Nghị Luận Từ Ấy Tố Hữu ❤️️ 29+ Bài Văn Ngắn Hay Nhất ✅ Chia Sẻ Tuyển Tập Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Về Tác Phẩm Nổi Tiếng Của Nhà Thơ Tố Hữu.
Dàn Ý Nghị Luận Từ Ấy
Trước khi viết bài nghị luận tác phẩm Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu, các em học sinh cần lập dàn ý nghị luận Từ ấy để có được những định hướng về bố cục và luận điểm cơ bản. Tham khảo dưới đây dàn ý nghị luận bài thơ Từ ấy chi tiết:
I. Mở bài nghị luận “Từ ấy”: Giới thiệu về tác giả và tác phẩm.
–Giới thiệu về tác giả Tố Hữu và phong cách thơ của ông:
- Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca cách mạng, chặng đường thơ ăn nhập với chặng đường cách mạng của dân tộc.
- Thơ ông mang đậm tính trữ tình – chính trị, là tiếng lòng của những lẽ sống lớn, tình cảm lớn và luôn đậm tính dân tộc.
–Giới thiệu khái quát về bài thơ Từ ấy:
- Rút ra từ tập thơ cùng tên, tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu
- Thể hiện niềm hạnh phúc, vui sướng của thi sĩ khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng
II. Thân bài nghị luận “Từ ấy”: Phân tích tác phẩm Từ ấy theo kết cấu 3 khổ thơ của bài, mỗi khổ thơ đều mang một ý nghĩa diễn tả nhất định, các em cần xác định từ ngữ quan trọng, biện pháp nghệ thuật sử dụng… để lột tả rõ từng vấn đề tác giả mong muốn.
a.Nhan đề tác phẩm:
- “Từ ấy” chính là thời điểm Tố Hữu được đứng vào hàng ngũ của Đảng – tháng 7 năm 1938.
- Trong khổ thơ thứ nhất của bài thơ tác giả đã lặp lại nhan đề ấy như một sự nhấn mạnh thời điểm nhà thơ giác ngộ lí tưởng cách mạng
b.Khổ 1: Diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng
- Mở đầu bài thơ là lời thơ mang đậm chất tự sự, nhà thơ nhắc lại một sự kiện trọng đại trong đời mình.
- Trạng ngữ “Từ ấy” đặt đầu câu đã nhấn mạnh thời điểm đầy ý nghĩa khi tác giả bước vào hàng ngũ Đảng, được giác ngộ lý tưởng Đảng Cộng sản.
- Hình ảnh “nắng hạ” kết hợp với động từ mạnh “bừng” cùng nghệ thuật ẩn dụ đã khẳng định lý tưởng cách mạng tác động vô cùng mạnh mẽ đến tâm hồn nhà thơ.
- Vườn hoa lá- vườn tâm hồn với cảm xúc tự hào, tin yêu, hy vọng, vui sướng khi được lý tưởng Đảng sáng soi.
c.Khổ 2: Biểu hiện những nhận thức về lẽ sống
- “Tôi buộc lòng tôi với mọi người”: ý thức tự nguyện gắn bó với nhân dân của tác giả.
- Động từ “trang trải” kết hợp với danh từ “muôn nơi” cùng lối nói quá đã cho thấy được sự đồng cảm của nhà thơ với những nỗi khổ cực, lầm than của nhân dân mình trên mọi miền đất nước.
- Những hồn khổ được gắn kết tạo thành sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
d.Khổ 3: Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ
- Điệp từ “là” kết hợp cùng biện pháp điệp cấu trúc đã nhấn mạnh được tình cảm thân thiết như tình thân ruột thịt.
- Tấm lòng đồng cảm, vượt lên những ích kỷ, hẹp hòi của cái tôi cá nhân để sống vì người khác.
- “Kiếp phôi pha”; “em nhỏ cù bơ cù bất”: những phận đời nghèo khổ, thương đau. Thể hiện sự đồng cảm, gắn bó, sẻ chia sâu sắc.
III. Kết bài nghị luận “Từ ấy”: Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và niềm biết ơn sâu sắc cách mạng, hướng gười đọc đến chân trời tươi sáng.
- Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của một nhà thơ vô sản chân chính, là người thanh niên trẻ trung hướng theo lý tưởng của Đảng, của cách mạng.
- Giọng thơ chân thành và hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn ngữ giàu tính dân tộc.
Gửi đến bạn 🍃 Dàn Ý Bài Từ Ấy 🍃 Mẫu Dàn Ý Phân Tích Chuẩn Nhất
Nghị Luận Bài Thơ Từ Ấy Của Tố Hữu – Mẫu 1
Tác phẩm Từ ấy là một trong những nội dung trọng tâm của chương trình ngữ văn, nhất là đối với dạng đề nghị luận văn học. Để hoàn thành tốt bài nghị luận bài thơ Từ ấy của Tố Hữu, các em học sinh có thể tham khảo gợi ý làm bài như sau:
Bài thơ “Từ ấy” – Tố Hữu được viết năm 1938, bài thơ là tiếng lòng của một người cách mạng trên con đường đi tìm lẽ sống thì gặp được ánh sáng của Đảng, của Bác. Bài thơ còn thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc dâng trào và sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm cuả chính tác giả.
Bài thơ được viết trong khoảng thời gian (1937 – 1946), đây là thời gian đầu Tố Hữu tham gia cách mạng, trở thành một người chiến sĩ. “Từ ấy” là bài thơ được viết trong giai đoạn này, cũng là bài thơ đánh dấu sự trưởng thành trong tâm hồn tác giả.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
“Từ ấy” chỉ một mốc thời gian, mốc son đánh dấu sự thay đổi lớn trong cuộc đời Tố Hữu khi bắt gặp được lý tưởng sống cho chính cuộc đời mình. Đó còn là tiếng reo hò sung sướng tột bậc, niềm hạnh phúcngập tràn khi trở thành một người cách mạng, được ánh sáng của Đảng và Bác dẫn đường. Nhà thơ đã miêu tả nó như “nắng hạ”, như ánh sáng sáng rực rỡ, chói chang của mùa hè, soi tỏa vào trong chính trái tim đang sôi sục tuổi trẻ của nhà thơ.
Ánh sáng đó được ẩn dụ như hình ảnh “mặt trời”. Nếu như mặt trời thật đem lại ánh sáng ấm áp cho vạn vật, là nguồn sống cho muôn loài, thì “mặt trời chân lý”, mặt trời của Đảng xuất hiện đã xua tan màn sương mù tối tăm, đem lại một lẽ sống mới không chỉ cho chính tác giả, còn cho cả dân tộc Việt Nam, đang chìm đắm trong đói khổ với tư tưởng tiểu tư sản.
Tố Hữu đã sử dụng những động từ mạnh như “bừng, chói” để diễn tả một cách mạnh mẽ ảnh hưởng to lớn cho ánh sáng của Đảng khiến cho người cách mạng như bừng tỉnh sau những ngày tăm tối.
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Sự chuyển biến sâu sắc đó, như một sức mạnh kỳ diệu, nó được bắt nguồn từ chính con người tác giả khi được Đảng soi đường, chỉ lối. Khiến cho tâm hồn của người chiến sĩ trẻ như rộn ràng, tràn đầy sức sống. Nhà thơ đã so sánh nó như “một vườn hoa lá” với đủ sắc hương của đất trời, cả sự sống đang sinh sôi, nảy nở, nhảy múa hát ca, rộn ràng tiếng chim hót.
Dường như sau những ngày tăm tối, không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn thấy tương lai, cùng với khi huyết của tuổi trẻ mong muốn được thay đổi, được cống hiến cho đất nước đánh đuổi giặc ngoại xâm thì giờ đây khi có “mặt trời chân lý” của Đảng dẫn dắt làm cho tâm hồn nhà thơ trẻ lại, sục sôi ý chí đấu tranh, khơi dậy sức sống và cảm hứng sáng tạo mới cho tác giả
Ở khổ thơ thứ hai, từ sau khi gặp được chân lý của cuộc đời mình nhà thơ đã có những sự thay đổi đặc biệt trong nhận thức, trong con đường làm cách mạng của mình
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Trước khi được trở thành một nhà cách mạng, được giác ngộ lý tưởng mới thì Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Với tư tưởng tiểu nông hạn hẹp thì giờ đây nhà thơ đã có cách nhìn nhận mới trong suy nghĩ. Nhà thơ đã bỏ qua sự hẹp hòi của tư tưởng cũ, vượt qua những rào cản định nghĩ của giai cấp để thấu hiểu quần chúng khổ lao. Đây là không phải là sự ép buộc mà nhà thơ đã tự nguyện “buộc”, tự nguyện gắn mình với “mọi người”, với những tầng lớp bần cùng của xã hội.
Đem trái tim mình hòa cùng nhịp đập, cùng đau tiếng đau của đồng bào, cùng chia sẻ những mất mát, đắng cay ngọt bùi mà nhân ta đang chịu đựng. Nhà thơ mong muốn gây dựng những con người đang chịu cảnh nô lệ trở thành “khối đời” một khối thống nhất, như anh em ruột thịt, taọ nên một sức mạnh tập thể, không gì có thể đàn áp được
Bốn câu thơ cuối thể hiện rõ tấm lòng, sự đồng cảm của chính nhà thơ, lời khẳng định trong con đường làm cách mạng
Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ
Nhà thơ đã sử dụng điệp từ, cùng với những “con, em, anh”, như một sự khẳng định chắc chán sự gắn bó giữa mình với nhân dân lạo động. nhà thơ như một thành viên trọng gia đình của mọi tầng lớp trong xã hội. Tố Hữu hòa mình cùng với nhân dân. Nhà thơ tự nguyện làm “con của vạn nhà, em của vạn kiếp phôi pha, anh của vạn đầu em nhỏ”, nguyện mang cả cuộc đời mình để đem lại hạnh phúc cho những mảnh đời bất hạnh, những kiếp sống mòi mỏi trong tuyệt vọng, những đứa bé tội nghiệp.
Qua đó, ta còn cảm nhận được sự căm ghét sâu sắc trong lòng tác giả đối với những cảnh bất công trong xã hội, chính những mảnh đời đáng thương đó mà nhà thơ đi theo cánh mạng, đi theo tiếng gọi của tổ quốc, hăng say chiến đấu, hăng say sáng tác
Bài thơ là tiếng lòng, tiếng reo mừng sung sướng của không chỉ tác giả mà đại diện cho thế hệ trẻ của đất nước lúc bấy giờ khi tìm thấy lý tưởng của Đảng. Là sự nhận thức mới, cách nghĩ mới, đem tuổi trẻ cống hiến cho đời và cho tổ quốc.
Mời bạn tham khảo 🌠 Bình Giảng Từ Ấy 🌠 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Nghị Luận Từ Ấy Của Tố Hữu Hay Nhất – Mẫu 2
Bài văn nghị luận Từ ấy của Tố Hữu hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo đặc sắc để đạt kết quả cao cho bài viết nghị luận văn học về tác phẩm Từ ấy.
Chế Lan Viên từng nói “Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính… anh là con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp”. Không ai khác, Chế Lan Viên đang nói đến Tố Hữu – một nhà thơ của lí tưởng cộng sản, một nhà cách mạng yêu nước. Thơ ông luôn gắn liền với cách mạng, tiêu biểu là bài thơ Từ ấy trích tập thơ cùng tên được ông sáng tác năm 18 tuổi, năm ông ra nhập Đảng với niềm vui khôn xiết:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
“Từ ấy” là tên bài thơ, là tên tập thơ cũng là thời điểm trong đời Tố Hữu. Những năm trước cách mạng là “những ngày bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước, chọn một dòng để nước trôi” nhưng vào năm 1938, gặp Đảng là lúc tìm được ánh sáng. “Từ ấy” không còn chỉ là thời điểm vô danh trôi chìm trong quên nhớ đời người mà đã trở thành thời khắc thiêng liêng không thể lãng quên phai nhạt. Vào thời khắc ấy, trong hồn thi sĩ “bừng nắng hạ”. Hình ảnh nắng hạ thật chói chang khác cái nắng nhợt nhạt của mùa xuân, cái nắng hanh của mùa thu.
Những tia nắng hạ làm lá thêm xanh, hoa thêm ngát, trái thêm ngọt, đất trời thêm cao. Không những vậy, “nắng hạ” trong bài thơ cho ta nguồn sáng rất ấm, rất tươi của tinh thần, của linh hồn. Nó làm “bừng” sáng tâm hồn, bừng lên niềm vui, bừng dậy cả nguồn sống, bừng thức cả một miền kí ức thật đẹp đẽ. Ánh sáng ấy chỉ có thể là của mặt trời, đó là sự sống, hơi ấm bao la bất biến của vũ trụ. Đó là ánh sáng của “mặt trời chân lí” là ánh sáng của Đảng.
Niềm vui ấy không hề dừng lại, mà ngày càng tăng lên với các hình ảnh “vườn hoa lá”, “tiếng chim ca”,… mở ra cho người đọc đó là khu vườn xuân tươi mới tràn ngập sắc xanh của cây, hương thơm của hoa và những tiếng chim hót ríu rít tràn đầy sức sống. Vẻ đẹp tâm hồn, niềm vui của tác giả đã thoát khỏi ước lệ tượng trưng, nó tươi sáng trẻ trung có chút bồng bột say mê của chàng trai xanh tuổi trẻ lòng.
