Liên Hệ Mở Rộng Bài Từ Ấy ❤️ 32+ Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Văn Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Thơ Từ Ấy Đặc Sắc Nhất.
Cách Liên Hệ Mở Rộng Bài Từ Ấy Của Tố Hữu
SCR.VN chia sẻ đến bạn cách để liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy đơn giản nhất, xem ngay bên dưới nhé!
- Bước 1: Dẫn dắt
- Giới thiệu bài thơ Từ ấy hoặc đoạn trích hoặc 1 luận điểm chính trong bài thơ.
- Bước 2: Đưa ra dữ liệu liên hệ
- Giới thiệu bài thơ/câu thơ/luận điểm của 1 bài thơ khác có liên quan đến bài Từ ấy ở bước 1.
- Bước 3: Bàn luận, tạo sự liên kết giữa ngữ liệu mở rộng và vấn đề đang nghị luận.
Ví dụ: Bài thơ Từ ấy là niềm vui sướng của chàng thanh niên Tố Hữu năm 17 tuổi khi giác ngộ lý tưởng cách mạng của Đảng. Trong khi trước đó, nhà thơ Tố Hữu đã từng bơ vơ, mất phương hướng như trong lời bộc bạch ở bài thơ Nhớ đồng:
Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời
Vẫn vơ theo mãi dòng quanh quẩn
Muốn thoát than ôi, bước chẳng rời.
Những mẫu 🌸 Dàn Ý Từ Ấy Của Tố Hữu 🌸 đặc sắc!
Từ Ấy Liên Hệ Với Bài Nào
Bài thơ Từ ấy của Tố Hữu các bạn có thể liên hệ mở rộng với 1 số tác phẩm thơ dưới đây để làm nổi bật nội dung của bài Từ ấy:
- Quê mẹ – Tố Hữu
- Bài ca xuân 61 – Tố Hữu
- Nhớ đồng – Tố Hữu
- Phút giây – Tố Hữu
- Một nhành xuân – Tố Hữu
- Viếng lăng Bác – Viễn Phương
- Chiều tối – Hồ Chí Minh
- Vội vàng – Xuân Diệu
- Việt Bắc – Tố Hữu
- Như những con tàu – Tố Hữu
Những Câu Thơ Liên Hệ Với Bài Từ Ấy
Dưới đây là 1 số câu thơ được trích ra trong các bài thơ khác giúp bạn có thêm vốn ngữ liệu để làm bài văn liên hệ mở rộng bài Từ ấy:
- Những câu thơ trong bài Quê mẹ – Tố Hữu
“Con lớn lên, con tìm cách mạng
Anh Lưu, anh Diểu dạy con đi
Mẹ không con nữa, con còn Đảng
Dìu dắt con khi chửa biết gì”
- Những câu thơ trong bài Bài ca Xuân 61 – Tố Hữu
” Có gì trên đời đẹp hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau
Đảng cho ta trái tim giàu
Thẳng lưng mà bước ngẩn đầu mà đi”
- Những câu thơ trong bài Nhớ Đồng – Tố Hữu
“Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẫn vơ theo mãi dòng quanh quẩn
Muốn thoá, than ôi, bước chẳng rời”
- Những câu thơ trong bài Một nhành xuân – Tố Hữu
” Năm 20 của thế kỉ 20
Tôi đã sinh ra. Nhưng chưa được làm người.
Nước đã mất. Cha làm nô lệ
…Từ vô vọng, mênh mông đêm tối
Người đã đến. Chói chang nắng dội
Trong lòng tôi. Ôi Đảng thân yêu
Sống lại rồi. Hạnh phúc biết bao nhiêu!
- Những câu thơ trong bài Phút giây – Tố Hữu
“Dù ai quay hướng đổi dòng
Con thuyền ta, với cờ hồng, cứ đi!
Vẫn là ta đó những khi
Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi”
Bài văn 🌸 Phân Tích Từ Ấy Của Tố Hữu 🌸 hay nhất!
Những Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Từ Ấy Hay Nhất
Tuyển tập bài văn liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy hay nhất, mời các bạn cùng xem:
Liên Hệ Từ Ấy Ngắn Gọn Với Bài Những Con Tàu
Cùng SCR.VN viết bài văn liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy với bài Những con tàu một cách ngắn gọn nhé!
Tố Hữu là nhà thơ lớn trong thời đại chúng ta. Với ông, con đường cách mạng cũng là con đường thơ, Năm 1938,, mới 18 tuổi, nhà thơ được vinh dự trở thành người chiến sĩ cộng sản của Đảng. Bài thơ “Từ ấy” vang lên như một tiếng reo vui thể hiện niềm vui sướng tự hào của một thanh niên học sinh yêu nước bắt gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác- Lênin.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn ca ngợi lí tưởng cách mạng và nói lên tình yêu giai cấp của người chiến sĩ trẻ.
Khổ thơ mở đầu cất lên như một lời hát say mê, nồng nàn. Vần thơ tràn ngập ánh sáng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…
“Từ ấy”, là từ thuở ấy (9-1938), nhà thơ vui sướng, hân hoan chào đón “Mặt trời chân lí chói qua tim”. Giữa những năm tháng nô lệ, lầm than, tủi nhục, người chiến sĩ trẻ cảm thấy được hồi sinh “bừng nắng hạ”. “Mặt trời chân lí” là hình ảnh ẩn dụ rất sáng tạo nói về ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin. Lí tưởng cách mạng, lí tưởng cộng sản chủ nghĩa soi sáng nhận thức, mở mang tâm hồn trí tuệ, làm cho cuộc đời đầy sắc màu ý nghĩa. Lòng “tôi” và con đường cách mạng “bừng nắng hạ” chói chang, ấm áp. Trái tim “tôi” có “Mặt trời chân lí chói qua..”.
Ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin soi rọi vào tâm hồn. Dưới ánh sáng lí tưởng, tâm hổn đẹp biết bao, dào dạt sức sống như một vườn xuân rực rỡ trong muôn sắc màu “hoa lá”, ngào ngạt “đậm hương” và “rộn tiếng chim” hót ca. Ngoài nghệ thuật sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, so sánh, Tố Hữu đã chọn lọc một số từ có giá trị gợi tả và biểu cảm đặc sắc (bừng, chói, đậm, rộn) để ca ngợi lí tưởng và tình yêu lí tưởng. Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà thơ xứ Huế có nhiều vần thơ độc đáo, đậm đà:
“Khi ta đã say mùi hương chân lí
Đời đắng cay không một chút ngọt bùi
Đời đau buồn không một tiếng cười vui
Đời đen tối phải đi tìm ánh sáng…”
(“Như những con tàu” – 1938)
Có thể nói, Tố Hữu là nhà thơ viết hay nhất về lí tưởng cách mạng bằng bút pháp lãng mạn tuyệt đẹp.
Ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin thật vô cùng kì diệu. “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng” (A-ra-gông – Pháp). Yêu nước mà bắt gặp chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản đã giác ngộ tình yêu giai cấp.
Khổ thơ thứ hai nói lên sự gắn bó giữa nhà thơ, người chiến sĩ trẻ “với mọi người”, “với trăm nơi”, “với bao hồn khổ” với giai cấp và nhân dân lao động nghèo khổ đang bị đế quốc, phong kiên bóc lột, áp bức dã man. Các từ ngữ: “buộc”, “trang trải”, “gần gũi” biểu lộ sự gắn bó thiết tha với thế giới cần lao, với “khối đời” – khối công nông liên minh.
Người chiến sĩ trẻ, người thanh niên cộng sản trên con đường cách mạng quyết tâm chiến đấu và hi sinh để thực hiện lí tưởng cao cả, đã nhận thức một cách sâu sắc về tình yêu giai cấp: “Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”.
Hơn bao giờ hết, cái tôi đã chan hoà trong cái ta rộng lớn. Thân thiết và yêu thương, tự giác và tự nguyện, đông đảo và rộng lớn: “là con của vạn nhà”, “là em của vạn kiếp phôi pha”, “là anh của vạn đầu em nhỏ..”. Các từ: “là”, các số từ “vạn” được điệp lại ba lần làm cho lời ước nguyện thiết tha chân thành, thấm thía xúc động.
