là câu trả lời của tác giả cho câu hỏi của mình: “Chỉ có gió mây với trăng sao”. Đây là câu trả lời mang tính phủ định và bi quan, cho thấy không ai có thể đáp ứng được mong ước của tác giả. Chỉ có những cảnh vật thiên nhiên vô tri vô giác mới ở lại Chương Đài, còn con người thì đã xa xôi, lãng quên. Từ “chỉ” cũng có nghĩa là “duy nhất”, “đơn độc”, “cô độc”, cho thấy tác giả cảm thấy bị cách biệt và bỏ rơi. Từ “có” cũng có nghĩa là “tồn tại”, “sống sót”, “sống dai”, cho thấy tác giả cảm thấy mệt mỏi và chán nản với cuộc sống hiện tại của mình.

Câu thứ tư là câu kết luận của bài thơ: “Đêm đêm nghe tiếng chuông chùa xa”. Đây là câu diễn tả sự nhớ nhung và khát khao của tác giả về quê hương và tôn giáo. Từ “đêm đêm” thể hiện sự lặp đi lặp lại, kéo dài và không ngừng nghỉ của nỗi nhớ. Từ “nghe” cũng có nghĩa là “lắng nghe”, “chú ý nghe”, cho thấy tác giả muốn được nghe những âm thanh quen thuộc và ý nghĩa của quê hương. Từ “tiếng chuông chùa” là biểu tượng cho Phật giáo, tôn giáo mà tác giả theo đuổi và tin tưởng. Từ “xa” cũng có nghĩa là “cách trở”, “không gần gũi”, cho thấy tác giả cảm thấy bị xa lánh và xa cách với quê hương và tôn giáo của mình.

Thư giãn với 👉 Qua Đèo Ngang Chế Siêu Hài Hước

Phân Tích Bài Thơ Chiều Hôm Nhớ Nhà Ấn Tượng

Để trau dồi tư duy phân tích và ngôn từ trong văn học, mời bạn tham khảo ngay bài văn mẫu ấn tượng về bài thơ Chiều hôm nhớ nhà sau đây nhé!

Trong làng thơ Việt Nam, có những nữ sĩ để lại cho thơ ca dân tộc những dấu ấn đẹp. Nếu thơ Hồ Xuân Hương tài ba, ngạo mạn thì thơ bà Huyện Thanh Quan lại trang nhã, trữ tình và duyên dáng. Đọc thơ bà, ta thấy nỗi buồn man mác, tâm trạng hoài cổ thật thanh cao đượm sự cô đơn, trống vắng. Một trong những bài thơ đó là tác phẩm Chiều hôm nhớ nhà. Tìm hiểu bài thơ ta sẽ thấy tài thơ điêu luyện của Bà:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn

Gác mái, ngư ông về viễn phố

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn

Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

Ở hai câu đề, khoảng thời gian là trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn. Ánh sáng vẫn còn đó, nhưng chỉ còn là ánh lờ mờ của ngày tàn và đêm sắp tới. Câu thơ chỉ giới thiệu thời gian mà người đọc như cảm thấy cả không gian một vùng quê rộng lớn. Trước thiên nhiên ấy, giữa trời và đất, có một cái gì đó tràn ngập con người nhạy cảm.

Buổi chiều là thời gian dễ buồn nhất và đó cũng là khoảng thời gian thường xuất hiện trong thơ của bà Huyện Thanh Quan. Con người trong cuộc sống hỗn độn, ồn ào vẫn có một lúc nào đó trở về với cái bình yên muôn thuở của thiên nhiên, về với chính lòng mình. Và lúc này chính là khoảnh khắc đó của nữ sĩ.

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn

Âm thanh từ xa vẳng đến như thúc giục, nhưng vẫn có cái trầm lặng trong đó báo hiệu cho mọi người: ngày sắp hết. Ta như gặp một nét thân quen, man mác của câu ca dao:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Tâm trạng của tác giả đã phần nào được ngầm hiểu trong cách lựa chọn thời gian, không khí và thanh âm. Trong cảnh chiều, trong tiếng gọi tàn ngày đó, con người hiện ra:

Gác mái, ngư ông về viễn phố

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.