Câu thơ với kiểu định nghĩa rất mới mẻ viết bằng cảm xúc dạt dào mãnh liệt với các hình ảnh rất cụ thể khiến cho ta cảm nhận được niềm vui và say mê khi tác giả được kết nạp đảng. Nếu khổ thơ thứ nhất cho ta cảm nhận được niềm vui, sự say mê của tác giả thì đến khổ hai chính là những nhận thức mới về lí lẽ sống:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Khổ thơ với điệp ngữ kết hợp với nhịp thơ nhanh, trôi chảy, hơi thở liền mạch, giọng thơ sôi nổi thiết tha tràn đầy nhiệt tình nhiệt huyết.
Việc sử dụng động từ “buộc” thể hiện một lòng tự nguyện chan hòa lòng mình cùng mọi người, tác giả dường như muốn mình trải lòng cùng quần chúng nhân dân cần lao của bao kiếp người đau khổ. Đó là những trẻ em bán dạo, người ở, đầy tờ, những người nông dân khổ cực sớm hôm,… Tố Hữu với mong muốn đồng cảm, xót thương đoàn kết với những người dân ngoài kia mà mở hồn “trang trải” với “khối đời”. Có lẽ đó là một lẽ sống lớn, tình cảm lớn với mọi người.
Tiếp tục mạch cảm xúc là những biến chuyển trong tâm hồn thi sĩ và mong muốn tột cùng hòa mình với đời:
Ta đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ
Khổ thơ cuối là sự xuất hiện của tập thể với các cụm từ chỉ số lượng lớn “vạn nhà”, “vạn kiếp”, “vạn đầu” và đại từ “ta”, tác giả một lần nữa khẳng định tình cảm gắn bó của mình với mọi người, những người sống nghèo khổ, tuổi cao nhưng còn gánh nhiều nỗi cơ cực, những trẻ em thời ấy không có cơm ăn áo mặc, lang thang không nhà và tất cả mọi người trên thế gian này.
Đây là bước chuyển từ cái tôi sang cái ta rõ rệt nhất, tình cảm thay đổi cũng bắt nguồn từ nhận thức về lẽ sống, nó ập đến trong lòng tác giả như một mối duyên, có thể nói là mối duyên giữa thi sĩ và ánh sáng chân lí của Đảng. Đặt tác phẩm vào thời đại và bối cảnh bấy giờ năm 1938, thời điểm mà các nhà trí thức tiểu tư sản đang đề cao cái tôi cá nhân thì Tố Hữu đã có thể buông bỏ cái tôi để hòa mình cùng cái ta của thế gian. Điều này cho thấy sức mạnh to lớn của lí tưởng cách mạng đã cảm hóa con người, soi sáng đường đi cho họ, hướng họ về phía mặt trời.
Với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn, và chất trữ tình chính trị sâu sắc, thơ Tố Hữu đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho những thế hệ thanh niên yêu nước. Và bài thơ Từ ấy của ông truyền cho ta ngọn lửa, nhiệt huyết và khát vọng tuổi trẻ lớn lao.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Nghị Luận Bài Từ Ấy Ngắn Gọn – Mẫu 3
Trước những kỳ thi trên lớp, tác phẩm thơ Từ ấy luôn được các em học sinh quan tâm và ôn tập thật kỹ để làm bài nghị luận văn học. Tham khảo văn mẫu nghị luận bài Từ ấy ngắn gọn dưới đây:
Tố Hữu là nhà thơ lớn trong thời đại chúng ta. Với ông, con đường cách mạng cũng là con đường thơ. Năm 1938, mới 18 tuổi, nhà thơ được vinh dự trở thành người chiến sĩ cộng sản của Đảng. Bài thơ “Từ ấy” vang lên như một tiếng reo vui thể hiện niềm vui sướng tự hào của một thanh niên học sinh yêu nước bắt gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin.
Bài thơ đước viết theo thể thơ thất ngôn ca ngợi lí tưởng cách mạng và mang tên tình yêu giai cấp của người chiến sĩ trẻ. Khổ thơ mở đầu cất lên như một lời hát say mê, nồng nàn, vần thơ tràn ngập ánh sáng:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
“Từ ấy”, là từ thuở ấy (9-1938), nhà thơ vui sướng, hân hoan chào đón “Mặt trời chân lí chói qua tim”. Giữa những năm tháng nô lệ, lầm than, tủi nhục, người chiến sĩ trẻ cảm thấy được hồi sinh “bừng nắng hạ”. “Mặt trời chân lí” là hình ảnh ẩn dụ rất sáng tạo nói về ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lenin.
Lí tưởng cách mạng, lí tưởng cộng sản chủ nghĩa soi sáng nhận thức, mở mang tâm hồn trí tuệ, làm cho cuộc đời đầy sắc màu ý nghĩa. Lòng “tôi” và con đường cách mạng “bừng nắng hạ” chói chang, ấm áp. Trái tim “tôi” có “Mặt trời chân lí chói qua…”. Ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin soi rọi vào tâm hồn. Dưới ánh sáng lí tưởng, tâm hồn ” đẹp biết bao, dào dạt sức sống như một vườn xuân rực rỡ trong muôn sắc màu “hoa lá”, ngào ngạt “đậm hương” và “rộn tiếng chim” hót ca.
Ngoài nghệ thuật sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, so sánh, Tố Hữu đã chọn lọc một số từ có giá trị gợi tả và biểu cảm đặc sắc (bừng, chói, đậm, rộn) để ca ngợi lí tưởng và tình yêu lí tưởng. Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà thơ xứ Huế có nhiều vần thơ độc đáo, đậm đà:
“Khi ta đã say mùi hương chân lí
Đời đắng cay không một chút ngọt bùi
Đời đau buồn không một tiếng cười vui
Đời đen tối phải đi tìm ánh sáng”
(“Như những con tàu” – 1938)
Có thể nói, Tố Hữu là nhà thơ viết hay nhất về lí tưởng cách mạng bằng bút pháp lãng mạn tuyệt đẹp. Ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin thật vô cùng kì diệu. “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng” ( Aragông – Pháp). Yêu nước mà bắt gặp chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản đã giác ngộ tinh yêu giai cấp.
Khổ thơ thứ hai nói lên sự gắn bó với mọi người”, “với trăm nơi “với bao hồn khổ” với giai cấp” và nhân dân lao động nghèo khổ đang bị đế quốc, phong kiến bóc lột, áp bức dã man. Các từ ngữ: “buộc”, “trang trải”, “gần gũi” – biểu lộ sự gắn bó thiết tha với thế giới cần lao, với “khối đời” – khối công nông liên minh:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi vời bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”.
Người chiến sĩ trẻ, người thanh niên cộng sản trên con đường cách mạng quyết tâm chiến đấu và hi sinh để thực hiện lí tưởng cao cả, đã nhận thức một cách sâu sắc về tình yêu giai cấp: “Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”.
Hơn bao giờ hết, cái tôi đã chan hòa trong cái ta rộng lớn. Thân thiết và yêu thương, tự giác và tự nguyện, đông đảo và rộng lớn: “là con của vạn nhà”, “là em của vạn kiếp phôi pha”, “là anh của vạn đầu em nhỏ… Các từ: “là”, các số từ “vạn” được điệp lại ba lần làm cho lời ước nguyện thiết tha chân thành, thấm thía xúc động:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”.
Nhà thơ đã có một cách nói rất truyền cảm về tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Trái tim nhân ái cộng sản chủ nghĩa sáng bừng lên dưới “mặt trời chân lí”, dưới ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của Cách mạng.
Tố Hữu đã sáng tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và nhạc điệu để ca ngợi lí tưởng cách mạng và tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Tình cảm cao đẹp ấy được thể hiện một cách chân thành và say mê. “Từ ấy” là tiếng lòng của một hồn thơ đẹp, trẻ trung đã trở thành tiếng hát của hàng triệu con người hướng về Đảng và Cách mạng. Phân tích từ ấy ta càng cảm thấy một cách sâu sắc lời tâm sự của Tố Hữu: “Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin soi rọi vào tâm hồn tươi trẻ của mình”.
Xem nhiều hơn 🌹 Cảm Nhận Bài Thơ Từ Ấy 🌹 Bài Văn Cảm Nhận Hay Nhất
Nghị Luận Thơ Từ Ấy Học Sinh Giỏi – Mẫu 4
Tài liệu văn nghị luận thơ Từ ấy học sinh giỏi sẽ mang đến những góc nhìn và phân tích chuyên sâu về tác phẩm này. Mời các em học sinh tham khảo dưới đây để hoàn thiện bài viết nghị luận Từ ấy một các tốt nhất.
Tố Hữu ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tiếng thơ của ông mang đậm chất trữ tình, chính trị. Cả đời thơ Tố Hữu dường như chỉ ca ngợi Đảng, Bác Hồ và nhân dân Việt Nam. Đọc thơ ông ta thấy từng sự kiện lịch sử được hiện lên, trong đó một mốc son quan trọng đánh dấu cuộc đời cách mạng nhà thơ là khi ông chính thức được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Bài thơ “Từ ấy” đã chân thành ghi lại cảm xúc vui tươi, sung sướng và lời tâm nguyện của người thanh niên yêu nước được giác ngộ lí tưởng cách mạng.
Bài thơ mở đầu cho con đường cách mạng và con đường thi ca của Tố Hữu được rút ra ở tập thơ “Từ ấy”_tập thơ đầu tay của Tố Hữu là tiếng hát say mê, trong trẻo của người thanh niên cộng sản. Tập thơ gồm ba phần: máu lửa, xiềng xích và giải phóng.“Từ ấy”nằm trong phần máu lửa.
Trước khi bắt gặp ánh sáng cộng sản Tố Hữu cũng như biết bao người thanh niên trí thức Việt Nam mịt mờ không lí tưởng, không xác định được hướng đi cho mình. Đúng như ông đã từng nói trong bài thơ “Nhớ đồng”:
“Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời”
Nhưng kể từ khi được giác ngộ lí tưởng, tham gia vào Đảng 7/1938 “Từ ấy” nhấn mạnh mốc thời gian trong đời, “mốc son đáng nhớ trong tâm hồn người thanh niên tuổi mười tám đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống dám làm dám đấu tranh”. Mở ra cho tác phẩm là tâm trạng vui tươi, sung sướng của tác giả khi được ánh sáng của Đảng soi đường:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
“Nắng hạ”, “mặt trời” là các hiện tượng tự nhiên được nhà thơ nhắc đến với một niềm thành kính thiêng liêng. Nắng hạ và mặt trời là hai nguồn sáng ấm nóng, rực rỡ, bất diệt chiếu sáng cho mọi nguồn sống của vạn vật trên trái đất. Hình ảnh ấy được sử dụng theo lối ẩn dụ để chỉ ánh sáng cách mạng của Đảng.
Tác giả sử dụng các động từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, “chói” chỉ ánh sáng xuyên mạnh, có ấn tượng với người tiếp nhận. Cũng như vậy lí tưởng cộng sản như ánh sáng chói lòa, bất ngờ đến xóa tan đi màn đêm tăm tối trong tư tưởng của những tháng ngày vô nghĩa mà nhà thơ đã trải qua. Tố Hữu nhận thức điều đó không chỉ bằng lí trí mà còn cảm nhận bằng trái tim của người chiến sĩ. Để giờ đây tác giả cảm thấy:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Ở đây tác giả có sử dụng phép so sánh ngầm không dừng từ “như” thay vào từ “là”. Tố Hữu lột tả niềm vui sướng tột cùng sự say mê mãnh liệt trong tâm hồn, hạnh phúc của bản thân khi đón nhận lí tưởng của Đảng. Nó như phép nhiệm màu làm xanh tươi lại khu vườn tâm hồn của tác giả. Khu vườn ấy giờ đây nơi ấy tràn đầy sức sống có sắc màu, có hương thơm hoa lá, có tiếng reo vui của chim ca. Niềm vui như hòa vào tiếng chim để rồi nhà thơ thấy “Nhẹ nhàng như con chim cà lơi/ Say đồng hương nắng vui ca hát”.
Tố Hữu đã từng viết: “Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin soi rọi vào tâm hồn tuổi trẻ của mình”. Tố Hữu đã cất lên tiếng nói, tiếng hát, sự cảm nhận chung cho các thanh niên trí thức bấy giờ. Đó là âm điệu ca hát cho lí tưởng cách mạng. Như vậy khổ thơ đầu chính là niềm vui, hạnh phúc và lòng biết ơn Đảng đã khai sáng cho tâm hồn mở ra cho ông và biết bao người thanh niên khác những nhận thức mới mẻ.
Sau những phút giây được chắp cánh bởi lí tưởng cộng sản nhà thơ chân thành bộc bạch suy nghĩ, nhận thức mới mẻ của bản thân về sự nghiệp cách mạng:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Khác với nhận thức của nhân vật Hạ Du trong tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn. Người chiến sĩ cách mạng xa rời quần chúng nhân dân để rồi nhận lại bi kịch cho cái chết. Còn Tố Hữu cũng như Đảng cộng sản ta luôn hướng về nhân dân, gắn bó với quần chúng.
Bác Hồ từng khuyên cán bộ đảng viên “Phải từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng” chính vì vậy Tố Hữu “buộc lòng tôi với mọi người” từ “buộc” cho thấy ý thức tự nguyện, tinh thần gắn bó “cái tôi” cá nhân với “cái ta” chung cộng đồng, để cho tâm hồn nhà thơ trải rộng ra với cuộc đời, với nhân dân trên khắp mọi miền Tổ quốc cũng là ý thức trách nhiệm gánh vác việc đời.