Nhà thơ đã có một cách nói rất truyền cảm về tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Trái tim nhân ái cộng sản chủ nghĩa sáng bừng lên dưới “mặt trời chân lí”, dưới ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của cách mạng.
Tố Hữu đã sáng tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và nhạc điệu để ca ngợi lí tưởng cách mạng và tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Tình cảm cao đẹp ấy được thể hiện một cách chân thành và say mê. “Từ ấy” là tiếng lòng của một hồn thơ đẹp, trẻ trung đã trở thành tiếng hát của hàng triệu con người hướng về Đảng và cách mạng. Đọc “Từ ấy” ta càng cảm thấy một cách sâu sắc lời tâm sự của Tố Hữu: “Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê nin soi rọi vào tâm hồn tươi trẻ của mình”.
Liên Hệ Từ Ấy Với Tác Phẩm Khác Hay Nhất
Dưới đây là bài văn liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy với bài Việt Bắc cũng của tác giả Tố Hữu, xem ngay nhé!
Nhắc đến Tố Hữu là ta nhớ đến “Cánh chim đầu vào” của thơ ca cách mạng Việt Nam. Là nhà thơ được mệnh danh là hồn thơ của dân tộc, ông khẳng định văn chương của mình trên thi đàn Việt Nam với phong cách thơ trữ tình và chính trị. Là một nhà chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn nghệ, giống như nhà thơ Sóng Hồng đã từng viết: “Dùng ngòi bút làm đòn xoay chế độ, mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”. Hay Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Nói đến bài thơ Việt Bắc, tháng 7 năm 1954, khi hiệp định Giơ-ne-vo được kí kết, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, những người cán bộ từ Việt Bắc trở về miền xuôi để tiếp quản thủ đô Hà Nội. Nhân sự kiện có tính thời sự lịch sử này, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc. “Việt Bắc” không chỉ chinh phục người đọc ở một bản tình ca mà ở đó còn có một bản hùng ca về bức tranh ra quân bi tráng, hào hùng:
“Những đường Việt Bắc của ta
…
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Những đường Việt Bắc là những đường anh bộ đội hành quân ra trận. Cụm từ “của ta” là khát khao được đứng lên, được làm chủ quê hương mình, đất nước mình. Tác giả liên tục sử dụng các từ láy như “đêm đêm”, “rầm rập” kết hợp với phụ âm rung và thủ pháp nghệ thuật so sánh. Tác giả tái hiện lại âm hưởng hào hùng của cả một dân tộc hành quân ra trận. Câu thơ trên miêu tả về âm thanh thì câu thơ dưới lại mô tả phần nhiều về hình ảnh:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
“Điệp điệp”, “trùng trùng” vốn dĩ là những từ láy để mô tả núi hoặc sóng. Đó là vẻ đẹp của người dân Việt Nam hành quân ra trận, người người lớp lớp đông đảo như sóng cuộn điệp điệp trùng trùng. Đã từng bước vào trang văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, làn sóng ấy lại vô cùng sôi nổi, nó lướt qua mọi khó khăn thử thách, nó nhấn chìm cả bọn bán nước và bè lũ cướp nước”.
“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Nếu như ta hiểu theo nghĩa tường minh thì “Ánh sao” ở đây là ánh sao của bầu trời Việt Bắc phản chiếu vào nòng súng thép của anh bộ đội vào trận đánh quân thù. Thế nhưng, nếu ta hiểu theo nghĩa hàm ẩn, thì đây là lí tưởng cách mạng, là Đảng là Bác Hồ soi đường chỉ lối cho anh bộ đội vào trận đánh quân thù. “Bạn cùng mũ nan” đó là những chiếc mũ đồng bào dân tộc miền cao gửi tặng cho người lính để vượt qua bao nắng mưa dãi dầu.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghệ thuật đảo ngữ “đỏ đuốc”, là vẻ đẹp lực lượng hậu phương vững chắc của anh bộ đội, là những đoàn dân công quang gánh, xe thồ, ngày đêm tải đạn ra tiền tuyến. Và cũng chỉ có trong những bảo tàng lịch sử Việt Nam ta mới nhận thấy, có chiếc xe đạp mà có thể chở được 2-3 tạ đạn lên chiến trường. Thơ ca của nhà thơ Tố Hữu rất đồng điệu với thơ ca của Bác Hồ, khi mà hướng bắt đầu luôn luôn là hiện tại đến tương lai, từ bóng tối đến ánh sáng. Và ở đó là nghệ thuật nói quá và phóng đại làm cho vẻ đẹp của những con người Việt Nam bước ta từ trang sử vẻ vang của dân tộc. Đó là vẻ đẹp của những con người đẹp từ gót chân đến mái tóc, đẹp từ như trong chân lí sinh ra.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Một bên là “thăm thẳm sương dày” một bên là “đèn pha bật sáng”, ngọn đèn pha ấy đánh tan đi lớp sương dày. Ngọn đèn xe ấy không chỉ đơn thuần là hình ảnh của những chiếc xe mà ta từng bắt gặp trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Mà ở đây, ta có thể thấy rằng đó là những khó khăn thiếu thốn trong những ngày đầu kháng chiến. Chúng ta chỉ có vũ khí là giáo mác thô sơ, nhưng quân ta càng đánh, lực lượng càng mạnh, thế tấn công dễ như chẻ tre. Chúng ta đã có những đoàn xe ra tiền tuyến. Chúng ta đã có những pháo binh ra mặt trận và ở đó là bình minh huy hoàng vẫy gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên kháng chiến.
Tám câu thơ trên là cảnh ra quân thì 4 câu thơ dưới là vẻ đẹp của khúc ca ăn mừng chiến thắng:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Điệp từ “vui” được lặp lại 4 lần, thể hiện tiếng reo vui của hàng triệu trái tim con người Việt Nam. Nghệ thuật liệt kê “Hòa Bình”, “Tây Bắc”, “Điện Biên”,… thể hiện chiến thắng sau còn giòn giã hơn chiến thắng trước. Bởi vậy mà ta nhận thấy đó là vẻ đẹp của Việt Bắc, đó là lí do người ta nói rằng: Việt Bắc của Tố Hữu không chỉ thuyết phục người đọc ở một bản tình ca mà ở đó còn là bản hùng ca bi hùng bi tráng về cảnh ra quân, là những giai điệu tự hào trong thơ ca Việt Nam.
Tiếp đó ta thấy:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
…
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…
Bài “Từ ấy” gồm 3 khổ thơ, mỗi khổ thơ lại là một vẻ đẹp rất riêng. Khổ 1 là niềm vui của tác giả khi được đến với lý tưởng cách mạng. Ông tự ví tâm hồn của mình là một khu vườn đầy hoa lá, kể từ khi có mặt trời chân lí thì bỗng đậm hương và rộn tiếng chim, là một khu vườn bỗng ngập tiếng chim ca, là niềm vui của tác giả, là ánh sáng của vườn hồng đánh bật bóng đêm lụi, là ánh sáng của triết học Mác Lênin, đó là mặt trời chân lí, là Đảng soi đường chỉ lối.
Đến với khổ 2, từ niềm vui ấy dẫn đến ý thức trách nhiệm của người chiến sĩ. Họ phải gần gũi với quần chúng nhân dân, khơi dậy khối đại đoàn kết dân tộc. Cuối cùng, từ sự thay đổi về ý thức trách nhiệm dẫn đến sự thay đổi về tâm tư tình cảm. Liên tục sử dụng các từ “là anh”, “là em”, “là con”, coi tất cả đồng bào, đồng chí của mình là trong một gia đình. Họ đều là máu mủ của mình. Và nhiệm vụ cuối cùng, nhiêm vụ quan trọng nhất đó là phải xây dựng, thấu hiểu nỗi thống khổ của nhân dân. Đó chính là vẻ đẹp của bài thơ “Từ ấy”.