Câu thơ với nhịp 2/5 làm cho ta có cảm giác hoạt động con người đang giảm dần, đang đi tới kết thúc. Phép đối rất chuẩn cùng với những từ Hán Việt đã góp phần tạo nên vẻ trang nhã, cổ kính của hai câu thơ gợi tả này. Trước cảnh thiên nhiên to lớn, con người thật nhỏ, yếu thế và có phần đơn độc. Đó cũng là đặc điểm của thơ Thanh Quan. Gặp cảnh và người ở đây ta không thể không liên tưởng đến cảnh và người.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Trong Qua đèo Ngang của cùng tác giả, cảnh và người đều vậy: lặng lẽ, đượm buồn. Ta có cảm giác nhà thơ cũng đang lặng lẽ, thẩn thờ. Và con đường trước mắt bà thì sao, hai câu luận đã vẽ ra khung cảnh:

Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

Khoảng đường trước mắt như vô tận. Chim bay mỏi mà chưa tới nơi, khách bước dồn mà chưa tới chốn. Con đường đi hay con đường đời đang dàn trải? Phép đối từng cặp hình ảnh ngàn mây dặm liễu, gió cuốn – sương sa, chim bay mỏi – khách bước dồn làm ý thêm nhấn mạnh. Những từ ngữ bước dồn, bay mỏi cho thấy tâm trạng chán chường, mỏi mệt của nhà thơ. Tâm trạng ấy tất dẫn đến hai câu thơ kết thúc:

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

Không có ai để tâm sự, trời đất thì bao la, vắng lặng, trống trải, khiến tác giả quay về với nội tâm, với lòng buồn sẵn có của mình. Câu thơ cuối, vừa như một câu cảm, vừa như một câu hỏi. Ta đã từng bắt gặp những câu thơ tài ba đó trong thơ bà:

Dừng chân đứng lại, trời non nước

 Một mảnh tình riêng, ta với ta

(Qua đèo Ngang)

       Và

Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường

(Thăng Long hoài cổ)

Qua đó, ta càng hiểu được nỗi niềm tâm sự của tác giả. Mang tiếng nói của tầng lớp quý tộc phong kiến đang trên đường suy thoái, thơ Thanh Quan biểu hiện một khía cạnh tư tưởng của văn chương thế kỉ 18 – 19, phản ánh tâm tư của lớp nho sĩ chán nản bế tắc.

Tiếng thơ đó cũng biểu hiện tâm trạng hoài cổ, thiết tha nhớ nhà Lê đã suy vi. Phải chăng đó cũng là tâm tình của tập đoàn phong kiến đã hết thời vàng son, hết vai trò lịch sử? Đặt bài thơ của nữ sĩ vào bối cảnh lịch sử như thế, ta có biểu hiện sâu thêm cái buồn trong lòng bà: cái buồn thời đại.

Thơ bà buồn, nhưng không vì thế mà mất vẻ đẹp gợi cảm. Trái lại, nhờ vậy càng tăng thêm phần đặc sắc. Thơ bà đẹp một cách trầm lặng như chính tâm hồn bà.

Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan mãi mãi đưa đến cho chúng ta những cảm xúc chân thành, đậm đà trước nét buồn thanh tao, đưa đến những suy nghĩa sâu xa hơn về con người và xã hội. Một bài thơ đóng lại nhưng còn mở ra, tạo nên một dư âm trong lòng người đọc.

Những bài văn 🌸 Phân Tích Bài Thơ Sông Thương Tóc Dài 🌸 của Hoàng Nhuận Cầm!

Phân Tích Bài Thơ Chiều Hôm Nhớ Nhà Hay Nhất

Xem ngay bài văn mẫu phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà hay nhất mà chúng tôi sưu tầm được và biên soạn sau đây:

Ai đã đọc “Truyện Kiều” hẳn không thể quên câu thơ của Nguyễn Du viết về cảnh hoàng hôn:

“Bài hát của cát và võ thuật trên bầu trời,

Hoàng hôn bây giờ lại là hoàng hôn.”

Cũng nói về hoàng hôn và nỗi buồn của người xa xứ, bài thơ Chiều nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan là một kiệt tác của thơ Nôm Việt Nam thế kỷ XIX:

“Chiều có bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc xa xa vọng tiếng đồn.

Gác mái, người đánh cá trở về thành phố,

Gõ tù và, người chăn cừu rời khỏi làng.

Buổi sáng gió thổi đàn chim đi,

Dặm liễu mù sương từng bước.

Người sống ở Zhangtai, người đi du lịch,

Ai có thể nói với cảm lạnh?”.

