10+ Liên Hệ Đây Thôn Vĩ Dạ Mở Rộng Với Các Tác Phẩm Khác

10+ Liên Hệ Đây Thôn Vĩ Dạ Hay Nhất, Chọn Lọc Các Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Với Các Tác Phẩm Khác Chi Tiết Giúp Bạn Đọc Tham Khảo.

Cách Liên Hệ Bài Đây Thôn Vĩ Dạ Của Hàn Mặc Tử

Hướng dẫn cách để hoàn thành bài văn liên hệ bài “Đây thôn vĩ dạ” của Hàn Mặc Tử đơn giản nhất với các bước sau đây:

a. Bước 1: Chuẩn bị

  • Học thuộc bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”
  • Đọc hiểu về tác giả Hàn Mặc Tử và bài thơ
  • Tìm kiếm các tư liệu liên quan để mở rộng kiến thức

b. Bước 2: Viết bài

  • Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ”
  • Thân bài: Phân tích
    • Phân tích bài thơ chính “Đây thôn Vĩ Dạ”
    • Liên hệ với bài thơ phụ, ví dụ như “Tràng giang”, “Vội vàng”,…
    • Tìm điểm chung và điểm khác nhau giữa 2 bài thơ.
  • Kết bài: Đánh giá và nêu quan điểm của bản thân về “Đây thôn Vĩ Dạ”

Đây Thôn Vĩ Dạ Liên Hệ Với Bài Nào

Gợi ý cho bạn các bài thơ có thể liên hệ bài “Đây thôn vĩ dạ”, xem thêm bên dưới:

  • Liên hệ bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” với bài “Vội vàng” của Xuân Diệu
  • Liên hệ bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” với bài “Sóng” của Xuân Quỳnh
  • Liên hệ bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” với bài “Tràng giang” của Huy Cận
  • Liên hệ bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” với bài “Từ ấy” của Tố Hữu
  • Hoặc Liên hệ bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” với các câu ca dao Việt Nam

Tham khảo 🌸 Lời Bình Về Đây Thôn Vĩ Dạ 🌸 chính xác!

Những Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Đây Thôn Vĩ Dạ Hay Nhất

SCR.VN gửi tặng bạn trọn bộ những bài văn liên hệ bài “Đây thôn vĩ dạ” hay nhất cho các bạn tham khảo

Dẫn Chứng Liên Hệ Mở Rộng Đây Thôn Vĩ Dạ Đặc Sắc

Dưới đây là dẫn chứng liên hệ mở rộng bài “Đây thôn vĩ dạ” đặc sắc, xem ngay nhé!

Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao 5 cánh chổi xoẹt qua khung trời Nước Ta với cái đuôi chói lòa rực rỡ tỏa nắng của mình.” “Tôi xin hứa hẹn với những người rằng, tương lai, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử. “ – Chế Lan Viên.

Đúng như những gì nhà thơ Chế Lan Viên nhận xét, Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào trong thơ, những giây phút ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút.

Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau. Mở đầu bàithơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ – vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế.

Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu trên đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh.

Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng:

Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu
Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh
Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu
Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.

Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc – một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy.

Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thía những vần thơ này:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền – khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng:

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất.

Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha.

Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa
Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.
Trăng nằm sõng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.

Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lường trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

Có chở trăng về kịp tối nay?

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra…

Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu.

Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhòađi và có thể tình người cũng nhoà đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói:

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.

Tuyển tập 🌸 Dàn Ý Đây Thôn Vĩ Dạ 🌸 đầy đủ!

Liên Hệ Đây Thôn Vĩ Dạ Ngắn Gọn

Tham khảo bài văn liên hệ bài “Đây thôn vĩ dạ” ngắn gọn nếu bạn chưa biết cách làm!

Hàn Mặc Tử một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, trân trọng cuộc sống. Ông cũng là người từng yêu và cảm giác dang dở trong tình yêu của mình. Nhưng ông lại là một con người lạc quan, hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là những tâm sự của ông trước cảnh thiên nhiên thôn Vĩ cùng với nỗi niềm tâm trạng của mình.

Bắt đầu bằng một câu hỏi: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? câu hỏi vang lên như một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong. Câu thơ bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối vọng lên da diết khôn nguôi. Từ niềm nhớ thương được khơi nguồn như thế, hình ảnh thôn Vĩ chợt sống dậy trong lòng nhà thơ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Chỉ ba câu thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế. Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa sống động đẹp đẽ của thôn Vĩ trong hoài niệm. Trước tiên là vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của buổi sớm mai: nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang chang dọc bờ sông trắng mà là cái nắng trong trẻo tinh khôi của một ngày.

Đến câu thơ thứ ba như một tiếng reo đầy ngỡ ngàng thích thú, không phải xanh non xanh biếc mà là xanh như ngọc. Cảnh giản dị mà thanh khiết cao sang vô cùng. Và rất tự nhiên theo mạch cảm xúc, nhắc đến ai lập tức nhà thơ nhớ đến hình bóng con người:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo tao nhã. Đó là vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đô nhưng ngay trong dòng cảm xúc miên man ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người.

Cảm giác về cái đẹp mơ hồ mong manh ấy càng rõ hơn ở khổ 2 trong bức tranh mây trời sông nước:

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Hai câu đầu là bức tranh có những nét rất đặc trưng của xứ Huế: gió thổi, mây nhẹ trôi, dòng nước lặng lờ và hoa bắp khẽ lay động ven sông. Nhưng ngắm kĩ sẽ thấy đường nét chia lìa, rời rạc của tạo vật, sự sống hiện lên lắt lay, mệt mỏi, âm điệu câu thơ buồn bã, xa vắng. Cái ngược chiều của gió, mây khơi gợi sự chia lìa đôi ngả của tình đời, tình người, như rạch vào nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của chủ thể trữ tình khi viết bài thơ này.

Hai câu kết đoạn cũng đem đến ấn tượng về bức tranh tâm cảnh như vậy. Cảnh đẹp song vẫn thoáng bâng khuâng gợi nên từ những hình ảnh: thuyền ai – sông trăng…Dòng sông dường như bị ảo hóa, không còn là sông nước mà là sông trăng, lấp ánh ánh trăng vàng, là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian thơ trở nên hư ảo.

Đại từ phiếm chỉ “ai” nghe thật mơ hồ xa vắng; và con thuyền chở trăng trên dòng sông kia thật mong manh như một ảo ảnh. Để rồi chỉ cần một chữ “kịp tối nay” là lập tức đủ kéo thi nhân về với thực tại, đối diện với nỗi cô đơn của chính mình.

Ba chữ thôi nhưng gợi lên thật nhiều những khắc khoải, mong ngóng, hi vọng, lo âu, vừa mới khao khát đấy rồi lại chợt vội vàng hoài nghi. Tín hiệu mong chờ thật mong manh nhưng vô cùng da diết. Khao khát của thi nhân hướng tới cái đẹp của tình đời tình người không tránh khỏi những nghi ngại băn khoăn.

Khổ cuối bài thơ là tiếng nói giúp nhà thơ hiểu thêm nỗi thiết tha dường như vô vọng đó:

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?

Hình ảnh “khách đường xa” đã từng xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử: khách xa gặp lúc mùa xuân chín. Hành trình của người khách từ xa xôi – em – là cả một giấc mộng dài say đắm của Hàn Mặc Tử. Nhà thơ cảm thấy mình chỉ đi song song với tình yêu, hạnh phúc mà không bao giờ nắm bắt được. Phải chăng vì thế mà mọi hình bóng đều xa vời hư ảo: áo em trắng quá nhìn không ra.