Bài thơ Việt Bắc và Từ ấy điểm giống ở đây là sự nhất quán về phong cách sáng tác “trữ tình và chính trị”. Là người cách mạng làm thơ luôn luôn ý thức được ngòi bút của mình phải thực sự là thứ vũ khí trên mặt trận văn hóa văn nghệ. Thơ ca của ông có thể khẳng định đó là cuốn “Nhật kí về lịch sử Việt Nam”, bởi vậy không phải ngẫu nhiên mà ông được mệnh danh là hồn thơ của dân tộc
Còn điểm khác ở đây là về nội dung. Một tác phẩm viết về niềm vui của tác giả khi đến với ánh sáng lí tưởng của cách mạng. Một tác phẩm lại viết về những năm tháng không thể nào quên của dân tộc Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Một tác phẩm được viết ở thể thơ lục bát, còn một tác phẩm thì không.
Tóm lại, dù có là trước cách mạng hay sau cách mạng, dù là “Từ ấy” hay là “Việt Bắc” thì rõ ràng phong cách thơ của Tố Hữu thực sự rất đáng khâm phục. Ông là người thư kí trung thành của thời đại, tác phẩm của ông là những tấm gương xê dịch trên quãng đường đời.
Mời bạn tham khảo 🌸 Phân Tích Từ Ấy 🌸 học sinh giỏi!
Liên Hệ Từ Ấy Với Nhớ Đồng Đơn Giản
Tham khảo bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy với bài Nhớ đồng đơn giản mà SCR.VN chia sẻ bên dưới nhé!
Tố Hữu ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tiếng thơ của ông mang đậm chất trữ tình, chính trị. Cả đời thơ Tố Hữu dường như chỉ ca ngợi Đảng, Bác Hồ và nhân dân Việt Nam. Đọc thơ ông ta thấy từng sự kiện lịch sử được hiện lên, trong đó một mốc son quan trọng đánh dấu cuộc đời cách mạng nhà thơ là khi ông chính thức được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Bài thơ “Từ ấy” đã chân thành ghi lại cảm xúc vui tươi, sung sướng và lời tâm nguyện của người thanh niên yêu nước được giác ngộ lí tưởng cách mạng.
Bài thơ mở đầu cho con đường cách mạng và con đường thi ca của Tố Hữu được rút ra ở tập thơ “Từ ấy”_tập thơ đầu tay của Tố Hữu là tiếng hát say mê, trong trẻo của người thanh niên cộng sản. Tập thơ gồm ba phần: máu lửa, xiềng xích và giải phóng.“Từ ấy”nằm trong phần máu lửa.
Trước khi bắt gặp ánh sáng cộng sản Tố Hữu cũng như biết bao người thanh niên trí thức Việt Nam mịt mờ không lí tưởng, không xác định được hướng đi cho mình. Đúng như ông đã từng nói trong bài thơ “Nhớ đồng”:
“Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời”
Nhưng kể từ khi được giác ngộ lí tưởng, tham gia vào Đảng 7/1938 “Từ ấy” nhấn mạnh mốc thời gian trong đời, “mốc son đáng nhớ trong tâm hồn người thanh niên tuổi mười tám đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống dám làm dám đấu tranh”. Mở ra cho tác phẩm là tâm trạng vui tươi, sung sướng của tác giả khi được ánh sáng của Đảng soi đường:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
Bìa thơ Từ ấy chính là niềm vui, hạnh phúc và lòng biết ơn Đảng đã khai sáng cho tâm hồn mở ra cho ông và biết bao người thanh niên khác những nhận thức mới mẻ.
Cả cuộc đời “Tố Hữu vừa làm cách mạng vừa làm thơ, làm thơ để làm cách mạng, và làm cách mạng để làm giàu nguồn cảm hứng cho thơ”. Lí tưởng cách mạng có sức ảnh hưởng, có sự cảm hóa mãnh liệt đối với Tố Hữu cũng như bao nhà thơ lãng mạn khác.
“Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ. Thơ ông thường chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng bừng ca ngợi cách mạng”. “Từ ấy” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, là tuyên ngôn về lí tưởng cách mạng, là tiếng hát trong trẻo của người thanh niên ở năm những năm mười tám đôi mươi sung sướng, hạnh phúc khi được giác ngộ bởi ánh sáng của Đảng cùng với những nhận thức và sự vận động mới mẻ trong tình cảm của người chiến sĩ cộng sản.
Liên Hệ Từ Ấy Và Nhớ Đồng Ngắn Hay
Gợi ý cho bạn bài văn liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy với bài thơ Nhớ đồng ngắn gọn mà hay , xem thêm bên dưới:
Tố Hữu là nhà thơ lớn, gần gũi với bao thế hệ người Việt Nam. Thơ Tố Hữu có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc bởi chất men say lí tưởng cao cả, của tình yêu thương chân thành cho con người, của niềm tin bất diệt vào tương lai. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại giây phút mê say của nhà thơ khi bắt gặp ánh sáng của Đảng soi đường. Đó không chỉ là cảm xúc vui sướng, phấn khởi mà còn là phẩm chất cao đẹp của người cộng sản muôn hòa nhập và cống hiến hết mình cho đời.
Mỗi người đều có những giây phút trọng đại, thiêng liêng trong cuộc đời. Với người mẹ đó là đứa con yêu ra đời và bập bẹ biết nói, biết đi. Với người yêu nhau là khi họ bắt gặp nhau lần đầu tiên tưởng chừng như quen biết tự bao giờ.
Còn riêng Tố Hữu, hạnh phúc lớn nhất là lúc nhận ra con đường đi đúng đắn của mình, bắt gặp ánh sáng lí tưởng của Đảng. Đó là cái mới đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời người thanh niên yêu nước đầy nhiệt tình, hăm hở. Tố Hữu vào Đảng khi còn rất trẻ — mười bảy tuổi, vậy mà mối duyên với cách mạng sớm đưa lại những đổi thay kì diệu về tình cảm và tâm hồn, nhận thức:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Từ ấy đặt ngay đầu bài thơ như bức tường vạch chia ranh giới rõ ràng giữa hai khoảng thời gian. Thời gian cuộc đời của nhà thơ tự phân làm hai nửa trước và nửa sau từ ấy cho chúng ta sự khác biệt trong một con người. Trước Từ ấy là cuộc sống bế tắc không lối thoát, cô đơn tuyệt vọng chán chường.
Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời
Vẫn vơ theo mãi dòng quanh quẩn
Muốn thoát than ôi, bước chẳng rời.
(Nhớ đồng)
Đó không phải là tâm trạng của riêng mình nhà thơ mà là chung cho cả thế hệ trẻ lúc bấy giờ vừa rời ghế nhà trường liền va đập ngay với những cảnh đời trớ trêu. Họ bi quan, không xác định cho mình một hướng đi, hay một lí tưởng dứt khoát Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, chọn một dòng hay để nước trôi.
Từ ấy khép lại chuỗi ngày dằn vặt, đau khổ, bóng tối, mở ra một cuộc sống mới đầy hứa hẹn. Nó toát lên từ sức sống mạnh mẽ bên trong, từ sự thức tỉnh kì diệu. Tố Hữu ghi lại giây phút đổi thay ấy bằng những hình ảnh giàu tính hình tượng bừng nắng hạ, thứ ánh nắng sáng tươi, rực rỡ chiếu soi tỏ khắp nơi đặc biệt soi sáng cả những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn, trí tuệ, nhận thức.
Mặt trời chân lí là hình ảnh ẩn dụ chì lí tưởng Đảng, nó có sức mạnh vừa cảm hóa, lay động vừa thức tỉnh không chỉ nhận thức, lí trí mà cả tình cảm, con tim của nhà thơ. Dường như có một cuộc đổi thay nhanh chóng giống như người đang sống trong đêm tối mò, tâm hồn khô kiệt bỗng chốc đèn pha bật sáng như ngày mai lên, mọi vật hiện ra, rõ ràng đến từng chi tiết và cảm xúc nảy sinh.