Câu thơ đầu tả cảnh hoàng hôn vào một buổi chiều xa. Hai chữ “panô” có giá trị tạo hình đặc biệt: ánh chiều tà mờ ảo, xa gần mơ hồ, tạo cho bức tranh một buổi chiều buồn:

“Chiều tà bóng hoàng hôn”.

Hai chữ “bàn ngoại” là nhãn – như con mắt của câu thơ. Nguyễn Du cũng đã từng viết: ‘Trời tây bóng vàng’ (Truyện Kiều).

Chỉ qua một câu thơ, một câu thơ, một chữ người đọc cũng có thể cảm nhận được ngòi bút thơ vô cùng điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan.

Với người đi xa, khoảnh khắc hoàng hôn sao mà buồn đến thế? Nỗi buồn ấy được nhân lên gấp bội khi tiếng ốc (còi và) và tiếng trống “đã xa”. Độ dài (tiếng ốc), độ cao (tiếng trống trên chòi cao) của không gian thể hiện qua những hợp âm ấy đã gieo vào lòng người lữ khách một nỗi buồn vương vấn, một nỗi niềm tê tái. Câu thơ vừa có ánh sáng (panô) vừa có âm thanh (tiếng ốc, tiếng trống) tạo nên cảnh hoàng hôn nơi xứ lạ với màu sắc dân dã:

“Chiều có bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc sên vang xa”.

Phần thực và phần luận, những chất liệu thơ làm nên cốt bài thơ đều được chọn lọc kĩ lưỡng, thể hiện một hồn thơ giàu cảm xúc. Người đánh cá, người chăn cừu, du khách… thế giới loài người được nói đến. Phong cảnh là ngàn buổi sớm, gió sương, “chim bay mỏi cánh”… Những thi liệu này mang tính chất ước lệ của thơ cổ (người có: cá, tiêu, phong cảnh, cỏ cây, hoa lá, … Có: phong, sương , mai, liễu, chim chiều…) nhưng với sự sáng tạo vô song: lựa chọn từ ngữ, tạo hình ảnh, câu đối, đối từ, đối âm, ở khía cạnh nào, nữ sĩ cũng thể hiện một hồn thơ tài hoa, một ngòi bút trang trọng. Vì thế, cảnh vật trở nên có hồn, gần gũi, thân quen đậm đà bản sắc dân tộc.

Buổi chiều người đánh cá cùng con thuyền nhẹ trôi theo dòng sông về bến xa (bến xa) với tâm trạng thư thái, thoải mái. Động từ “căn gác” diễn tả tâm trạng thanh thản của một người dân chài sống ở một vùng quê thanh bình, không bị vòng danh lợi trói buộc:

“Gác mái, người đánh cá về phố xa”.

Cùng lúc lũ trẻ đánh trâu về chuồng, về với “cô thôn nữ”. Động tác “gõ cửa” của chú mục đồng thể hiện sự hồn nhiên, vô tư, yêu đời:

“Gõ cửa, mục đồng bỏ làng”.

Đó là hai nét vẽ của con người tạo nên hai bức tranh tuyệt đẹp về một vùng đất hoang vu rất quen thuộc và đáng yêu.

Hai bài tiếp theo mượn cảnh để tả người lữ khách lạnh lẽo, cô đơn, bơ vơ trên đường tha hương. Trời tối dần. Rau muống xào xạc trong “gió”: gió càng lúc càng mạnh. Con chim mệt mỏi vội bay về rừng tìm tổ. Sương mờ liễu dặm. Và trên con đường gió lạnh ấy, chỉ có một mình lữ khách, một mình “dạo chơi” tìm chốn dung thân.

Hai hình ảnh “chim bay mỏi” và “khách bước lên” là hai nét tương phản, diễn tả sự mệt mỏi, cô đơn. Con người như bơ vơ, lạc lõng giữa “gió” và “sương”, sống trong giây phút buồn tủi đến rợn người. Bài thơ để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật sự thênh thang của con đường xa xứ:

“Nghìn buổi sáng, gió cuốn đàn chim đi,

Hàng dặm liễu, sương bước vào.”

Với sự từng trải của cuộc đời, đã từng sống những phút hoàng hôn nơi đất khách quê người, nữ sĩ mới có thể viết nên những vần thơ diễn tả cảnh ngộ cô đơn của một người con xa xứ hồn hậu như vậy!