Tố Hữu luôn luôn gần gũi, đồng cảm và sẻ chia khổ đau, bất hạnh với những “hồn khổ” của dân tộc. Hồn khổ ấy là “Em bé mồ côi”, là “Lão đầy tớ”, là “Chị vú em”… và biết bao nhiêu hoàn cảnh cơ cực trên đất Việt. Càng đồng cảm bao nhiêu thì nhà thơ càng căm hờn kẻ đã gây ra tội ác, đẩy nhân dân vào cảnh lầm than, cơ cực bấy nhiêu, càng thôi thúc nhà thơ gắn bó và chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc.
Tố Hữu đã từng nói: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là một. Nên cũng là vô số” để “Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”. Khối đời là hình ảnh ẩn dụ chỉ những người có chung hoàn cảnh, chung lí tưởng cách mạng cũng là để chỉ tinh thần đoàn kết của đồng bào Việt Nam, mỗi người cán bộ, chiến sĩ, mỗi người dân cùng chung tay làm nên sức mạnh của toàn dân tộc, là tinh thần yêu nước của nhân dân ta đã nhấn chìm lũ bán nước và cướp nước.
Khổ thơ đã cho thấy sự thay đổi trong nhận thức của tác giả khi được ánh sáng của Đảng soi đường, cũng thể hiện niềm tin, niềm hạnh phúc vào khối đời dân tộc, vào con đường cách mạng nước nhà. Tố Hữu đã từng cất lên tiếng hát ngợi ca Bác và lí tưởng của Đảng:
“Từ vô vọng mênh mông đêm tối
Người đã đến chói chang nắng dọi
Trong lòng tôi. Ôi Đảng thân yêu
Sống lại rồi. Hạnh phúc biết bao nhiêu”
Từ những nhận thức mới mẻ sâu sắc ấy trong tư tưởng người thanh niên trẻ tuổi đã có sự chuyển biến về tình cảm, từ số phận của trí thức tiểu tư sản chuyển sang người trí thức cộng sản. Giờ đây tác giả tự đặt mình vào trong gia đình dân tộc Việt Nam bằng tình cảm ruột thịt chân thành:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”
Nhà thơ đã xác định mình là thành viên của “vạn nhà”. Cách sử dụng điệp từ “là”, “của” kết hợp với các danh xưng “con”, “em”, “anh” và hàng loạt các từ chỉ số lượng nhiều: “vạn nhà”, “vạn kiếp”, “vạn đầu” nhà thơ bộc lộ tình cảm của mình gắn bó với nhân dân như anh chị em ruột thịt trong gia đình, đó là tình hữu ái giai cấp, yêu thương dành cho những con người đồng khổ. Ông đã từng viết:
“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau”
Hay nhà thơ đã từng lột tả niềm vui sướng chân thành của mình khi được trở về với nhân dân trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”:
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
Như vậy ta có thể thấy được tình cảm gắn bó sâu sắc của nhà thơ cách mạng với quần chúng nhân dân Việt Nam. Chính điều đó làm cho thơ ông thật gần gũi, thân thương.
Cả cuộc đời “Tố Hữu vừa làm cách mạng vừa làm thơ, làm thơ để làm cách mạng, và làm cách mạng để làm giàu nguồn cảm hứng cho thơ”. Lí tưởng cách mạng có sức ảnh hưởng, có sự cảm hóa mãnh liệt đối với Tố Hữu cũng như bao nhà thơ lãng mạn khác. Như ta từng biết Tố Hữu xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản nên cái tôi cá nhân rất cao với lối sống ích kỉ nhưng ông đã vượt qua được rào cản giai cấp để hòa mình vào cái ta chung của cộng đồng. Mỗi một tác phẩm của ông là một sự kiện cách mạng được ghi dấu đúng như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Mỗi một nhà thơ cách mạng cũng phải là một người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng và Tố Hữu ngay từ khi mới vào mặt trận ấy đã dành được vị trí vững chắc xứng đáng là “Một viên ngọc trong nền văn học Việt Nam”.
“Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ. Thơ ông thường chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng bừng ca ngợi cách mạng”. “Từ ấy” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, là tuyên ngôn về lí tưởng cách mạng, là tiếng hát trong trẻo của người thanh niên ở năm những năm mười tám đôi mươi sung sướng, hạnh phúc khi được giác ngộ bởi ánh sáng của Đảng cùng với những nhận thức và sự vận động mới mẻ trong tình cảm của người chiến sĩ cộng sản.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Bài Thơ Từ Ấy Tố Hữu 🌼 Nội Dung Và Cảm Nhận
Nghị Luận Văn Học Từ Ấy Đặc Sắc – Mẫu 5
Tham khảo bài nghị luận văn học Từ ấy đặc sắc dưới đây với những ý văn phân tích và cảm nhận hay sẽ giúp các em học sinh nắm vững phương pháp nghị luận văn học nói chung và kiến thức về tác phẩm Từ ấy nói riêng.
Tố Hữu là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam với phong cách thơ ca đậm chất trữ tình chính trị. Ông đã để lại những tác phẩm vô cùng đặc sắc, một trong số đó là “Từ ấy”- một bài thơ có ý nghĩa to lớn trong cuộc đời cũng như trong sự nghiệp của tác giả. “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác trong niềm hạnh phúc, vui sướng để đánh dấu mốc qua trọng trong cuộc đời của chính mình.
Mở đầu bài thơ, “từ ấy”- nhan đề của tác phẩm đã được lặp lại:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim.”
“Từ ấy”- một trạng từ chỉ thời gian, nó được dùng làm nhan đề và được nhắc lại trong câu thơ đầu của bài thơ đã khẳng định đó là một thời điểm vô cùng quan trọng trong cuộc đời của tác giả. Tại thời điểm đó, một dấu mốc đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng của tác giả. Đó là khi tác giả được giác ngộ Cách mạng, giác ngộ lý tưởng Cộng sản, đồng thời được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương – một bước ngoặt đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất trong cuộc đời.
Để rồi cả tâm hồn của tác giả “bừng nắng hạ” – một thứ ánh sáng vô cùng mạnh mẽ, chói rực hấp dẫn người thanh niên. “Mặt trời chân lý”- hình ảnh ẩn dụ thật sâu sắc. Nó là chân lý của Đảng của Mác Lê-nin đã chiếu sáng trái tim, con người của tác giả, mở ra một con đường mới cho cuộc đời.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”
Nắm bắt được chân lý, tác giả như tìm được chính mình. Mọi tâm tư tình cảm của tác giả đều là niềm vui sướng và hạnh phúc. Tố Hữu dùng biện pháp so sánh, so sánh tâm hồn tác giả như một vườn hoa. Hình ảnh vườn hoa – một tâm hồn thật tươi mới và đẹp, rung động lòng người với mùi hương thơm của những bông hoa rực rỡ cùng với tiếng chim rộn ràng đầy sức sống. Đó quả là một tâm hồn lớn mà vô cùng trong sáng, giản dị của chàng thanh niên 18 tuổi đầy nhiệt huyết.
Đến khổ thơ thứ hai, sự nhận thức về lẽ sống mới của tác giả được khắc họa đậm nét:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.”
Tố Hữu sử dụng động từ mạnh “buộc”, ông muốn nhấn mạnh cá nhân mình cùng với mọi người xung quanh phải thành một khối đoàn kết. Trên mảnh đất Việt Nam hình chữ S xinh đẹp với bao con người, nhiều dân tộc khác nhau sống trên mọi miền lãnh thổ, tác giả đã tự “buộc” mình với “mọi người” để cho tình cảm của mình “ trang trải đến trăm nơi”.
Tác giả đã tự nguyện gắn kết mình với những con người lao khổ, ông muốn chia sẻ, chung sống, hiểu rõ hơn về cuộc sống họ phải trải qua, ông đồng cảm với những số phận bất hạnh để từ đó mọi người đều có thể hiểu nhau hơn và giúp đỡ lẫn nhau. Một lẽ sống mới đã được đúc kết ra trong tâm hồn của tác giả đó là sự gắn kết cái tôi với cái ta chung của mọi người.
Và đặc biệt, khi mọi người có tinh thần đoàn kết, tinh thần tương thân, tương ái, che chở cho nhau thì sẽ giúp cho “mạnh khối đời”. “Khối đời” – hình ảnh ẩn dụ cho một cộng đồng con người có chung cảnh ngộ, “khối đời” chỉ “mạnh”, khi mọi người “gần gũi” cùng nhau vượt qua khó khăn – một lẽ sống đầy triết lý đã in sâu trong trái tim của chàng thanh niên.
Lý tưởng của Đảng như mặt trời chiếu những ánh sáng xua tan những bóng tối u khuất trong tư tưởng của tác giả, và tại khoảnh khắc “từ ấy” trong tình cảm của “cái tôi” đã có sự chuyển biến rõ rệt.
“Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.”
Trái tim của tác giả được chiếu sáng bởi “mặt trời chân lý”, Tố Hữu đã dần khẳng định vai trò của mình trong cuộc đời . Điệp từ “là” được lặp lại ba lần và đứng hai lần ở đầu câu như càng muốn nhấn mạnh thêm vị trí của mình trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tác giả đã là “con của vạn nhà”, là em của “vạn kiếp phôi pha”, là anh của “vạn đầu em nhỏ”. Cuộc sống giờ đây của chàng thanh niên không phải sống vì chính mình nữa, mà sống vì mọi người.
Tình cảm của Tố Hữu thật sâu sắc bởi ở đây đã có sự chuyển đổi trong cách xưng hô từ tôi sang “con, em, anh”. Tất cả mọi người giờ đây, đặc biệt là những mảnh đời bất hạnh, đầy khó khăn đều được tác giả chân trọng và yêu quý, coi như anh em ruột thịt trong gia đình. Nếu như trước kia, khi còn thuộc tầng lớp tư sản có trong mình cái tôi cá nhân ích kỷ hẹp hòi thì từ khoảnh khắc “từ ấy”, Tố Hữu đã thoát ra cái tôi đó và sống hoà mình trong cái ta chung để liên kết các giai cấp trong xã hội.
“Từ ấy” là một bài thơ thật hay và xúc động. Các biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, điệp từ đã được sử dụng rất thành công kết hợp với những hình ảnh đầy tươi mới (vườn hoa lá, hương thơm, tiếng chim). Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình mà đậm chất trữ tình chính trị.
Ánh sáng rực rỡ của Cộng sản đã mang đến niềm hạnh phúc, vui sướng cho tác giả. Từ đó, chàng thanh niên trẻ tuổi ấy đã nhận ra sứ mệnh của cuộc đời mình. Phân tích Từ ấy, chúng ta có thể cảm nhận đượ sự ý chí, nhiệt huyết sẽ mãi nằm trong trái tim của những người con của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới
Văn Nghị Luận Từ Ấy Đạt Điểm Cao – Mẫu 6
Để viết bài văn nghị luận Từ ấy đạt điểm cao, các em học sinh cần trau dồi cho mình một văn phong nghị luận hay, chặt chẽ và các những kiến thức sâu sắc về tác phẩm Từ ấy.
Tố Hữu là nhà thơ lớn, gần gũi với bao thế hệ người Việt Nam. Thơ Tố Hữu có sức sống lâu bền trong lòng bạn độc bởi chất men say của lí tưởng cao cả của tình yêu thương chân thành cho con người, của niềm tin bất diệt vào tương lai. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại giây phút mê say của nhà thơ khi bắt gặp ánh sáng của Đảng soi đường. Đó không chỉ là cảm xúc vui sướng, phấn khởi mà còn là phẩm chất cao đẹp của người cộng sản muốn hoà nhập và cống hiến hết mình áo cuộc đời.
Mỗi người đều có những giây phút trọng đại, thiêng liêng trong cuộc đời. Với người mẹ đó là khi đứa con yêu ra đời và bập bẹ biết nói, biết đi. Với người yêu nhau là khi họ bắt gặp nhau lần đầu liên đã tưởng chừng như quen biết tự bao giờ. Nhà thơ Xuân Diệu từng có giây phút đó:
Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi
Còn riêng Tố Hữu, hạnh phúc nhất là lúc nhận ra con đường đi đúng đắn của mình, bắt gặp ánh sáng lí tưởng của Đảng. Đó là cái mới đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời người thanh niên yêu nước đầy nhiệt tình, hăm hở. Tố Hữu vào Đảng khi còn rất trẻ – mười bảy tuổi, vậy mà mối duyên với cách mạng sớm đưa lại những đổi thay kì diệu về tình cảm và tâm hồn, nhận thức:
Từ ấy trong tôi bừnq nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Từ ấy đặt ngay đầu bài thơ như bức tường vạch chia ranh giới rõ ràng giữa hai khoảng thời gian. Thời gian cuộc đời của nhà thơ tự phân làm hai nửa trước và sau Từ ấy cho chúng ta sự khác biệt trong một con nsười. Trước Từ ấy, cuộc sống bế tắc không lối thoát, cô đơn tuyệt vọng chán chường:
Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi dòng quanh quẩn
Muốn thoát than ôi, bước chẳng rời.
(Nhớ đồng)
Đó không phải là tâm trạng của riêng minh nhà thơ mà là chúng cho cả một hệ trẻ lúc bấy giờ vừa rời ghế nhà trường liền va đập ngay với những cảnh trớ trêu. Họ bi quan, không xác định cho mình một hướng đi, hay một lí tưởng dứt khoát Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, Chọn một dòng hay để nước trôi đi. Từ ấy khép lại chuỗi ngày dằn vặt, đau khổ, bóng tối, mở ra một cuộc sống đầy hứa hẹn. Nó toát lên từ sức sống mạnh mẽ bên trong, từ sự thức tỉnh kì diệu.