Từ ấy là bản đàn dạo khúc vui đầu tiên của người cộng sản khi gặp lí tưởng Đảng. Đó là lúc tâm hồn được hồi sinh, trí tuệ bùng sáng, nhận thức trách nhiệm lớn lao với cuộc đời. Thơ Tố Hữu hay khi kết hợp sâu sắc lí tưởng cộng sản, tình thương yêu con người và niềm vui hướng về tương lai. Từ ấy đã kết tinh cái hay ấy và tạo nên sức hút lớn đối với những con người chân chính đã và đang đi theo lí tưởng của mình. Nhà thơ khơi lên lòng nhiệt huyết, quyết tâm của biết bao thế hệ để họ hôm nay và mai sau thực hiện ước nguyện xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.
Mẫu đoạn văn 🌸Mở Bài Từ Ấy Tố Hữu🌸 đặc sắc!
Liên Hệ Từ Ấy Và Chiều Tối Xuất Sắc
Nếu vẫn chưa biết cách viết bài văn liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy với bài Chiều tối của Hồ Chí Minh, bạn có thể xem thêm mẫu sau đây:
Nền độc lập dân tộc bị xâm lăng, đất nước bị thù trong giặc ngoài giày xéo, người dân lầm than cơ cực, chính người chiến sĩ cộng sản cùng với nhân dân làm nên sức mạnh dân tộc đánh tan quân thù. Người chiến sĩ không chỉ có mặt trên chiến trường bom đạn mà trong mặt trận văn học họ cũng được các nhà văn nhà thơ khắc họa.
Tiêu biểu cho hình tượng người chiến sĩ Việt Nam với tình yêu Tổ quốc, lòng yêu thương con người và niềm tin vào lí tưởng cách mạng được thể hiện trong hai bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh và “Từ ấy” của Tố Hữu cho ta hiểu thêm về phẩm chất người chiến sĩ cộng sản ở thời kì trước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người chiến sĩ cộng sản đầu tiên của Đông Dương. Từ bấy lâu người đã thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và đưa chúng áp dụng vào hoàn cảnh thực tế cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Chiều tối” là bài số 31 trong tập thơ “Nhật kí trong tù” được Bác sáng tác khi đi sang Trung Quốc tranh thủ sự viện trợ Quốc tế thì bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ trong suốt mười ba tháng.
Bài thơ “Chiều tối” sáng tác khi Bác bị thiên chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo, cảm hứng chiều tà cùng với tâm hồn thi sĩ đã làm nên một bức tranh thiên nhiên và con người tuyệt đẹp.
Tố Hữu cũng là người chiến sĩ cách mạng thuộc thế hệ sau Hồ Chí Minh nhưng giữa hai con người ấy có cùng chung một lí tưởng cộng sản, chính Bác và Đảng là ánh sáng soi đường cho tầng lớp trí thức trẻ như Tố Hữu đang “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” gặp được ánh sáng của Đảng.
Bài thơ “Từ ấy” là mốc son đánh dấu sự kiện quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu vào năm 19378 khi ông chính thức được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Tác phẩm thể hiện niềm sung sướng, hạnh phúc, niềm tin của người chiến sĩ vào Đảng và sự chuyển biến về nhận thức, tình cảm trong Tố Hữu.
Hình tượng người chiến sĩ có ở trong hai bài thơ với những nét tương đồng và khác biệt chúng ta cùng phân tích, tìm hiểu để làm sáng tỏ vẻ đẹp của những con người làm nên hình hài đất nước.
Trước tiên người chiến sĩ trong bài “Chiều tối” của Hồ Chí Minh là một con người có tình yêu thiên nhiên, nhạy cảm với sự biến đổi của ngoại cảnh. Dù là cả một ngày đường di chuyển mệt mỏi nhưng Bác vẫn có thể lắng mình cảm nhận sự chuyển biến khi chiều về đó là hình ảnh cánh chim bay mỏi, là đám mây cô độc trên bầu trời:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Hai câu thơ đầu tả cảnh thiên nhiên lúc hoàng hôn, dù chân dung người tù không được hiện lên nhưng ta có thể cảm nhận người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh có một tinh thần kiên cường bất khuất. Người ở trong hoàn cảnh gông cùm, xiềng xích nhưng vẫn ung dung, tự do tự tại về tâm hồn để cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên, sáng tác thơ ca.
Người chiến sĩ ấy luôn có sự đồng cảm với những người nghèo khổ, có trái tim nhân ái yêu thương con người. Điều đó được thể hiện trong bức tranh cuộc sống ở miền sơn cước:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”.
Tình cảm ấy Bác không chỉ dành cho người nông dân Việt Nam mà nó bao la, rộng lớn dành cho tất cả những người lao động trên thế giới.
Còn hình tượng người chiến sĩ trong bài thơ “Từ ấy” thì như thế nào? Đó là niềm vui sướng, say mê khi bắt gặp ánh sáng của Đảng được Tố Hữu ví tâm hồn mình như “Vườn hoa lá”, “Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
Tố Hữu đã dùng hình ảnh “Mặt trời chân lí” để ẩn dụ cho ánh sáng bất diệt mà Đảng đem tới, với các động từ mạnh “bừng” “chói” chỉ sự bất ngờ và xuyên thấu vào trong tư tưởng, trái tim người lính. Lí tưởng cộng sản như ánh sáng chói lòa, bất ngờ đến xóa tan đi màn đêm tăm tối trong tư tưởng của những tháng ngày vô nghĩa “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”.
Từ những niềm vui, sung sướng tràn ngập ấy trong tư tưởng nhà thơ có sự chuyển biến về nhận thức và tình cảm. Nhận thức ấy khác với nhân vật Hạ Du trong tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn khi đã xa rời nhân dân để rồi nhận lại bi kịch, còn Tố Hữu đã xác định hòa cái tôi cá nhân của mình vào cái ta chung của cộng đồng, xác định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân được thể hiện trong khổ thơ thứ hai.
Tình cảm của ông giờ đây không còn là sự vị kỉ cá nhân của tần lớp trí thức mà thay vào đó là tình hữu ái giai cấp dành cho những người đồng khổ như anh chị em ruột thịt trong gia đình. Nhà thơ đã xác định mình là thành viên của “vạn nhà”, “Là em của vạn kiếp phôi pha/ Là anh của vạn đầu em nhỏ”. Tình cảm ấy thật chân thành và đáng quý biết bao.
Như vậy qua phân tích hai tác phẩm ta thấy hình tượng người chiến sĩ hiện lên những nét tương đồng. Họ cùng là những con người có trái tim chân ái giàu lòng yêu thương, luôn tin vào lí tưởng cách mạng, tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc và đều mượn vẻ đẹp của thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng cá nhân.
Tuy nhiên cũng có những nét khác biệt bởi tính sáng tạo cá nhân trong sáng tác. Nếu Hồ Chí Minh là vị lão thành cách mạng với hồn thơ thâm trầm sâu sắc mang đậm chất cổ điển và hiện đại đan xen thì Tố Hữu là người trí thức trẻ vừa được giác ngộ bởi lí tưởng cách mạng mang với tính hiện đại, trong thơ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc đậm chất trữ tình cách mạng.
Qua hai bài thơ hình tượng người chiến sĩ cách mạng hiện lên thật đáng kính đáng phục bởi tinh thần yêu nước thương dân, niềm tin bất diệt vào ánh sáng của Đảng. Qua đó cho em hiểu thêm về phẩm chất đạo đức cách mạng của người chiến sĩ đáng để học tập và noi theo.
Như vậy hình tượng người chiến sĩ trong tác phẩm “Chiều tối” của Hồ Chí Minh và “Từ ấy” của Tố Hữu đã làm sống dây tinh thần cách mạng, vẻ đẹp của những con người đã góp phần làm nên hình hài đất nước. Hình tượng ấy sống mãi trong lòng người dân Việt Nam.
Liên Hệ Từ Ấy Và Vội Vàng Đặc Sắc
Bạn có thể tham khảo bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy và Vội vàng của Xuân Diệu để biết làm dạng đề này!