Xưa nay xứ Huế vốn bảng lảng sương khói, nhưng còn lí do chủ quan: trái tim trong tà áo trắng kia cũng hư vô bí mật như sương khói. Đó là sương khói của thời gian, hay sương khói của một mối tình mong manh chưa một lời ước hẹn, sương khói phủ lấy một trái tim biết mình sắp từ giã cõi đời sương khói ấy che phủ khiến nhà thơ không thể nhận ra, không thể nắm bắt.

Câu kết bài đọng lại nỗi buồn khắc khoải băn khoăn “ai biết tình ai” có đậm đà không hay chưa kịp nồng trên mà khác đã phôi pha”. Câu thơ gợi lên nhiều cách hiểu; nhà thơ sao có thể biết tình người xứ Huế có đậm đà hay không; người xứ Huế có biết chăng tình cảm của nhà thơ với cô rất đậm đà?

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một thi phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng nhưng cũng rất đỗi thiết tha yêu đời của thi nhân Hàn Mặc Tử. Nhắc đến Huế, ta không thể quên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, và nhắc đến Hàn Mặc Tử ta càng không thể quên vẻ đẹp của Huế, đặc biệt là không thể quên vẻ đẹp thôn Vĩ trong thi phẩm để đời của ông. Huế đẹp, Huế thơ, xin được mượn bốn câu thơ của Thu Bồn thay cho lời kết gửi đến tình yêu xứ Huế, với thi nhân Hàn Mặc Tử:

Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với Cố Đô

Mẫu 🌸 Dàn Ý 2 Khổ Đầu Bài Đây Thôn Vĩ Dạ 🌸 chi tiết!

Liên Hệ Mở Rộng Bài Đây Thôn Vĩ Dạ Hay

Mẫu bài văn liên hệ bài “Đây thôn vĩ dạ” hay dưới đây sẽ là tư liệu tham khảo hữu ích cho bạn!

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ hay nhất của phong trào Thơ mới. Bài thơ lần đầu in trong tập Nắng xuân (1937). Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài năng, quãng đời sống và sáng tác của ông là rất ngắn ngủi (1912 1940). Cuộc đời của Hàn Mặc Tử cũng phát triển không bình thường: ông phải chịu đựng những đớn đau giày vò của bệnh tật và sống trong trạng thái cô đơn giữa cuộc đời.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử được sáng tạo nên từ hai nguồn cảm hứng cảnh đẹp của Vĩ Dạ mà có lần Bích Khê đã viết:

Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc che cần trúc không buồn mà say.

Câu thơ mở đầu trong “Đây thôn Vĩ Dạ” như một lời chào mời, một lời thăm hỏi hay một lời trách móc, dường như tất cả đều có và ẩn ý trong lời thơ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Thôn Vĩ Dạ bên bờ sông Hương là một làng quê đẹp, có nhiều khu vườn xanh tươi, buổi sáng khi mặt trời mọc, khung cảnh thiên nhiên rất gợi cảm, ánh nắng ban mai và vườn cây tươi tốt dễ tạo nên những tình cảm gắn bó và thiết tha với cuộc sống. Ở đây tác giả miêu tả những hàng cau thân vút cao trong buổi bình minh gợi một cái gì khỏe khoắn của thiên nhiên:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

Hàng cau còn gợi lên không khí của làng quê như đã có từ lâu đời. Nhà thơ Vũ Quần Phương cũng nhận xét : Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng mạc quê hương đến thế.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

Chữ mướt ở đây được dùng rất khéo, nói lên cái tốt tươi của sự sống trong khu vườn, nói mướt là nói đến trạng thái mượt mà, mềm dịu đang độ phát triển tơ non. Màu xanh như ngọc là màu xanh như được lọc qua ánh sáng rất đẹp và gợi cảm. Vườn cây vừa chiếm lĩnh chiều cao của không gian với những hàng cau cao vút và bề rộng với cây xanh tươi tốt. Trong những vườn đó ẩn hiện những khuôn mặt phúc hậu:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Tuy chỉ là những nét thấp thoáng nhưng cũng gợi lên được ấn tượng về những con người chân chất ở vùng quê, những người lao động trung thực với khuôn mặt chữ điền. Nhìn chung, trong khổ một tác giả đã miêu tả được vẻ đẹp của vùng quê xứ Huế, đất đai trù phú, cây cối xanh tươi, một vẻ đẹp của làng quê thịnh vượng đã có từ lâu đời; về phía chủ quan là tình cảm mến yêu cuộc sống.

Đất Huế không chỉ có một vẻ đẹp mà thiên nhiên có nhiều sắc thái, khung cảnh có vui, có buồn và tấm lòng của tác giả với những thiết tha nhớ mong về nơi ấy và về con người ấy nên tránh sao khỏi buồn. Tác giả lại miêu tả một bức tranh thiên nhiên khác gợi buồn gợi nhớ:

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…

Dòng nước trôi nhẹ, ngọn gió hiu hiu thổi, những cánh hoa bắp lay lay, nỗi buồn nhẹ nhưng không kém phần da diết, đây là một khung cảnh thiên nhiên có thực nhưng đồng thời cũng phản ảnh tâm trạng của chính tác giả. Tình cảm buồn xuất phát từ nhiều lý do, nỗi bâng khuâng trước một miền đất lạ, nhiều mơ ước, nhiều dè dặt, những thoáng nghi ngờ.

Nói đến Huế, các nhà thơ đều đặc biệt quan tâm đến dòng sông Hương với vẻ đẹp đặc biệt của một dòng sông nước trong chảy lững lờ giữa thành phố. Các nhà thơ Nam Trân, Tố Hữu đều có nhiều bài thơ đẹp viết về sông Hương, như câu thơ rất chân tình của Tố Hữu:

Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình.

Với Tố Hữu, đó là dòng sông tuổi thơ, dòng sông quê hương đã nuôi dưỡng tâm hồn tác giả. Còn với Hàn Mặc Tử đây là dòng sông thơ mộng như thực như hư, nhất là trong đêm trăng, đó là một dòng sông trăng. Không gian ngời ngợi ánh trăng, con thuyền cũng đầy trăng và ghé nhiều bến trăng. Hàn Mặc Tử là nhà thơ miêu tả vẻ đẹp của trăng với nhiều sắc thái lạ:

Không gian đắm đuối toàn trăng cả
Tôi cũng trăng và nàng cũng trăng.

Tác giả đã nhân cách hóa vầng trăng theo con mắt đa tình:

Mới lớn lên trăng đã thẹn thò
Thơm như tình ái của ni cỏ
Trang nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.

Trong bài thơ, dòng sông Hương được miêu tả rất thơ mộng như một dòng sông trăng và con thuyền cũng trở đầy trăng và cập bến như vừa xác định vừa mơ hồ. Cảm xúc với Huế là những cảm xúc đẹp.

Ở khổ thơ cuối tác giả bộc lộ tâm trạng:

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra…

Phải chăng khách đường xa nhớ đến miền đất thân yêu này để tìm lại một hình ảnh, một kỉ niệm như đã có ở trong đời hay đúng hơn chỉ một niềm mong ước? Tất cả như thực như hư; hình ảnh áo trắng của người con gái là hình ảnh đẹp gợi lên sự trong trắng, thanh khiết mà một số nhà Thơ Mới thường dùng.

Hàn Mặc Tử nói đến hình ảnh mờ nhân ảnh là chân thực vì hình ảnh của một người thân yêu nào đó còn mờ ảo, như thực, như hư. Đó là một tình cảm lãng mạn, một bóng dáng xa xôi, một ước mơ đẹp. Cũng vì thế mà trong lòng tác giả nảy sinh một câu hỏi rất thực mà cũng có tính chất văn chương của nghệ thuật tu từ:

Ai biết tình ai có đậm đà?

Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ hay, thiên nhiên đẹp và tình người với những mơ ước, những dè dặt, tình đời như nửa thực nửa hư. Bài thơ bộc lộ tấm lòng của tác giả, một nhà thơ mang theo nhiều nỗi niềm mơ ước và cũng hiểu rõ giới hạn mà mình có thể tìm đến với cuộc đời.

Tặng bạn: 20+ Mở Bài Đây Thôn Vĩ Dạ Của Hàn Mặc Tử Ngắn Hay Nhất

Liên Hệ Đây Thôn Vĩ Dạ Với Vội Vàng Sáng Tạo

Bạn có thể tham khảo bài văn liên hệ bài “Đây thôn vĩ dạ” với “Vội vàng” sáng tạo dưới đây để biết điểm chung của 2 tác phẩm!

Nhắc đến Hàn Mặc Tử không thể không nhắc đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- một trong những tuyệt phẩm bất hủ của ông. Bài thơ được bắt nguồn cảm hứng từ bức bưu ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc- người con gái ông từng thầm yêu. “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác trong thời gian ông đang điều trị bệnh ở Quy Hòa nên mỗi tứ thơ trong câu từ của tác phẩm đều mang một nỗi niềm khát khao được giao cảm của nhà thơ.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi tu từ được sử dụng mở đầu bài thơ thể hiện sự trông ngóng, nỗi mong chờ của người con gái đang thôn Vĩ. Câu hỏi vừa như lời trách móc kèm chút hờn dỗi, lại vừa như lời mời gọi, mong đợi. Lời thơ nhẹ nhàng như tiếng lòng của người xứ Huế, vừa da diết lại quá đỗi dịu dàng.

Sau câu hỏi từ từ là bức tranh tươi đẹp của thôn Vĩ hiện lên đầy sống động, tươi mắt, tinh khôi:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Phải chăng vì lời mời gọi thiết tha ấy, mà dù đôi chân không thể bước về Huế, Hàn Mặc Tử vẫn quyết trở về trong tâm thức để ngắm nhìn và tận hưởng vẻ đẹp của chốn cũ, người thương. Hình ảnh đầu tiên ta là “nắng hàng cau”- một màu nắng thật đặc biệt trong thơ ca. Đó là cái nắng đầy mới mẻ, trong trẻo của buổi sớm bình minh xứ Huế- “nắng mới lên”, những hàng cau vừa thức giấc sương còn đọng trên lá long lanh dưới nắng ban mai.

Ẩn sâu trong từng lời thơ trong sáng, thanh thoát và tươi tắn ấy là một tâm hồn với khát khao mãnh liệt được giao cảm, được trở về chốn cũ, gặp lại người xưa sau những tháng ngày xa cách. Nhưng có lẽ điều đó thật khó có thể có được.

Nếu khổ thơ đầu gợi cho ta ấn tượng về buổi sáng trong ngần thì khổ thơ thứ hai cho dẫn chúng ta về với không gian thuyền nước, sông trăng vào buổi xế chiều- đêm tối:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay

Gió và mây gợi sự trôi nổi, lang thang, biện pháp đối “gió theo lối gió, mây đường mây” càng nhấn mạnh sự chia lìa đôi ngả. Phải chăng, đó là hình ảnh ẩn dụ cho sự xa cách của nhà thơ với người mình thầm thương mến, dù yêu nhưng không thể cùng là bạn đồng hành trong quãng đời ngắn ngủi còn lại của kiếp người.

Nghệ thuật nhân hóa “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” càng khẳng định nỗi sầu giăng trong lòng người thi sĩ, nỗi buồn thấm vào cảnh vật, hay chính tâm hồn nhà thơ đang sầu muộn, mà cảm nhận thiên nhiên cũng sầu thương, buồn bã đến nặng lòng, bởi vốn dĩ:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Nếu khổ thơ đầu, nỗi buồn nhẹ nhàng, cảnh vật còn mang sự tươi tắn thì đến với khổ thơ hai, cảnh vật nhuốm màu buồn hơn, nỗi buồn và cô đơn cũng vì thế mà thấm đẫm hơn:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Chữ “kịp” được đặt trong câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” cho thấy được nỗi hoài vọng của tác giả về một hạnh phúc, về một người có thể cùng thi nhân giao cảm. Trong câu thơ, ta thấy được sự bất lực trước thời gian của tác giả. Dường như, nhà thơ đã đem nỗi mặc cảm về căn bệnh quái ác của bản thân vào trong cả tứ thơ của mình.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.”
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.”

Từ “mơ” được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh giấc mộng của tác giả về một điều đẹp đẽ, có vị khách đường xa tới thăm, cùng đồng điệu, tâm sự với kẻ cô đơn trong cảnh bệnh tật. Điệp từ “khách đường xa” được lặp lại càng khẳng định khao khát được gặp gỡ của Hàn Mặc Tử nhưng có lẽ giấc mộng ấy chẳng thể nào thành bởi vị khách đã xa lại càng xa.

Nếu như Hàn Mặc Tử lại là một nhà thơ của sự đau buồn điên loạn thì Xuân Diệu là nhà thơ có phong cách sống yêu đời thiết tha luôn vui tươi, tình tứ. Đến với “Vội vàng”, thi sĩ muốn “ tắt nắng”, “ buộc gió” để lưu lại mãi hương sắc của cuộc sống trần gian.

“Tôi muốn tắt nắng đi, cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại cho hương đừng bay đi”.

Xuân Diệu yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên nhìn thế giới như một khu vườn trên mặt đất với cảm xúc say mê bằng cặp mắt tinh tế xanh non biếc rờn mọi cái đẹp đều như được thu nhỏ trong từng câu từng chữ có lẽ đây chính là nguyên nhân để Xuân Diệu có những ao ước táo bạo như trên.

Mùa xuân đến còn đem theo thứ ánh nắng ấm áp như cặp môi, đôi mi của người con gái làm cho nhà thơ như đang sống trong tiên cảnh phải thốt lên rằng.

“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.

Bên cạnh những câu thơ hay về niềm vui trước cuộc sống của mùa xuân thì vội vàng còn là sự nuối tiếc trước thời gian chảy trôi không ngừng trong khi tuổi xuân đời người lại hữu hạn ngắn ngủi.

“ Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.”

Cảnh vật thì lúc nào cũng đẹp nhưng thời gian cứ không ngừng trôi, con người không thể mãi mãi níu giữ thời gian mà chỉ đành phải chấp nhận. Thế nhưng không phải là không có cách, không phải là bất lực buông xuôi, để khống chế được điều đó Xuân Diệu đã khao khát giao cảm trực tiếp và tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc sống trần thế. Chỉ có như vậy con người mới có thể sống vui sống hạnh phúc chỉ có nhanh vội vàng thì cái đẹp mới không bị trôi đi lãng phí.

“ Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều,

Vội vàng và Đây Thôn Vĩ Dạ của thực là hai bài thơ hay là hai người con gái đẹp cả xác lẫn tâm. Cả hai bài thơ đều là tiếng nói mãnh liệt của Cảm Xúc con tim và được thể hiện qua một hình thức phù hợp gây ấn tượng với độc giả.

Bằng ngòi bút đầy tài năng và nội tâm phong phú của mình, Hàn Mặc Tử đã mang đến cho độc giả những vần thơ đẹp đẽ. Trong chữ có tình, trong tình có chữ, những cảm quan đầy tinh tế gợi cho người đọc bao dư vị về tình đời qua bài thơ.

Văn bản 🌸 Phân Tích Đây Thôn Vĩ Dạ 🌸 hay nhất!

