Phân Tích 12 Câu Cuối Bài Trao Duyên ❤️️ 23+ Bài Văn Hay Nhất ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Phân Tích Đặc Sắc Nội Dung Và Nghệ Thuật Trong Đoạn Trích.
Dàn Ý Phân Tích 12 Câu Cuối Bài Trao Duyên Lớp 10
Dựa vào dàn ý phân tích 12 câu cuối bài Trao duyên lớp 10 dưới đây sẽ giúp các em học nắm được bố cục và những luận điểm trọng tâm khi làm bài.
I. Mở bài phân tích 12 câu cuối Trao duyên:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều: Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa thế giới, Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ tiếng.
- Giới thiệu đoạn trích Trao duyên: Vị trí, nội dung. Dẫn dắt giới thiệu nội dung 12 câu thơ cuối của đoạn trích.
II. Thân bài phân tích 12 câu cuối Trao duyên:
a. 4 câu thơ đầu: Kiều dự cảm về cái chết
- “Đền nghì trúc mai”: Đền ơn đáp nghĩa.
- “Rưới xin giọt nước”: Tẩy oan cho chị.
- Hàng loạt các từ ngữ, hình ảnh gợi về cái chết: hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan
- Dự cảm không lành về tương lai, sự tuyệt vọng tột cùng. Kiều tưởng tượng ra cảnh mình chết oan, chết hận.
- Hồn không sao siêu thoát được bởi trong lòng đang nặng lời thề ước với Kim Trọng
- Ta thấy được sự đau đớn, đầy tuyệt vọng của Kiều, đồng thời thể hiện tấm lòng thủy chung một lòng hướng về Kim trọng của Kiều
- Nỗi bứt rứt, dằn vặt trong lòng Kiều. Lúc này, Kiều như càng nhớ, càng thương Kim Trọng hơn bao giờ hết.
- Nghệ thuật: Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị biểu cảm, độc thoại nội tâm.
b. Tám câu thơ cuối:
-Kiều trở về thực tại đau xót khi nhớ tới Kim Trọng:
- Hình thức: Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại
- Tâm trạng: Nàng ý thức rõ về cái hiện hữu của mình: “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”
- Hình ảnh gợi tả số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi
- Nghệ thuật đối lập: quá khứ – hiện tại. Khắc sâu nỗi đau của Kiều trong hiện tại.
-Các hành động:
- Nhận mình là “người phụ bạc”
- Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu
- Hai lần gọi tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.
- Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý
c. Tiểu kết:
- Nội dung: Tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Thúy Kiều khi hường về tình yêu của mình và Kim Trọng.
- Nghệ thuật: Sử dụng từ ngữ biểu cảm, thành ngữ, câu cảm thán, các điệp từ.
III. Kết bài phân tích 12 câu cuối Trao duyên:
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ
- Trình bày suy nghĩ, cảm nhận của bản thân
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Dàn Ý Trao Duyên Trọn Bộ 🌼 Mẫu Lập Dàn Ý Đầy Đủ
Bài Văn Phân Tích 12 Câu Cuối Của Đoạn Trích Trao Duyên – Mẫu 1
Bài văn phân tích 12 câu cuối của đoạn trích Trao duyên dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo những định hướng làm bài cụ thể.
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du không còn là tác phẩm xa lạ đối với các thế hệ bạn đọc. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của thiên kiệt tác này. Nhận xét về “Trao duyên”, Tản Đà từng viết: “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như vậy. Đoạn này thật lâm ly, mà như thế mới biết hết tình sự”.
“Trao duyên” là đoạn thơ bắt đầu từ câu 723 đến câu 756 của “Truyện Kiều”. Trong đó, 12 câu cuối của đoạn trích đã khắc họa những tâm trạng đớn đau, giằng xé của Thúy Kiều khi nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng để làm trọn chữ “tình”.
Ngay từ nhan đề, đoạn trích đã gây nên sự tò mò cho bạn đọc. Chúng ta thường trao lại cho người khác vàng bạc, châu báu hay những thứ vật chất dễ nhìn thấy, dễ cầm nắm chứ mấy ai lại trao cho người khác thứ khó xác định, khó hình dung như trao duyên? “Duyên” là thứ con người khó có thể lí giải một cách thỏa đáng và nó rất khó để định hình. Vậy mà Thúy Kiều lại có hành động trao duyên, phải chăng có điều gì khó nói, uẩn khúc ở đây?
Phải từ bỏ tình yêu của mình là điều không ai mong muốn nhưng trong trường hợp này, Thúy Kiều không thể làm khác. Nàng buộc phải hi sinh tình cảm, hạnh phúc riêng tư của bản thân để cứu cha và em trai là trọn đạo hiếu. Đêm cuối cùng ở nhà trước khi theo Mã Giám Sinh ra đi, Thúy Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng.
Tuy đã trao duyên nhưng dường như Thúy Kiều không thoát khỏi được sự ám ảnh về cái chết và số phận của chính mình:
Hồn còn mang nặng lời thề.
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời.
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Kiều nhắc em mai sau có đốt lò hương hay đánh đàn thì hãy nhớ đến mình, lúc ấy nàng mong Vân hãy “trông ra ngọn cỏ lá cây” để thấy được linh hồn oan khuất của mình. Lời nhắn nhủ ấy tức tưởi và đau xót biết bao. Nàng đã mường tượng ra thảm cảnh của mình nhưng ngay cả khi trở thành một linh hồn thì nàng vẫn mang theo lời thề nguyền cùng Kim Trọng.
Đó là lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” mà cho dù Thúy Kiều có phải “nát thân bồ liễu” cũng mong trả được nghĩa cho chàng Kim, dù tấm thân nữ nhi yếu đuối, mỏng manh không còn sống trên cõi đời thì nàng vẫn muốn mình giữ trọn lời thề của tình yêu đôi lứa.
Do trần gian và cõi âm phủ “cách mặt”, “khuất lời” nên Thúy Kiều cũng chỉ xin em “rảy” giọt nước cho linh hồn oan khuất, đáng thương của mình. Thông thường, người ta thường “rảy” cả một chén nước nhưng nàng chỉ xin một giọt nước ít ỏi để rửa oan. Tình yêu tan vỡ, Thúy Kiều đau đớn tự độc thoại với chính mình:
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.
Hơn ai hết, nàng ý thức rất rõ về thực tại của mình. “Trâm gãy gương tan” là biểu hiện cho sự tan vỡ của tình yêu. Mọi việc xảy đến bất ngờ, đột ngột quá nên “muôn vàn ái ân” với Kim Trọng làm sao nàng có thể kể xiết. Ân tình với chàng Kim càng lớn thì nàng cảm thấy có lỗi bởi đã phụ lòng chàng.
Tơ duyên chỉ ngắn ngủi có ngần ấy, số phận thì bạc bẽo như vôi, tình yêu thì dở dang, lỡ làng đã khiến Thúy Kiều có những dằn vặt, giằng xé trong nội tâm. Nàng chỉ có thể gửi đến người yêu của mình trăm nghìn cái lạy. Đó là cái lạy từ biệt nhưng cũng là cái lạy tạ lỗi với người “tình quân” vì nàng đã tự coi mình là kẻ phụ bạc đã phá đi lời thề nguyền trước đây.