Trong văn đàn Việt Nam, khi nhắc đến Xuân Diệu người ta thường nghĩ đến một hồn thơ tự do, bay bổng với những điều kỳ dị, ngỡ ngàng, mới mẻ. Còn khi nhắc đến nhà thơ Tố Hữu, người đọc lại nghĩ ngay đến những vần thơ chính trị, thời cuộc nhưng đậm chất dân tộc, dễ đi vào lòng người. Khi nói về tư tưởng hòa nhập và khát vọng sống, mỗi nhà thơ lại có những quan điểm và cách thể hiện riêng. Có thể tìm hiểu điều đó qua hai đoạn thơ trong hai bài “Vội vàng” của Xuân Diệu và “Từ ấy” của Tố Hữu.
Ở “Vội vàng”, Xuân Diệu bộc lộ một triết lí sống vội vã, cháy bỏng, cuồng nhiệt với thanh xuân với tuổi trẻ. Nhà thơ cho rằng tuổi trẻ là thời gian tươi đẹp nhất của cuộc đời cũng giống như mùa xuân đến trong đất trời, vạn vật rực rỡ, bung nở. Mùa xuân của đất trời luôn tuần hoàn. Còn mùa xuân của đời người thì chỉ có một lần. Vậy nên nếu con người không biết sống hết mình, sống tận hưởng tuổi xuân thì chúng ta đang lãng phí cuộc đời.
Hiểu được thực tại ấy, Xuân Diệu thấy trân quý, khao khát kéo dài thanh xuân của mình, muốn được sống hết mình, được cống hiến, được tận hưởng để cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn. Nhà thơ đã sử dụng hàng loạt động từ, tính từ mạnh: “ôm, riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy…” để bộc lộ tâm trạng và khao khát ấy của bản thân.
Ông muốn được sống đúng với bản năng, với khát vọng của mình, được hòa nhập với thiên nhiên đất trời, được thả mình trong đó để tận hưởng và lưu giữ vẻ đẹp của xuân hồng. Nhà thơ đã cảm nhận thiên nhiên cuộc sống bằng vẻ đẹp tươi xanh đầy sức sống nhất của nó, từ đó thúc giục con người hãy sống vội vàng, ý nghĩa hơn với thanh xuân với cuộc đời.
Với bài thơ “Từ ấy” – đây là tác phẩm được tác giả viết khi ông vinh dự và tự hào được đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà thơ bày tỏ niềm tự hào ấy bằng những ngôn từ và cảm xúc rung động đến bổi hổi và rạo rực.
Đồng thời cũng từ đây, nhà thơ ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với nhân dân với đất nước khi đã là một người đảng viên. Nhà thơ buộc mình phải mở lòng, phải hòa nhập với tất cả mọi người, không xa rời quần chúng nhân dân mà luôn gần dân, hiểu dân, gắn bó với dân, giúp dân nói lên nguyện vọng của mình. Người đảng viên là người đại diện cho quyền lợi và tiếng nói của những con người cùng khổ. Do đó họ không thể để mình xa cách cao cao tại vị mà phải đặt mình ở trong dân.
Nhà thơ tự nhận mình “là con, là em, là anh” của vạn người, vạn nhà để nhấn mạnh nghĩa vụ và trách nhiệm ấy của mình. Từ nay, cuộc sống của ông hoàn toàn gắn bó chặt chẽ với nhân dân, ông phải trở thành một người tiên phong, dẫn bước, luôn kề cận, sát cánh cùng nhân dân trong con đường đấu tranh cách mạng. Đó là một tư tưởng sống cống hiến, sống hòa nhập rất phù hợp với hoàn cảnh và thời đại của nhà thơ.
Như vậy có thể thấy tư tưởng chủ đạo trong khổ thơ của Xuân Diệu là cách sống hòa mình, hòa nhập với thiên nhiên đất trời, tận hưởng tuổi trẻ sống hết mình, sống ý nghĩa đối với thanh xuân ngắn ngủi. Còn đối với Tố Hữu, đó là tư tưởng sống hòa nhập với con người, gần gũi, gắn bó mật thiết với con người để con người cùng nhau tiến lên.
Cả hai tư tưởng này đều rất đúng đắn, nó giáo dục khuyến khích con người hãy biết mở lòng, biết sống hết mình. Dù là có sự khác nhau do bối cảnh và ý nghĩa chủ đề nhưng đây đều là hai tác phẩm xuất sắc nói lên những tư tưởng sáng suốt, có ý nghĩa trong cả tiến trình thời gian và là bài học sâu sắc cho cả thế hệ ngày nay.
“Vội vàng” của Xuân Diệu và “Từ ấy” của Tố Hữu chính là những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của hai nhà thơ.
Xem ngay 🌸 Kết Bài Từ Ấy 🌸 điểm cao!
Liên Hệ Từ Ấy Và Viếng Lăng Bác Sáng Tạo
Chia sẻ đến độc giả bài mẫu liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy và Viếng lăng Bác, mời các bạn cùng xem:
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị cha già vĩ đại của dân tốc Việt Nam anh hùng đã ra đi, ra đi mãi. Thế nhưng như Phạm Tiến Duật từng nói: “Người chết chỉ thực sự chết khi người sống quên ta”. Bởi lẽ đó, Bác Hồ sống mãi với quê hương, gấm vóc, sống mãi trong trái tim mọi người và sống mãi trong áng thơ “Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương, sáng tác năm 1976 nhằm tỏ lòng thành kính của một người con, một thi nhân dâng lên người.
“Con ở miền Nam” gợi cho người đọc cảm xúc rưng rưng vì đây là mảnh đất xưa kia ông cha ta đi mở cõi:
“Có ai về Bắc ta theo với
Thăm lại non sông đất lạc hồng
Từ buổi mang gươm đi mở cõi
Mà lòng thương nhớ đất Thăng Long”
Miền Nam trong chiến tranh là mảnh đất với muôn nổi khổ đau nhưng cũng là bức thành đồng của tổ quốc. Sau ngày thống nhất đất nước một năm, Viễn Phương ra thăm lăng Bác. Hai mảnh đất, hai địa cầu của tổ quốc thân yêu đã được nối liền bằng một cuộc hành hương.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Sự vĩ đại của người có thể so sánh với trăng sao còn trăng sao thì thuộc về vũ trụ vĩnh hằng. Hình ảnh ẩn dụ mặt trời ở câu thơ thứ hai là một hình ảnh để mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng sự sống cho cỏ cây muôn loài mặt trời ấy bất diệt còn bác hồ mang lại ánh sáng ấm no hạnh phúc tự do cho dân tộc Việt Nam mang lại ánh sáng lý tưởng cách mạng cho con người. Giống như trong bài Từ ấy đã nói:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Liên Hệ Từ Ấy Và Tràng Giang Ý Nghĩa
Gợi ý cho bạn mẫu bài văn liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy và Tràng giang của Huy Cận hay và ý nghĩa, tham khảo ngay:
Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới với hai phong cách sáng tác theo từng thời kì của lịch sử. Một giọng thơ u uất, sầu não trước cách mạng tháng Tám đối lập với giọng thơ sôi nổi, hào hùng sau cách mạng tháng Tám.
Bài thơ Tràng giang tiêu biểu cho phong cách u uất, não nề của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám với nhiều nỗi niềm, trăn trở. Đặc người người đọc ấn tượng với nhan đề và lời đề từ độc đáo.
Trong khi đó bài thơ Từ Ấy nằm trong tập thơ cùng tên, được Tố Hữu sáng tác vào năm 1938, đã đánh dấu sự trưởng thành trong lí tưởng của người thanh niên cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui sướng, hạnh phúc của một người trẻ vẫn đang trên con đường tìm kiếm lẽ sống thì gặp được ánh sáng của lí tưởng, của Đảng, của cách mạng.
Nhan đề chính là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc có thể lần mò theo đó khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Nhan đề của bài thơ có tên Tràng giang với vần ang chủ đạo vừa có ý nghĩa gợi mở, vừa tạo ên sự u buồn dai dẳng và nặng nề, cứ triền miên trong tâm thức của tác giả.