Tố Hữu ghi lại giây phút đổi thay ấy bằng những hình ảnh giàu tính hình tượng bừng nắng hạ, thứ ánh nắng sáng tươi, rực rỡ chiếu soi tỏ khắp nơi đặc biệt soi sáng cả những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn, trí tuệ, nhận thức Mặt trời chân lí là hình ảnh ẩn dụ chỉ lí tưởng Đảng, nó có sức mạnh vừa cảm hoá, lay động vừa thức tình không chỉ nhận thức, lí trí mà cả tình cảm, con người của nhà thơ.
Dường như có một cuộc đổi thay nhanh chóng giống như người đang sống trong đêm tối, tâm hồn khô kiệt bỗng chốc đèn pha bật sáng như ngày mai lên, mọi vật hiện ra, rõ ràng đến từng chi tiết và cảm xúc nảy sinh. Niềm vui sướng thật sự đang trào khi tâm hồn nhà thơ có cuộc sống mới tươi vui, rộn rã:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Hình ảnh so sánh hồn tôi – vườn hoa lá diễn tả quá đầy đủ về cuộc sống, sức sống dào dạt, sinh sôi. Những xao xuyến, hứng khởi trong tâm hồn sâu kín nhà thơ được phơi trải ra thật sông động. Đó là cuộc sống đầy màu sắc, am thanh và mùi vị, có màu xanh yên bình của lá, của hoa, có mùi thơm của hoa và tiếng chim rộn ràng. Tất cả những âm vang của cuộc sống được nhà thơ chắt lọc đẻ nuôi dưỡng sức sống của tâm hồn người. Nó được đẩy đến ngưỡng cao nhất .
Bằng việc sử dụng các tính từ chỉ mức độ như bừng, chói, rất, đậm, rộn Tố Hữu cho thấy sự say mê, ngây ngất của người chiến sĩ cộng sản khi bước theo ánh sáng lí tưởng đời mình. Ghi lại bước chuyển quan trọng trong đời nhưng nhà thơ không lên gân, vẫn giọng thơ nhẹ nhàng dứt khoát mà thấm đẫm cảm xúc vui tươi, tha thiết như mạch sống lan tỏa khắp nơi và ngay cả nơi sâu kín nhất.
Từ ấy là sự đánh dấu một cuộc đổi đời, cao hơn là sự hồi sinh của một con người. Từ đây, sức sống đó sẽ được nhân lên mạnh mẽ, tâm hồn sẽ như một vườn hoa lá: trong sáng, hồn nhiên:
Rồi một hôm nào tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời.
Sau những phút giây sung sướng nhận ra lí tưởng cao cả cần đi, người chiến sĩ cộng sản phải xác định một tâm thế, một hành động cho xứng đáng. Đó trước hết là ý thức trách nhiệm trước cuộc đời. Nhà thơ thay lời cái tôi chiến sĩ nói lên tâm nguyện, khái vọng ấy:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Con người cá nhân đến đây đang tan biến dần nhường chỗ cho cái tôi rộng lớn – cái tôi hướng đến cuộc đời và mọi người. Những ích kì, hẹp hòi ngăn cách cái tôi đến với mọi người không còn nữa, con đường hoà nhập rộng mở thênh thang. Làm được điều đó không phải dễ dàng, cần phải đấu tranh, cân nhắc, lựa chọn bằng ý thức trách nhiệm xuất phát từ sự chân thành, tự nguyện.
Tôi – nhà thơ tự buộc lòng mình với mọi người. Đó là thái độ dứt khoát, mạnh mẽ xác định bởi lí trí sáng suốt. Mối dây ràng buộc với mọi người đã xoá bỏ sự đối lập chất chứa, đầy căm phẫn ngự trị trong tâm hồn tôi trước đây đồng thời thiết lập tình yêu thương, gắn kết giữa người và người. Đó là sự cảm thông, chia sẻ trước nỗi đau, vui buồn của bao kiếp người.
Tinh thần tự nguyện buộc để tạo nên khối đời, gần gũi, mạnh mẽ là mục đích cuối cùng nâng cao phẩm chất của người cách mạng. Tình nhân ái làm cho mỗi người hoà vào cuộc đời chung trở thành con người đúng theo nghĩa của nó.
Khổ thơ cuối tiếp tục nhấn mạnh ý thức trách nhiệm của con người cụ thể trước cuộc đời rộng lớn:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.
Ba từ là xuất hiện liên tiếp trong đoạn thơ như lời khẳng định chắc nịch, rắn rỏi, dứt khoái cho sự hoà nhập tuyệt đối. Người chiến sĩ đã ở giữa đời và mọi người rất khiêm tốn mà không làm mất đi vẻ tự nhiên vốn có, là con của gia đình, là em của kiếp đời phôi pha, là anh của các em thơ nghèo khổ, đói cơm rách áo. Khối đời to lớn ở đây được tạo bởi từng số phận với những cảnh ngộ riêng là em Phước trong bài Đi đi em sớm chịu cảnh nô lệ, cả người vú em để con mình đói khát phải đi chăm con người và biết bao người khác nữa.
Nhà thơ bắt gặp cuộc đời mình trong những mảnh đời cơ cực ấy, số từ được sử dụng tăng dần từ một, mọi, trăm, khối, vạn như mở rộng khối đời đồng thời kết nối tình cảm yêu thương gắn bó giữa họ, ở đó không còn là sự cảm thông mà cao hơn nhà thơ tự thấy mình là thành viên của gia đình rộng lớn phải truyền cho họ tình yêu và trách nhiệm trước số phận của mình. Phải chiến đấu để đem lại cuộc sống tốt hơn cho gia đình, cho mọi người và dìu dắt, bảo ban những em thơ.
Đến đây phẩm chất của người cách mạng được soi sáng. Tâm hồn, nhận thức, quan hệ đều được soi chiếu nhờ ánh sáng lí tưởng Đảng. Không có sự tri nghiệm, người cộng sản – nhà thơ không thể có những đổi thay lớn lao như vây. Từ ấy là bản đàm đạo khúc vui đầu tiên của người cộng sản khi gặp lí tưởng của Đảng. Đó là lúc tâm hồn được hồi sinh, trí tuệ bừng sáng, nhận thức trách nhiệm lớn lao với cuộc đời.
Thơ Tố Hữu hay khi kết hợp sâu sắc lí tưởng cộng sản, tình thương yêu con người và niềm vui hướng về tương lai. Từ ấy đã đã kết tinh cái hay ấy và tạo nên sức hút lớn đối vđi những con người chân chính đã và đang đi theo lí tưởng của mình. Nhà thơ khơi lên lòng nhiệt huyết, quyết của biết bao thế hệ để họ hôm nay và mai sau thực hiện ước nguyện xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Từ Ấy 🌹 10 Bài Văn Mẫu
Bài Văn Nghị Luận Từ Ấy Chọn Lọc – Mẫu 7
Bài văn nghị luận Từ ấy chọn lọc sẽ là một trong những tư liệu văn mẫu hay để các em học sinh tham khảo và mở rộng những cảm nhận, phân tích trong bài viết nghị luận văn học về tác phẩm Từ ấy của mình.
Trong lịch sử văn học cách mạng nước nhà, thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử và đã đi vào lòng người như thơ Tố Hữu trong thế kỷ 20. Tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào những vần thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng.
Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí.
“Dù ai thay ngựa giữa dòng
Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi
Vẫn là ta đó những khi
Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi”
Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua 6 tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng, Máu
Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói ” Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lê Nin trong ngày hội lớn của cách mạng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
“Từ ấy” là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng. Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”.
Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ, như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc. Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu” bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.
Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng
Ta đi tới chỉ một đường cách mạng
Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:
Mặt trời chân lí chói qua tim
Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tuởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.
Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại:
Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại :”hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót.Ở đây hiện thưc và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ.
Nếu khổ đầu là một tiếng reo vui phấn khởi thì khổ thứ hai và thứ ba là bản quyết tâm thư của người thanh niên cộng sản nguyện hòa cái tôi nhỏ bé của mình vào cái ta chung rộng lớn của quần chúng nhân dân cần lao.Người đọc thật sự cảm động bởi thái độ chân thành thiết tha đến vồ vập của một nhà thơ vốn xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản tự giác và quyết tâm gắn bó vớI mọi người:
Tôi buộc hồn tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi bên nhau thêm mạnh khối đời.
“Buộc” và “trang trải”là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng nó đều nằm trong nhận thức mới về lẽ sống của Tố Hữu. “Buộc” là đoàn kết gắn bó, tự nguyện gắn bó đời mình với nhân dân cần lao, với hết thảy nhân dân lao động Việt Nam
Để tình trang trải với trăm nơi
Xác định vị trí của mình là đứng trong hàng ngũ nhân dân lao động chưa đủ, Tố Hữu còn biểu hiện một tinh thần đoàn kết, tình cảm nồng thắm, chan hòa với nhân dân.Tình yêu người, yêu đời trong Tố Hữu đã nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.Nhà thơ muốn được như Mác: “Vì lẽ sống, hy sinh cho cuộc sống – Đời với Mác là tình cao nghĩa rộng”, mong ước xây dựng một khối đời vững chắc làm nên sức mạnh quần chúng cách mạng. Từ đó Tố Hữu đã thể hiện niềm hãnh diện khi được là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình những người nghèo khổ bất hạnh:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bấc cù bơ.
Tố Hữu nguyện sẽ đứng vào hàng ngũ những người “than bụi, lầy bùn”là lực lượng tiếp nối của “vạn kiếp phôi pha”, là lực lượng ngày mai lớn mạnh của “vạn đầu em nhỏ”,để đấu tranh cho ngày mai tươi sáng.Điệp từ “là” được nhắc đi nhắc lại, nó vang lên một âm hưởng mạnh mẽ lắng đọng trong tâm hồn ta một niềm cảm phục, quý mến người trai trẻ yêu đời, yêu người này.
Với một tình cảm cá nhân đằm thắm, trong sáng, “Từ ấy” đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng.
Bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu là một bài thơ vừa có tính triết lý sâu sắc, vừa rất gần gũi, bình dị, thân thuộc. Sau mấy chục năm đọc lại, những vần thơ đó vẫn là một câu hỏi thấm thía mà những người cộng sản hôm nay không thể không suy ngẫm một cách nghiêm túc để tự mình tìm ra lời giải đáp thấu đáo. Giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng – tập thể và cá nhân, giữa vật chất tầm thường và tinh thần – tư tưởng của người cộng sản.
Cả cuộc đời Tố Hữu đã hiến dâng cho tổ quốc, cho Đảng và nhân dân. Khi biết sắp phải đi xa, ông cũng chỉ nghĩ là về một nơi mà ta vẫn gọi là “cõi tạm”. Ông mong muốn tiếp tục được hiến dâng:
Tạm biệt đời ta yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ, một nắm tro.
Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất
Sống là cho. Chết cũng là cho.
Bởi thế, con người, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng và thi ca của Tố Hữu luôn sống mãi trong niềm tin yêu, kính trọng của Đảng và nhân dân..
Khám phá thêm 🍀 Thơ Tố Hữu 🍀 Tuyển Tập Trọn Bộ Những Bài Hay Nhất
Văn Mẫu Nghị Luận Từ Ấy Nâng Cao – Mẫu 8
Đón đọc bài văn mẫu nghị luận Từ ấy nâng cao dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những ý tưởng làm bài đặc sắc. Từ đó các em học sinh có thể nắm vững tác phẩm Từ ấy cũng như các đề nghị luận văn học xoay quanh tác phẩm này.
Lý tưởng Cách mạng là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho dân tộc ta, dẫn cả đất nước ta qua đêm trường đen tối. Và đối với người thanh niên trẻ Tố Hữu, lí tưởng ấy đã cho ông một nguồn sống mới, dạt dào, mạnh mẽ, chiếu rọi lên trái tim còn đang bơ vơ của ông. Và “Từ ấy” ra đời như một kết quả tất yếu, đánh dấu lại trang đời bước sang trưởng thành của người thanh niên Cách mạng, đồng thời nó còn là tiếng reo vui, hân hoan mà rộn rã Tố Hữu được lần đầu tiên đứng trong hàng ngũ của Đảng.
“Từ ấy” được sáng tác năm 1938, in trong tập thơ đầu tay của ông. Cả tập thơ là tiếng ca mừng reo vui chân thành, háo hức, đầy nhiệt thành của người thanh niên Cộng sản. Tập thơ gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng. Bài thơ “Từ ấy” được trích trong phần đầu “Máu lửa”, cả bài thơ là những dòng cảm xúc của Tố Hữu khi lần đầu tiên cảm nhận được lý tưởng lớn lao, niềm tự hào đứng trong hàng ngũ Cách mạng, đánh dấu cột mốc quan trọng nhất trong cuộc đời của ông.
Về nhan đề “Từ ấy”, đây chỉ là một từ ngữ phiếm chỉ của thời gian, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong đời Tố Hữu, đánh dấu sự trưởng thành trong sự nhận thức cũng như tình cảm của ông. Nó cũng diễn tả niềm vui, cảm xúc, sự rung động, biến đổi khó quên nhất trong tâm hồn của ông để giây phút ấy, ông chỉ có thể nghẹn ngào, thốt lên hai tiếng “từ ấy”. Chính mốc thời điểm ấy đã tạo nên bước chuyển biến mới lạ, tươi sáng trong tâm hồn và hồn thơ của chàng thanh niên mười tám tuổi – Tố Hữu.