Nàng Kiều đâu có lỗi gì trong chuyện này, có trách thì hãy trách xã hội đồng tiền đầy rẫy những bất công, đẩy con người rơi vào bi bịch. Tiếng gọi “Kim lang” vang lên hai lần nghe mới tha thiết làm sao. Nàng là người nặng tình nghĩa đã nhận hết lỗi lầm về mình và luôn mong cho người mình yêu được hạnh phúc. Đức hi sinh của nàng thật đáng quý!
Qua 12 câu cuối đoạn trích Trao duyên, người đọc có thể thấy được nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đạt đến đỉnh cao của Nguyễn Du. Ông đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, những thành ngữ dân gian cùng sự kết hợp ngôn ngữ bác học trang trọng và ngôn ngữ dân gian để diễn tả những tâm trạng đau khổ, xót xa của Thúy Kiều khi trao duyên lại cho Thúy Vân.
Ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại được sử dụng một cách linh hoạt. Bên cạnh đó, thể thơ lục bát uyển chuyển, nhịp nhàng cũng góp một phần không nhỏ vào sự thành công của đoạn trích. “Trao duyên” đã thể hiện tấm lòng nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với số phận những người phụ nữ. Chẳng vậy mà ông đã viết:
“Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu li
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân”.
Gợi ý cho bạn 🌳 Sơ Đồ Tư Duy Trao Duyên Nguyễn Du 🌳 12 Mẫu Ngắn Hay
Phân Tích 12 Câu Cuối Bài Trao Duyên Hay Nhất – Mẫu 2
Đón đọc bài văn mẫu phân tích 12 câu cuối bài Trao duyên hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Tình yêu đầu bao giờ cũng là tình yêu trong sáng và đẹp đẽ nhất. Thế nhưng, với Thuý Kiều, tình yêu ấy lại chứa chan bao đau khổ, xót thương vô cùng. Mối tình đầu đẹp như mơ của nàng với Kim Trọng đã buộc phải chia cắt vì biến cố bất ngờ của gia đình.
Để vẹn tròn hai bên hiếu, tình nàng đã quyết định trao lại mối duyên ấy cho Thuý Vân – em gái mình để Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng. Tất cả điều đó được thể hiện qua đoạn trích Trao duyên vô cùng đặc sắc. 12 câu cuối trong đoạn trích đã cho thấy được sự dằn vặt, đau đớn khôn nguôi của Kiều khi phải trao đi mối duyên sâu đậm của mình.
Sau đêm thề nguyền cùng chàng Kim Trọng, gia đình Kiều xảy ra gia biến, gia sản bị tịch thu còn cha và em trai thì bị bắt. Trước biến cố bất ngờ Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy bốn trăm lạng vàng, đút lót quan lại để cứu cha và em. Khi đó, Kim Trọng đang ở Liễu Dương chịu tang chú nên không hề biết chuyện xảy đến với gia đình Kiều. Vào tối đêm trước ngày ra đi, Kiều đã nhờ Thuý Vân – em gái mình ở lại trả nghĩa cho chàng Kim. Bao nhiêu đau đớn và giằng xé trong tâm can Kiều được đẩy lên cao trào trong trích đoạn này.
Những dòng thơ tuôn trào là nỗi lòng Kiều trong giằng xé, bởi nàng vừa muốn trao đi mối duyên của mình lại vừa tiếc nuối nó, không đành. Càng nói, Kiều càng đau xót cho số phận mình, tự nhận mình là một kẻ “bạc mệnh”. Thế nên trong 12 câu thơ cuối của đoạn trích, nàng mới dự cảm được tương lai của mình đầy mịt mù, chỉ thấy cái chết là rõ ràng nhất:
“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Trong khi Vân và chàng Kim được nên duyên vợ chồng, Kiều tưởng tượng mình chỉ còn là một mảnh hồn vất vưởng nơi trần thế. Thế nhưng dù “nát thân bồ liễu” thì linh hồn nàng vẫn mang nặng lời thề sắt son cùng Kim Trọng, vĩnh viễn không bao giờ quên. Thật là mâu thuẫn, thật là đan xen. Bởi Kiều đã nói nếu Vân chịu nhận lời giúp nàng thì nàng “thịt nát xương mòn” cũng sẽ “ngậm cười chín suối”.
Ấy vậy mà giờ đây, khi trả được món nợ tình duyên, nàng cũng không hề thanh thản mà còn xót xa, nặng nề hơn trước nữa. Phải chăng đó là bởi trước đó, nàng lo cho người mà quên đi mình, giờ đây khi lo chu toàn chuyện của người, nàng mới nhận ra sự bạc bẽo của phận mình. Tương lai mờ mịt, oan trái, còn tinh thần nàng thì như nửa tỉnh nửa mê. Những câu nói của nàng như lời của một linh hồn phảng phất từ thế giới bên kia vọng lại.
Có thể thấy, trong lời nói của Kiều là sự giằng xé, sự tiếc nuối khôn nguôi khi phải trao đi mối duyên tình đậm sâu của mình. Và chứa chán trong đó, còn là nỗi đau xót, xót xa cho số phận bạc bẽo của mình, cho tương lai mù mịt, không lối thoát.
Trong sự cao trào của nỗi đau xót, Kiều thốt lên những lời gan ruột đau đớn cho mối duyên tình dở dang của mình, cho số phận của mình:
“Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Giờ đây, trong thực tại nỗi nhớ về Kim Trọng, Kiều chỉ thấy những đổ vỡ, những tang thương “trâm gãy, bình tàn”. Thế nhưng, còn có thể làm được gì, “phận” đã “bạc như vôi” thì đành phải chấp nhận, đành để mối tình ấy, trái tim ấy “lỡ lãng”. Kiều biết nàng đã phụ chàng, nàng đã làm chàng phải thất vọng. Vậy nhưng giờ đây, nàng chỉ còn biết tạ tội với tình lang của mình trông chua xót và bất lực. Cuối cùng, không thể chịu đựng nổi, nàng đã thốt lên trong sự nghẹn ngào và đau đớn quằn quại:
“Ôi Kim lang! Hời Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Tiếng nấc nghẹn ấy của Kiều là sự bộc lộ toàn bộ tâm trạng đau đớn lúc đó của nàng, tới mức gần như mê sảng. Nỗi đau chia cắt cứ nhân lên nhân lên gấp bội, lên tới tột đỉnh. Đoạn kết khép lại trong nỗi đau thương quằn quại con người nàng. Nhưng không phải là vì bản thân nàng mà là vì người nàng yêu, vì tình lang của mình. Tâm hồn nàng chứa chan sự vị tha, nhân hậu vô bờ, nàng muốn cho người được hạnh phúc còn mình thì sẵn sàng cam chịu sự hi sinh.
12 câu cuối đoạn trích Trao duyên đã lột tả chân thực tâm trạng của Thuý Kiều khi buộc lòng phải trao đi mối duyên nồng đậm với Kim Trọng. Ngòi bút của Nguyễn Du đã sắc sảo trong việc sử dụng ngôn ngữ để lột tả hoàn toàn từng rung động trong tâm hồn Kiều, để từ đó, ta thấy được sự đau đớn, giằng xé, nghẹn ngào trong con người Kiều một cách chân thực nhất.
Đọc nhiều hơn ☀️ Mở Bài Trao Duyên ☀️ 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất
Phân Tích 12 Câu Cuối Bài Trao Duyên Ngắn Gọn – Mẫu 3
Tham khảo bài văn mẫu phân tích 12 câu cuối bài Trao duyên ngắn gọn dưới đây với cách hành văn súc tích.
Trao duyên là một đoạn trích trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã để lại nhiều cảm xúc nhất trong lòng người đọc. 12 câu thơ cuối của đoạn trích đã thể hiện tâm trạng xót xa của Kiều khi nhờ em trả duyên cho chàng Kim. Còn nỗi đau nào đau hơn khi phải trao đi tình yêu của mình và nhờ em gái của mình trả mối duyên đẹp đẽ ấy.
Sau những lời bộc bạch nhờ cậy em, khi nàng hiểu rằng em phải lấy người không yêu mình đã là một sự hi sinh rất lớn nên nàng đã nghĩ rằng nếu em làm vậy, nàng cũng mãn nguyện nơi chín suối. Kiều đã nhờ cậy trao duyên cho em, trao những kỉ vật tình yêu cho em nhưng nàng vẫn không thể nào dứt được mối tình đó. Kiều đã tưởng tượng ra sau chuyện sau này Thúy Vân và Kim Trọng sẽ thành vợ thành chồng. Nàng đã cố gắng an bài hết tất cả mọi chuyện trước khi bán mình chuộc cha.
12 câu thơ cuối khép lại đoạn trích gợi đến tương lai và Kiều lại nghĩ đến cái chết:
“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.”
Câu thơ “Mai sau dù có bao giờ” gợi đến tương lai thê thảm, u tối của Kiều. Kiều nhớ đến đêm thề nguyền khi nàng cũng Kim Trọng đã có tình yêu rất đẹp, nàng gảy đàn cho chàng Kim nghe. Lời nói của Kiều vọng về để nghĩ về cảnh âm dương cách biệt giữa nàng với em gái và chàng Kim. Nàng chỉ mong rằng khi đó em hãy nhớ đến mình, hồn oan của Kiều trở về làm lay động cả ngọn cỏ lá cây.
Nàng mong em hãy xót thương cho nàng. Hồn của Kiều vẫn còn “mang nặng lời thề” với Kim Trọng nên nàng vẫn còn vương vấn. Ở dưới “dạ đài” tăm tối, nàng vẫn sẽ nhìn thấy hai người mong em gái hãy rưới xin giọt nước để rửa oan cho nàng.
Cuối cùng, nàng gửi đến lời với chàng Kim:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muon vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngửi có ngần ấy thôi”
Từ đầu đoạn trích giờ, ta chỉ thấy những lời của Kiều gửi đến em gái để mong em trả duyên hộ mình cho chàng Kim. Thì đến đây, Kiều chuyển lời hướng đến Kim Trọng. Nàng than đến mối tình tan vỡ ” trâm gãy gương tan”. Hai người đã có tình cảm rất đẹp và trong sáng vượt qua cả lễ nghi phong kiến để đến với nhau. Vậy mà “sự đâu sóng gió bất kì” đã khiến hai người không đến được với nhau.
Để giờ đây, chia cắt, nàng buộc phải phụ tình chàng Kim để cứu cha. Nàng tiếc nuối “muôn vàn ái ân” giữa nàng với Kim Trọng. Thúy Kiều cảm thấy mình đã có tội rất lớn với chàng nên đã ” Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Đầu đoạn trích ta thấy Kiều đã “Cậy em, em có chịu lời/ Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” thì giờ đây nàng “lạy tình quân” lạy người yêu mình.
Trăm nghìn lạy tình quân để ta thấy Kiều cảm thấy có lỗi như thế nào với người yêu của mình. Nàng gửi đến lời với Kim Trọng rằng tơ duyên giữa nàng với chàng thật ngắn ngủi, bây giờ đã kết thúc. Nàng thấm thía sự bạc bẽo của số phận “Phận sao phận bạc như vôi”. Nàng thương xót cho chính bản thân mình.
Sau đó, Kiều cất lên tiếng gọi với người mình yêu:
“Ôi Kim Lang ! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Tiếng gọi của Kiều thật da diết, đầy tuyệt vọng. Tiếng vọng ấy Kim Trọng không hề nghe được, nàng đã dứt lời khẳng định “thiếp đã phụ chàng từ đây!”. Phụ tình yêu với chàng Kim là điều Kiều không hề mong muốn, Kiều tiếc nuối điều đó. Nhưng nàng đành chấp nhận vì duyên phận giữa nàng với chàng Kim đã kết thúc từ đây.
Đoạn thơ 12 câu cuối Trao duyên đã diễn tả tâm trạng ân hận, day dứt của Kiều khi phụ tình chàng Kim và trao duyên lại cho em gái. “Trao duyên” chính là bi kịch của tình yêu trong sáng nhưng lại tan vỡ. Nguyễn Du bằng ngòi bút đầy kinh nghiệm và mang giá trị nhân đạo của mình đã cho người đời một kiệt tác thật xuất sắc.
Đừng bỏ qua 🔥 Kết Bài Trao Duyên 🔥 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn Trích Trao Duyên 12 Câu Cuối Ngắn Nhất – Mẫu 4
Bài văn phân tích đoạn trích Trao duyên 12 câu cuối ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập cho bài viết trên lớp.
Một trong những thành công tiêu biểu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là nghệ thuật miêu nội tâm nhân vật. Điều đó được thể hiện rõ trong 12 câu cuối của đoạn trích Trao duyên. Chỉ bằng tầng ngôn từ biểu đạt, Nguyễn Du đã khắc họa thành công dòng tâm trạng của Thúy Kiều trong nỗi đau xót dở dang duyên phận của mình. Những chuyển biến tâm lý của Kiều trong từng lời nói, hành động được Nguyễn Du thể hiện đầy tinh tế, gợi những đồng cảm với nhân vật trong lòng người đọc.
Đành rằng là cậy nhờ em, nhưng là lời cậy nhờ trong tiếc nuối, trong nỗi đớn đau khôn cùng khi phải buông bỏ mối tình không trọn vẹn, trao cho người khác cái hạnh phúc mà mình vốn chắt chiu, gìn giữ bấy lâu. Lời Kiều thốt ra như đẫm giọt lệ thương tâm, vừa xót xa, bi ai lại vừa day dứt, tiếc nuối. Trong nỗi đau đớn tột cùng, Kiều ngậm ngùi nghĩ đến cái chết. Nhưng dẫu có ở chốn suối vàng lạnh lẽo, lòng Kiều vẫn sẽ không quên lời thề son sắt, thủy chung.
“Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Nỗi đau lên đến tận cùng, nàng nói với em mà như nói với chính lòng mình, với người thương nơi xa xôi. Lời Kiều thiết tha, mang nỗi xót xa, tuyệt vọng, mang nỗi phẫn uất, đớn đau, mang cả những luyến tiếc, nhớ thương và cả trăm ngàn những ngổn ngang:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim Lang! hỡi Kim Lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.”