Tràng giang hay còn gọi là trường giang là một từ hán việt ý chỉ con sông dài. Nhưng tác giả lại lấy tên Tràng giang chứ không phải Trường giang. Bởi vốn dĩ Trường giang chỉ có ý nghĩa chỉ con sông dài đơn thuần như thế; nhưng ngược lại Tràng giang vừa nói con sông dài mênh mông, vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của chính tác giả.
Vần ang kéo dài ra như nỗi niềm của Huy Cận chưa bao giờ vơi khi đứng trước con sông Hồng rộng lớn mênh mông này. Sông Hồng là điểm nhấn khơi gợi cảm xúc của tác giả, đồng thời chồng chất những bế tắc không lối thoát cho những con người muốn đổi mới nhưng không tìm được con đường đi riêng cho chính mình.
Trong khi đó nhan đề Từ ấy là một từ để chỉ thời gian, là mốc son đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời và trong cả tâm hồn của nhà thơ. Giây phút ấy khiến nhà thơ vui mừng đến nỗi không thể định nghĩa chính xác được, chỉ biết là từ ấy.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Một loạt những hình ảnh ẩn dụ bừng nắng hạ, mặt trời chân lí, chói qua tim được nhà thơ sử dụng tài tình. Người thanh niên vẫn đang loay hoay trong bóng tối của mùa đông mù mịt, chưa tìm thấy lối đi, chưa tìm thấy lí tưởng thì mặt trời bỗng bừng lên xua tan bóng tối, soi đường chỉ lối cho anh.
Từ ấy là tiếng reo vui không chỉ của nhà thơ, mà còn là của cả một thế hệ thanh niên khi tìm thấy lí tưởng của Đảng, nguyện chiến đấu hết mình vì lí tưởng, vì nhân dân, vì đất nước. Họ là những người chiến sĩ trẻ, mang trong mình nhiệt huyết, mang trong mình lí tưởng, và lòng yêu thương đồng bào, yêu thương đất nước.
Còn Huy Cận đứng trước sông Hồng nhưng lại nhớ chính con sông này, có chăng là tâm sự đứng trước nhiều con đường, nhiều ngã rẽ nhưng lại không biết chọn con đường đi nào trọn vẹn nhất.
Liên Hệ Từ Ấy Và Việt Bắc Nâng Cao
Mời bạn đọc xem ngay bài văn liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy với bài Việt Bắc ở ngay bên dưới:
Đặng Thai Mai đã từng có những lời nhận xét như sau: “Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca”.
Có thể nói, cả cuộc đời thơ của Tố Hữu đều có sự gắn bó mật thiết với con đường cách mạng đầy gian khổ nhưng cũng không thiếu những chiến thắng vang dội lịch sử dân tộc. Vì thế mà, tất cả các tác phẩm của ông đều mang khuynh hướng trữ tình chính trị kết hợp cùng chất liệu dân tộc theo một cách rất riêng biệt, rất độc đáo.
Thơ Tố Hữu là thơ có giọng điệu dạt dào tình cảm, nhẹ nhàng nhưng đầy nhiệt huyết, cổ vũ tinh thần cách mạng của quân và dân trong thời chiến gian nan.
Trong đó, Từ Ấy và Việt Bắc là hai tác phẩm nổi bật nhất. Hai tác phẩm này được sáng tác vào hai giai đoạn khác nhau của cách mạng, vì thế mà nó cũng mang sự vận động, dịch chuyển trong cái tôi trữ từ qua hai giai đoạn lịch sử của đất nước.
Trong các tác phẩm của Tố Hữu, cái tôi trữ tình của nhà thơ luôn hiện lên với vẻ đẹp tươi sáng của người chiến sĩ cách mạng khát khao được hòa mình với cộng đồng. Đặc biệt, trong tập thơ đầu tay của mình – Từ Ấy – ông đã thể hiện khát vọng cháy bỏng đó qua những vần thơ nhẹ nhàng và sâu lắng:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…”
Càng về sau, càng đi chung với những người cùng chí hướng trên chặng đường cách mạng gian nan, khó nhọc thì cái tôi trữ tình của ông lại càng thêm sâu sắc. Cái tôi chiến sĩ đó đã hóa thành cái tôi lớn, là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh nhân dân.
Cũng vì thế mà những vần thơ được ông viết lên lại càng mặn mà, sâu lắng tình cách mạng. Từ đó, cái tôi trữ tình gắn liền với cách mạng đó, một mặt giữ mãi những sơ tâm thuở đầu, một mặt trưởng thành và chuyển mình thành hồn thơ nguyện trọn vẹn với cách mạng, nghệ thuật và tình yêu.
Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy sự chuyển mình của cái tôi trữ tình ấy trước hết qua cơ sở ra đời của hai tác phẩm. Với Tố Hữu, mỗi tác phẩm của ông đều mang ý nghĩa và đánh dấu những cột mốc quan trọng đối với cách mạng và sự nghiệp lâu dài của dân tộc.
Trong đó, Từ ấy là bài thơ được ông sáng tác vào những ngày cách mạng nước nhà đang dần có những đường lối rõ ràng. Vào tháng 7/1938, Tố Hữu – một người thanh niên Huế luôn tích cực tham gia các phong trào thanh niên – được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Đối với chàng thanh niên trẻ mới vừa tròn 18 tuổi ấy, đây là một niềm hạnh phúc mãnh liệt, là một cột mốc sáng chói trong cuộc đời thơ ca và sự nghiệp cách mạng của ông.
Nếu như Từ ấy là một tác phẩm được sáng tác từ niềm hân hoan riêng của tác giả, thì đến Việt Bắc, cảm hứng chủ đạo cho bài thơ chính là niềm hân hân chung của cả dân tộc.
Bài thơ Việt Bắc được Tố Hữu viết sau sự kiện chiến thắng Điện Biên Phủ (7/1954), hiệp định Giơ ne vơ được ký kết đã đem lại sự độc lập cho miền Bắc. Từ đó, một trang sử mới của dân tộc đã được mở ra.
Tuy nhiên, bên cạnh niềm vui như muốn vỡ òa ấy, việc phải rời xa chiến khu Việt Bắc để trở về thủ đô đã khiến người chiến sĩ chìm trong những nỗi niềm xúc động khó tả, xen lẫn chút tiếc nuối nhớ thương. Cũng chính từ những cung bậc cảm xúc đó, Việt Bắc đã ra đời và ghi một dấu ấn khó phai trong sự nghiệp văn chương của Tố Hữu.
Sự vận động cái tôi trữ Tình của Tố Hữu có thể nhìn thấy trong sự thay đổi về hoàn cảnh lịch sử. Bên cạnh đó, dựa trên nền tảng lịch sử, nội dung của tác phẩm cũng có sự thay đổi. Và dĩ nhiên, cái tôi trữ tình ấy đã có một sự vận động để trưởng thành hơn.
Tuy nhiên, dẫu mọi thứ có thay đổi như thế nào, thì lý tưởng cách mạng cùng tình yêu đất nước của ông vẫn mãi nguyên vẹn, chẳng hề sờn đi theo năm tháng. Có thể nói, sự chuyển mình của cái tôi đó chính là sự tự hoàn thiện của thi nhân, cũng là sự phát triển của cách mạng dân tộc từ non trẻ đến khi trưởng thành.
Ở Từ ấy, ta như nhìn thấy niềm vui sướng, hạnh phúc của chàng thiếu niên mười tám tuổi được giác ngộ lý tưởng cách mạng tràn ngập trong lời thơ:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim.”
Đọc tác phẩm, ta như thấy được cái tôi trữ tình của một hồn thơ cởi mở, sẵn sàng đón nhận, sẵn sàng hòa nhập, sẵn sàng hợp thể với cái tôi chung của cộng đồng.
Việt Bắc ra đời vào đúng mười sáu năm sau. Trong một hoàn cảnh mới, được sự tôi luyện của chiến trường khắc nghiệt cùng cuộc sống gian khổ mà cũng không kém phần vẻ vang, Tố Hữu đã chẳng còn là một chàng thanh niên vừa mới bước chân vào con đường cách mạng. Tiếng súng đạn đã dạy ông trở thành một người chiến sĩ nòng cốt, quả cảm và anh dũng. Vì thế mà, những cảm nhận của ông cũng đã có sự chuyển mình, đổi mới.