Tố Hữu xuất thân từ một chàng trai tiểu tư sản, con của một nhà nho nghèo, sống tại Huế. Có thể vì vậy mà đến năm mười hai tuổi, khi được ra học tại Quốc học Huế, được tiếp xúc với tư tưởng Mác – Lênin cùng với tư tưởng của Đảng Cộng Sản mà ông mới được tìm hiểu và được tiếp xúc với lý tưởng Cách mạng . Tới năm mười tám tuổi, khi được chính thức đứng trong hàng ngũ cao quý của Đảng, Tố Hữu mới hiểu rõ, lý tưởng Cách mạng đã thay đổi cuộc đời ông thế nào, để rồi từ đó, ông vui mừng, rộn rã mà thốt lên rằng:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
Niềm vui mừng khôn xiết khiến cho Tố Hữu không nói lên lời, ông vui sướng, say mê khi lần đầu tiên bắt gặp lý tưởng Cách mạng, ông ngập ngừng lên tiếng “từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”. “Từ ấy” là lúc nào? Phải chăng là lúc nhà thơ vừa tròn mười tám tuổi, cái tuổi còn chông chênh, chưa hiểu được cuộc đời, chưa rõ phải bước đi về đâu, như ông đã viết trong “Dậy lên thanh niên” rằng:
“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi”.
Cái “bâng khuâng” mơ hồ ấy của người thanh niên trẻ đã được ánh sáng của lý tưởng cộng sản chiếu tới, để rồi “từ ấy”, trong lòng ông bừng lên một thứ ánh sáng khác lạ, tươi tắn, rạng rỡ “nắng hạ”. Hình ảnh “nắng hạ” là một ẩn dụ cho nguồn năng lượng mới mẻ, thứ ánh sáng chói lòa mà lý tưởng đã làm bừng cháy trong tâm hồn cả Tố Hữu. Nguồn nắng hè ấy chiếu rọi lên tâm hồn còn đang bơ vơ của ông, sưởi ấm nó, dẫn nó tới một con đường đúng đắn.
Hơn thế, Tố Hữu còn ví von lý tưởng Cách mạng như một “mặt trời chân lý”. Đây là từ ngữ liên kết vô cùng sáng tạo trong cả hình ảnh và ngữ nghĩa. Lý tưởng Cộng sản là một nguồn sáng cao đẹp nhất, rực rỡ nhất, như ánh mặt trời soi tỏ thế gian, như một chân lý không bao giờ thay đổi. Ở đây, người ta như thấy một sự rưng rưng, đầy biết ơn của Tố Hữu dành cho nguồn lý tưởng rực rỡ ấy. Từ trong tăm tối, Tố Hữu bước ra ngoài ánh mặt trời chói chang, tận hưởng nó bằng tất cả tình yêu, niềm hạnh phúc, biết ơn.
Ông cũng liên tục sử dụng các động từ mạnh như “bừng, chói” để diễn tả cảm giác khi được ánh sáng Cách mạng soi sáng đường đời. Những động từ này thể hiện sự đột ngột, bất ngờ, như chính tác giả cũng được chiếu rọi một cách bất ngờ như thế, đồng thời nó nhấn mạnh sự thay đổi hoàn toàn, mạnh mẽ, quyết liệt trong tâm hồn của nhân vật thơ.
Hai câu thơ đầu như một lời kể tự sự vừa du dương lại đầy tình cảm chân thành, đặc biệt là câu thơ “mặt trời chân lí chói qua tim”. Người ta cũng nhận thấy có một sự đột ngột khi người thanh niên trẻ tuổi được lý tưởng cách mạng soi đường và thêm nữa là cái tác động mạnh mẽ của nó lên trái tim, cảm xúc, tâm hồn nhà thơ. Nhà thơ đã nhấn mạnh sự tác động của lý tưởng đó lên mặt nhận thức của mình, cũng như trên phương diện tâm hồn, tình cảm, để từ đó, trái tim nhà thơ được sưởi ấm, được chiếu sáng rạng ngời.
Tiếp theo, Tố Hữu cảm nhận thấy sự chuyển biến rõ rệt nhất trong tâm hồn ông rằng:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Nếu như trước đây, tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng chỉ là những nỗi lo toan, sự mơ hồ, lênh đênh, mù mịt không rõ phương hướng thì giờ đây, sau khi được ánh sáng của Đảng chiếu rọi, tâm hồn ấy chợt nảy nở, sinh sôi một cách diệu kì. Một khu vườn tâm hồn bao trọn cả một vườn cây với hoa trái, quả ngon, hương thơm và cả chim chóc nữa. Phép so sánh ấy thực tài tình và sáng tạo quá!
Một tâm hồn đã giác ngộ Cách mạng giờ đây trở nên sinh động, đổi mới, bừng dậy thật sống động, dâng trào một nguồn sống mãnh liệt hơn bao giờ hết. Tất cả những âm thanh, màu sắc trong khu vườn tâm hồn ấy đều rất tươi đẹp, rất tràn trề, rộn rã khiến cho nhà thơ phải ngây ngất mà say mê. Lối thơ vắt dòng quả đã khiến cho hai câu thơ thêm phần thú vị và sáng tạo biết bao!
Qua khổ thơ đầu tiên, chúng ta đã thấy được rằng Tố Hữu đã đến với lý tưởng Cách mạng bằng cả tâm hồn mình, tất cả lý trí và nhận thức, bằng tất cả trái tim yêu đầy sinh lực. Niềm vui sướng, say mê của ông khi bắt gặp lý tưởng chiếu rọi đã lan tỏa sang cả người đọc chúng ta. Thứ ánh sáng chói lòa ấy không chỉ làm thay đổi tâm hồn của nhà thơ mà còn thức dậy của nhận thức của ông nữa, nó đã làm nên công cuộc chuyển biến mạnh mẽ trong lý trí của người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi.
“Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Trước đây, trước khi được gặp và giác ngộ theo lý tưởng Cộng sản, Tố Hữu là người thuộc tầng lớp tiểu tư sản, sống bên trên những người lao động nghèo vì thế ông không thể hiểu hết được những nỗi thống khổ cũng như tâm tình của giai cấp vô sản. Thế nhưng, sau khi được chiếu rọi bởi lý tưởng cao quý ấy, ông đã nhận ra rằng, phải gắn bó, phải hòa nhập cái tôi riêng với cái ta chung của xã hội, của mọi người.
Chính vì thế, ông tình nguyện “buộc lòng” mình với “mọi nhà” để mà cảm nhận được, để mà hòa chung với “bao hồn khổ” khác. Động từ “buộc” ở đây không có nghĩa là bắt buộc mà trái lại nó lại là một hành động tự nguyện, là sự quyết tâm, tự giác gắn bó của Tố Hữu với mọi người – những người lao động, giai cấp vô sản.
Ông mở lòng với tất cả những người xung quanh, “trang trải” để tâm hồn mình được trải rộng ra với cuộc đời mà thấu hiểu, đồng cảm với mỗi con người trong mỗi hoàn cảnh khác nhau. Có thể nói, tâm hồn của Tố Hữu đã có được sự chuyển biến vô cùng lớn lao, bởi một người thi sĩ, một nhà tiểu tư sản như ông lại có được sự thấu hiểu vô cùng với những con người cùng khổ.
Giờ đây, Tố Hữu đã chẳng còn “bâng khuâng” mà suy nghĩ nữa, bởi ông đã hiểu được rằng tình thần đoàn kết, sự yêu thương dành cho quần chúng lao động, sự sát cánh cùng nhau của nhà thơ với những kiếp người sẽ tạo nên nguồn sức mạnh to lớn. Hình ảnh thơ được nhà thơ sử dụng “khối đời” là hình ảnh ẩn dụ cho lớp người đông đảo có chung cảnh ngộ với nhau, cùng đồng sức đồng lòng, chung nhau lý tưởng, gắn bó, đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng nhau phấn đấu vì mục tiêu chung: đó là giành lấy quyền sống, quyền được độc lập tự do.
Nhà thơ đã tiến thêm một bước rất dài trong cả nhận thức với thế giới xung quanh cũng như trong suy nghĩ, tâm hồn. Ông không còn thờ ơ trước cuộc đời nữa mà đã hướng tới những người lao động vô sản bằng cả nhận thức và bằng cả trái tim giàu tình yêu thương, hữu ái giai cấp nữa. Để miêu tả điều đó, ông đã sử dụng một loạt những hình ảnh ẩn dụ để gửi gắm tình cảm của mình cũng đồng thời là sự khẳng định niềm tin của mình vào tinh thần đoàn kết của dân tộc, khi cái tôi riêng hòa chung với cái ta chung của mọi con người.
Nhận thức luôn song hành cùng tình cảm, lý trí luôn song hành cùng tâm hồn. Vậy nên nếu như ở khổ trên, nhà thơ đã nhận thấy sự chuyển biến trong nhận thức của mình thì ở đây, nhà thơ lại nhận thấy sự chuyển biến thật mạnh mẽ trong tình cảm của mình.
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”.
Tấm lòng kiên trung của người chiến sĩ trẻ muốn mang đến cho những lớp người kia có được áo cơm, có được sự bình an, no ấm, bớt đi nỗi cực nhọc. Chính vì vậy, ở khổ thơ cuối này, ông đã khẳng định vị thế của mình, khẳng định trách nhiệm cũng như mong ước được chở che, bao bọc, gắn bó với mọi người.
Ông tự nhận mình là “con”, “là em”, “là anh” của “vạn nhà, vạn kiếp, vạn đầu em nhỏ”. Ông coi những người ở tầng lớp vô sản ngoài kia là ruột thịt của mình, đặt lên vai mình thứ trách nhiệm nặng nề, ông muốn được gắn bó với họ, cùng nhau gánh vác, cùng nhau chia sẻ chứ không muốn trở thành một kẻ bề trên mà ban ơn cho họ.
Động từ “đã là” cho thấy được tình cảm gắn bó sâu sắc của ông dành cho mọi người và thứ tình cảm ấy dường như đã có từ rất lâu. Đặt trong tình huống, Tố Hữu vốn là một tiểu tử sản, vốn là tầng lớp đề cao lối sống cá nhân, vị kỷ vậy mà ở đây, ông lại san sẻ tất cả tình cảm của mình mà không hề tính toán, so đo. Có lẽ chính cái lý tưởng Cách mạng ấy đã soi đường, đã chiếu rọi biến đổi nhận thức cũng như tình cảm của Tố Hữu.
Nhà thơ Tố Hữu đã vượt qua cái khoảng cách xa xôi giữa hai giai cấp trong xã hội để hòa mình vào trong giai cấp quần chúng lao động bằng tình cảm chân thành. Thế mới biết sức mạnh của lý tưởng Cách mạng to lớn đến nhường nào, nó đã cảm hóa, biến đối những người trí thức tiểu tư sản, vốn có lối sống cá nhân, biến họ trở thành những con người của Cách mạng, trở thành những thi sĩ của Cách mạng, không còn quẩn quanh trong cái chủ nghĩa cá nhân ích kỉ. Điều này, chúng ta không chỉ thấy riêng ở Tố Hữu mà còn trong lớp các nhà thơ nhà văn khác như Huy Cận, Xuân Diệu, …
Với thể thơ thất ngôn quen thuộc, cùng cách thể hiện đầy nhịp nhàng, khúc chiết, nhà thơ đã viết lên một tác phẩm với những cảm xúc chân thành nhất để ca ngợi sức mạnh của lý tưởng Cách mạng. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh hết sức thú vị đã diễn tả niềm vui, niềm hân hoan, vui sướng vô bờ của một chàng trai trẻ khi đang băn khoăn tìm lối đi cho cuộc đời thì bắt gặp được ánh sáng của Cách mạng chiếu rọi để từ đó dấn thân vô, hòa nhập với các mối quan hệ, với các tầng lớp khác đấu tranh cho quyền sống, độc lập tự do của dân tộc.
Ngôn từ trong thơ vô cùng chân thành, giản dị, hình ảnh thơ được so sánh, bộc lộ tư tưởng Cách mạng rất sâu sắc. Tố Hữu xứng đáng là lá cờ đầu trong thơ ca Cách mạng. “Từ ấy” đã đánh dấu bước ngoặt trưởng thành vô cùng lớn lao của nhà thơ Tố Hữu trên chặng đường Cách mạng. Nó là tiếng reo mừng, sung sướng của một người thanh niên trẻ khi tìm được đường đi cho mình để từ đó, quyết tâm đem sức mình cống hiến cho Tổ quốc, đó là tấm gương để lớp trẻ chúng ta noi theo.
Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào
Bài Nghị Luận Từ Ấy Ngắn Hay – Mẫu 9
Dưới đây là bài nghị luận Từ ấy ngắn hay để các em học sinh tham khảo cách diễn đạt súc tích, giàu ý nghĩa với câu từ gãy gọn. Đồng thời giúp ôn tập nhanh chóng cho bài kiểm tra viết nghị luận văn học về bài thơ Từ ấy trên lớp.
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, ông sinh và và lớn lên tại Thừa Thiên Huế, là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ cách mạng Việt Nam. Nhắc đến thơ Tố Hữu là nhắc đến những vần thơ mang đậm tính trữ tình cách mạnh, thể hiện khát khao, ý chí của những người cách mạng nặng lòng với đất nước.
Những tâm sự của ông qua từng vần thơ đều mang tầm vóc thời đại, của một cái tôi cộng đồng. Có thể nói, Tố Hữu chính là lá cờ đầu của thơ ca kháng chiến với hàng loạt các tập thơ tiêu biểu như Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận hay Máu và hoa. Bài thơ Từ ấy được trích trong tập thơ cùng tên là một bông hoa đẹp trong vườn thơ đầy hương sắc của ông.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Mở đầu bài thơ là lời thơ mang đậm chất tự sự, nhà thơ nhắc lại một sự kiện trọng đại trong đời mình. Trạng ngữ “Từ ấy” đặt đầu câu đã nhấn mạnh thời điểm đầy ý nghĩa khi tác giả bước vào hàng ngũ Đảng, được giác ngộ lý tưởng Đảng Cộng sản. Hình ảnh “nắng hạ” kết hợp với động từ mạnh “bừng” cùng nghệ thuật ẩn dụ đã khẳng định lý tưởng cách mạng tác động vô cùng mạnh mẽ đến tâm hồn nhà thơ.