Liên Hệ Đây Thôn Vĩ Dạ Với Sóng Ý Nghĩa

Chia sẻ đến độc giả bài văn liên hệ bài “Đây thôn vĩ dạ” với “Sóng” của 2 nhà thơ nói về tình yêu đôi lứa, mời các bạn cùng xem:

Hàn Mặc Tử một trong những “cây bút” tài năng bậc nhất của phong trào thơ mới những năm 1932-1945 với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, tác phẩm để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc có lẽ là “Đây thôn Vĩ Dạ”- một bài thơ đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của ông. Bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo, tinh khôi xứ Huế với bức tranh tâm cảnh của một cái tôi tha thiết yêu đời, khát khao giao cảm với cuộc sống, con người nhưng đầy những âu lo, trăn trở.

Câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” như hờn trách nhẹ nhàng lại như lời mời đầy tha thiết của người con gái xứ Huế. Ở đây tác giả không dùng từ “thăm” mà lại dùng từ “chơi” đủ để thấy sự thân thiết, chân thành, mộc mạc, gợi lên được tình cảm thân mật, gần gũi. Và dường như, đó cũng là câu hỏi mà nhà thơ đang tự hỏi chính mình, tự trách chính mình sao bấy lâu chẳng trở về với chốn cũ, người xưa để giờ đây trong cơn bạo bệnh lại chỉ còn những tiếc nuối, băn khoăn.

Từ nỗi nhớ, bức tranh thôn Vĩ dần hiện ra trước mắt người đọc qua từng lời thơ, một bức tranh Vĩ Dạ đầy lung linh, tươi đẹp và căng tràn sức sống:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Cau là loài cây dân dã cũng là linh hồn của làng quê Việt Nam. Trong truyện cổ tích, trầu- cau gắn với tình yêu đôi lứa. Trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu gắn với nỗi nhớ, với vẻ đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh “nắng hàng cau” là một hình ảnh đẹp gợi vẻ tinh khôi, trong trẻo của những tia nắng sớm mai. Màu nắng hàng cau là màu nắng vô cùng mới mẻ mà trước Hàn Mặc tử chưa có thi nhân nào gợi ra được màu nắng ấy.

Những tàu cau được nắng mới bao trùm, nắng hòa vào hạt sương đọng trên phiến lá tạo nên vẻ long lanh đến kiều diễm. Thiên nhiên trở nên thanh thoát, trong trẻo đến lạ lùng, không gian trở nên cao ráo và đầy khoáng đạt. Ánh nắng hàng cau làm sáng bừng lên cả một khu vườn thơ mộng, hữu tình.

Xa xa là bóng hàng cau, khi lại gần, khu vườn càng thêm đẹp, thêm tươi. Có cây ngời ngợi màu xanh sáng, xanh trong, xanh mỡ màng, mượt mà:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Câu thơ cất lên như sự ngỡ ngàng đến xuýt xoa của tác giả trước vẻ đẹp của tạo hoá được tưới tắm bởi bàn tay khéo léo của người làm vườn. Tính từ “mướt” gợi lên sắc xanh ngời ngợi, ngọc ngà, xuân sắc đầy sức sống của khu vườn. Có thể thấy qua những hình ảnh thơ gần gũi, bình dị mà bằng cách sử dụng ngôn từ độc đáo, bức tranh thôn Vĩ đầy đẹp đẽ, sống động và cao quý được gợi lên.

Cảnh thôn Vĩ ngày càng trở nên hài hòa hơn khi có sự xuất hiện của con người:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Lối nói cách điệu thể hiện vẻ đẹp e ấp, kín đáo, dịu dàng và rất Huế của người con gái. Sự xuất hiện của khuôn mặt chữ điền phúc hậu, dịu dàng đã làm cho bức tranh Vĩ Dạ trở nên sinh động hơn khi có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.

Khổ thơ thứ hai gợi ra cảnh sông nước êm đềm, mang nỗi niềm bâng khuâng, nỗi mong cầu hư ảo:

“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ? “

Không gian có gió, mây, sông nước, có thơ mộng, có êm đêm những gợi buồn, gợi chia ly. Cảnh chia đôi ngả “gió theo lối gió, mây đường mây” phải chăng chính là sự mặc cảm của nhà thơ về tình yêu xa cách, không thể đồng hành cùng người thương của mình. “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” cảnh vật gợi vẽ quạnh quẽ, thê lương, u sầu. Dòng sông buồn như chính tâm trạng thi nhân.

Tứ thơ “Có chở trăng về kịp tối nay?” gửi gắm cả một nỗi niềm của thi nhân, một khao khát vào tình yêu cập bến, để được cùng người tâm sự, tỏ bày. Nỗi ngóng trông, mong chờ, khát khao mãnh liệt được tâm giao được cất lên trong tiếng thơ bình dị. Có chăng, lúc này đây, tác giả đang lo sợ vì vận mệnh ngắn ngủi của cuộc đời mình. Sợ rằng thời gian ngày một ngắn thêm mà lòng người vẫn chưa thể được khỏa lấp nỗi trống vắng, cô đơn, sầu muộn. Liệu con thuyền kia có chở kịp vầng trăng hạnh phúc ấy về với kẻ mệnh bạc này không?

Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ bởi nỗi nhớ chính là giai điệu là hợp âm chủ đạo của tình yêu. Thơ xưa nói “nhất nhật bất kiến như tam thu hề” (một ngày không gặp mà ngỡ như đã ba năm). Xuân Quỳnh cũng thể hiện nỗi nhớ người mình yêu ngập tràn khắp nẻo qua những câu thơ trong bài “Sóng”.

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Cả hai đoạn thơ đều thể hiện nỗi nhớ nhung, niềm khát khao gặp gỡ đến cháy bỏng. Đó là khao khát có được hạnh phúc và tình yêu; khao khát được chạm đến yêu thương để khoả lấp nỗi mong chờ và để được đến với bến bờ hạnh phúc.

Nếu “Sóng” cồn cào nhớ thương đến “ngày đêm không ngủ được” và “cả trong mơ còn thức”; yêu đến nỗi bất chấp cả mọi không gian phương Bắc, phương Nam để được yêu; thì “Đây thôn Vỹ Dạ” lại là tình yêu gắn liền với khắc khoải, chờ mong đến mỏi mòn.

Thực tại phũ phàng, cô đơn ngập lối, tác giả đành tìm đến giấc mơ, nơi đó có thể nhìn thấy người con gái mình yêu, dẫu đó chỉ là chút hạnh phúc trong ảo ảnh:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Trong giấc mơ mang màu hy vọng, thi nhân thấy vị khách đường xa trong tà áo trắng tinh khôi, ẩn hiện trong sương khói. Bóng hình như nhoè đi rồi biến mất trong phút chốc. Sự thanh khiết, cao quý của người con gái trong ảo ảnh khiến thi nhân không khỏi không lo sợ:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Trong lời thơ, tác giả phân vân, lo sợ về một tình cảm không chắc chắn. Một trái tim khao khát yêu và được yêu nhưng không bao giờ có được tình yêu trọn vẹn khiến tác giả hoài nghi về tình cảm, về tình yêu của đối phương. Không biết tình người có đậm đà như chính lòng ta chăng?

Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi tư từ chất chứa nỗi niềm hoài nghi và thất vọng. Vĩ Dạ đẹp nhưng buồn, lòng người buồn mà đẹp, tất cả tạo nên sự hòa quyện giữa cảnh và tình.

Đây thôn Vĩ Dạ qua bao thế hệ người đọc vẫn mang một sức sống dạt dào. Bài thơ không chỉ là một bức tranh êm đềm và tươi đẹp của Vĩ Dạ mà còn là bức tranh đẹp của một tấm lòng tha thiết với thiên nhiên và khát khao được sống, được yêu của Hàn Mặc Tử.

Xem ngay 🌸 Cảm Nhận Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ 🌸 đặc sắc!

Liên Hệ Đây Thôn Vĩ Dạ Với Tràng Giang Nâng Cao

Mời các bạn cùng xem mẫu bài văn liên hệ bài “Đây thôn vĩ dạ” với “Tràng giang” của Huy Cận!