Ở Việt Bắc, ta chẳng còn nhìn thấy khát khao và cảm xúc được bộc lộ trực tiếp mà thấy sự ấm áp cùng những suy tư chan chứa ân tình thủy chung. Việt Bắc không chỉ là một bài thơ, nó còn là một bức tranh hồi tưởng về tháng ngày kháng chiến trường kỳ khắc nghiệt, là lời giãi bày nỗi nhớ nhung của người đi với kẻ ở, là ca khúc mang những giai điệu bùi ngùi, xúc động. Đặc biệt, ở bài thơ này, cái tôi trữ tình đã nhập với cái ta chung của dân tộc.
Cả bài thơ Việt Bắc đều sáng lên lòng biết ơn sâu sắc cùng những lời gợi nhắc đến ân tình sâu sắc, thủy chung. Dẫu đó là những cảm xúc khó tả, là sự xúc động, bịn rịn giữa người ra đi – kẻ ở lại, nhưng nó tuyệt nhiên không phải là nỗi buồn bã ủy mị. Bởi lẽ, ai cũng sẽ hiểu rằng, quá khứ dù đẹp mấy rồi cũng sẽ qua đi, thay vì cứ mãi đau buồn sống trong đó, sao không đón chờ tương lai tươi đẹp hơn ở phía trước.
Sự vận động cái tôi trữ tình thể hiện qua phong cách viết. Cùng với đó, sự vận động của cái tôi trữ tình còn được thể hiện rõ nét từ phong cách viết thơ của Tố Hữu.
Nếu như trong Từ Ấy, ông chọn cho mình thể thơ tự do với những vần thơ bay bổng để đẩy cảm xúc lên cao trào, thì Việt Bắc lại được ông truyền đạt với thể thơ lục bát – một thể thơ truyền thống của dân tộc. Chính điều này cũng khẳng định sự phát triển, trưởng thành trong chính hồn thơ Tố Hữu. Ông đã chuyển từ khuynh hướng trữ tình chính trị sang dòng thơ mang khuynh hướng trữ tình chính trị kết hợp cùng chất liệu truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc.
Tố Hữu, từ một hồn thơ trẻ trung, bay bổng trong những suy nghĩ của cái tôi mạnh mẽ, đã dần chuyển mình để trưởng thành hơn. Nhưng rồi, dẫu cho thời gian có làm người ta thay đổi đến đâu, thì hồn thơ ấy vẫn luôn giữ nguyên vẹn những tình cảm sơ tâm buổi ban đầu với cách mạng, với sự nghiệp chung của đất nước.
Tham khảo 🌸 Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Từ Ấy 🌸 ý nghĩa!
Liên Hệ Từ Ấy Và Tây Tiến
Gửi tặng bạn mẫu bài văn liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy với bài Tây Tiến để làm sáng tỏ hình tượng người lính:
“Tây Tiến” và “Từ ấy” là hai tác phẩm thơ tiêu biểu cho phong cách của Quang Dũng và Tố Hữu. Thông qua đoạn thơ “Tây Tiến đoàn binh… khúc độc hành” trong “Tây Tiến”, ta nhận thấy hai tác phẩm vừa có nét chung lại vừa có nét riêng.
Nhà thơ nhìn mây thấy gió, nhìn đôi mắt mà thấy tâm hồn. Đôi mắt quan sát cuộc sống của họ là một tấm kính lọc diệu kì hơn bất cứ một loại máy móc hiện đại nào hết. Người nghệ sĩ là người khám phá ra sự mới mẻ, khai phá tầng sâu của tâm hồn, len vào từng kẽ lá để cho ánh nắng lọt xuống trang giấy tâm hồn thơ. Mỗi nhà thơ là một sự khác biệt, mỗi tác phẩm lại là một nét tâm hồn của nhà thơ ấy.
“Tây Tiến” chính là sự phản ánh hồn thơ Quang Dũng, hồn hậu, phóng khoáng, tài hoa và lãng mạn. Cảm xúc chủ đạo của tác phẩm là nỗi nhớ, nên thiên nhiên và con người trong ý thơ luôn đậm đà cảm xúc hoài niệm của người chẳng lỡ rời xa.
Khắc họa hiện thực gian khổ nhưng những người lính hiện lên trong bài thơ lại chẳng bi lụy mà chỉ thấy ý chí quyết tâm, tinh thần lạc quan lãng mạn của những chàng trai trẻ đất thủ đô và một tâm hồn biết vượt lên tất cả để giữ vững lời khẳng định lý tưởng. Vẻ đẹp của họ được thể hiện đặc biệt rõ qua đoạn thơ “Tây Tiến đoàn binh… khúc độc hành”.
Nét đẹp của họ còn khiến ta liên tưởng đến bóng dáng của những người chiến sĩ cộng sản lần đầu giác ngộ cách mạng trong “Từ ấy” của Tố Hữu. Trong “Từ ấy”, người chiến sĩ cộng sản hiện lên với niềm say mê lý tưởng mãnh liệt. Đảng là lý tưởng của họ, là ánh sáng soi đường chỉ lối cho bước đi của họ, để họ biết công bằng, chân lý và lẽ phải.
Người chiến sĩ ấy, từ khi giác ngộ ánh sáng của Đảng, anh đã ý thức được rằng cuộc sống và thơ ca gắn bó với nhau. Anh nguyện đem cái “tôi” của mình để gắn bó, đoàn kết với mọi người, để mọi người thành anh em, thành gia đình máu thịt. Anh ý thức được rằng mình không phải cá thể tách biệt mà là một phần của cộng đồng lao khổ, bị áp bức nhưng lại mạnh mẽ chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp.
Người lính Tây Tiến và người chiến sĩ cộng sản trong “Từ ấy” đều hiện lên với nét đẹp của lí tưởng cách mạng sáng ngời thông qua bút pháp lãng mạn. Tuy nhiên mỗi nhà thơ một khác, và hình tượng mà họ khắc họa có nét chung nhưng lại rất riêng.
Người chiến sĩ cộng sản trong “Từ ấy” say mê với lí tưởng, cất lên tiếng ca của một tâm hồn mới được giác ngộ cách mạng, gắn bó mình với quần chúng nhân dân. Còn người lính Tây Tiến mang nét hùng mạnh của khúc tráng ca, có tài hoa lãng mạn nhưng cũng có bi thương.
Sự khác biệt xuất phát từ phong cách nghệ thuật riêng của mỗi nhà thơ. Với Tố Hữu, đó là trữ tình chính trị. Với Quang Dũng, đó là hồn thơ trữ tình hồn hậu, phóng khoáng và tài hoa lãng mạn.
Liên Hệ Bài Từ Ấy Tiêu Biểu
Mẫu bài văn liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy tiêu biểu ở bên dưới, mời bạn xem ngay:
Tố Hữu gương mặt quen thuộc của thơ ca cách mạng Việt Nam. Đối với ông thơ không chỉ dùng để bày tỏ tình cảm, mà nó còn dùng để cổ vũ, tuyên truyền cho chiến đấu. Tố Hữu để lại sự nhiệp phong phú, đồ sộ, ngay từ tập thơ đầu tay – Từ ấy đã gây ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Bài thơ Từ ấy là cảm xúc hân hoan, vui sướng của người thanh niên trẻ tuổi khi được đứng vào hàng ngũ cách mạng của Đảng.
Ngày vào Đảng đối với tất cả mọi người không chỉ là niềm vui mà còn là niềm vinh dự, khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng để cống hiến cho đất nước. Chế Lan Viên cũng từng nghẹn ngào, ghi lại khoảnh khắc khi được ánh sáng, lí tưởng của Đảng soi đường:
Ngày vào Đảng đất trời như đổi khác
Những vật vô tri cũng làm rưng nước mắt
Đá sỏi cây cằn, sao bỗng thấy thiêng liêng?
Giọng nói quen nghe, màu đất quen nhìn
Bỗng chan chứa trăm điều chưa nói hết
(Kết nạp Đảng trên quê mẹ – Chế Lan Viên)
Và đối với Tố Hữu cũng như vậy, ngày được kết nạp đảng lòng ông vui sướng, say mê khi mình đã lựa chọn con đường đúng đắn, đã bắt gặp lí tưởng của Đảng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
“Từ ấy” là một mốc son chói lọi, là khoảnh khắc lịch sử của mỗi đời người, là phút huy hoàng trong cuộc đời Tố Hữu. Nếu trước đây dù yêu nước, thương dân nhưng ông lại hoàn toàn bế tắc khi không tìm được lối đi cho mình để giải phóng dân tộc, thì đến đây ông đã có thể yên tâm với con đường mình lựa chọn. Con đường này đầy chông gai, hiểm nguy nhưng hứa hẹn một tương lai tươi sáng đang mở ra trước mắt.
Trong câu thơ này, Tố Hữu sử dụng liên tiếp các hình ảnh ẩn dụ: “nắng hạ” là nguồn ánh sáng rực rỡ, đầy sức sống, để diễn tả niềm hạnh phúc, vui sướng đong đầy tâm hồn nhà thơ trong ngày kết nạp Đảng. Đẹp đẽ hơn là hình ảnh “mặt trời chân lí”, đó là ánh sáng lí tưởng của Đảng, của cách mạng đã tỏa rạng muôn nơi, soi đường, chỉ lối cho con người.
Nếu mặt trời là sự sống của vạn vật, thì ánh sáng của Đảng chính là mặt trời của muôn nghìn nhân dân Việt Nam. Lí tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới đã làm thức tỉnh lí trí, mang đến cho tác giả nguồn sức mạnh kì diệu. Đồng thời, ông còn liên tiếp sử dụng các động từ mạnh: bừng, chói, cho thấy tác động đột ngột, mạnh mẽ của ánh sáng cách mạng đã xua tan đêm tối của dân tộc, mở ra một con đường mời.
Bài thơ sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ. Cách ngắt nhịp vô cùng linh hoạt kết hợp với phép điệp tạo nên nhạc tính cho bài thơ. Không chỉ vậy còn diễn tả được niềm say mệ, háo hức khi được kết nạp vào Đảng. Đồng thời kết hợp giữa tự sự và trữ tình một cách hài hòa, đã đem lại hiệu quả nghệ thuật cao nhất.
Từ ấy là một bài thơ hay, đặc sắc trong đời thơ Tố Hữu. Tác phẩm là niềm say mê, vui sướng mãnh liệt trong ngày đầu bắt gặp lí tưởng cách mạng. Đó là mốc son chói lọi, đánh dấu sự khởi đầu của một cuộc đời mới, đây cũng là mốc đánh dấu sự khởi đầu của một hồn thơ. Kết hợp với các biện pháp nghệ thuật, giọng điệu linh hoạt đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Mời bạn xem thêm mẫu 🌸Nghị Luận Từ Ấy Tố Hữu🌸 đặc sắc!
Liên Hệ Mở Rộng Từ Ấy Đặc Sắc
Nếu bạn đang gặp khó khăn viết bài văn liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy thì hãy dành thời gian tham khảo văn mẫu dưới đây:
Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu viết vào tháng 7/1938 nằm trong phần Máu lửa của tập thơ Từ ấy. Tập thơ Từ ấy là tập thơ đầu của Tố Hữu, gồm có ba phần: Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng (1937 – 1946). Bài thơ ghi lại những cảm xúc, suy tư sâu sắc khi Tố Hữu được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Bài thơ có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca và đánh dấu mốc quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu.
Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình đế đến với giai cấp vô sản với tình cảm chân thành và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với những người trí thức tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ cảm hóa Tố Hữu mà còn thay đổi cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản như Xuân Diệu, Huy Cận. Họ vốn là những thi sĩ lãng mạn rồi trở thành những nhà thơ cách mạng, sáng tác phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Điều đó thể hiện sự thay đổi quan niệm trong sáng tác của họ.
Các nhà thơ lãng mạn quan niệm:
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mê theo trăng và vơ vẩn cùng mây”
(Xuân Diệu)
Nhưng quan niệm của các nhà thơ cách mạng, nhà thơ, nhà văn phải là người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Như Sóng Hồng đã từng viết:
“Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ
Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”
Hay Hồ Chí Minh đã viết:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Sau những phút giây được chắp cánh bởi lí tưởng cộng sản nhà thơ chân thành bộc bạch suy nghĩ, nhận thức mới mẻ của bản thân về sự nghiệp cách mạng:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Khác với nhận thức của nhân vật Hạ Du trong tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn. Người chiến sĩ cách mạng xa rời quần chúng nhân dân để rồi nhận lại bi kịch cho cái chết. Còn Tố Hữu cũng như Đảng cộng sản ta luôn hướng về nhân dân, gắn bó với quần chúng.
Bác Hồ từng khuyên cán bộ đảng viên “Phải từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng” chính vì vậy Tố Hữu “buộc lòng tôi với mọi người” từ “buộc” cho thấy ý thức tự nguyện, tinh thần gắn bó “cái tôi” cá nhân với “cái ta” chung cộng đồng, để cho tâm hồn nhà thơ trải rộng ra với cuộc đời, với nhân dân trên khắp mọi miền Tổ quốc cũng là ý thức trách nhiệm gánh vác việc đời.
Tố Hữu luôn luôn gần gũi, đồng cảm và sẻ chia khổ đau, bất hạnh với những “hồn khổ” của dân tộc. Hồn khổ ấy là “Em bé mồ côi”, là “Lão đầy tớ”, là “Chị vú em”… và biết bao nhiêu hoàn cảnh cơ cực trên đất Việt. Càng đồng cảm bao nhiêu thì nhà thơ càng căm hờn kẻ đã gây ra tội ác, đẩy nhân dân vào cảnh lầm than, cơ cực bấy nhiêu, càng thôi thúc nhà thơ gắn bó và chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc.
Bài thơ ra đời vào năm 1938, đồng thời gian một số tác phẩm văn học hiện thực đã phản ánh những kiếp sống mòn, quẩn quanh, bế tắc rất cụ thể như: “Hai đứa trẻ” với chị em Liên, bà cụ Thi điên, mẹ con chị Tí,… đó cũng là những “kiếp phôi pha” hay cả như những kiếp người vì xã hội đương thời mà trở nên tha hóa như Chí Phèo trong truyện ngắn của nhà văn Nam Cao. Tất cả họ đều cần được bảo vệ, cần được che chở, cần được “khai sáng” bởi chân lý của Đảng để cùng nhau hướng đến một tương lai tươi sáng hơn.
Chính Tố Hữu – con người với trái tim yêu thương bao la sẽ làm điều đó. Qua những cụm từ giàu sức biểu cảm “kiếp phôi pha”, “vạn đầu em nhỏ/Không áo cơm cù bất cù bơ” còn chất chứa lòng căm giận trước bao bất công, ngang trái của xã hội cũ. Cũng chính vì lẽ đó, mà Tố Hữu càng hang say hoạt động cách mạng, và cũng chính họ là đối tượng sáng tác chủ yếu của ông: cô gái giang hồ trong “Tiếng hát sông Hương”, chú bé đi ở trong “Đi đi em”,..Đấy chính là những chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu.
Liên Hệ Từ Ấy Khổ 1 Độc Đáo
Cuối cùng là bài văn liên hệ mở rộng bài thơ Từ Ấy (khổ thơ đầu tiên) vơi bài Phút giây cũng của nhà thơ Tố Hữu, bạn xem qua nhé!
Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí.
“Dù ai quay hướng đổi dòng
Con thuyền ta, với cờ hồng, cứ đi!
Vẫn là ta đó những khi
Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi”
(Phút giây – Tố Hữu)
Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua các tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng,…
Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lênin trong ngày hội lớn của cách mạng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
“Từ ấy” là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng. Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vẫn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.
Cuối cùng là 🌸Phân Tích Khổ 1 Từ Ấy 🌸 để hiểu hơn!