Nguồn sáng ấy không phải là nắng vàng ấm áp của mùa thu hay nắng xuân mơn man nhè nhẹ mà đó là nặng hạ mang vẻ rực rỡ, chói chang làm bừng tỉnh cả nhận thức và tình cảm trong con người chàng trai tuổi 18 tràn trề sức trẻ. Đó là nguồn sáng được khởi phát từ ánh mặt trời khác thường, đặc biệt và duy nhất “mặt trời chân lý”.
Nếu mặt trời tạo hóa ban tặng ánh sáng làm vạn vật sinh sôi thì mặt trời chân lý mang đến những tư tưởng, con đường đúng đắn cho cách mạng, báo hiệu những điều đẹp đẽ, tươi sáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc phía trước.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng”
Mặt trời chân lý rọi sáng trái tim người chiến sĩ khiến tâm hồn như rạo rực, như say mê. Hình ảnh so sánh thật gần gũi hồn tôi-vườn hoa lá càng tô đậm sức sống mãnh liệt, niềm vui cực độ của nhà thơ lúc ấy. Vườn hoa lá với một thế giới đủ hương sắc, thanh âm như hoà nhập, sôi động và dạt dào sức sống cũng như tâm hồn thi nhân lúc này đây đang vỡ òa với bao cảm xúc tự hào, tin yêu, hy vọng, vui sướng khi được lý tưởng Đảng sáng soi. Đó là một niềm vui quá đỗi lớn lao đối với một kẻ yêu nước, khát khao tận hiến đời mình cho cách mạng, cho nhân dân.
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải đến muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Trong văn học giai đoạn 1932-1945, thơ ca chủ yếu đề cao cái tôi cá nhân, họ chọn một cái tôi thoát ly đề rời xa thực tại bất công, chán chường. Riêng với Tố Hữu đó là một cái tôi riêng, cái tôi gắn với cộng động, gắn cuộc đời mình, với nhân dân.
Câu thơ đầy chủ động “Tôi buộc lòng tôi với mọi người” đã thể hiện được một trái tim giàu tình cảm, vì nhân dân và ý thức tự nguyện gắn bó với nhân dân của tác giả. Động từ “trang trải” kết hợp với danh từ “muôn nơi” cùng lối nói quá đã cho thấy được sự đồng cảm của nhà thơ với những nỗi khổ cực, lầm than của nhân dân mình trên mọi miền đất nước.
“Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Lời thơ vừa tha thiết lại vừa mạnh mẽ, khẳng định khối đại đoàn kết toàn dân tộc được kết lại từ lòng nhân ái, ý thức vì mọi người. Những hồn khổ được gắn kết, những người cùng lý tưởng phải hợp sức để tạo nên sức mạnh tập thể, tiến bước trên con đường có lý tưởng cách mạng sáng soi.
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”
Bốn câu thơ cuối bài một lần nữa khẳng định tình cảm dạt dào của người chiến sĩ với nhân dân mình. Điệp từ “là” kết hợp cùng biện pháp điệp cấu trúc và các từ cùng trường từ vựng gia đình “con”, “anh”, “em” đã nhấn mạnh được tình cảm thân thiết như tình thân ruột thịt. Đó là một tình cảm ấm áp, sẻ chia, quan tâm, lo lắng của thành viên dành cho đại gia đình lớn đang trong cơn khốn cùng, gian khổ. Đó là một tấm lòng đồng cảm, vượt lên những ích kỷ, hẹp hòi của cái tôi cá nhân để sống vì người khác.
Thật xúc động khi nhà thơ đã dành những câu thơ cuối bài để viết về những “kiếp phôi pha” bất hạnh, mưu sinh dãi dầu mưa năng để kiếm sống, viết về những em nhỏ “cù bơ cù bất” đói rét trong cuộc đời. Qua những hình ảnh ấy phải chăng tác giả muốn khẳng định đến cuối cùng, lý tưởng cao đẹp nhất của Đảng cộng sản chính là chiến đầu vì nhân dân, vì hạnh phúc của những kiếp người, đặc biệt là với những phận đời nghèo khổ, thương đau.
Bằng thể thơ bảy chữ, kết hợp với giọng điều vừa tự hào vừa tha thiết, sục sôi, tác giả đã cho thấy tâm nguyện của một thanh niên yêu nước được giác ngộ và say mê, tin yêu vào lý tưởng cách mạng. “Từ ấy” đã trở thành một bài thơ bất hủ, nhắc nhở mỗi chúng ta về ý thức và trách nhiệm với cuộc đời mình, với đất nước, nhân dân.
Gợi ý cho bạn 🌟 Nghị Luận Việt Bắc 🌟 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Nghị Luận Bài Thơ Từ Ấy Luyện Viết – Mẫu 10
Nghị luận bài thơ Từ ấy luyện viết là nội dung phân tích và cảm nhận một tác phẩm đã làm nên tên tuổi của nhà thơ Tố Hữu. Dưới đây là bài văn mẫu nghị luận Từ ấy đặc sắc để các em học sinh tham khảo.
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông hoạt động cách mạng rất sớm, năm 16 tuổi gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản, năm 18 tuổi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản.
Đây là thời điểm có ý nghĩa quyết định cả cuộc đời cách mạng và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Từ ấy là một trong những bài thơ hay nhất được sáng tác vào giai đoạn đầu tác giả tham gia cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui của người chiến sĩ say mê lí tưởng, yêu nước, yêu cuộc đời, nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cho nhân dân.
Có thể coi bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu nói chung. Đây là quan điểm, là nhận thức sâu sắc của nhà thơ về mối quan hệ mật thiết giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao dưới ánh sáng chói lọi của Đảng Cộng sản.
Khổ thơ đầu thể hiện niềm vui to lớn và niềm xúc động thiêng liêng của người thanh niên yêu nước khi giác ngộ lí tưởng cách mạng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Mục đích của lí tưởng đó là đánh đuổi thực dân Pháp, tiêu diệt bọn vua quan bán nước, giành độc lập tự do cho dân tộc. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ có lẽ là lúc nhà thơ đã giác ngộ cách mạng và tình nguyện đứng trong hàng ngũ của giai cấp cần lao để đấu tranh tự giải phóng. Đây cũng là thời gian khởi đầu cuộc đời làm cách mạng của nhà thơ và là giây phút bừng sáng ánh nắng chói chang trong trái tim người thanh niên trẻ trước ngưỡng cửa cuộc đời.
Lí tưởng đó như mặt trời chân lí đã xua tan hết u ám, lạnh lẽo, buồn đau trong tâm tư người dân mất nước. Cũng như bao người dân Việt Nam thời ấy, Tố Hữu thấm thía nỗi nhục nô lệ của người dân mất nước. Vì vậy, tâm trạng của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cách mạng cũng là tâm trạng chung của phần lớn thanh niên lúc bấy giờ.
Tố Hữu ví lí tưởng cộng sản là mặt trời chân lí, có nghĩa là nhà thơ khẳng định đây là nguồn sáng vĩ đại làm bừng thức cả trí tuệ và trái tim mình. Lí tưởng ấy không chỉ tác động tới lí trí mà còn tới tình cảm của nhà thơ (chói qua tim). Điều đó chứng tỏ rằng nội dung của lí tưởng cách mạng đã hàm chứa chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.
Nhà thơ đón nhận lí tưởng không những bằng suy nghĩ chín chắn, nhận thức đúng đắn mà còn bằng cả bầu nhiệt huyết sôi nổi trẻ trung. Ánh sáng lí tưởng đem lại cho nhà thơ niềm vui và gợi bao ước mơ đẹp đẽ về một thế giới đầy hương sắc, âm thanh:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…
Câu thơ bay bổng, đậm chất lãng mạn. Nhà thơ diễn tả niềm vui sướng tột độ của một thanh niên yêu nước khi bắt gặp lí tưởng, tìm thấy lẽ sống chân chính của cuộc đời bằng những hình ảnh so sánh đầy nghệ thuật. Đó là ánh sáng chói chang mùa hạ, là màu xanh căng đầy nhựa sống của một vườn hoa lá tốt tươi tỏa hương thơm ngát, rộn tiếng chim ca.
Lí tưởng cộng sản – mặt trời chân lí – không những sưởi ấm, soi sáng tâm hồn mà còn truyền nhựa sống vào trái tim người trai trẻ. Tố Hữu sung sướng đón nhận tí tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời. Chính lí tưởng cộng sản đã làm cho tâm hồn người thanh niên ấy tràn đầy sức sống và niềm yêu đời, khiến cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn.
Tố Hữu còn là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới của tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật; trái lại, cách mạng đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ Tố Hữu.
Những từ ngữ tác giả sử dụng trong đoạn thơ có khả năng diễn tả cảm xúc mạnh mẽ: bừng (nắng hạ), chói (qua tim), đậm (hương), rộn (tiếng chim). Những hình ảnh: nắng hạ, mặt trời chân lí chói qua tim, vườn hoa lá, đậm hương, rộn tiếng chim… vừa có vẻ đẹp rực rỡ, vừa hàm chứa ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Khổ thơ thứ ba là hệ quả của sự giác ngộ chân lí, là lời tâm niệm được nói lên như một lẽ sống, một quyết tâm, một lời hứa thiêng liêng. Đó là thái độ tự nguyện hiến dâng cho cách mạng, tự nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Nếu ở khổ thơ trước với biện pháp tu từ ẩn dụ (nắng hạ, mặt trời chân lí, vườn hoa lá) với lời thơ bay bổng, lãng mạn thì ở khổ thơ này tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị mộc mạc, âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng. Đó là lời bộc bạch trực tiếp ước vọng chân thành của nhà thơ; là tâm niệm của “cái tôi trữ tình cách mạng”.
Tôi buộc lòng tôi với mọi người là hành động hoàn toàn tự nguyện của nhà thơ đối với giai cấp cần lao. Nhà thơ muốn tình cảm của mình được trang trải với trăm nơi, trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ với những trái tim của lớp người cùng khổ để tạo nên một khối đời vững chắc, trở thành sức mạnh to lớn phá tan chế độ thực dân phong kiến, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn.
Trong quan niệm về lẽ sống của giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao “cái tôi cá nhân”. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa “cái tôi cá nhân” và “cái ta tập thể”. Động từ buộc thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của “cái tôi cá nhân” để sống chan hòa với mọi người. Từ trang trải thể hiện tâm hồn nhà thơ trải rộng ra với cuộc đời, đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của mỗi con người.
Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Trong mối liên hệ với mọi người, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Khối đời là ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung.
Có thể hiểu: khi “cái tôi” chan hòa trong “cái ta”, khi cá nhân hòa mình vào tập thể có cùng lí tưởng thì sức mạnh sẽ nhân lên gấp bội. Tố Hữu đã đặt mình vào giữa dòng đời, vào môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ. Ở đấy, nhà thơ đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đoạn thơ, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của đông đảo quần chúng nhân dân.
Khổ thơ thứ ba cho thấy sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu. Nhà thơ mong muốn tình cảm nồng nhiệt của mình sẽ trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ những trái tim của những người cùng khổ, tạo nên sức mạnh to lớn phá tan chế độ bạo tàn đầy áp bức bất công:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.
Trước khi giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản giúp nhà thơ không chỉ có được lẽ sống mới mà còn vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng nghèo khổ. Hơn thế, nhà thơ đã tìm thấy tình cảm gia đình ruột thịt trong quần chúng cách mạng. Người chiến sĩ ấy tự nguyện coi mình là con của vạn nhà, Là em của vạn kiếp phôi pha, Là anh của vạn đầu em nhỏ.
Một sự tự nguyện hoàn toàn, tuyệt đối, không băn khoăn, không ngần ngại. Điệp ngữ: Tôi đã là… lặp đi lặp lại ba lần, giống như một lời tuyên thệ của một chiến sĩ khi đã đứng trong hàng ngũ cách mạng. Điệp từ là cùng với các từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh và khẳng định một tình cảm gia đinh thật đầm ấm, thân thiết.
Khi nối tới những kiếp phôi pha (những người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên phải dãi dầu mưa nắng để kiếm sống), những em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ (những em bé không nơi nương tựa, phải lang thang vất vưởng nay đây mai đó), tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ biểu hiện thật chân thành, xúc động.
Qua đó, chúng ta có thể thấy được thái độ căm giận của nhà thơ trước những bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu đã hăng say hoạt động cách mạng và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ Tố Hữu. (Cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương, cô bé đi ở trong Đi đi em, ông lão khốn khổ trong Lão đầy tớ, em bé bán bánh rong trong Một tiếng rao đêm…)
Bài thơ Từ ấy tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn cách mạng trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của Tố Hữu. “Cái tôi trữ tình” lắng đọng trong từng ý thơ, từng hình ảnh, lúc bay bổng, lúc lắng đọng, lúc là lời bộc bạch trực tiếp, chân thành những ước vọng, tâm tư khi tìm thấy lí tưởng.