Khuynh hướng lãng mạn trong thơ mới những năm 40 thế kỉ 20 được nhiều nhà thơ thời đó hưởng ứng và chắp bút theo.Trong số đó,nhà thơ Hàn Mặc Tử và Huy Cận là hai nhà thơ nổi bật với lối thơ miêu tả thiên nhiên đẹp mà mang nhiều nét buồn.Có thể kể đến như hai khổ thơ trên.

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ với lối thơ khá khó hiểu và có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ in trong tập “Thơ điên” là bài thơ dễ hiểu nhất trong những tập thơ của ông.Đoạn trích trên là khổ thơ thứ hai trong bài thơ. Với những hình ảnh nội tâm,biện pháp gợi tả,ngôn ngữ tinh tế,giàu liên tưởng, bài thơ là bức tranh đẹp về một miền quê, là tiếng lòng của một người yêu tha thiết cuộc sống, con người.

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Khung cảnh sông nước xứ Huế thơ mộng trong một đêm trăng đẹp được Hàn Mặc Tử thể hiện rất sinh động qua đoạn thơ. Song cũng là tình người, lòng người hàm chứa trong lớp lớp nghĩa ẩn dụ, bút pháp tả cảnh ngụ tình. Hiện lên trước mắt người đọc là một không gian thoáng đãng, cảnh vật huyền ảo,thơ mộng với mây, gió, trăng, nước.

Người ta nói “hoa trong gương,trăng dưới nước”,vốn chỉ được nhìn chứ không thể chạm tới,mang đi, nhưng tác giả lại muốn trở trăng đi trong vội vã. Chữ “kịp” trở thành mắt thơ khi hé mở tâm trạng của thi nhân với tình yêu xứ Huế,yêu cái đẹp.Thi nhân đã rất tinh tế trong cách sử dụng các đại từ phiếm chỉ,câu hỏi tu từ,nhịp thơ 4/3,các điệp từ để nhấn mạnh tình yêu thiên nhiên,yêu xứ Huế thơ mộng trữ tình.

Huy Cận lại là một nhà thơ chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp dù ông yêu thích thơ ca Việt Nam và thơ Đường. Bài thơ “Tràng giang” được đánh giá là một trong những bài thơ hay tiêu biểu nhất của Huy Cận in trong tập “Lửa thiêng”. Đoạn thơ được trích từ khổ thơ cuối cùng của bài thơ.Đó là nỗi sầu của một “cái tôi” cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Mây cao, núi bạc, cánh chim mỏi, con nước dợn dợn là những hình ảnh được gợi ra trong đoạn thơ của Huy Cận. Đó là không gian trên cao trong một buổi chiều tà với những nỗi niềm riêng của nhà thơ. Một không gian tráng lệ, xinh đẹp lúc chiều tà, một tâm hồn lãng mạn lúc nhớ quê.

Người ngắm cảnh,từ một con sông xa lạ, nhớ về con sông ở quê mình,nhìn những mây,những cánh chim về tổ mà nhớ nhà, nhớ khoảnh khắc sum họp gia đình. Huy Cận sử dụng sáng tạo ý thơ của Thôi Hiệu trong bài thơ “Hoàng Hạc lâu” để nói về nỗi nhớ quê của riêng mình,từ “dợn dợn” cũng là một từ mới thể hiện được hết tâm trạng của nhà thơ trước khung cảnh mây nước chiều tà.

Có thể thấy cả hai đoạn thơ đều vẽ lên một bức tranh thiên nhiên vô cùng sinh động và người ngắm cảnh lại bộc lộ tâm trạng mình trước thiên nhiên tựa gần gũi thân thuộc nhưng cũng xa lạ ấy.Về nghệ thuật,cả hai nhà thơ đều lựa chọn thể thơ bảy chữ và bút pháp tả cảnh ngụ tình vừa hiện đại vừa mang được nét xưa để khắc họa lối suy nghĩ của mình.

Tuy nhiên,cũng có những điểm khác nhau giữa hai đoạn thơ mà ta dễ dàng nhận ra.Về nội dung,Hàn Mặc Tử viết về Huế về con sông cụ thể,còn “Tràng giang” lại viết về một con sông nói chung,con sông của nỗi nhớ quê hương.Ngoài ra,thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ khao khát được sống được nắm bắt từng giây phút cuộc đời,còn thơ Huy Cận lại hướng về cố hương,gợi lại những tình riêng trong sâu thẳm “cái tôi” mình.

Hai nhà thơ cùng xuất hiện trong một thời đại,đều học từ thơ truyền thống và sáng tạo cách tân theo phương Tây vì vậy họ đều có những cái giống nhau trong sáng tác và những ý tưởng gửi gắm đến người đọc.Tuy nhiên,nghệ sĩ lại đòi hỏi mỗi người phải có một phong cách riêng,lối suy nghĩ riêng để tạo ra những màu sắc khác nhau đem đến cho độc giả,nên tác phẩm của họ cũng có rất nhiều những nét riêng tạo nên cá tính riêng của họ.

Cả hai đoạn thơ trên đều mang đến cho người đọc những cảm xúc, tâm trạng rất riêng.Không chỉ vậy,các tác giả còn vẽ nên một thiên nhiên rất thơ mộng trữ tình để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí người đọc.Vì vậy họ rất xứng đáng với vị trí đi đầu trong phong trào thơ mới Việt Nam.

Tham khảo: Nghị Luận Đây Thôn Vĩ Dạ

Liên Hệ Đây Thôn Vĩ Dạ Với Từ Ấy Học Sinh Giỏi

Mẫu bài văn liên hệ bài “Đây thôn vĩ dạ” với “Từ ấy” của Tố Hữu đã được biên soạn ở dưới, xem ngay bạn nhé!

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hoài niệm. Theo tư liệu về Hàn Mạc Tử, khi còn làm việc ở Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã đem lòng yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mạc Tử gửi gắm vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở Huế – Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử xem như nàng đã đi lấy chồng.

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi, hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng,
Ngồi lên đó thả cái hồn thơ.

Hàn Mặc Tử khi lâm bệnh hủi năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc gửi tặng, đó là một bức ảnh chụp phong cảnh xứ Huế, có sông nước, có thuyền, có bến có trăng, cùng những hàng cau cao vút kèm theo dòng chữ của Hoàng Cúc để an ủi nhà thơ. Bức bưu thiếp đã đánh thức cảm xúc của thi sĩ, nên có bài thơ tuyệt bút này.

Khổ thứ nhất mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ thoáng như một lời trách móc nhẹ nhàng có pha chút tiếc nuối của ai đó, nhưng đằng sau đó là lời chào mời tha thiết khách đến thăm để được thưởng thức cảnh đẹp của “thôn Vĩ”.

Về thôn Vĩ để được “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Nhà thơ nói đến cây cau trước tiên vì cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân thẳng tắp, tán lá xanh tươi, gợi sự ngay thẳng thủy chung. Hình ảnh hàng cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, ấy là “Nắng hàng cau, nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” gợi cho ta ánh nắng ban mai, biểu tượng cho sức sống, niềm vui đang lan tỏa tràn đầy mặt đất. Trong ánh nắng ban mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lên lấp lánh như đang vươn lên hút lấy những ánh vàng rực rỡ

Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba cất lên như một tiếng reo thích thú biểu hiện sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ. Khung cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái được sự chăm sóc bởi bàn tay khéo léo, lại được tắm gội mưa gió thường xuyên, nên mượt mà và dưới ánh nắng ban mai lấp lánh như những viên ngọc bích. Hình ảnh so sánh của tác giả trong câu thơ vừa chính xác, vừa gợi cảm. Có thể nói, tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài hoa.