Hai câu kết hội tụ, dồn nén niềm thương nhớ da diết. Nữ ca sĩ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Câu thứ bảy gồm hai đoạn, lời ca cân đối đẹp: “Người ở Chương Đài // người đi chuyến thứ hai”. Chương Đài là câu chuyện kinh điển về chia ly, tình yêu rồi hợp tan của cặp đôi Hành Hoành và Liễu. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng sáng tạo truyền thuyết đó.

“Chàng đại” và “lữ thu” trong văn cảnh gợi một trường liên tưởng về nỗi buồn chia ly của người khách phương xa. quê hương, nhớ quê hương da diết. Khép lại bài thơ là lời than thở bộc lộ tâm sự được thể hiện qua hình thức câu hỏi tu từ. “Ai” là đại từ tầm thường nhưng ai cũng biết đó là chồng, con, người thân của nữ ca sĩ. “Hàn ôn” nghĩa là nóng và lạnh; “Cầm tính” là lòng nổi. Người lữ khách trong buổi chiều tha hương ấy thấy mình lẻ loi nơi phương xa, lòng bùi ngùi khôn tả:

“Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”

“Chiều Nhớ Nhà” là kiệt tác thơ thất ngôn bát cú của Đường Luật. Đó là tập thơ của Bà Huyện Thanh Quan sáng tác trong những ngày nữ sĩ trên đường vào kinh thành Huế nhận chức cung nữ trong triều Nguyễn. Đây có thể coi là những áng văn thơ rất độc đáo.

Thơ Bà Huyện Thanh Quan thấm đượm một nỗi buồn chia ly hay hoài niệm, thường nhắc đến hoàng hôn, ca từ trang nhã, dùng nhiều từ Hán Việt (panô, hoàng hôn, ngư phủ, phố xa…) trang nghiêm, cổ phong, du dương hấp dẫn giai điệu. “Chiều nhớ nhà” là một bông hoa nghệ thuật chan chứa tình thương, nỗi nhớ….

Quà cho bạn nhanh tay 👉 Thẻ Cào 50k Miễn Phí 🎁ngoài phân tích Chiều Hôm Nhớ Nhà

Phân Tích Bài Thơ Chiều Hôm Nhớ Nhà Đặc Sắc

Bài văn mẫu phân tích tác phẩm chiều hôm nhớ nhà đặc sắc dưới đây hy vọng sẽ trở thành tư liệu để bạn tham khảo khi làm bài nhé!

Trong nền văn học Việt Nam trung đại, số nữ sĩ còn đứng lại với thời gian không phải là nhiều. Chúng ta thường nhắc đến 3 gương mặt tiêu biểu là Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương và Bà huyện Thanh Quan. Ba nữ sĩ này, mỗi người một vẻ, mỗi người có một đóng góp riêng cho thơ văn nước nhà.

Trong 3 nữ sĩ đó, Bà huyện Thanh Quan khiêm nhường đứng riêng một chiếu với chùm thơ khoảng 5 – 6 bài (có bài vẫn còn gây ranh cãi, bị xem là của nhà thơ khác) trong đó thường được nhắc đến hơn cả là bài thơ Chiều hôm nhớ nhà. Bài thơ Nôm Đường luật này diễn tả nỗi nhớ nhà của người nữ sĩ khi cô đơn thân gái dặm trường:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn

Gác mái ngư ông về viễn phố

Gõ sừng mục tử lại cô thôn

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

Bài thơ đưa chúng ta vào một không – thời gian tưởng như cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thời điểm “trời chiều” được cụ thể hoá trong sự “bảng lảng” của “bóng hoàng hôn” mang đến cho ta một buổi chiều như bao buổi chiều khác trong thơ ca xưa. Có nỗi nhớ của người con xa quê:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều (Ca dao)

Buồn trông cửa bề chiều hô

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa (Truyện Kiều)

Câu phá đề gợi cho ta một cảm giác mệt mỏi và chậm rãi của thời gian ban chiều, một thời điểm mang tính ám ảnh văn hoá trong thơ xưa. Câu thơ bắt đầu bằng “trời chiều” và khép lại bằng “bóng hoàng hôn” như muốn hắt cả ánh vàng của nắng chiều lên con người và cảnh vật. Thời điểm chiều hôm là lúc con người trở về sum họp, quây quần cùng gia đình nhưng dường như nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn tạm nghỉ chân trên hành trình xa xôi và vắng vẻ.

Ở không gian đó con người có thể nghe thấy “tiếng ốc xa đưa” và tiếng “vẳng trống đồn”. Những âm thanh này vốn không xa lạ nhưng khi đặt vào khung cảnh đất khách quê người thì lại gợi lên sự bâng khuâng, se buồn trong lòng người lữ khách. Hai âm thanh đan quyện vào nhau như muốn báo hiệu sự vội vã của thời gian đang đổ dần về tối. Thời điểm “trời chiều” cùng sự báo hiệu của tiếng ốc và tiếng trống sẽ làm nền cho hai câu thực:

Gác mái ngư ông về viễn phố

Gõ sừng mục tử lại cô thôn

Đến hai câu thơ này ta mới thấy hiện ra một cách rõ nét hơn những mã nghệ thuật của thơ ca nhà nho xưa (dù Nguyễn Thị Hinh có là một nữ sĩ nhưng khi sáng tác bà vẫn chịu ảnh hưởng của quan niệm văn học Nho gia). Xuân Diệu đã từng gọi bà là “Bà chúa hoàng hôn”. Đọc hai câu thực chúng ta sẽ cảm nhận rõ hơn lời khen ngợi của “nhà thơ mới nhất trong phong trào Thơ mới”. Vẫn là hình tượng quen thuộc của ngư ông và mục tử (trong bộ tứ “ngư – tiều – canh – mục”) trong thơ xưa, vẫn là động tác “gác mái”, “gõ sừng” ấy gắn liền với hai biểu tượng này. Nó nhắc ta nhớ tới những câu thơ như:

Ngư lão buông câu ngồi mép bến

Mục đồng té nước tắm đầu sông

hay:

Viễn tự chung thanh thôi khách bộ

Mục đồng xung địch dẫn ngưu qui

Nhà nho xưa quan niệm giống nhau về một cuộc sống thanh sạch gắn với nông thôn và thiên nhiên trong các nghề ngư – tiều – canh – mục. Đó là những hình ảnh đẹp mãi có sức cuốn hút đối với họ. Nó mang âm hưởng từ những vần thơ từ xa lắm, tận thời Đường ở bên Tàu với những:

Cô chu soa lạp ông

Độc điếu hàn giang tuyết

(Liễu Tông Nguyên)

hay:

Tá vấn tửu gia hà xứ hữu

Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn

(Đỗ Mục)

Tuy nhiên giữa mảng lưới văn hoá đầy hình tượng, điển tích… đó cái còn lại của Thanh Quan là gì? Đó có phải là cách dùng những từ Hán Việt “ngư ông”, “viễn phố”, “mục đồng”, “cô thôn” tạo cho bài thơ sự trang trọng và cổ kính đầy hấp dẫn? Điều này chỉ đúng một phần. Cái còn lại của dòng thơ, dấu ấn của Thanh Quan chính là ở hai tiếng “cô”, “viễn” tưởng như vô tình nhà thơ đặt theo niêm luật đăng đối ở tiếng thứ 6 của hai câu thực.

Nhà thơ đâu có biết “ngư ông” và “mục tử” nghĩ gì và cũng đâu có biết họ đi về đâu. Với cái nhìn đầy màu sắc chủ quan, nhân vật trữ tình đã phổ cảm xúc của mình vào hai hình tượng đó. Con người lẻ loi trên hành trình thiên lý tự dưng lại cảm nhận về cảnh vật quanh mình như cảm nhận về thân phận của mình, thấy chúng cũng trở nên “cô”, “viễn” như thường. Chúng ta lại nhớ tới cảm xúc của người chinh phụ cô đơn ngồi trong đêm vắng tủi buồn với cả trăng – hoa vô tri, vô giác:

Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm

Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông

Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.

Dấu ấn chủ quan của nhân vật trữ tình thoáng hiện ra rồi lại chìm khuất đi giữa mịt mù thiên nhiên:

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

Sự tương phản trong bức tranh thơ gợi lên một chút gì nhỏ nhoi mà yếu đuối của cánh chim và hình ảnh người khách giữa chiều tà. Vẫn là “ngàn mai” ấy, ngàn mai từng nở trắng trong thơ xưa (Tuyết mai trắng bãi, phù dung đỏ bờ – Chinh phụ ngâm) nhưng đặt cạnh hình ảnh “gió cuốn” đã gợi lên sự rộng lớn của không gian như muốn nuốt chìm cánh chim nhỏ nhoi vào trong đó, như cánh “chim hôm thoi thót về rừng” trong Truyện Kiều và xa hơn nữa là hình ảnh:

Chúng điểu cao phi tận

Cô vân độc khứ nhàn

trong thơ Lí Bạch xưa. Con người luôn thấy nhỏ bé trước thiên nhiên. Đứng trước thiên nhiên, người xưa muốn mình là một tiểu vũ trụ cố gắng hoà hợp (và cả hoà tan) vào trong đại khối, đại vũ trụ vô cùng đang bao bọc quanh mình. Người “khách” đang “bước dồn” qua “dặm liễu” kia liệu lòng có còn thôi ám ảnh về:

Tóc ai trao chửa bạc màu

Liễu ai bẻ tặng bên cầu còn tươi

(Nguyễn Bính)

hay điển tích “Bá kiều chiết liễu” cùng hình ảnh “Hoa dương sầu sát độ giang nhân” (Trịnh Cốc) hay kí ức về:

Sông Tần một dải xanh xanh

Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan

ở chốn quê nhà, nơi ly biệt, lưu luyến người thân mà “Tiễn đưa một chén quan hà – Xuân đình thoắt đã dạo ra Cao đình” (Truyện Kiều). Con người – nhân vật trữ tình (hay là một dạng phân thân của hình tượng này: “khách”) – như muốn giấu mình đi. Đó là đặc trưng phi ngã, vô ngã của thơ ca trung đại. Con người không xuất hiện trong vai trò cá nhân. Nó chỉ thể hiện mình trong các mối quan hệ cộng đồng, làng xóm, họ mạc, gia đình. Con người có khi là “khách” trên chính quê hương mình như trong thơ Hạ Tri Chương:

Nhi đồng tương kiến bất tương thức

Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?

hay trở thành “Càn khôn nhất hủ nho” hoặc “Giang Hán tư quy khách” trong thơ Đỗ Phủ. Sự đơn chiếc, cô lẻ đã thấm sâu trong nó một nỗi buồn khôn tả. Nhịp “bước dồn” chỉ là vẻ bề ngoài che đi nỗi lòng nặng trĩu ưu tư của nhân vật trữ tình. Tình cảm được dồn nén và bật ra thành câu hỏi:

Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

Thơ ca nhà nho xưa thường hướng tới các vấn đề thế sự, đạo lý, hay than thở về thế đạo nhân tâm, tránh nói đến tình cảm cá nhân riêng tư trong đời sống thường ngày. Tuy nhiên thơ ca nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX mang trong nó sắc thái chủ tình rõ rệt, chủ trương bày tỏ những cảm xúc vốn bị đạo đức Nho giáo chế ngự bấy lâu nay. Có lẽ tiếng nói tiền khu mang tính tiên phong của Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương… đã là tiền đề cho hai câu kết này.

Qua điển tích “Chương Đài” cùng cặp đại từ nhân xưng “người – kẻ” chúng ta có thể thấy người mà nhân vật trữ tình hướng tới là nửa kia của mình. Câu chuyện về bài thơ “Chương Đài liễu, Chương Đài liễu – Tích nhật thanh thanh kim tại phủ? – Túng sử trường điều tự cựu thuỳ – Giả ưng phan chiết tha nhân thủ” còn đó như minh chứng cho khao khát đoàn viên, sống trong hạnh phúc lứa đôi của người lữ thứ. Chính vì cảnh lữ thứ mà khát khao mong gặp người chia sẻ, “kể nỗi hàn ôn” càng da diết hơn. Nhu cầu sẻ chia đó vẫn thường trực trong mỗi con người tự ngàn xưa.

Bài thơ gói gọn trong thể Đường luật thất ngôn bát cú nhưng nó đã nói được tiếng lòng của người nữ sĩ. Cảm giác nhớ nhà của con người khi “Lòng còn gửi áng mây vàng” (Truyện Kiều) là điều dễ hiểu. Trong không gian tha hương thời trung đại, con người thấy lẻ loi, yếu đuối khi bị bứt ra khỏi không gian quê nhà quen thuộc nên chỉ ra khỏi nhà mười dặm đã có cảm giác “lữ thứ, hoàng hoa” là thế. Đó không chỉ là một mã nghệ thuật mà còn phản ánh một phần sự thực của tâm trạng con người.

👉 ACC GAME MIỄN PHÍ CHO NHIỀU BẠN CẦN 🎁

  1. Nhận Acc Free Fire Miễn Phí
  2. Acc Roblox Free
  3. Acc Liên Quân Miễn Phí
  4. Acc Pubg Miễn Phí

Viết một bình luận