Từ ấy là tiếng hát yêu thương, tin tưởng, là tiếng lòng tha thiết của một thanh niên bắt đầu giác ngộ lí tưởng, tự nguyện dấn thân vào con đường cách mạng đầy chông gai, gian khổ, hi sinh của toàn dân tộc. Vượt thời gian, sau hơn nửa thế kỉ ra đời, Từ ấy vẫn tươi xanh chất trữ tình cách mạng. Bài thơ đã tạo được sự đồng cảm, mến mộ của nhiều thế hệ yêu thích thơ Tố Hữu.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Nghị Luận Tây Tiến 🍀 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Bài Nghị Luận Tác Phẩm Từ Ấy Đơn Giản – Mẫu 11
Tham khảo bài nghị luận tác phẩm Từ ấy đơn giản sẽ giúp các em học sinh dễ dàng ôn tập với hệ thống những luận điểm rõ ràng và các câu văn nghị luận văn học tác phẩm Từ ấy ngắn gọn.
Tố Hữu là ngọn cờ đầu của phong trào thơ cách mạng Việt Nam với những tác phẩm tự sự nhưng dạt dào tình cảm. “Từ ấy” là bài thơ rút trong tập thơ cùng tên sáng tác năm 1938, đánh dấu sự trưởng thành của người thanh niên cách mạng. Bài thơ chính là tiếng reo vui của tác giả khi được đứng trong hàng ngũ đảng cộng sản Việt Nam.
“Từ ấy” là một từ chỉ thời gian đánh dấu bước ngoặc có ý nghĩa lớn trong cuộc đời của người thanh niên cách mạng, đánh dấu sự trưởng thành, lớn lên về tâm hồn cũng như lý tưởng cách mạng. Giây phút ấy khiến cho tác giả nghẹn ngào, dường như không nói được nên lời, chỉ có thể dồn trong hai từ “từ ấy”.
Từ ấy chính là cảm xúc chủ đạo của bài thơ, là tiếng lòng reo vui, rộn rã, tràn ngập tin yêu của một người thanh niên khi được đứng trong hàng ngũ cao quý của Đảng. Sau thời gian xác định “từ ấy” chắc chắn người thanh niên đó sẽ có những chuyển biến mạnh mẽ trong cuộc đời cũng như trong con đường hoạt động cách mạng của mình.
Tác giả đã mở đầu bằng một lời thơ rộn rang, tràn ngập tin yêu:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Tác giả vui mừng không nói nên lời, chỉ biết ngập ngừng “từ ấy”, và sau thời gian “từ ấy” đó chính là những bước ngoặc cũng như sự giác ngộ lý tưởng lớn. Một loạt hình ảnh ẩn dụ “bừng nắng hạ”, “mặt trời chân lý” đều mang trong mình ý nghĩa biểu tượng cho những gì tươi sáng, tốt đẹp, rạng ngời nhất. Từ “bừng” ở câu thơ đầu tiên như làm sáng lên cả bài thơ, từ bừng mang ý nghĩa là thức tỉnh, một sự thức tỉnh có quá trình.
Nắng hạ là thứ nắng chói chang, nắng đẹp, tràn ngập niềm vui và sức sống. Tác giả như bước ra, thoát khỏi chốn tăm tối, bế tắc, không lối thoát của cuộc đời để đến với ánh sáng của cách mạng và niềm tin. Giây phút được bước vào hàng ngũ của đảng như là “chân lý”, điều đáng trân trọng một đời.
Sự chuyển biến rõ nhất diễn ra trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Sự thức tính và giác ngộ cách mạng khiến tâm hồn của người chiến sĩ trẻ như một vườn hoa tràn ngập tiếng chim và rực rỡ sắc hoa. Phép so sánh ấy thực sự rất tài tình và đầy ý nghĩa. Một tâm hồn thực sự sinh động, tràn đầy sức sống, tác giả đã biến cuộc đời mình tràn ngập niềm tin và tự hào. Chỉ với khổ thơ đầu này nhưng dường như cả bài thơ đã được vẽ lên bằng một gam màu tươi sáng và đẹp đẽ nhất.
Sự giác ngộ trong lý tưởng cách mạng đó đã hình thành nên tư tưởng lớn trong tâm hồn:
Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm vạn khối đời
Một khổ thơ vừa bộc lộ rõ nét cái tôi cá nhân vừa bộc lộ cái ta rộng lớn, bao la nhất. Từ “buộc” ở câu thơ đầu tiên gợi lên cảm giác gắn bó đối với người chiến sĩ cách mạng với mọi người. Từ “buộc” chính là sợi dây, là con đường, là lẽ sống mà người chiến sĩ đã lựa chọn và theo đuổi dến cùng. Với một tấm lòng kiên trung, tình yêu thương rộng lớn, người chiến sĩ muốn mang đến sự bình an, ấm no nhất cho nhân dân, để có thể cùng nhân dân gánh bớt nỗi khổ, cực nhọc.
Từ chân lý muốn được bao bọc, chở che, gắn bó với mọi nhà, ở khổ thơ cuối chính là lời khẳng định vị thế của mình:
Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ
Khổ thơ mang ý nghĩa liệt kê nhưng nó vẫn toát lên được tình cảm, sự tin yêu và gắn bó của người chiến sỹ đối với toàn thể nhân dân.Từ “là” được lặp đi lặp lại nhằm nhấn mạnh mối quan hệ hiên nhiên giữa mình với nhân dân, gắn bó với họ, cùng san sẻ, cùng gánh vác khổ đau, đương đầu với sóng gió, quyết không để lùi bước. Tinh thần ấy của tác giả thực sự đáng ngưỡng mộ và khâm phục. Tác giả coi mình cũng như một người vô danh “cù bất cù bơ” nhưng có tinh thần đoàn kết và kiên trung
Quả vậy, “Từ ấy” là bài thơ ý nghĩa đánh dấu sự trưởng thành của một con người và của một chặng đường cách mạng gian nan. Tiếng reo vui của tác giả như hòa chúng vào với niềm vui chung của nhân dân.
SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free
Bài Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội Từ Ấy – Mẫu 12
Bài văn mẫu nghị luận xã hội Từ ấy sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em học sinh trong quá trình làm bài. Tham khảo dưới đây:
Đất nước ta trải qua bao thăng trầm vất vả, cập bến vinh quang ngày nay là nhờ ơn lớp lớp thế hệ cha anh đã sống và chiến đấu kiên cường. Tinh thần họ được thúc đẩy bởi những lý tưởng, những mục đích, khao khát cao cả. Và dù ở hình thức này hay hình thức khác đều chung một nội dung: vì nước vì dân. Bài thơ Từ ấy của Tố Hữu có lẽ đã thay lời nói lên tất cả. Bài thơ còn đến ngày nay thúc giục thanh niên kiếm tìm một lý tưởng đúng đắn tiến bộ.
Từ ấy ra đời khi Tố Hữu còn rất trẻ, mới 18 tuổi – thời kỳ con người đang dạt dào sức sống, sức chiến đấu. Thời điểm bài thơ ra đời cũng là lúc đất nước ta đang trong những năm tháng sục sôi kháng chiến thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Bài thơ là tiếng lòng thể hiện lý tưởng cao đẹp của người thanh niên cộng sản. Từ đó, bài thơ gợi ra những suy nghĩ sâu sắc về lý tưởng của người thanh niên Việt Nam hiện nay.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Từ ấy là từ khi nào? Là từ khi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Vinh dự ấy được diễn tả bằng những hình ảnh vô cùng tươi đẹp “bừng nắng hạ”, “chói qua tim”. Và nhà thơ sung sướng gọi con đường theo Đảng là “Mặt trời chân lý” – là ánh sáng dẫn đường chỉ lối cho đường đi của nhà thơ. Có ánh sáng dẫn đường, người thanh niên mười tám tuổi sôi nổi bồng bột với hạnh phúc ngập tràn “Hồn tôi là một vườn hoa lá” “đậm hương rộn tiếng chim”.
Có thể nói, chân lý đến từ mặt trời cách mạng đã tiếp thêm sức sống, khơi nguồn sức trẻ để nhà thơ có động lực vươn lên, vươn đến những ước mơ. Vậy lý tưởng là gì? Lý tưởng là điều ta tin tưởng, tôn thờ và làm mọi thứ vì lý tưởng của mình. Mỗi người sẽ có những lý tưởng khác nhau. Nhưng dù là gì đi chăng nữa, lý tưởng phải là nguồn sáng dẫn đường cho con người, tránh đưa họ lầm đường lạc lối.
Nói như nhà thơ Tố Hữu thì đó phải là ánh sáng “chân lý”, ánh sáng của cái thiện. Nói như vậy, tức là cần phân biệt lý tưởng cao đẹp và lý tưởng thấp hèn. Lý tưởng cao đẹp giúp con người đến với cái đẹp, đến với cái thiện. Lý tưởng thấp hèn khơi dậy những mong muốn xấu xa, ích kỷ.
Không chỉ vậy, lý tưởng phải trở thành động lực để con người yêu đời, yêu sống và sống tốt. Lý tưởng giúp ta lạc quan yêu đời “hồn tôi là một vườn hoa lá”, có thể vượt qua những khó khăn, vất vả để bước tiếp con đường mình đã chọn. Với Tố Hữu, lý tưởng mà Từ ấy nhà thơ có được đã giúp ông vượt qua những cuộc đàn áp đẫm máu của thực dân Pháp đối với cách mạng, vượt qua xiềng xích, tra tấn lao tù để cùng cách mạng sống đến ngày chiến thắng.
Lý tưởng của Tố Hữu là gì mà có sức mạnh kỳ diệu vậy?
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Lù anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.
Con đường Tố Hữu lựa chọn là con đường hoà mình gắn bó với nhân dân lao động, với những kiếp cầm lao “không áo không cơm”. Gắn bó với nhân dân để cảm thông, để sẻ chia, để cùng nhau chung tình máu mủ cùng là con Lạc cháu Hồng. Gắn bó với nhân dân để sống chết vì nhân dân và được hưởng tình yêu thương, che chở của nhân dân dành cho mình. Còn hạnh phúc nào hơn thế, và như Tố Hữu đã từng sung sướng thốt lên “Người với người sống để yêu nhau”.
Tuổi 16,17, 18… chúng ta chưa là đảng viên, chưa hẳn đã là người lớn song cũng không còn là hoa nắng vô tư, có thể sống thờ ở với mẹ cha, họ hàng, bè bạn. Đất nước ta cũng không còn nghèo nàn như trước, không phải “cù bất cù bơ” “không áo cơm”. Chúng ta không ôm mộng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp như Tô Hữu nhưng hãy nhìn cuộc sống quanh mình để tìm chân lý, tìm lý tưởng.
Đất nước ta đang vươn mình chạy mau sao cho kịp thời đại. Thế hệ chúng ta đang dần gánh vác trọng trách ấy. Gia đình, họ hàng, bè bạn, thầy cô… ai cũng mong muốn cho ta những điều tốt đẹp nhất “Đất nước mong sao em thành người”. Vậy lý tưởng của chúng ta là gì nếu không phải là vì tập thể?
Học tập, lao động và cống liên sức mình cho gia đình, cho xã hội, cho Tổ quốc thân yêu, đó là điều ít nhất mỗi thanh niên ngày nay cần hiểu. Chúng ta không mong là cánh chim bằng vạn dặm, không thể là cả bản hoà ca hùng tráng… mong mỗi người là một “mùa xuân nho nhỏ”, “một nốt trầm xao xuyến” (Thanh Hải) để hiến dâng cho mùa xuân chung của tập thể, của quê hương, đất nước mình.
Con người không thể được gọi là sống mà không có lý tưởng. Tuổi xuân chúng ta – tuổi đẹp đẽ nhất, giàu sức sống nhất của đời người càng không thể không có lý tưởng sống. Bài thơ Từ ấy của Tố Hữu là một khúc ngân cao đẹp cho lý tưởng thanh niên Việt Nam.
Đón đọc tuyển tập 🌟 Nghị Luận Về Bài Thơ Nói Với Con 🌟 15 Bài Văn Ngắn Hay
Nghị Luận Từ Ấy Lớp 11 – Mẫu 13
Tác phẩm Từ ấy là một trong những nội dung trọng tâm trong chương trình nghị luận văn học lớp 11. Đón đọc bài văn mẫu nghị luận Từ ấy lớp 11 dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những ý văn hay.
Bài thơ “Từ Ấy” nằm trong tập thơ cùng tên, được Tố Hữu sáng tác vào năm 1938, đã đánh dấu sự trưởng thành trong lí tưởng của người thanh niên cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui sướng, hạnh phúc của một người trẻ vẫn đang trên con đường tìm kiếm lẽ sống thì gặp được ánh sáng của lí tưởng, của Đảng, của cách mạng.
“Từ ấy” là một từ để chỉ thời gian, là mốc son đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời và trong cả tâm hồn của nhà thơ. Giây phút ấy khiến nhà thơ vui mừng đến nỗi không thể định nghĩa chính xác được, chỉ biết là “từ ấy”.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
Một loạt những hình ảnh ẩn dụ “ bừng nắng hạ”, “ mặt trời chân lí”, “chói qua tim” được nhà thơ sử dụng tài tình. Người thanh niên vẫn đang loay hoay trong bóng tối của mùa đông mù mịt, chưa tìm thấy lối đi, chưa tìm thấy lí tưởng thì mặt trời bỗng bừng lên xua tan bóng tối, soi đường chỉ lối cho anh.