Yêu Kim Trọng bao nhiêu thì Kiều lại càng trách cứ bản thân mình phụ bạc chàng Kim bấy nhiêu. Một người trân trọng và thủy chung như Kiều luôn mang trong mình mặc cảm tội lỗi. Hành động “trăm nghìn gửi lạy” như lời tạ lỗi mà Kiều gửi đến Kim vì đã phụ chàng, vì đã khiến cho mối tơ duyên trở nên ” ngắn ngủi”, lỡ làng, không trọn vẹn. Trong nỗi xót xa, Kiều trách móc phận mình bạc bẽo, trái ngang. Tiếng gọi Kim Lang trong nghẹn ngào:
“Ôi Kim Lang! hỡi Kim Lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.”
Trong tiếng gọi “Kim Lang” là cả nỗi nhớ thương chất chứa, nỗi đau giằng xé tâm can và những yêu thương tha thiết. Dẫu cho thế nào đi nữa, Kiều vẫn trân trọng chàng Kim, gọi Kim Trọng bằng hai tiếng ” Kim Lang” thầy chân thành.
“Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Cho đến cuối cùng, Kiều vẫn nghĩ đến hạnh phúc của người mình thương. Đến cuối cùng, Kiều vẫn tự nhận lỗi về mình, trách chính mình đã phụ bạc.
12 câu cuối của đoạn trích Trao duyên tuy chỉ là một phần nhỏ trong tác phẩm dài 3254 câu thơ lục bát của Truyện Kiều nhưng góp phần không nhỏ trong việc tạo nên thành công cho tác phẩm. Nỗi đau giằng xé của Thúy Kiều khi lâm vào bi kịch tình yêu được lột tả thật chân thực. Ở đó, ta thấy được sự mạnh mẽ, dứt khóa cửa một người con gái hết mực lý trí và cũng thấy được sự yếu đuối nhưng rất mực chân thành của một người phụ nữ thủy chung, giàu tình cảm.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích 12 Câu Cuối Trao Duyên Chi Tiết – Mẫu 5
Tham khảo bài văn phân tích 12 câu cuối Trao duyên chi tiết dưới đây để nắm được nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
Trong suốt chiều dài lịch sử văn học, có rất nhiều những thành tựu văn học rực rỡ thời kì trung đại của những nhà tác giả lớn như: Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Đóng góp vào trong dòng chảy văn học ấy ta không thể không nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du.
Ông không những là một nhân cách lớn mà đồng thời còn là một nhà văn, nhà thơ vĩ đại. Những sáng tác của Nguyễn Du bao gồm cả sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm nhưng tiêu biểu nhất là tác phẩm Đoạn trường tân thanh hay còn được biết nhiều hơn dưới tên Truyện Kiều. Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện được tài năng cũng như tư tưởng nhân đạo của tác giả.
Truyện Kiều của Nguyễn Du được viết bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện có sẵn của Thanh Tâm Tài Nhân là Kim Vân Kiều truyện. Thế nhưng, điều đáng nói là bằng sự sáng tạo của người nghệ sĩ, Nguyễn Du đã biến một cốt truyện bình thường trở thành một kiệt tác. Nếu như Kim Vân Kiều truyện là một câu chuyện “tình khổ” thì Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là một khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh, nói lên những điều trông thấy trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động.
Đoạn trích chính là mở đầu cho nỗi đau khổ dằng dặc của Kiều trong suốt 15 năm lưu lạc. Sau khi tạm chia tay Kiều, Kim Trọng trở về quê để chịu tang chú. Thế nhưng trong thời gian đó, gia đình của Kiều có biến, cha và em bị bắt. Là người con có hiếu, Thúy Kiều đã quyết định bán mình để chuộc cha và cũng vì thế mà nàng không thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng. Kiều ngổn ngang bao nỗi băn khoăn, trăn trở và cuối cùng nàng quyết định nhờ em mình là Thúy Vân chắp mối tơ duyên với Kim Trọng mặc dù vô cùng đau khổ và dằn vặt.
Đặc biệt, trong 12 câu thơ cuối của đoạn trích Trao duyên, người đọc như thấy được những đau đớn, xót xa của nàng Kiều cho mối tình và số phận của mình:
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan.
Kiều tự nhận mình là người mệnh bạc, coi mình như đã chết. Những hình ảnh trong câu thơ gợi ra một Thúy Kiều đang ở trong một thế giới khác, không thể trở lại hòa nhập với cuộc sống và số phận của nàng vô cùng mong manh. Ngay cả khi ở thế giới bên kia thì Kiều cũng không thể thanh thản mà còn nặng lòng với tình duyên, cuộc sống và nàng coi mình là người thác oan, nỗi đau tức tưởi nhưng đồng thời cũng vô cùng bất lực. Trong tận cùng đau khổ, Kiều hướng về Kim Trọng với những tâm sự tha thiết:
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Thúy Kiều tâm sự với chàng Kim nhưng Kim Trọng đang ở phương xa và thực chất đây là những lời độc thoại, thể hiện sự tự ý thức sâu sắc của Thúy Kiều về nỗi đau thân phận mình. “Gương gãy”, “trâm tan” là những hình ảnh diễn tả một cách cảm động và xót xa về bi kịch của Thúy Kiều.
Đằng sau đó ta thấy một Thúy Kiều nặng tình nặng nghĩa với chàng Kim. Đi liền với nỗi đau về tình yêu còn là nỗi đau về thân phận bạc bẽo. Thành ngữ “bạc như vôi” như có gì đó oán trách, đi liền với nó là tâm trạng gần như bất lực “Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng”. Kết thúc đoạn thơ, Thúy Kiều cất lên tiếng gọi Kim Trọng tha thiết khiến cho lời than như một tiếng nấc được thốt ra nghẹn ngào.
Trong lời than ấy, Kiều đã gọi Kim Trọng là Kim lang, coi Kim Trọng giống như chồng của mình. Điều này tưởng như phi lí bởi Kiều đã trao duyên cho em nhưng lại rất có lí bởi Kiều đã thể hiện tình cảm chân thật của mình mà quên đi tất cả mọi thứ xung quanh. Nàng mắc phải một mặc cảm là mình đã phụ tình Kim Trọng.
Người đau khổ nhất lúc này đó chính là Thúy Kiều nhưng nàng đã quên đi những đau khổ ấy để chỉ nghĩ về Kim Trọng. Thúy Kiều không chỉ nặng tình mà còn nặng nghĩa. Những câu thơ cuối là những câu cảm thán khiến cho đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột. Bi kịch, đau khổ và cả tình yêu nồng nàn của Thúy Kiều được đẩy lên đến đỉnh điểm, qua đó bộc lộ được những nét đẹp trong tâm hồn của nàng.
12 câu cuối trong đoạn trích Trao duyên đã khái quát lên bi kịch đau khổ của Thúy Kiều đó là bi kịch về tình yêu tan vỡ và bi kịch cuộc đời mỏng manh. Qua đó tác giả đã làm bật lên được vẻ đẹp của Thúy Kiều: thủy chung da diết nhưng cũng sắc sảo mặn mà. Nguyễn Du đã một lần nữa khẳng định được tài năng miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng sống động, chân thực và phong phú. Nguyễn Du như hóa thân vào nhân vật để nhân vật tự thốt lên từ tận đáy lòng. Qua đoạn trích, nội tâm nhân vật Thúy Kiều được khám phá một cách toàn diện.
Tác giả đã sử dụng thể thơ lục bát kết hợp với ngôn ngữ uyển chuyển, mềm mại, tinh tế để có thể miêu tả được những rung động, đau khổ trong lòng nhân vật. Đằng sau tất cả những điều đó là một tấm lòng nhân hậu, tinh thần nhân đạo và con mắt nhìn thấu sáu cõi của Nguyễn Du.
Gửi đến bạn 🍃 Phân Tích Trao Duyên 🍃 Top 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích 12 Câu Cuối Trong Bài Trao Duyên Đầy Đủ – Mẫu 6
Bài văn phân tích 12 câu cuối trong bài Trao duyên đầy đủ dưới đây sẽ tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những cây bút sáng chói đóng góp cho dòng chảy văn học nước nhà những bước chuyển mình vàng son. Trong thời kì văn học trung đại, Nguyễn Du cùng với những tác giả khác như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,… tạo thành những tượng đài thơ ca của văn học Việt Nam.
Tác phẩm làm nên tên tuổi của Nguyễn Du là tập truyện viết bằng chữ Nôm “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi ngắn gọn bằng cái tên “Truyện Kiều”. Đoạn trích “Trao duyên” là một trong những đoạn tiêu biểu của tác phẩm, thể hiện sự dằn vặt, nỗi lòng đau đớn của nàng Kiều khi buộc phải bán mình chuộc cha, đành nhờ cô em Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Trọng.
Truyện Kiều là một tác phẩm được coi như kiệt tác văn chương của nhân loại, được viết dưới dạng truyện kể bằng thơ, lấy cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người Trung Quốc. Tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân không hề được biết đến cho tới khi Nguyễn Du khai thác cốt truyện bình thường ấy thành tiếng kêu ai oán đến xé lòng, một bản sầu ca não nề của người con gái hồng nhan bạc phận. Đoạn trích “Trao duyên” từ câu 723 đến câu 756 trong phần “Gia biến và lưu lạc”, tái hiện lại cuộc trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều.
Gia đình gặp hoạn nạn, Thúy Kiều đành bán mình chuộc cha, trong tình cảnh đó, biết mình không thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng, nàng Kiều đành phải trao lại tấm chân tình cho Thúy Vân, nhờ em làm tròn bổn phận, giữ trọn lời hứa của mình với người yêu. Sau khi đã nhờ cậy em, Kiều cất lên tiếng lòng tâm sự nỗi niềm của mình đầy não nùng trong 12 câu thơ cuối của đoạn trích:
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan.
“Hồn, nát thân, cách mặt khuất lời, người thác oan”, hàng loạt những từ mang âm hưởng cô tịch, chết chóc như một vết cứa vào lòng người đọc. Người con gái tuổi mới mười tám đã nghĩ đến cái chết bi kịch, cái chết oan khuất, bế tắc. Nhưng bản thân người con gái ấy lại chỉ mong mỏi được thanh thản, có thể giũ bỏ hết tình duyên dương thế. Đau xót thay cho một số phận tài sắc vẹn toàn nhưng sớm rơi vào lam lũ, bi kịch, chấp nhận bán mình chuộc cha nhưng vẫn nghĩ đến nghĩa tình, thề hẹn.
Tâm sự với em, Thúy Kiều cũng không quên gửi lời tới Kim Trọng với những dòng tâm trạng tha thiết:
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Tâm sự với Kim Trọng nhưng thực chất, Kiều chỉ được độc thoại với chính mình, vì người nàng yêu đang ở phương xa, đâu hay biết gì tình thế của nàng hiện tại.
Nàng ý thức được số phận bạc bẽo bằng những điển cố “gương gãy”, “trâm tan”, những hình ảnh gợi sự chia lìa đôi lứa. Xét đến cùng, mục đích của cuộc trao duyên này là do mối tình nặng nghĩa với Kim Trọng chưa thể kết thúc, nên trong những lời cuối gửi đến chàng, Kiều luôn muốn nhắc lại những hoài niệm tươi đẹp của hai người trước khi buộc phải tự mình cắt đứt mối duyên chẳng được bao lâu. “Muôn vàn ái ân” nay đã trở thành quá khứ, sự thật giờ chỉ còn “tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”.
Cùng với nỗi tiếc nuối về tình yêu, Kiều còn khóc thương cho số phận của mình. Phận nữ nhi chân yếu tay mềm trong xã hội xưa đã bị rẻ rúng, giờ đây lại còn “bạc như vôi”, “nước chảy, hoa trôi lỡ làng”, sự bất lực, phó mặc số phận vì không có tiếng nói, không có quyền tự quyết định . Tiếng gọi xé lòng ” Hỡi Kim Lang!” thay cho một lời than, tiếng khóc tức tưởi.
Cách gọi “lang” là cách gọi chồng trong xã hội xưa, cho thấy tình cảm của Thúy Kiều vô cùng chân thành, thủy chung, dù có bất kì hoàn cảnh nào thì lời thề duyên lứa của nàng đêm ấy vẫn vẹn nguyên. Có thể, người đọc cảm thấy một chút phi lý trong câu nói của Kiều, rằng tại sao đã trao duyên với em rồi nhưng vẫn gọi Kim Trọng là “lang”, là chồng,
Phải chăng, trong dòng hồi tưởng về những giây phút ở cạnh nhau, Thúy Kiều được tạm quên đi những đớn đau nàng phải đối mặt, nhưng cảm giác tội lỗi của mình với chàng Kim, chỉ còn nàng với chàng, hai người yêu nhau say đắm, là vợ chồng. Câu gọi bật ra vừa để thể hiện ước nguyện được hạnh phúc của Thúy Kiều, vừa thể hiện tấm lòng nặng tình nặng nghĩa của nàng, một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong xã hội xưa.
12 câu cuối đoạn trích “Trao duyên” đã khái quát một cách sâu sắc nhất những cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi buộc phải rời xa người yêu, đành trao duyên lại nhờ cậy em gái tiếp tục lời hứa với Kim Trọng. Một người phụ nữ yêu hết mình, thủy chung da diết, lại khéo léo, sắc sảo nhưng bạc mệnh, long đong.
Bằng bút pháp nghệ thuật khai thác tâm lý nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ cảm xúc qua hành động, cử chỉ, tác giả đã truyền đạt tới người đọc niềm thương xót cho bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng Kiều. Tâm trạng nhân vật được đặc tả qua những chi tiết đắt giá, thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại cùng những từ ngữ mạnh, gợi sự xót xa đã làm rung động trái tim bạn đọc với những nỗi niềm của nhân vật.
Qua “Trao duyên”, Nguyễn Du cũng gửi gắm sự tôn trọng, nâng niu những con người đẹp, biết trọng chữ hiếu, vẹn chữ tình, đồng thời lên án xã hội bất công, bạc bẽo đã đẩy con người vào cửa ải chia lìa, chia cắt hạnh phúc lứa đôi của những người xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
Tham khảo trọn bộ 🌹 Cảm Nhận Trao Duyên 🌹 17 Bài Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Trao Duyên 12 Câu Cuối Nâng Cao – Mẫu 7
Tham khảo bài văn mẫu phân tích Trao duyên 12 câu cuối nâng cao dưới đây để trau dồi những ý văn hay và đặc sắc.
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam và cũng là của thế giới. Ông tên là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.Ông sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc và sống trong xã hội phong kiến – Một xã hội suy thoái, thối nát. Nguyễn Du đã từng trải qua hơn chục năm sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau, nếm đủ những thứ vị đắng cay của cuộc sống phong trần. Trong đó có mùi vị của sự chia ly, dang dở của tình yêu đôi lứa. Sau khi đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du sáng tác nên đại thi phẩm bất hủ: ”Truyện Kiều”.
12 câu cuối của “Trao Duyên”là một đoạn trích thể hiện khá rõ bi kịch tan vỡ, dang dỡ của tình yêu Thuý Kiều – Kim Trọng và nỗi đau tột cùng của Kiều về số phận bi kịch của nàng, đồng thời thể hiện tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa xuyên suốt trong thơ Nguyễn Du trước những đau khổ, bất hạnh cũng như khát vọng hạnh phúc của con người.
Sau khi giải quyết xong thủ tục bán mình (“Tờ hoa đã ký-cân vàng mới trao”), lấy tiền lo cho vụ kiện nhà Kiều, ngày mai Kiều sẽ phải rời theo Mã Giám Sinh ra đi.Đêm ấy Kiều bồi hồi thương cho chàng Kim, tìm cách trả nghĩa nợ tình cho chàng. Đèn thắp sáng đêm, nước mắt đầm đìa.Nhân Thúy Vân thức dậy hỏi, Kiều bây giờ mới cậy em thay lời và trao duyên cho em.
Mối tình Kim-Kiều đâu phải là mối tình trăng gió thoảng qua. Đây là mối tình đầu say đắm nhất, trong sáng nhất.Thế mà giờ đây phải đem mối tình ấy trao cho người khác – còn có nỗi đau nào hơn? Khi trao kỷ vật tình yêu cho em, Kiều cảm thấy như mình đã chết, bởi khi mất đi tình yêu, cuộc sống đối với Kiều chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Rồi như người mất hồn, vẫn ngồi đây, mà hồn thì bay xa xăm tận “mai sau”:
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Thì ra, ”hồn” của Kiều vẫn chưa dứt nổi chàng Kim.Hồn của Kiều là “hồn mang nặng lời thề”. ”Lời thề ”ở đây chính là lời thề đêm thềnguyền vằng vặc ánh trăng mà Kiều không bao giờ quên được:”Vầng trăng vằng vặc giữa trời – Đinh ninh hai miệng một lời song song”. ”Lời thề” ấy của Kiều với chàng Kim đối với nàng cực kỳ quan trọng.Kiều đã ”trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” với chàng Kim.
Bởi thế, dù có tan tành thân xác “bồ liễu, dáng vẻ”trúc mai”, Kiều cũng quyết gặp lại trực tiếp chàng Kim để “đền nghì” cho chàng Kim. Đó là một ý thức, một tấm lòng, một tư tưởng mà không phải người con gái nào cũng có được. Sự thủy chung của Kiều vẫn được thể hiện rõ nét, đậm đà và càng sâu sắc hơn trong hoàn cảnh ngặt nghèo. Còn đối với Vân, khi “hồn Kiều quay trở về dương gian:
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan
“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối.Lúc ấy, một người là con người cõi trần(Thúy Vân), một kẻ là hồn ma âm phủ(Thuý Kiều).em và chị sẽ “cách mặt khuất lời”, tức là sẽ không thấy được nhau và cũng không nghe được tiếng nói của nhau. Khi đó, em hãy rảy chén nước cho “người thác oan” là chị (Theo quan niệm tôn giáo cổ truyền thì nước tinh khiết có thể tẩy rửa nỗi oan khuất, làm cho oan hồn được mát mẻ siêu thoát).
Qua đó chứng tỏ Kiều tuy tự nguyện hy sinh, bán mình chuộc cha, nhưng vẫn ý thực được mình bị oan uổng cho nên sau khi chết, hồn oan không tan.Trong tình cảnh ngặt nghèo như vậy, Kiều vẫn có ý thức nhận biết và đấu tranh đến cùng đối với sự bất công của xã hội phong kiến đương thời.
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
”Trâm gãy gương tan” là hình ảnh của tình duyên tan vỡ. Kiều đã nhận của chàng Kim “muôn vàn ái ân” đến nỗi “kể làm sao xiết” mà giờ đây Kiều lại phản bội, thất hứa, làm “tơ duyên ngắn ngủi”, ”trân gãy gương tan”. Nghẹn ngào, cay đắng, xót xa – bấy nhiêu tâm trạng đối diện với Kiều.
Tuy trao duyên cho em Vân, nhờ em “thay lời nước non” với chàng Kim, Kiều vẫn thấy mình chịu muôn vàn tội lỗi nên nàng đã gửi lại “trăm nghìn cái lạy” cho “tình quân”-người đã cùng nàng trải qua bao kỷ niệm tình yêu nồng nàn, say đắm, đã cùng nàng thề nguyền trăm năm bên nhau mà cuối cùng lại bị nàng phản bội-mà vẫn cảm thấy chưa đủ.
Truớc đây ít phút, nàng đã “lạy” em Vân của mình để cầu xin em nối duyên với chàng.Khác hẳn với cái lạy “mang ơn”, cái “lạy” này là cái lạy tạ tội vô cùng thống thiết.Trong tình cảnh này, Kiều vẫn không thể làm gì hơn ngoài sự tạ tội. Và cái lạy đó đối với Kiều đã kết thức mối tình đầu ngắn ngủi, đầy tiếc nuối. Câu:”Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” Kiều thốt lên sao mà thấm đượm vị chua chát, cay đắng của sự chia ly lứa đôi.
Đến đây, Kiều mới thấm thía nỗi cô đơn và số phận của mình giữa cõi đời bất công:
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Đoạn thơ “Trao Duyên” đúng là Kiều đã nói hết lời (“cạn lời”). Lời trao duyên như nói một lời trăn trối, vĩnh biệt. Trước lời trao duyên, tình yêu thật mặn nồng, say đắm, hạnh phúc, sau lời trao duyên mình đã trắng tay, đôi lứa chia ly, tình yêu tan vỡ. Trước khi trao duyên mình là người sống, sau khi trao duyên mình là hồn oan nơi chín suối.
Bằng tài năng tuyệt vời của mình, Nguyễn Du hình dung rất rõ và thể hiện rất thành công số phận bi kịch, nội tâm rối bời, tâm trạng đau khổ, dằng vặc, cay đắng, xót xa và tuyệt vọng trong cuộc trao duyên của Kiều với việc sử dụng một cách khéo léo, tinh tế, sắc sảo từ ngữ, nhiều biện pháp nghệ thuật thích hợp, kết hợp linh động lời kể với lời tự tình, lời độc thoại…, làm cho đoạn”Trao duyên” trở thành đoạn thơ lâm li nhất trong Truyện Kiều. Và đó cũng là lý do vì sao Truyện Kiều trở thành bất hủ!
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Tâm Trạng Thúy Kiều Trong Đoạn Trích Trao Duyên 🌼 Hay Và Đặc Sắc Nhất
Phân Tích Bài Trao Duyên 12 Câu Cuối Học Sinh Giỏi – Mẫu 8
Đón đọc bài văn mẫu phân tích bài Trao duyên 12 câu cuối học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Nguyễn Du – một trong những nhà thơ xuất sắc của nền văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Tác phẩm “Truyện Kiều” đã khẳng định và ghi dấu tên tuổi Nguyễn Du trên văn đàn nghệ thuật nước nhà và thế giới. “Trao duyên” là đoạn trích đặc sắc trong Truyện Kiều nói về tình yêu sâu nặng cũng như bi kịch số phận của Kiều trước biến cố cuộc đời.
khiến nàng phải bán mình lấy để chuộc cha. Bán mình đi tức là nàng đã bán đi quyền lựa chọn đối với cuộc đời mình, nàng đành hy sinh mối tình với Kim Trọng, đành phụ chàng. Thế nhưng vì tình sâu nghĩa nặng, Kiều không thể cứ thế mà phụ chàng Kim, nàng đã trao duyên cho Thúy Vân là em gái mình, mong rằng em có thể thay mình trả nghĩa cho chàng Kim.
Nếu mười bốn câu thơ đầu của đoạn trích “Trao duyên” là lời giãi bày và thuyết phục Thúy Vân “chắp mối tơ thừa” của Thúy Kiều thì 12 câu thơ cuối trong đoạn trích diễn tả việc Thúy Kiều nhắn gửi nỗi lòng mình đến Kim Trọng. Đoạn thơ đã khắc họa những nỗi đau đớn, dằn vặt của Thúy Kiều khi mối tình với chàng Kim tan vỡ.
Những hạnh phúc Thúy Kiều có với Kim Trọng nay đã trở thành quá khứ – một quá khứ tươi đẹp nhưng cũng không khỏi xót xa. Nàng tự nhận mình là người có số phận bạc bẽo. Từ xưa đến nay, có mấy hồng nhan tránh được “cái điều bạc mệnh”:
“Rằng: hồng nhan tựa ngàn xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”
Và người con gái “sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, người con gái có vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” ấy không nằm ngoài sự sắp đặt của định mệnh. Sự đối lập giữa khung cảnh hạnh phúc của Thúy Vân và Kim Trọng với sự bất hạnh của bản thân đã khiến nàng đau đớn gấp bội phần. Kiều đã trông thấy một tương lai mù mịt, tăm tối của bản thân và số phận hẩm hiu của mình khiến người khác phải xót thương.
Tình yêu càng sâu đậm bao nhiêu thì lại càng khiến Thúy Kiều đau đớn bấy nhiêu. Nàng đã dự cảm được điều gì đó không lành sẽ xảy đến với mình:
“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Nếu khi còn sống nàng không thể giữ được lời thề nguyền với Kim Trọng thì khi chết đi hồn nàng cũng không thôi nhớ về lời thề nguyền ấy. Nàng ví mình giống như thân liễu, thân mai tuy mỏng manh nhưng cốt cách thanh cao. Dù cho “nát thân”, “đền nghì” thì nàng vẫn khắc ghi lời thề và tình yêu sâu đậm với Kim Trọng.
Các hình ảnh ““hồn”, “thân bồ liễu”, “đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “thác oan” là những hình ảnh giàu sức biểu cảm gợi ra cho bạn đọc về cuộc sống ở thế giới cõi âm đầy tối tăm, ma mị. Từ “thác oan” đã phần nào cho thấy sự oan khuất của Thúy Kiều, vì nỗi oan khuất chưa được giải nên linh hồn của nàng không thể siêu thoát.
Đồng thời, từ “thác oan” cũng thể hiện tiếng nói đòi quyền sống và quyền được hạnh phúc cho những người phụ nữ trong xã hội đương thời. Nhịp điệu các câu thơ chậm rãi diễn tả những cảm xúc nghẹn ngào mà tức tưởi của nhân vật Thúy Kiều. Dường như nàng đang cố kìm nén những đau lòng để không bật ra thành tiếng khóc.
Hành động Thúy Kiều trao lại những kỉ vật cho Thúy Vân cũng là hành động nàng từ biệt Kim Trọng. Phải xa cách người mình yêu là điều mà nàng không hề mong muốn:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.
Thúy Kiều luôn có ý thức về thực tại và ý thức về thân phận mình. Các thành ngữ “trâm gãy gương tan”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi” là những thành ngữ quen thuộc trong dân gian thể hiện sự tan vỡ của tình yêu và sự trôi nổi vô định của số phận con người. Trăm nghìn cái lạy tạ lỗi gửi đến người tình quân nhưng bấy nhiêu liệu có đủ thay cho lời từ biệt của Thúy Kiều?
Bấy nhiêu liệu có bù đắp được cho chàng Kim những tổn thương khi “muôn vàn ái ân” giữa hai người nay chỉ còn đọng lại trong kí ức? Mọi lỗi lầm và trách nhiệm nàng đều nhận hết về mình. Tơ duyên của nàng và Kim Trọng chỉ “ngắn ngủi có ngần ấy thôi” nên thêm một lần nữa nàng thấy số phận của mình “bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”.
Điệp từ “Kim lang” lặp lại hai lần đã cho thấy mức độ tăng dần trong tình cảm của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng:
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.
Từ người yêu, Thúy Kiều đã coi Kim Trọng như người chồng của mình với tiếng gọi “tình quân”, “Kim lang” tha thiết. Nhưng ngay sau đó là lời từ biệt: “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” đầy đau xót. Kiều tự nhận mình là người phụ lòng Kim Trọng, Kiều tự cảm thấy mình không còn xứng đáng với chàng Kim nữa. Nàng hi sinh bản thân mình và mong muốn Kim Trọng được hạnh phúc. Điều ấy cũng thể hiện sự cao thượng của nhân vật Thúy Kiều.
Đoạn thơ 12 câu cuối Trao duyên đã thể hiện những diễn biến trong nội tâm của nhân vật Thúy Kiều trong cuộc trao duyên với Thúy Vân. Qua đó chúng ta cũng thấy được tài năng trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du. Những tiếng thơ của ông là những tiếng thơ chất chứa sự trăn trở về số phận con người nhất là số phận những người phụ nữ trong xã hội đương thời.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Phân Tích Đoạn 1 Trao Duyên 🌹 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Trao Duyên 12 Câu Cuối Đơn Giản Nhất – Mẫu 9
Tham khảo bài văn phân tích Trao duyên 12 câu cuối đơn giản nhất dưới đây với những luận điểm ngắn gọn và cơ bản nhất.
Truyện Kiều là một tác phẩm bất hủ của Nguyễn Du nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung. Đoạn “Trao duyên” trích trong tác phẩm là đoạn đặc sắc khắc họa thành công dòng tâm trạng của Thuý Kiều khi ngậm ngùi trao duyên cho em gái Thuý Vân.
Thuý Kiều một người con hiếu hạnh, tài đức vẹn toàn. Vì phải cứu gia đình, nàng đành phải bán mình chuộc cha. Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng đành nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”:
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền. Nỗi day dứt ấy chị vẫn mang theo xuống cửu tuyền. Nhìn lại thực tại, nghĩ đến tình quân nàng nhắn nhủ đôi lời tâm sự, giải bày:
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Giờ đây mọi chuyện đã tan vỡ, lỡ làng, nói làm sao hết những tình cảm tha thiết, da diết, những kỉ niệm ngọt ngào ân ái ngày xưa đã trao nhau. Thôi thì thiếp đành cam chấp nhận số phận, tơ duyên ngắn ngủi, hạnh phúc quá mong manh, kiếp này đã lỡ phu thê, thiếp xin bái biệt đi về cõi âm. Câu thơ chứa chan tình cảm, xót xa đau cho kiếp số phũ phàng, chua chát – lời thơ như hờn oán, trách móc than thân trách phận:
Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Lời thơ uất nghẹn, phận gì? mà bạc như vôi? Phận trâu ngựa, kiếp chó mèo chứ không phải là phận người, kiếp người nữa.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Việc “trao duyên” đã thành, việc bán mình cũng đã xong, thì bi kịch của Thuý Kiều cũng đến. “Ôi”, “Hỡi” Kim Lang, Thuý Kiều gọi tên tình nhân lần sau cuối trong nước mắt nhạt nhoà, nàng ôm nỗi đau giằng xé tâm can khi biết chắc chắn rằng từ đây nàng đã mất chàng Kim mãi mãi.
Qua 12 câu thơ cuối đoạn trích Trao duyên, sự “hi sinh” của Thuý Kiều làm cho người đời cảm phục, tình cảm của Thuý Kiều làm cho chúng ta trân quý yêu thương. Đó là điểm sáng chói ngời trong phẩm giá con người Thúy Kiều, khiến cho nàng sống mãi trong lòng người đọc.
Đón đọc tuyển tập 🍃 Phân Tích Đoạn 2 Trao Duyên 🍃 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bài Trao Duyên 12 Câu Cuối Facebook – Mẫu 10
Chia sẻ bài văn mẫu phân tích bài Trao duyên 12 câu cuối facebook giúp các em học có thêm cho mình gợi ý làm bài phong phú hơn.
“Truyện Kiều” không chỉ là một kiệt tác vĩ đại của nền văn học Việt Nam mà còn của toàn thế giới. Trong đó, đoạn trích nổi tiếng “Trao duyên” đã thể hiện cái nhìn hiện thực và nhân đạo của Nguyễn Du về con người, đặc biệt là đối với số phận của khách hồng nhan, số phận của Thúy Kiều. Ngoài ra, “Trao duyên” còn là tâm sự, là tiếng khóc đau thương được bật ra từ một hoàn cảnh éo le “tình chị duyên em”.
“Trao duyên” là câu chuyện đặc biệt đằng sau một hoàn cảnh đặc biệt. Sau đêm thề nguyền với Thúy Kiều, Kim Trọng phải về hộ tang chú ở Liêu Dương. Ngay lúc đó, gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan, Vương Ông và Vương Quan bị hành hạ, gia sản bị cướp hết. Kiều đứng trước cảnh gia biến phải bán mình chuộc cha. Đêm trước ngày phải theo Mã Giám Sinh, Kiều cậy Thúy Vân tiếp nối mối duyên dang dở của mình với chàng Kim.
Kiều nhận về mình tất cả những xót xa, những đau đớn của một đời người bạc mệnh bởi đây cũng là số phận mà nàng phải vương mang: “lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. 12 câu cuối trong đoạn trích tiếp nối thể hiện một bi kịch tình yêu:
“Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Kiều tưởng tượng về cảnh ngộ của mình trong tương lai qua hình ảnh nhuốm màu tang tóc: “hồn”, “thân bồ liễu”, “đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “người thác oan”…. gợi ra cuộc sống cõi âm lạnh lẽo. Hơn thế nữa, nhịp thơ chậm rãi, nghẹn ngào, tức tưởi như tiếng khóc não nùng cố nén lại để không bật thành lời.
Kiều đang tưởng tượng đau đớn đến tột bực bởi trong lòng còn mang nặng tình cảm với chàng Kim. Cuối cùng, sau những giờ phút gửi gắm tình duyên là lúc Kiều đối diện với thực tại và lời nhắn gửi cho “người yêu cũ”:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Đang đối thoại với Thúy Vân, Kiều quay sang độc thoại với chính mình. Ý thức hiện tại đầy xót xa qua hai tiếng “bây giờ”. “Bây giờ” ấy thế nào? Là “trâm gãy gương tan”, là “kể sao cho xiết muôn vàn ái ân”, là “trăm nghìn gửi lạy tình quân”, là “tơ duyên ngắn ngủi”… Còn gì đau đớn hơn, còn gì xót xa hơn! Sự trôi nổi của số phận và đứt đoạn của tình duyên đã khiến nàng gần như rơi vào cơn mê sảng.
Nàng nhận hết tất cả thiệt thòi, nhận mình là người phụ bạc để gửi lại cái tạ tình tha thiết và chấp nhận đoạn trường riêng mang: “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Kiều lúc này như buông xuôi tất cả, nàng mặc cho sự xô đẩy vô tình của số phận, sự dày vò của con tạo để bật ra tiếng gọi, tiếng khóc, tiếng thét đau đớn, nghẹn ngào:
“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Tiếng gọi Kim Lang được lặp đi lặp lại vừa thiết tha trân trọng nhưng cũng đầy đau đớn tuyệt vọng. Câu thơ ngắt theo nhịp 3/3 như một tiếng nấc để rồi ở câu sau nhịp thơ trải ra như một lời than trách chính mình. Thúy Kiều đã quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý mà Nguyễn Du đã ban tặng cho nàng.
Về nghệ thuật, đoạn trích đã miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật, ở đây chính là Thúy Kiều. Qua đó, chúng ta cảm nhận được tình yêu, được trách nhiệm, được sự hi sinh, được kiếp số bạc mệnh của nàng. Vừa là một người con hiếu thảo, một người yêu thủy chung, Kiều đã thực sự lấy đi biết bao nước mắt, biết bao sự đồng cảm, xót xa.
Bên cạnh đó, đoạn trích đã sử dụng thành công ngôn ngữ kết hợp giữa tự sự và trữ tình và đặc biệt là ngôn ngữ độc thoại nội tâm sinh động. Việc sáng tạo các thành ngữ dân gian, sự giao thoa giữa bình dân và bác học đã khiến cho ngòi bút Nguyễn Du được hậu thế ca ngợi đời đời.
Tóm lại, 12 câu cuối đoạn trích “Trao duyên” đã khắc họa nên bức tranh cảm động về số phận nàng Kiều, về sự giằng xé đau đớn giữa chữ hiếu và chữ tình, giữa lí trí và tình cảm. Qua đó, chúng ta càng có thêm cơ hội để nhìn nhận tài năng của Nguyễn Du, để nhìn nhận giá trị của “Truyện Kiều”, để hiểu vì sao người đời gọi đây là một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần nào lỡ nhịp ngang cung.
SCR.VN chia sẻ 🌼 Phân Tích Đoạn 3 Trao Duyên 🌼 12 Bài Văn Ngắn Hay Nhất