Chỉ bằng vài nét vẽ chấm phá, Hàn Mạc Tử đã phác họa được khung cảnh khu vườn một làng quê xứ Huế vừa quen thuộc, bình dị, vừa thi vị độc đáo. Ngắm vườn xứ Huế trong cái “nắng mới lên” thật thanh thản. Nhưng cảnh vật Vĩ Dạ bổng sinh động hẳn lên, khi bóng dáng con người xuất hiện:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.

Mặt chữ điền thường gợi về vẻ đẹp phúc hậu. trang trọng, quý phái, còn lá trúc gợi cái dáng vẻ mảnh mai, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa tả thực: thấp thoáng sau khóm trúc có khuôn mặt rất phúc hậu của ai đó hình như đang dõi theo khách đường xa, còn có ý nghĩa tượng trưng, cách điệu hóa.

Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh xinh xắn, thơ mộng, người phúc hậu quý phái. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Nhờ thế câu thơ đã làm bật được cái linh hồn vườn cây xứ Huế mà khổ thơ tập trung biểu hiện.

Tóm lại, bằng những chi tiết rất quen thuộc và bình dị, Hàn Mạc Tử đã khắc họa một bức tranh quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, có sự hài hòa giữa cảnh và người. Đoạn thơ làm khơi dậy trong tâm hồn người đọc biết bao nỗi niềm quê hương làng mạc Việt Nam.

Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của Huế: Dòng sông Hương và vẻ đẹp êm đềm trầm tư của Vĩ Dạ nói riêng và Huế nói chung.

Về với Vĩ Dạ, về với Huế, với núi Ngự, sông Hương, Hàn Mạc Tử cũng cảm nhận được cái linh hồn, cái nhịp điệu rất Huế ấy. Khung cảnh Huế dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử có sông nước, bờ bài, có gió, có mây và con thuyền ai đó đậu dưới trăng nơi bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh êm đềm, thơ mộng.

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Hai câu thơ tả cảnh nhưng thấm đẫm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia ly buồn vắng đến não nề. Phải chăng một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia li nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà sầu tủi, phân li? Bởi đang trong tâm trạng buồn như vậy nên nhìn vào đâu cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng đây lại đứt gãy, như là không có sự gặp gỡ.

Và ngay đến dòng nước vô tri kia cũng trở nên buồn hiu cùng với hoa bắp hiu hắt khẽ “lay”. Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh, mà dường như còn muốn tả cái nhịp điệu của cảnh. Đó là cái nhịp điệu êm đềm, lững lờ, nét trầm tư rất điển hình không nơi nào có được của Huế. Hai câu thơ có cái nhịp khoan thai chậm rãi cũng đã diễn tả rất thành công cái cảm xúc trên.

Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mạc Tử huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực, nửa hư như trong mộng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”

Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng và thuyền mới chở trăng. Ở đây Hàn Mặc Tử là con người có con mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật thì sự thật thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy sẽ sang địa hạc huyền diệu. Lời thơ của Tử thanh tao quá! Ngọt lịm cả người” (Bích Khê).

Trăng là biểu tượng cho cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên. Trăng cũng tượng trưng cho hạnh phúc thanh bình. Vì vậy, hình ảnh thơ của Hàn Mặc Tử đã khơi dậy trong trái tim người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mỹ và thánh thiện.

Hai câu thơ sau của khổ thơ thể hiện tâm trạng khát khao gặp gỡ đồng thời cũng thể hiện nỗi niềm lo âu. phấp phỏng về sự muộn màng. Chỉ một chữ “kịp” câu thơ cuối cùng đã nói lên điều đó.

Đến với khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình người tình đời thiết tha mà xa xăm vô vọng của tác giả.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”

Điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng khắc khoải nhớ mong tha thiết vừa diễn tả cái khoảng cách xa vời của mối tình đơn phương vô vọng. “Áo em trắng quá nhìn không ra” là một câu thơ khá đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh xứ Huế và cũng là màu gợi về sự thanh khiết trắng trong rất phù hợp với cô gái trong mộng tưởng. Cái màu trắng lại càng khó nhận ra khi lẩn vào sương khói hư ảo của Huế lắm nắng, nhiều mưa và sương khói của mối tình chưa có ước hẹn. Vì vậy, tình cảm của người con gái thôn Vĩ hôm nào có bền chặt cho chăng? “Ai biết tình ai có đậm đà?”.

Trong đau thương tột cùng mà nhà thơ vẫn có những phút giây thả hồn trong trẻo để hướng về một miền quê thân thiết và một mối tình đây mộng ảo để tạo nên một “viên ngọc thơ tuyệt vời, chói lọi nghìn năm” Chế Lan Viên .

Bài thơ cố nhiên có một xuất xứ, có một nguồn cảm hứng cụ thể, nhưng qua việc phân tích, ta thấy, tác phẩm đã vượt xa ranh giới của những gì cụ thể, đạt tới sự khái quát hóa nghệ thuật cao độ để đến với cuộc đời bao la.

Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử không chỉ là một bài thơ thể hiện tình yêu với một người con gái xứ Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là lời tâm sự thiết tha, là lời trăng trối của thi sĩ Hàn Mặc Tử về tình yêu day dứt và quá đỗi sâu nặng đối với cuộc đời này.

Sự sống trong thơ Hàn Mặc Tử được kết tinh từ một tâm hồn giàu yêu thương và khát vọng, Tố Hữu với bài “Từ ấy” cũng có mong ước về sự sống như vậy. Tuy nhiên, với Tố Hữu đó không phải tình yêu nam nữ mà là tình yêu đất nước, tâm hồn say mê lý tưởng và khát khao được cống hiến.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…

Bằng bút pháp tự sự kết hợp với trữ tình,đoạn thơ đã thể hiện tình cảm chân thành, trong trẻo và hết sức nồng nhiệt của một thanh niên lần đầu tiên tiếp nhận lý tưởng của Đảng,tìm được hướng đi đúng đắn cho cuộc đời mình.

Nhờ lý tưởng cộng sản,nhà thơ tìm ra “lẽ sống mới” của mình là tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với những người cùng khổ. Đó là lẽ sống gắn bó hài hòa giữa cái tôi riêng với cái ta chung của mọi người.

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Từ nhận thức về “lẽ sống mới” nhà thơ đã có sự chuyển biến sâu sắc về mặt tình cảm. Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình đế đến với giai cấp vô sản với tình cảm chân thành và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với những người trí thức tiểu tư sản.

“Dường như cả cuộc đời thơ Tố Hữu dành để ngợi ca đất nước, ngợi ca nhân dân, ngợi ca lí tưởng cách mạng thể hiện một cái tôi say mê với lý tưởng, một cái tôi công dân đầy trách nhiệm đối với nhân dân, đối với đất nước” (Nguyễn Đăng Mạnh)

Bài viết 🌸 Phân Tích Bức Tranh Thiên Nhiên Đây Thôn Vĩ Dạ 🌸 ấn tượng!

Liên Hệ Đây Thôn Vĩ Dạ Khổ 1 Chọn Lọc

Nếu bạn đang gặp khó khăn khi viết bài văn liên hệ khổ 1 trong bài “Đây thôn vĩ dạ” thì hãy dành thời gian tham khảo mẫu dưới đây:

Hàn Mặc Tử là hồn thơ đau thương nhưng là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Ông để lại cho văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như: Gái quê, Thơ điên, Chơi giữa mùa trăng Đặc sắc và gây xúc động nhất là bài Đây thôn Vĩ Dạ được trích trong tập Thơ điên. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.

Bài thơ mở đầu bằng một hoài niệm mênh mang về cảnh và người thôn Vĩ. Bức tranh thơ đẹp còn tình người thì tha thiết nhớ mong:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Có lẽ, với bất cứ ai khi đọc bài thơ này, cũng đều bị cuốn hút ngay từ câu thơ đầu với những băn khoăn, vừa như hờn dỗi, như trách yêu. Câu hỏi ấy chính là sự phân thân của nhà thơ, sự hóa thân của nhà thơ vào cô gái Huế. Chỉ một câu thôi, câu hỏi nhưng lại chan chứa yêu thương. Nhà thơ sử dụng từ chơi mà không sử dụng từ thăm. Nếu sử dụng từ thăm thì cấu trúc câu thơ không thay đổi nhưng nó trở nên khách sáo, từ chơi gợi nên sự thân mật, gần gũi thắm thiết, thân tình.

Mặt khác, sắc thái tu từ trong câu thơ đầu còn là lời tự hỏi, tự trách mình: sao cảnh Huế đẹp vậy mà mình không trở về ? Đó là một câu hỏi đớn đau, khắc khoải vì trở về Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của cơn bạo bệnh. Nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy là nguyên cớ để khơi dậy khao khát, hoài niệm. Vì không thể trở về nên nhà thơ đã làm một cuộc hành hương trong tâm tưởng.

Ba câu thơ tiếp theo là hình ảnh thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết. Cảnh sắc thôn Vĩ được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. Từ xa nhà thơ đã nhìn thấy nắng hàng cau nắng mới lên. Cau là loài cây cao nên đón ánh nắng đầu tiên của ngày mới. Không gian thôn Vĩ vì thế như được đẩy lên cao, thoáng đãng, khoáng đạt. Đặc biệt sau một đêm tắm gội dưới làn sương, những tàu cau trở nên xanh biếc hơn dưới ánh mặt trời. Cụm từ nắng mới lên cho ta thấy đó là ánh nắng của buổi ban mai thật rực rỡ, trong sáng.

Nhắc đến cau còn là nhắc đến loại cây rất thân thuộc với làng quê Việt Nam, nơi có phong tục ăn trầu từ ngàn đời nay. Nguyễn Bính một nhà thơ cảnh quê, hồn quê cũng đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên cái nền phong cảnh có hình ảnh thân cau quen thuộc ấy:

Nhà anh có một hàng cau
Nhà em có một giàn trầu

Trong bài thơ Hoa Lư nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết:

Đường cỏ lơ mơ nắng
Mái tranh chìm chơi vơi
Vài tán cau mộc mạc
Thả hồn quê lên trời

Ở khoảng cách gần, thôn Vĩ hiện lên bởi vẻ đẹp của khu vườn tràn đầy nhựa sống Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi (Lưu Trọng Lư). Tác giả dùng màu xanh như ngọc để diễn tả sức sống, vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, một màu sắc cao quý, lấp lánh và trong trẻo. Nếu không có một tình yêu nồng nàn đối với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ thi sĩ họ Hàn không thể gieo được những vần thơ trong trẻo đến như vậy.

Vườn ai không xác định nhưng ngầm hiểu đó là khu vườn cô gái Huế. Mướt là một tính từ khác với mượt bởi mượt chỉ gợi lên mịn màng mà mướt thì gợi sự sáng lên, tươi mới của cảnh vật. Xuân Diệu viết:

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền

Thủ pháp nghệ thuật so sánh xanh như ngọc. Xanh ngọc tức là xanh trong, màu xanh đi liền với ánh sáng nhưng không chói chang mà lại rất dịu, người đọc có thể hình dung vẻ đẹp của viên ngọc đính giữa bầu trời xứ Huế. Câu thơ với vườn ai mướt quá như một lời trầm trồ, thán phục, ngợi ca cũng như lời thầm cảm ơn chủ nhân của khu vườn đã dày công chăm bẵm cho khu vườn thêm đẹp.

Và cảnh vật thôn Vĩ càng đẹp hơn trước bởi sự xuất hiện hình bóng con người Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trúc một loài cây họ tre được trồng trước ngõ. Trong tâm tưởng thi nhân bất chợt hiện về khuôn mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc. Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi sự vuông vắn, phúc hậu.

Cũng viết về thôn Vĩ, nhà thơ Bích Khê viết:

Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc che cần trúc không buồn mà say

Viết về trúc, Hàn Mặc Tử không chỉ là Lá trúc che ngang mặt chữ điền mà còn là:

Thầm thì hỡi ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây

Thiên nhiên và con người có sự gắn bó, hòa quyện hấp dẫn tạo xúc động mạnh trong lòng nhà thơ. Nhà thơ đã ghi lại linh hồn của tạo vật với những gì đặc sắc, lắng đọng trong ký ức hoài niệm, trong nỗi niềm nhớ thương. Bằng việc miêu tả vẻ đẹp thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng thiết tha đằm thắm đối với cảnh và người xứ Huế. Tất cả ẩn chứa một sự nuối tiếc, một niềm khát khao trở về thôn Vĩ yêu thương.

Chọn lọc mẫu 🌸 Cảm Nhận Khổ 1 Đây Thôn Vĩ Dạ 🌸 thú vị!

Liên Hệ Đây Thôn Vĩ Dạ Khổ 2 Sưu Tập

Các bạn học sinh đừng bỏ qua bài văn liên hệ khổ 2 của bài “Đây thôn vĩ dạ” sau đây nhé!

Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) là một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Ông đã để lại cho kho tàng thơ ca Việt Nam nhiều tác phẩm hay được chú ý như Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín, Nắng vàng, Trên cầu Tràng tiền,…. Trong đó Đây thôn Vĩ Dạ được đánh giá là tác phẩm xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử thể hiện rõ nét tính cách thơ của ông.

Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ về tình yêu và khát khao cuộc sống. Nếu mở đầu bài thơ, người ta cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn người thi sĩ. Thì đến khổ thơ thứ hai, ta cảm nhận được sự hoài niệm, cùng tâm trạng lo âu của người thi sĩ. Đây là một trong những khổ thơ thể hiện chân thực nhất tâm lý tình cảm của người thi sĩ.

Nếu như ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng niềm lạc quan yêu đời thì sang khổ thứ hai, tâm trạng thi nhân dần có sự đổi khác, đó chính là lúc mặc cảm chia lìa hiện ra rõ nét dưới từng câu chữ:

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dòng sông Hương luôn chảy lững lờ, chậm rãi đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Thế mà trong đôi mắt Hàn Mặc Tử thì cảnh vật hiện lên chia lìa Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay“. Phép nhân hoá làm dòng sông như chở nặng nỗi sầu thương chất ngất của nhà thơ. Đó là lúc tâm cảnh đã nhuốm vào ngoại cảnh.

Nỗi buồn của thi nhân dường như phủ khắp cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa bắp Gió và mây là hai sự vật luôn sánh đôi với nhau như thuyền và nước nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử thì gió mây chia lìa. Chữ lay ấy như từ trong ca dao bay về đậu vào thơ Hàn Mặc Tử:

Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em

Không gian sông nước xứ Huế nhuốm màu sắc hư ảo. Nỗi buồn phủ khắp cảnh vật từ gió mây đến dòng nước và hoa bắp bên sông. Buồn đến não ruột, buồn đến mềm lòng. Gió và mây vốn gắn kết cũng đã có sự chia lìa đôi ngả, dòng sông mang đầy tâm trạng chảy về niềm tâm tưởng. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, đơn phương.

Hai câu thơ tiếp theo, thi nhân đưa người đọc vào cõi mộng. Vẫn là dòng sông Hương, là Huế thơ mộng nhưng không còn nắng, còn xanh của Vĩ Dạ mà trước mắt người đọc là không gian ngập đầy ánh trăng, con thuyền trở thành thuyền trăng, dòng sông thì sông trăng, bến thì thành bến trăng. Từ xưa đến nay, có thuyền trăng, bến trăng nhưng nay lại có sáng tạo sông trăng độc đáo của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Đọc câu thơ, người đọc có cảm tưởng như đang trôi vào cõi mộng, dường như đang sống trong khắc khoải hoài mong của thi nhân.

Đây không phải lần đầu Hàn Mặc Tử viết về trăng mà trong thế giới thơ ca của Hàn Mặc Tử, trăng là một người bạn, một người tình không thể thiếu trong đời sống tâm hồn thi nhân:

Trăng nằm sõng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi

Không gian đắm đuối toàn trăng cả
Anh cũng trăng mà em cũng trăng
Gió lùa ánh sáng vào trong bãi
Trăng ngập dòng sông chảy lãng lai

Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề

Thuyền ai phải chăng đó là con thuyền của cô gái Huế, con thuyền mà nhà thơ đang mơ ước chở trăng và phải chăng trăng chính là tình yêu mà nỗi chờ mong của Hàn Mặc Tử. Tối nay là tối nào, phải chăng đây là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ – khi mà cuộc sống của nhà thơ là cuộc chạy đua với thời gian. Tối nay phải chăng chính là ranh giới của sự sống và cái chết.

Có phải vì thế mà câu hỏi tu từ vang lên khẩn thiết: Có chở trăng về kịp tối nay?. Liệu rồi con thuyền ấy có cập bến bờ trước lúc Hàn Mặc Tử trở về với cõi vĩnh hằng hay không? Từ kịp vì thế mà chất chứa tâm trạng hoài mong và cả tin yêu lẫn bi kịch và hoài nghi của con người. Một niềm hy vọng đầy khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi nhân.

Với bút pháp tả cảnh gợi tình đầy tinh tế, hình ảnh chắt lọc, Hàn Mặc Tử đã mang đến cho người đọc một Đây thôn Vĩ Dạ gần gũi, thân thuộc. Đó là miền quê hương đất nước, một nơi gắn bó với tuổi thơ. Bài thơ còn là tiếng lòng của một trái tim yêu người, yêu đời mãnh liệt. Nhưng niềm tin yêu ấy lại sớm chìm trong vô vọng. Và khổ 2 trong Đây thôn Vĩ Dạ chính là sự chứng minh cho sự vô vọng ấy.

Khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ là sự hoài niệm của tác giả về nơi từng gắn bó với mình – dòng sông Hương và tâm trạng lo âu, phấp phỏng khi đợi chờ tri âm, tri kỷ. Đây có lẽ là khổ thơ hay thể hiện tâm trạng của tác giả trong chặng đường chờ đợi sự tri âm, sẻ chia.

Tham khảo 🌸 Cảm Nhận Khổ 2 Đây Thôn Vĩ Dạ 🌸 nâng cao!

Liên Hệ Đây Thôn Vĩ Dạ Khổ 3 Xuất Sắc

Cuối cùng là bài văn liên hệ mở rộng khổ 3 bài “Đây thôn vĩ dạ” xuất sắc nhất, bạn xem qua nhé!

Hàn Mặc Tử một trong ba nhà thơ đỉnh cao của phong trào thơ mới, là nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh. Các tác phẩm của ông đều được sáng tác với một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại trong đau đớn, luôn có sự giằng xé giữa tâm hồn và thể xác. Đặc biệt bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ đầy tâm trạng của ông giằng cho người mình yêu. Khổ thơ cuối bài là dòng tâm trạng mơ hồ, kì ảo.

Từ giọng khắc khoải da diết ở khổ 2 thì sang khổ 3 đã chuyển thành giọng gấp gáp, khấn khoản, niềm khao khát được gắn liền với hình bóng cụ thể:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.”

Hình bóng cụ thể lúc đầu là khách đường xa, lúc sau là em với tà áo trắng tinh khôi. Hình tượng giai nhân từ khách đường xa mà dần dần thành em với giấc mộng dài say đắm. Khách đã xa vời mà giờ đây khách đường xa lại càng xa xôi vậy mà mà gắn với nó là “mơ” lại càng hư ảo. Hàn Mặc Tử với mong muốn gặp được khách, gặp được giai nhân nhưng mong muốn ấy của ông sẽ không trở thành hiện thực bởi chỉ trong mơ ông mới dám mơ ước về điều ấy.

Ở câu thơ thứ hai thì “áo em trắng quá”. Từ “quá” chung sắc thái biểu cảm tiếng kêu phát hiện trầm trồ ngỡ ngàng về vẻ đẹp giai nhân hiện hữu.

Sắc trắng hiện ra không ít hai lần: trong văn học trung đại thì đó là cái trắng tang tóc, cái màu trắng đau thương, buồn dường như nói về sự ra đi, chia tay. Còn trong văn học hiện đại thì đó là một sắc trắng mới, tràn đầy màu sắc và tươi trẻ hơn. Đó là cái trắng tinh khôi, tinh khiết. Quả thực Hàn Mặc Tử đã có một quan niệm mới mẻ, một quan niệm thẩm mĩ cách tân, hiện đại.

Đó là sắc màu tinh khiết thánh thiện. Nó gắn với một kí ức xa xôi về người con gái gắn với sắc màu tinh khiết “nhìn không ra” cực tả sắc áo vừa gợi vẻ đẹp xa vời khó nắm bắt như thực mà lại như mơ nghĩa là có một nét vẻ đẹp mà nhà thơ mãi tôn thờ đang tuột dần khỏi tầm tay.

Nhưng đến hai câu thơ cuối:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.”

Chủ thể trữ tình trở về với thế giới thực của mình từ thế giới ngoài kia đầy xót xa với thực tại đau thương, đầy chia lìa với sự ám ảnh của cái chết:

“Tôi đang còn đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ xuống trời sâu.”

Hoặc:

“Trời hỡi bao giờ tôi chết đi
Bao giờ tôi hết được yêu vì.”

Ở đây – nơi nhà thơ dưỡng bệnh – nơi mà Hàn Mặc Tử luôn xem là lãnh cung giam lỏng mình. Ở đây và ngoài kia có xa xôi mấy đâu vậy mà một lần về thăm thôi cũng là điều không tưởng. Bởi thế câu thơ như vừa thực vừa mơ, còn kỷ niệm cứ chìm dần vào Huế – nơi đó giai nhân trong mộng đang lẫn trong màu khói sương của kỷ niệm. Hình bóng giai nhân ấy đã bao năm làm điên đảo mộng thi ca:

Trời hỡi làm sao cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp lỡ làng

Câu hỏi “Ai biết tình ai có đậm đà?” đã kết lại bài thơ một cách đầy khắc khoải. “Ai” động từ phiếm chỉ vang lên khiến câu thơ xa vắng có chút hụt hẫng có thể là tác giả hay người con gái. Chỉ biết rằng nó khép bài thơ lại trong nỗi buồn mênh mang khắc khoải đầy xót xa trong khát khao khôn nguôi về tình đời, tình người.

Câu thơ cuối có thể hiểu theo hai cách. Đó là người con gái xứ Huế có biết tình cảm của nhà thơ sâu đậm đến đâu hay nhà thơ có biết cô gái cũng có tình cảm với mình. Nhưng hiểu theo cách nào vẫn là chia sẻ thấu hiểu và được yêu thương dẫu cô đơn, đớn đau tuyệt vọng nhưng không thôi khao khát. Nhưng dù tuyệt vọng dù cô đơn đau đớn nhưng tác giả vẫn không nguôi đầy khát khao.

Cảm nhận về khổ cuối bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ta như chạm đến trái tim người đọc thấu hiểu được những ước mơ, khát vọng mà Hàn Mặc Tử muốn có dù nó rất đời thường nhưng với tác giả nó vô cùng thiêng liêng. Khổ thơ đã dạy ta cách trân trọng cuộc sống này hơn.

Xem thêm: Phân Tích Khổ 1 Đây Thôn Vĩ Dạ

Viết một bình luận