“Bừng nắng hạ” – đó là ánh nắng mùa hè chói chang, mạnh mẽ và rực rỡ, đủ để soi rọi sau những ngày tăm tối. Đó là ánh sáng đến từ “trong tôi”, từ trái tim người chiến sĩ trẻ. Sự xuất hiện của lí tưởng Đảng, của cách mạng đã soi sáng cho tâm hồn nhà thơ, như soi rọi cả những góc khuất nhất trong con người, khiến cho cả con người người chiến sĩ trẻ bừng tỉnh ngộ sau những đêm dài tối tăm.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Tố Hữu đã ví “hồn tôi” với “vườn hoa lá”. Với cách so sánh độc đáo này, nhà thơ đã khiến một thứ vô hình trở nên hữu hình, sinh động trước mắt người đọc. Tâm hồn người chiến sĩ trẻ, được ví như một vườn hoa lá, được tắm ánh mặt trời ấm áp và đang sinh sôi nảy nở rất tươi tốt, đầy những thứ hoa thơm quả ngọt, rất “đậm hương”, thu hút bao nhiêu chim chóc về đây, rộn ràng ca hót.
Đây có thể coi là một khổ thơ hay nhất, sinh động nhất trong bài thơ, khiến cho người đọc cũng có thể cảm nhận được sự háo hức, say sưa, rạo rực và tràn đầy nhiệt huyết của nhà thơ khi tìm được lí tưởng của mình. Từ giác ngộ lí tưởng, người chiến sĩ trẻ tuổi tiếp tục chọn cho mình một lẽ sống mới:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Nhà thơ tự nguyện “buộc” lòng mình với mọi người, tự nguyện gắn mình với những người dân lao động, với tất cả đồng bào Việt Nam. Ông tự nhận mình cũng là một người đứng trong hàng ngũ những người dân lao động, cùng ăn, cùng ngủ, cùng chia sẻ cay đắng ngọt bùi với nhau, để trở thành một gia đình lớn.
Tình cảm trang trải khắp nơi, họ yêu thương nhau, đùm bọc lẫn nhau. Những người cùng khổ, họ dễ cảm thông, chia sẻ với nhau hơn. Từ “khối đời” là một từ rất trừu tượng, nhưng đã khái quát được lòng mong ước xây dựng một tập thể quần chúng vững chắc, gần gũi, thân thiết như ruột thịt để tạo nên một sức mạnh không gì sánh nổi. Bốn câu thơ tiếp theo là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò, vị trí của mình:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”
Tố Hữu hòa mình với nhân dân, đã tự nguyện trở thành con, thành em, thành anh của bao quần chúng lao động cực khổ, những con người với kiếp sống “phôi pha”, sống hôm nay chưa biết đến ngày mai, những kiếp sống mòn mỏi đáng thương, những đứa trẻ tội nghiệp nghèo khổ đói rách. Từ “là” được nhà thơ sử dụng lặp đi lặp lại, như khẳng định một cách chắc chắn mối quan hệ giữa mình và nhân dân lao động, cũng như một lời khẳng định vai trò của mình đối với người dân, với cộng đồng và xã hội.
“Cù bất cù bơ” – một tính từ vô cùng mới mẻ, như những lời nói thường ngày của những người lao động nói chuyện với nhau. Cuộc sống bơ vơ, tác giả nói mình, nhưng cũng là nói chung những người dân quanh mình, những người anh em của mình, đồng thời bày tỏ lòng xót thương của nhà thơ trước tình cảnh bất công, trái ngang của cuộc đời.
“Từ ấy” là tiếng reo vui không chỉ của nhà thơ, mà còn là của cả một thế hệ thanh niên khi tìm thấy lí tưởng của Đảng, nguyện chiến đấu hết mình vì lí tưởng, vì nhân dân, vì đất nước. Họ là những người chiến sĩ trẻ, mang trong mình nhiệt huyết, mang trong mình lí tưởng, và lòng yêu thương đồng bào, yêu thương đất nước.
Có thể nói, thơ của Tố Hữu là thơ của nhân dân, những lí tưởng cao đẹp được diễn tả bằng những từ ngữ lãng mạn nhưng cũng vô cùng giản dị, gần gũi, là đại diện cho một lớp nhà thơ mới.
Tham khảo văn mẫu 💧 Nghị Luận Chiều Tối 💧 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Nghị Luận Từ Ấy Khổ 1 – Mẫu 14
Đoạn thơ mở đầu tác phẩm Từ ấy là đối tượng nghị luận văn học phổ biến trong những đề văn. Bài nghị luận Từ ấy khổ 1 dưới đây sẽ giúp các em học sinh hoàn thành bài viết của mình tốt hơn.
Người con của xứ Huế mộng mơ, người chiến sĩ cách mạng, và cũng là cây bút thơ ca Cách Mạng tiêu biểu – Tố Hữu. Từ khi còn trẻ- 18 tuổi, ông đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Trong nhiệt huyết tuổi trẻ, hạnh phúc trào dâng, niềm tin mãnh liệt vào Đảng, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Từ ấy” để thể hiện cảm xúc của mình. Khổ thơ đầu bài “Từ ấy” là khúc dạo đầu của dòng mạch cảm xúc ấy.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi như một vườn hoa lá
Rất đậm hương và đậm tiếng chim”
Trước hết cảm nhận về hai chữ “Từ ấy”. “Từ ấy” ở đầu đoạn thơ được lặp lại từ tên bài thơ. “Từ ấy” mà tác giả nhắc tới là một mốc thời gian vô cùng quan trọng. Đó là những ngày của năm 1938, tháng ngày đất nước ta đang gồng mình chống giặc ngoại xâm, khi đó Đảng được thành lập 18 tuổi-mốc thời gian đáng nhớ của tác giả, khi ấy tác giả được vinh dự đứng trong hàng ngũ Cách Mạng Đảng. “Từ ấy” của tác giả là cột mốc thời gian tự hào của chàng thanh niên trẻ tuổi hạnh phúc, vinh dự khi được gia nhập Đảng Cộng Sản.
“Bừng nắng hạ”, ba chữ vang lên mà làm sáng bừng cả câu thơ. Với Tố Hữu được tham gia vào đội ngũ Đảng là một niềm hạnh phúc, một điều tự hào trân trọng. Tác giả nói “bừng nắng hạ”, không phải nắng xuân nhàn nhạt, không phải nắng đông lạnh lẽo cũng chẳng phải nắng thu dịu dàng mà là cái nắng hè chói chang rực rỡ nhất. “Bừng nắng hạ” vì nắng mùa hè đẹp nhất, sáng nhất làm tỏ rực một trái tim nhiệt huyết. Hình ảnh “mặt trời chân lí” tiêu biểu và đặc sắc. Đó là hình ảnh ẩn dụ về lí tưởng cách mạng.
“Chân lý” là những đường hướng, lí tưởng của Đảng Cộng Sản vạch ra cho Cách Mạng, đứng đầu là Hồ Chủ tịch đáng kính hay nói một cách khái quát, chân lý là đường hướng của Mác – Lênin mà Bác Hồ học được, áp dụng cho Cách Mạng của ta. Ví “chân lý” với “mặt trời” bởi không có gì rực rỡ, không có gì sáng đẹp hơn mặt trời. Mặt trời biểu tượng cho chân trời mới, cho tương lai sáng ngời. Chữ “chói” nhấn mạnh ánh sáng của chân lý đã soi rọi, chiếu thẳng vào trái tim của chàng trai nhiệt huyết tình yêu Cách Mạng.
Hai câu thơ đầu với lối nói ẩn dụ, hình ảnh đã nhấn mạnh tình yêu cách mạng, niềm tin vào Đảng của chàng thanh niên. Chàng trai ấy nhận ra bóng tối của những đêm đen thực dân đàn áp nhờ ánh sáng Cách Mạng, nhờ ánh sáng của Đảng đã được xoá tan. Đọc hai câu thơ mà lòng ta cũng hừng hực một tinh thần, niềm tin vào Đảng Cộng sản với những đường lối Cách Mạng đúng đắn.
Hai câu thơ tiếp theo tiếp tục diễn tả cảm xúc dào dạt của người thanh niên khi được ánh sáng Đảng giác ngộ:
“Hồn tôi như một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Câu thơ giàu hình ảnh và thật bay bổng lãng mạn. Tố Hữu ví hồn mình với “vườn hoa lá” Cách so sánh đậm lãng mạn, yêu đời. Ánh sáng của Đảng đã khiến tâm hồn người chiến sĩ ngập sắc hương thơm và rộn ràng tiếng chim hót líu lo. Đảng đã đem đến cho người thanh niên trẻ tuổi tình yêu với cuộc sống, yêu Cách Mạng và tin tưởng vào Cách Mạng. Không còn là những xúc buồn bã như thơ ca xưa, thơ ca Cách Mạng tiêu biểu là thơ của Tố Hữu mang cái tình vui vẻ, mang cái hồn nhiệt huyết sục sôi ý chí.
Khổ thơ đầu bài “Từ ấy” vang lên tiếng cảm xúc dạt dào, hạnh phúc tột cùng của chàng thanh niên trẻ khi lần đầu tiên được ánh sáng Đảng soi chiếu, chỉ đường vạch lối. Chỉ một khổ đầu mà tác động sâu sắc đến tâm trí người đọc về ý chí Cách Mạng, về tình yêu nước, về tinh thần chống giặc của thanh niên trẻ Việt Nam
Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone
Nghị Luận Từ Ấy Khổ 2 – Mẫu 15
Khi làm bài nghị luận văn học. để nắm được những giá trị nội dung và nghệ thuật trong đoạn thơ thứ 2 của tác phẩm Từ ấy, các em học sinh có thể tham khảo bài văn mẫu nghị luận Từ ấy khổ 2 dưới đây:
Tố Hữu được mệnh danh là nhà thơ của dân tộc. Thơ ca của ông có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của nhân dân những năm Cách Mạng. Tập thơ “Từ ấy” mở đầu cho chặng đường thơ ca Cách mạng của ông. Bài thơ cùng tên sang tác năm 1938 như khúc hát sôi nổi về nhiệt huyết, tình yêu niềm tin với Đảng và Cách mạng.
Nếu mở đầu bài thơ là những câu thơ diễn tả cảm xúc dạt dào của người thanh niên trẻ tuổi, thì những vẫn thơ tiếp vẫn là mạch cảm xúc đó tác gải nói lên tiếng nói tình cảm gắn kết khối đại đoàn kết của dân tộc trong ánh sang Cách mạng Đảng.
“Tôi buộc lòng tôi vói mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Tố Hữu tự nguyện“ buộc” lòng mình với long mọi người. Dưới ánh sáng của Cách Mạng, tác giả như hòa mình vào với muôn triệu trái tim Việt Nam. Từ “buộc” thể hiện sự gắn bó chặt chẽ, đoàn kết. Tác giả nguyện cùng đứng trong đau khổ, cùng đói nghèo, cùng vui sướng cùng hạnh phúc với người dân Việt Nam. Ông không ngại khổng ngại khó.
Cũng từ chữ “buộc” ta như thấy được sự trách nhiệm của ông đối với dân tộc, đất nước. Trách nhiệm của một người dân Việt Nam là bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trách nhiệm của người chiến sĩ Cách mạng là yêu thương lấy đồng bào, bảo vệ nhân dân thoát khỏi chiến tranh, thoát khỏi đói nghèo.
Tác giả “để tình trang trải với muôn nơi”. Phải chăng cái tình của tác giả bao la rộng lớn có thể “trang trải” tới muốn nơi? Đúng thế, đó là tình yêu với muôn vàn người dân đất Việt. Tình yêu đó bao la, tình yêu đó rộng lớn. Tác giảm uốn tình yêu của mình được hòa cùng tính yêu của muôn người. Đó là tình yêu to lớn, tình yêu gắn bó.
Không chỉ “trang trải tới muôn nơi” mà Tố Hữu còn muốn “Để hồn tôi với bao hồn khổ”. “ Hồn khổ” đó là cách nói hình ảnh về những con người Việt Nam thời kì này bị chiến tranh làm cho đói nghèo, bị thực dân đàn áp, cuộc sống khó khan, vất vả. Những con người đó sống trong những tháng ngày tăm tối của nô lệ, của đàn áp. Tác giả nguyện để mình sống cùng những đau khổ, sống cùng những khó khan để san sẻ những nối khổ, nỗi đau của triệu người dân.
Điệp từ “ để” đứng ở đầu câu nhấn mạnh tình cảm, sự vị tha của một con người không chỉ yêu Cách Mạng mà yêu cả những con người xung quanh. Đó là lí tưởng mới khi ánh sang Đảng đã soi chiếu. Sống không chỉ vì ta mà còn vì mọi người.
Câu thơ cuối vang lên đầy cảm xúc :
“Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
“Khối đời” một cách nói trừu tượng về tình đoàn kết, sự gắn bó chặt chẽ của mọi người dân đất Việt Nam. Đó là những con người cùng chung cảnh ngộ khó khan, cùng chung hoàn cảnh đau khổ. Đó cũng là cũng con người chung lí tưởng, chung chí hướng: sống vì đất nước, vì dân tộc, đấu tranh cho một hòa bình độc lập dân tộc. Tố Hữu muốn nhấn mạnh trong khó khăn gian khổ, con người cùng nhau gần gũi, cùng nhau sát cánh, cùng nhau đứng lên chiến đấu thể hiện tình đoàn kết, tình dân tộc thì mọi điều đều vượt qua dễ dàng.
Khổ thơ với cách sử dụng từ ngữ hình ảnh chính xác, hình ảnh, thơ mộng lãng mạn đã thể hiện rõ tư tưởng tình cảm, lí tưởng của tác giả. Khi cái tôi hòa vào cùng cái ta, khi cái riêng tư hòa cùng cái chung của cộng đồng thì lí tưởng ý chí được nhân lên, được củng cố thêm mạnh mẽ, vững chắc. Và ánh sang của Đảng của Cách Mạng đã soi sang cho lí tưởng, cho ý chí đó.
Gửi tặng bạn 💕 Nghị Luận Tràng Giang 💕 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất