Giới Thiệu Một Tác Phẩm Văn Học [22+ Mẫu Thuyết Minh Hay]

Lưu lại ngay top 22+ mẫu bài văn giới thiệu một tác phẩm văn học ngắn gọn dưới đây để có thêm nhiều tư liệu ôn tập hữu ích.

NỘI DUNG BÀI VIẾT

Cách Giới Thiệu Một Tác Phẩm Văn Học

Đầu tiên sẽ là phần thông tin hướng dẫn về cách giới thiệu một tác phẩm văn học ngắn gọn nhất.

– Giới thiệu được tác phẩm cần thuyết minh (nhan đề, tên tác giả, đánh giá chung).

– Giới thiệu khái quát về tác giả.

– Nêu được hoàn cảnh sáng tác, đặc điểm thể loại; tóm tắt được nội dung tác phẩm.

– Nêu thông tin cơ bản về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

– Khẳng định vị trí, đóng góp của tác phẩm đối với đời sống văn học.

– Có lồng ghép các yếu tố miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận.

Ngoài bài giới thiệu một tác phẩm văn học, xem thêm mẫu 🍃 Giới Thiệu Về Nhân Vật Tràng 🍃

Dàn Ý Thuyết Minh Về Tác Phẩm Văn Học

Tiếp theo là mẫu dàn ý thuyết minh về tác phẩm văn học đơn giản để các em triển khai bài văn logic.

I. Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.

II. Thân bài

  • Giới thiệu ngắn gọn về quê quán, gia đình, con người và sự nghiệp văn chương của tác già.
  • Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác và thể loại của tác phẩm.
  • Trình bày giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.
    • Với tác phẩm thơ, cần chú ý nghệ thuật trữ tình, ngôn ngữ và giọng điệu
    • Với tác phẩm truyện, chú ý cách tạo dựng tình huống, tổ chức cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật,…

III. Kết bài: Khẳng định đóng góp của tác phẩm cho nền văn học hoặc cho đời sống văn hoá của đất nước và thế giới.

Gợi ý thêm 📌 Giới Thiệu Về Nhân Vật Mị 📌ngoài bài giới thiệu một tác phẩm văn học

22+ Mẫu Thuyết Trình Giới Thiệu Một Tác Phẩm Văn Học Hay Nhất

Cuối cùng, SCR.VN muốn chia sẻ đến bạn 22+ mẫu thuyết trình giới thiệu một tác phẩm văn học hay nhất để có được những thông tin hay về tác phẩm.

Giới Thiệu Một Tác Phẩm Văn Học Hoặc Nghệ Thuật Yêu Thích

Các bạn ơi, chắc hẳn mỗi người chúng ta đã từng đọc hoặc học về một bài thơ viết về mùa xuân đúng không nào? Mình nhớ chúng ta đã từng học đoạn trích “Cảnh ngày xuân” (trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du) và bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải. Hôm nay, mình sẽ giới thiệu tới các bạn một bài thơ cũng viết về mùa xuân, đó là bài thơ “Mùa xuân chín” của tác giả Hàn Mặc Tử.

Đọc nhan đề bài thơ, mình thấy sự kết hợp tinh tế giữa danh từ “mùa xuân” với động từ chỉ trạng thái “chín”. Nhan đề ấy đã khiến mình hình dung về khung cảnh mùa xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh. Mạch cảm xúc ấy được khắc họa rõ nét qua các hình ảnh thơ và ngôn ngữ tinh tế.

Đầu tiên, ở khổ thơ thứ nhất, hình ảnh thơ “làn nắng ửng”, “khói mờ tan”, “bóng xuân sang” đã gợi ra khung cảnh mùa xuân ấm áp. Biện pháp nhân hóa “gió trêu tà áo biếc” kết hợp với từ láy “sột soạt” và phép đảo ngữ “Sột soạt gió trêu tà áo biếc” cho thấy những tinh tế trong quan sát của nhà thơ khi xuân đến. Ngọn gió không còn là vật vô tri vô giác mà trở nên sống động với âm thanh tình tứ, đang trêu đùa tà áo biếc. Ngoài ra, biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “bóng xuân sang” còn góp phần miêu tả dáng điệu nhẹ nhàng của mùa xuân.

Trên nền thiên nhiên mùa xuân căng tràn sức sống còn xuất hiện hình ảnh con người “Bao cô thôn nữ hát trên đồi”. Lắng nghe tiếng hát ấy, nhân vật trữ tình càng thêm tiếc nuối trước độ xuân thì của người con gái “- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc cuộc chơi”. Biện pháp ẩn dụ “xuân xanh” kết hợp cùng các từ láy “hổn hển”, “vắt vẻo” và biện pháp nhân hóa “tiếng ca vắt vẻo”, so sánh “hổn hển như lời nước mây” đã mang đến cho người đọc vẻ duyên dáng của người con gái. Vẻ đẹp ấy hòa trong tiếng hát trầm bổng, thiết tha như tô đậm khung cảnh thiên nhiên căng tràn sức sống.

Đặc biệt, trong khổ thơ cuối, mình cảm nhận được tâm trạng chùng xuống của nhân vật trữ tình – “khách xa”. Từ láy “bâng khuâng” gợi ra cảm xúc lâng lâng, xen chút buồn tiếc nuối trong lòng. Nhưng rồi, nhân vật trữ tình lại có sự chuyển biến đột ngột trong cảm xúc khi “sực” nhớ làng và “- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc theo bờ sông trắng nắng chang chang?”. Câu hỏi cuối bài thơ cùng đại từ nhân xưng không cụ thể “chị ấy” đã phác họa nỗi niềm cô đơn, hụt hẫng cùng tấm lòng nhớ quê hương của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Qua bài thơ “Mùa xuân chín”, mình thấy được nét độc đáo trong hình thức nghệ thuật như cách tổ chức ngôn ngữ và hình ảnh thơ độc đáo, kết hợp với nhiều biện pháp nhân hóa, cách gieo vần chân (“vàng-sang, “trời-chơi”,…). Bên cạnh đó, bài thơ đã vẽ nên bức tranh mùa xuân từ những chất liệu như âm thanh, hình ảnh, màu sắc sống động của thiên nhiên và con người. Đọc bài thơ, chúng ta không khỏi rung động trước tình yêu thiên nhiên tha thiết cùng khát khao giao cảm với đời, với người của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Trên đây là bài trình bày của em về bài giới thiệu về tác phẩm nghệ thuật cảm ơn thầy/cô và các bạn đã lắng nghe. Rất mong nhận được sự góp ý từ phía thầy/cô và các bạn.

Giới Thiệu Một Tác Phẩm Văn Học Theo Lựa Chọn Cá Nhân Đơn Giản

Truyện ngắn “lão Hạc” của Nam Cao là một trong những tác phẩm được đánh giá cao trong thời kì kháng chiến chống pháp. Truyện ngắn Lão Hạc lột tả hết sức chân thật về hoàn cảnh, sự bất công, nỗi thống khổ của lão Hạc nói riêng và người nông dân nói chung khi phải chịu cả hai sự áp bức của cả thời phong kiến và của thực dân Pháp. Lão Hạc là tác phẩm của lòng nhân ái và sự hi sinh cao cả, bên cạnh đó tác phẩm còn thể hiện được sự yêu thương trân trọng của nhà văn Nam cao đối với người nông dân và người lao động.

Truyện ngắn Lão Hạc kể về một người nông dân nghèo nhưng nhân hậu và chất phác. Lão Hạc là một người quá vợ, sống cùng với con trai, và tài sản duy nhất của họ là mảnh vườn vỏn vẹn ba sào đất. Vì không có tiền cưới vợ nên anh con trai lão giục lão bán đi mảnh vườn nhưng lão nhất quyết không chịu vì “bán ruộng đi cưới vợ về thì ở đâu?” vả lại “bán cũng không đủ tiền để lấy vợ”, không chịu nổi hoàn cảnh nghèo khó nên anh con trai lão Hạc đã quyết định đi làm cao su, đi biền biệt ba, bốn năm không về.

Hằng ngày lão lủi thủi đi làm công, chắt chiu từng đồng, mặc dù sống nghèo đói thế nhưng lão Hạc vẫn nhất quyết không chịu bán đi mảnh vườn ấy, vì đó là tài sản duy nhất mà lão muốn để lại cho con trai lão. Làm bạn với lão duy nhất bây giờ chỉ có mỗi ông Giáo và chú chó nhỏ mà con trai lão mua trước khi đi, cậu Vàng. Lão Hạc xem cậu Vàng như con trai mình, mỗi khi lão uống rượu thì nó nằm cạnh bên, lão ăn gì nó ăn nấy, thỉnh thoảng lão ôm nó bắt ve, có nó thì đời sống của lão hạc cũng bớt buồn tẻ.

Rồi lão ốm, ốm một trận đến tận hai tháng, mười tám ngày, tiền bạc lão Hạc dành dụm để lo cưới cho cậu con trai đều sạch nhẵn, lão yếu đi việc nặng không làm nổi, việc nhẹ thì đã có phụ nữ làm, không còn ai thuê lão hạc nữa, cuộc sống đã khổ nay còn túng thiếu hơn. Lão hạc đã đưa ra một quyết định đau lòng đó là bán đi cậu Vàng, người thân duy nhất ở bên cạnh lão.

Giờ thì người bạn duy nhất của lão hạc chỉ còn lại ông Giáo, lão mang tất cả tài sản của mình là ba sào ruộng, và hai mươi nhăm đồng lão chắt chiu được và cả năm đồng bán cậu Vàng gửi cả cho ông Giáo, mảnh vườn lão để lại cho con, còn tiền thì lão để làm ma chay cho mình vì “lão già yếu lắm rồi, con thì không ở nhà, lỡ chết mà không ai đứng ra lo thì lại làm phiền làng xóm, lão chết không nhắm mắt được”. Đấy lão hạc lo xa thế đấy, đến cả lúc nhắm mắt xuôi tai thì vẫn sợ làm phiền hàng xóm, một đức tính thật cao đẹp.

Bao nhiêu tiền lão hạc đều đưa hết cho ông giáo, không còn tiền để ăn lão suốt ngày chỉ ăn khoai, khoai hết lão chế được món gì thì ăn món nấy, hôm thì ăn rau má và cả sung luộc. Mỗi khi ông Giáo ngỏ ý muốn giúp thì lão lại gạt phăng đi, từ chối.

Đến khi không còn gì để ăn lão hạc tìm đến binh Tư, một người chuyên nghề ăn trộm, để xin ít bả chó. Binh tư thậm chí đến cả ông Giáo đều coi thường lão, nghĩ lão đã túng quẫn đến mức phải theo gót Binh Tư để có cái ăn. Nhưng đến khi ông Giáo sang nhà lão Hạc thì mọi chuyện mới vỡ lẽ, lão Hạc tóc tai bù xù, vật vã, bọt mép sùi ra, khắp người co giật, lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết, ngoài binh Tư và ông Giáo thì không còn ai biết lão hạc đã chết như thế nào.

Vậy nên trong cuộc sống này ta thấy còn rất nhiều điều cần đáng được trân trọng, Lão Hạc mặc dù thuộc tầng lớp nghèo khổ nhất trong xã hội cũ nhưng tấm lòng của lão lại cao đẹp biết bao, lão sợ làm phiền ông giáo, làm phiền bà con xung quanh, và sợ sẽ bòn tiền mà lão dành dụm lại cho con trai mình nên mới chọn cách ra đi như vậy. Truyện ngắn “ Lão hạc”của Nam Cao là một tác phẩm mang đậm tính nhân văn, và hết lòng ca ngợi những phẩm chất cao quý của người lao động.

Share đến bạn bài 🍂 Thuyết Minh Về Truyện Ngắn Lão Hạc  🍂ngoài bài giới thiệu một tác phẩm văn học

Giới Thiệu Một Tác Phẩm Văn Học Và Một Tác Phẩm Nghệ Thuật Theo Lựa Chọn Cá Nhân Ngắn

Xin chào cô và các bạn. Mình là Phương Thảo. Sau đây mình sẽ giới thiệu với tất cả mọi người một tác phẩm văn học mà bản thân tâm đắc. Đó là truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.

Câu chuyện kể về tình cha con cảm động giữa ông Sáu và bé Thu. Ông Sáu tham gia cách mạng từ khi đứa con gái chưa đầy một tuổi. Ở nơi chiến trường, ông luôn nhớ con và mong muốn được gặp con. Ngày được về nghỉ phép, anh được nghỉ phép ba ngày. Ngày trở về, ông háo hức vô cùng. Nhưng trái ngược với sự mong chờ của ông, bé Thu khi nghe tiếng gọi lại giật mình và bỏ chạy.

Điều đó khiến cho người cha vô cùng buồn và thất vọng. Những ngày nghỉ phép ở nhà, ông Sáu không dám đi đâu mà chỉ muốn bên con nhiều hơn. Trước tình cảm của ông, bé Thu vẫn không chịu cất tiếng gọi cha. Bởi vì ông Sáu không giống với người cha mà bé Thu thấy trong tấm hình. Nhưng sau khi được bà ngoại giải thích, bé Thu cũng đã hiểu mọi chuyện. Ngày mà nó nhận ra cha cũng là ngày chia li. Ở nơi chiến trường, ông Sáu luôn nhớ con, dồn hết tâm sức tỉ mỉ làm cho con chiếc lược ngà. Nhưng chưa kịp trao tận tay cho con thì ông đã hi sinh.

Chi tiết cảm động nhất trong tác phẩm có lẽ là cảnh hai cha con phải chia xa. Giây phút bé Thu “hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa” đã thể hiện tình yêu cha tha thiết. Nó hôn lên vết thẹo dài trên má như một sự chuộc lỗi với cha. Chứng kiến tình cảm của hai cha con khiến cho ai nấy cũng có thể rưng rưng xúc động.

Điều mình muốn nói với tất cả mọi người không chỉ là tình cha con trong tác phẩm mà đó còn là tình cảm gia đình trong cuộc sống ngày hôm nay. Đây là một điều thiêng liêng không gì có thể so sánh được. Vậy nên mỗi chúng ta cần biết yêu thương, trân trọng gia đình. Bởi lẽ có những thứ một khi mất đi rồi sẽ không bao giờ lấy lại được.

Bài nói của mình đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã chú ý lắng nghe. Mình rất mong nhận được những góp ý từ mọi người.

Share bài 💕 Phân Tích Chiếc Lược Ngà 💕bên cạnh bài giới thiệu một tác phẩm văn học

Giới Thiệu Một Tác Phẩm Văn Học Hoặc Một Tác Phẩm Nghệ Thuật Mà Em Yêu Thích

Nguyễn Trãi là một trong những nhà tư tưởng lớn của dân tộc. Ông là một con người tài hoa, xuất chúng không chỉ trong lĩnh vực chính trị, quân sự mà còn trong cả thi ca, văn học. Ông sở hữu đồ sộ những công trình được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm mang ý nghĩa, tầm vóc to lớn với tấm lòng yêu nước thương dân cùng tư tưởng lấy dân làm gốc trong từng tác phẩm của mình. Một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông chính là tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”.

“Bình Ngô đại cáo” được viết bởi Nguyễn Trãi khi ông thừa lệnh của lãnh tụ Lê Lợi sau chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn, công bố trước nhân dân về nền độc lập dân tộc và ca ngợi chiến thắng hào hùng của đất nước ta. Tác phẩm được xem như là một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước ta, mở ra một thời kỳ độc lập, đập tan đi cái bóng đen u tối và mở ra một thời kỳ thịnh vượng, tươi sáng phía trước của dân tộc.

“Bình Ngô đại cáo” là thể cáo bắt nguồn từ đất nước Trung Hoa cổ đại. Ngược dòng thời gian, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra thể cáo đã từng là một thể loại văn học thịnh hành một thời, là thể văn thường được vua, chúa, thủ lĩnh thông báo tới toàn thể nhân dân hay là quan lại dùng để trình bày, báo cáo, kiến nghị lên cấp trên của mình.

Bằng với tài hoa của mình, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhuần nhuyễn lối văn biền ngẫu cùng kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc sáo để hoàn thành bài cáo này. Có thể nói, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không chỉ hội tụ đầy đủ những yếu tố căn bản nhất của thể cáo mà còn là kết tinh của tinh hoa văn học nước nhà.

Bài cáo được chia làm bốn phần. Phần một là nêu lên tư tưởng nhân nghĩa phát xuất từ trong chính tầng lớp nhân dân. Phần hai là vạch trần, là tố cáo tội ác dã man, sự tàn bạo, điên cuồng của bọn giặc Minh khi chúng lấy việc sát hại sinh mệnh của con người như thú vui của mình. Từ đó, làm nổi bật lên sự căm phẫn trong làn sóng đấu tranh của nhân dân, tinh thần yêu nước bất khuất và ý chí chiến đấu sục sôi trong huyết mạch của con cháu Lạc Hồng.

Phần ba là tái hiện là quá trình thành lập, chinh chiến với khởi đầu vất vả, khốn khó của nghĩa quân cũng như nổi bật lên tài trí chiêu mộ quân sĩ, tập hợp lương thảo của lãnh tụ Lê Lợi. Nhờ vậy mà quân ta từng bước từng bước chiếm cứ được tiên cơ, giành được thắng lợi huy hoàng và ép quân Minh phải thừa nhận thua cuộc, rút quân về nước. Và phần cuối là lời tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, kết thúc những năm tháng tang thương, đau khổ của quân và dân, khẳng định lại nền độc lập, hòa bình của dân tộc cũng như niềm tin vững chắc về tương lai tươi sáng ở phía trước.

Là một tác phẩm thành công về nội dung và ấn tượng về nghệ thuật. Bài cáo là sự kết hợp độc đáo và nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và trữ tình cùng với những hình tượng nghệ thuật độc đáo, sinh động, để lại trong tâm trí người đọc ấn tượng đậm nét. Bài cáo mang giọng ca hào hùng, linh hoạt, đầy tự hào khi kể về truyền thống văn hóa, khi nói về lịch sử chiến đấu của dân ta qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.

“Bình Ngô đại cáo” xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt Nam trong chiều dài của văn học lịch sử nước nhà. Với tác phẩm này, Nguyễn Trãi xứng đáng trở thành một danh nhân văn hóa xuất sắc của dân tộc và là niềm tự hào, là vị trí hướng đến của các thế hệ nghệ sĩ Việt Nam chân chính.

Top mẫu 🌺  Thuyết Minh Về Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo 🌺 ngoài bài giới thiệu một tác phẩm văn học

Giới Thiệu Một Tác Phẩm Văn Học Hoặc Một Tác Phẩm Nghệ Thuật Mà Bạn Yêu Thích

Chỉ là một truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông dân, nhưng Chí Phèo là sự tổng hợp, sự kết tinh của ngòi bút Nam Cat về đề tài này. Nếu như Nam Cao có thể được coi là “nhà văn của nông dân” , cùng với Ngô Tất Tố, thì trước hết vì ông có Chí Phèo.

Khác với truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực được phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.

Những năm 1940 – 1945, nông thôn vẫn là một đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo chiều hướng khác nhau. Trước hết là đi vào phong tục tập quán dân quê, sự lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác, cô cậu và những đứa cháu bên nội, bên ngoại.

Trên bối cảnh chung của văn học hiện thực thời kì 1940 – 1945, Chí Phèo là một hiện tượng đột xuất. Giống như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông tố…. thời Mặt trận dân chủ, Chí Phèo cũng là “bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt”. Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn, đa dạng nhiều màu sắc của bức tranh về đời sống xã hội nông thôn.

Song, dựng lên bức tranh xã hội ở nông thôn, Nam Cao trước hết tập trung nổi bật mối xung đột giai cấp đối kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị và người nông dân bị áp bức bóc lột. Tức là, cũng như tác giả Tắt đèn, Bước cùng…. Nam Cao đã phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp.

Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình khá hoàn chỉnh về giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn: Bá Kiến.

Cảnh mở đầu đột ngột của thiên truyện đó chẳng những đã giới thiệu hấp dẫn tính cách độc đáo của nhân vật mà còn hé thấy tình trạng bi đát của một số phận. Chí Phèo trước hết là một hiện tượng có tính quy luật, tính phổ biến, sản phẩm của tình trạng áp bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Đây là hiện tượng những người nông dân lao động bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh.

Bá Kiến đẩy anh canh điền hiền lành vào tù; nhà tù thực dân – chỗ dựa tin cậy của bọn phong kiến trong việc đàn áp nông dân – đã tiếp tay lão cường hào để giết chết phần người trong con người Chí, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người nông dân lương thiện thành một con quỷ dữ. Với ngòi bút hiện thực tỉnh táo ông vạch ra rằng, những người nông khốn khổ phải giành lấy sự tồn tại sinh vật bằng việc bán cả nhân phẩm ấy, đã trở thành lực lượng phá hoại mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị thâm độc lợi dụng,

Vì thế mà Chí Phèo từ chỗ hung hăng đến nhà Bá Kiến, tuyên bố “liều chết với bố con” lão, chỉ cần mấy câu nói ngọt xớt, chuỗi cười Tào Tháo và mấy hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mới của lão. Hiện tượng mỉa mai, đau xót rất phổ biến và có tính quy luật mà ngòi bút phân tích xã hội sâu sắc Nam Cao đã vạch ra.

Giá trị điển hình, sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết là ở chỗ làm nổi bật lên cái hiện tượng có tính quy luật vẫn hằng diễn ra ở xã hội nông thôn đầy bất công và tội ác đương thời đó. Vấn đề của Chí Phèo là vấn đề nông dân – với ý nghĩa đó, vẫn có thể nói Chí Phèo là một hình tượng điển hình về nông dân.

Truyện ban đầu được tác giả đặt tên là Cái lò gạch cũ; hình ảnh cái lò gạch cũ được xuất hiện ở phần mở đầu và cả khi kết thúc truyện. Rõ ràng đó là ý nghệ thuật của Nam Cao. Cái lò gạch cũ như là một biểu tượng về sự hiện tất yếu của hiện tượng Chí Phèo, gắn liền với tuyến chủ đề chính của tác phẩm.

Câu chuyện mối tình Chí Phèo – Thị Nở quả là hấp dẫn đặc biệt. Song mặc dù giọng văn bông lớn, có lúc như chế giễu, mặc dù đối với một số người, đó là sự hấp dẫn của loại truyện tình bờ hụi của hạng nữa người ngợm, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, “đôi lứa xứng đôi”, thì đây vẫn thật sự là truyện có một nội dung hết sức nghiêm túc, chứa đựng một tư tưởng nhân đạo thật mới mẻ, độc đáo đem lại cho tác phẩm một tầm vóc bất ngờ.

Tư tưởng nhân đạo và hút lực phi thường đó còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy hấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt hấp dẫn; không phải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính kịch, biến hóa khôn lường, mà còn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm.

Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như là một bi kịch số phận, song nếu hiểu cho chặt chẽ, chính xác thì chỉ từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khao khát trở lại làm người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí Phèo mới thật sự rơi vào tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người.

Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn, khao khát lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện đã không thực hiện được. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ vừa mang sắc thái triết học và âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đời sững sờ và day dứt không thôi…”Ai cho tao lương thiện?”.

Làm thế nào để con người được sống cuộc sống con người? Đó là “một câu hỏi lớn không lời đáp chẳng những Bá Kiến không thể hiểu mà xã hội khi ấy cũng chưa thể trả lời Câu hỏi ấy được đặt ra một cách bức thiết, day dứt trong hầu như toàn bộ sáng tác Nam Cao trước cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn, độc đáo, khiến cho nhiều sáng tác của Nam Cao – trước hết là Chí Phèo – thuộc vào những trang hay nhất của nền văn xuôi Việt Nam.

Tham khảo trọn bộ mẫu văn 📌 Phân Tích Chí Phèo 📌ngoài giới thiệu một tác phẩm văn học

Giới Thiệu Một Tác Phẩm Văn Học Hoặc Một Tác Phẩm Nghệ Thuật Theo Lựa Chọn Cá Nhân Đặc Sắc

Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Nếu như “Bình Ngô đại cáo” của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì bài thơ “Cảnh ngày hè” là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.

Mở đầu bài thơ “Cảnh ngày hè” là sáu câu thơ miêu tả cảnh ngày hè:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng Ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Tác giả đã đón nhận cảnh ngày hè trong tư thế ung dung thoải mái nhất khi ở ẩn, lúc nhà vua không còn trọng dụng tới nữa. Bức tranh cảnh ngày hè được vẽ lên thật rực rỡ và tươi đẹp với nhiều màu sắc. Đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau. Tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè.

Không chỉ cảm nhận bằng thị giác, Nguyễn Trãi còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác khướu giác và tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông thấy mùi hương của ao sen, thấy âm thanh “lao xao” của làng chài, “dắng dỏi” của tiếng ve. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị.

Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, “lao xao”, “dắng dỏi”. Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả – ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng thân thuộc gần gũi với cuộc sống hằng ngày.

Hai câu cuối của bài thơ đã được Nguyễn Trãi gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước.

Bài thơ “Cảnh ngày hè” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có chen hai câu thơ lục ngôn. Tuy vậy, nhà thơ lại không tuân theo bố cục: Đề – Thực – Luận – Kết của thể thơ Đường luật. Chính vì thế, bài thơ mang nét đặc sắc riêng của một nhà thơ kiết xuất của dân tộc Việt Nam. Không chỉ thế, bài thơ còn có hình ảnh hoa lựu khiến ta liên tưởng tới hai câu thơ của Nguyễn Du:

“Đầu tường hoa lựu lập lòe đơm bông”

Câu thơ của Nguyễn Du mang đậm chất tạo hình nhưng câu thơ của Nguyễn Trãi lại thể hiện được cá tính về nhiệt huyết của mình. Điều đó cho thấy rõ hơn tài năng của Nguyễn Trãi về thơ văn.

Bài thơ “Cảnh ngày hè” đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.

Tham khảo ✅ Phân Tích Cảnh Ngày Hè Nguyễn Trãi 

Giới Thiệu Một Tác Phẩm Văn Học Hoặc Một Tác Phẩm Nghệ Thuật Theo Lựa Chọn Cá Nhân Bài Cõi Lá

Đỗ Phấn bén duyên với văn chương khá muộn bởi ông vốn là một họa sĩ. Nhà văn tự nhận mình là một kẻ “tay ngang” trong văn chương bởi ông không học qua một trường lớp chuyên nghiệp nào. Ông viết về Hà Nội bằng một tình yêu tự nhiên và tha thiết.

Mở đầu tản văn là cảm xúc mãnh liệt của tác giả khi mùa xuân tới: “Bẽ bàng mùa xuân đến muộn. Khi cái nắng đã chao chát trên những lộc non báo hiệu mùa hè, chẳng hiểu vì sao lòng người bỗng rộn ràng đến thế. “Òa thức” là sự sáng tạo từ rất riêng của Đỗ Phấn diễn tả trạng thái bừng tỉnh đầy bất ngờ và mạnh mẽ. Tác giả ngắt câu văn một cách đột ngột, để động từ “Òa thức” ở đầu câu càng nhấn mạnh sự khoan khoái, tràn đầy sức sống của con người và thiên nhiên.

Nhà văn miêu tả đến những cây xà cừ. Nói về loài cây này, nhà văn dành cho nó những lời “giận hờn”: “Những tưởng vô duyên đến như cây xà cừ là cùng. Cứ như người đàn bà phổng phao nhạt hoét. Chỉ được mỗi ưu điểm về kích thước. Và cũng lại là nhược điểm. Mùa mưa bão rất mất công cắt tỉa bớt cành phòng khi bị đổ”. Lối so sánh “như người đàn bà phổng phao nhạt hoét” khiến câu văn trở nên đậm tính khẩu ngữ đời thường. Chi tiết này cho thấy sự am hiểu tường tận, vốn sống phong phú của nhà văn về thiên nhiên và con người Hà Nội.

Cây xà cừ đem lại cho Đỗ Phấn ấn tượng về kích thước to lớn, khiến mùa mưa bão con người trở nên vất vả vì phải tỉa bớt cành lá. Thế nhưng, “Thân hình cường tráng và lá cành rậm rạp đến thế của cây lại vô cùng yếu mềm trước một heo may đến sớm. Ngập cả lối đi những lá xanh chen lẫn lá vàng làm nên một mùa thu quyến rũ từng bước chân người”. Nhà văn dành cho thiên nhiên cái nhìn trân trọng, yêu thương, tinh tế phát hiện những vẻ đẹp nên thơ ở cây cối như người ta kĩ càng soi chiếu tâm hồn con người.

Cuối cùng, kết thúc tản văn, nhà văn nhấn mạnh tình cảm của mình dành cho “Cõi lá” mộng mơ của Hà Nội: “Miên man trong cõi lá mùa xuân thành phố, gương mặt ai ai cũng như có phần trẻ lại. Hay tự nhận rằng mình như thế?”. Quả thực, đối với nhà văn cũng như rất nhiều người con Hà Nội, những hàng cây, vòm lá đã trở thành một nét văn hóa mang đậm bản sắc của Thủ đô. Hà Nội luôn chộn rộn, luôn hối hả nhưng ngay giữa những phố phường đông đúc, ta vẫn luôn có những “Cõi lá” để ghé vào nghỉ ngơi, trẻ hóa tâm hồn.

Tản văn “Cõi lá” đậm chất trữ tình nên thơ, thể hiện rõ đặc trưng văn phong tài hoa, nhẹ nhàng, thanh lịch, tinh tế cùng tình yêu thiên nhiên, con người Hà Nội tràn đầy của Đỗ Phấn. Những từ láy giàu sức gợi hình, những lối so sánh và liên tưởng phong phú, ngôn ngữ trong sáng mà gần gũi, giọng văn tràn đầy cảm xúc đã góp phần giúp nhà văn miêu tả khung cảnh Hà Nội mùa xuân.

Cái tôi Đỗ Phấn thực sự là một cái tôi lãng mạn. Viết về Hà Nội có Thạch Lam, Vũ Bằng và nay ta có thêm Đỗ Phấn – “người sống đầy, nhớ dai. Nhiều thứ người ta quên, đọc văn Đỗ Phấn lập tức nhớ lại, nhớ tường tận và tỉ mỉ, thậm chí nhớ cả một quãng đời”.

Giới Thiệu Một Tác Phẩm Văn Học Hoặc Một Tác Phẩm Nghệ Thuật Theo Lựa Chọn Cá Nhân Truyện Kiều

Truyện Kiều là một trong những truyện thơ nổi tiếng nhất và xét vào hàng kinh điển trong Văn học Việt Nam. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, theo thể lục bát, gồm 3254 câu. Giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm được Nguyễn Du thể hiện một cách nhẹ nhàng mà vẫn sâu sắc vô cùng.

Giá trị nội dung của truyện được thể hiện qua giá trị hiện thực và nhân đạo. Giá trị hiện thực của tác phẩm là phản ánh hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị. Sức mạnh của đồng tiền và số phận những con người bị áp bức, nạn nhân của đồng tiền, đặc biệt là người phụ nữ. Phơi bày hiện thực xã hội phong kiến bất công.Phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ.

Gia đình nhà Vương Ông đang sống bình yên, chỉ vì một lời không đâu vào đâu của thằng bán tơ “vu oan giá hoạ”, thế là cuộc sống yên lành bị phá vỡ, tai hoạ ở đâu ập xuống nhà Kiều. Để từ đó, khiến cho cuộc đời Kiều phải rẽ hướng, hướng đi mới của số phận Kiều nghiệt ngã, đau đớn, tủi hổ vô cùng

Bên cạnh đó Truyện Kiều còn lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người, đề cao tự do và công lí. Thuý Kiều điển hình cho người phụ nữ trong xã hội xưa, mười lăm năm lưu lạc của nàng là một chuỗi bi kịch. Dường như bao nhiêu nỗi cực khổ của người đàn bà thời trước đều ập xuống vai nàng. Từ một cô tiểu thư khuê các, Kiểu trở thành hàng hoá để cho người ta mua bán, rồi Kiều bị lừa gạt bị rơi vào lầu xanh tới hai lần, đem thân đi làm lẽ, làm đứa ở, rồi bị đánh đòn, lăng nhục trở thành tội phạm ở công đường, bị sỉ nhục, đày đọa khiến cuối cùng phải tự vẫn. Cuộc đời Thuý Kiều là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo xã hội phong kiến bất nhân.

Giá trị nhân đạo được thể hiện trước hết là sự trân trọng đề cao con người từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng khát vọng đến ước mơ và tình yêu chân chính. Mặt khác Truyện Kiều còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người đặc biệt là người phụ nữ. Nguyễn Du như khóc cùng tiếng đàn và cuộc đời của Thuý Kiều, ông cũng bày tỏ thái độ trân trọng Kiều cho dù có lúc nàng đã là hạng người dưới đáy của xã hội.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du còn ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người: vẻ đẹp tài sắc, trí tuệ thông minh,lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, ý thức vị tha, đức thủy chung. Thúy Kiều, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó.

Truyện Kiều còn là tiếng nói lên án các thế lực tàn bạo,chà đạp lên quyền sống con người. Thế lực tàn bạo đó, khi là bộ mặt bọn quan lại tham lam, đê tiện, bỉ ổi, bọn người bất lương tàn bạo đã phát huy tất cả sức mạnh của nó, đổi trắng thay đen, biến con người thành thứ hàng hóa để mua bán.

Nghệ thuật làm thơ lục bát đến đỉnh cao. Khéo léo trong cốt truyện chặt chẽ về nhân vật, tình huống. Vận dụng tài tình các câu ca dao, tục ngữ vào truyện đã khiến cho tác phẩm thêm hấp dẫn, gắn bó sâu sắc trong kí ức của bao thế hệ. Với những giá trị nội dung và nghệ thuật sâu sắc đó đã giúp cho tác phẩm trở thành bất hủ với thời gian, với trái tim bạn đọc.

Xem thêm mẫu 🍃 Phân Tích Truyện Kiều Nguyễn Du 🍃

Giới Thiệu Về Một Tác Phẩm Văn Học Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về dòng sông Hương trữ tĩnh, thơ mộng của Huế. Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy qua dòng thành phố Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tài tình khi lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của Huế này.

Có lẽ vì đặc trưng của thể loại bút kí nên lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất phóng khoáng, điêu luyện, nhẹ nhàng và mềm mại. Với một tấm lòng yêu Huế, yêu cảnh sắc thiên nhiên, yêu sông Hương nên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khoác lên bài kí một màu sắc, âm hưởng riêng có của Huế.

Dòng sông Hương được tác giả ngợi ca “dòng sông duy nhất chảy qua thành phố Huế”, dòng sông vắt mình qua thành phố, chứng kiến bao nhiêu đổi thay của mảnh đất này. Cái nhìn đầu tiên của tác giả khi viết về sông Hương là cái nhìn từ vùng thượng nguồn. Vẻ đẹp của dòng sông lúc này khiến tác giả liên tưởng đến cô gái Digan phóng khoáng, mê dại, đầy sức hút.

Sông Hương khi chảy về thành phố có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với người đọc. Ở đây chúng ta nhận ra một lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, rất mực tài hoa của tác giả. Ông vẽ lên vẻ đẹp của sông Hương không chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương.

Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” – một vẻ đẹp đầy màu sắc của câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp. Và sông Hương bỗng “chuyển dòng liên tục” “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “trôi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Một sự diễn tả quá trữ tình, quá độc đáo khiến người đọc khó cưỡng lại được vẻ đẹp tuyệt vời này.

Sông Hương vừa mềm mại, vừa dịu dàng “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sự chuyển đổi màu sắc theo mùa, theo thời gian như thế này đã làm nên một nét đặc trưng cho những ai muốn ngắm nhìn sông hương thật lâu.

Hoàng Phủ Ngọc Tường tả sông Hương như vẽ, vẽ lên một bức tranh hoàn mĩ và tuyệt vời nhất về dòng sông huyền thoại này. Sông Hương tạo nên nét đẹp của đất cố đô Huế, ẩn mình trong trầm tích của nét văn hóa hàng nghìn năm lịch sử. Thú vị nhất là đoạn sông Hương chảy trong lòng Huế, tác giả cứ ngỡ rằng sông Hương tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu nên tươi vui hẳn lên.

Vẻ đẹp của dòng sông này được cảm nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương như điệu slow chậm rãi sâu lắng, trữ tình…Một vẻ đẹp khiến người khác phải ngỡ ngàng và đắm say chẳng thể dứt ra.

Sông Hương còn là chứng nhân lịch sử, là “người” chứng kiến sự đổi thay của cố đô Huế từng ngày. Trong sách Dư địa chí “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc đại việt qua những thế kỉ trung đại, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ…”

Có thể nói rằng để cảm nhận sông Hương với nhiều góc độ, nhiều vẻ đẹp khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc Tường phải có trái tim nhạy cảm, yêu và thương tha thiết dòng sông thơ mộng này. Một lối viết giản dị, nhẹ nhàng nhưng đầy lôi cuốn đã khiến độc giả không thể để dứt mạch cảm xúc. Tác giả đã phát huy được đặc trưng của thể loại bút kí đầy sắc bén và tình cảm này.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” thực sự là bài bút kí độc đáo. Sông Hương hiện lên với tất cả vẻ đẹp mà nó mang.

Chia sẻ thêm bài 🍂 Phân Tích Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông 🍂

Giới Thiệu Về Một Tác Phẩm Văn Học Truyện Kiều

Truyện Kiều là một trong những kiệt tác hàng đầu của văn học dân tộc ở mọi thời đại, kết tinh nhiều giá trị vĩnh cửu. Truyện được sáng tác bởi Nguyễn Du – đại thi hào của dân tộc. Nguyễn Du dựa vào cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, đời Thanh ở Trung Quốc để sáng tạo ra Truyện Kiều. Truyện gồm 3254 câu thơ lục bát, là kiệt tác số một của nền thơ ca cổ điển Việt Nam.

Cốt truyện xoay quanh câu chuyện về một gia đình sống ở đời Minh bên Trung Quốc. Vào thời kì đó, có gia đình Vương Viên ngoại sinh thành được ba người con: Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan. Hai chị em Kiều nhan sắc tuyệt trần, riêng Kiều còn có tài thi họa, ca, ngâm. Nhân ngày hội Đạp Thanh, ba chị em Kiều đi chơi xuán, gặp một văn nhân tên là Kim Trọng. Kim – Kiều tình trong như đã mặt ngoài còn e”.

Kim Trọng tìm cách gặp gỡ Kiều, nhờ cành kim thoa mà hai người ước hẹn, thề nguyền dưới trăng: “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”. Khi Kim Trọng về Liễu Dương hộ tang chú, gia đình Kiều gặp tai biến, Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha. Nàng trao duyên cho Thúy Vân rồi theo họ Mã về Lâm Truy. Kiều mắc lừa Sở Khanh, bị Tú Bà làm nhục Kiều vào lầu xanh lần thứ nhất. Kiều được Thúc Sinh chuộc ra lấy làm vợ lẽ. Hoạn Thư đánh ghen.

Kiều bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư, lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh. Kiều vào lầu xanh lần thứ hai tại Châu Thai. Kiều được Từ Hải chuộc, lấy Từ Hải và trở thành mệnh phụ phu nhân. Kiều báo ân báo oán. Kiều và Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến. Từ Hải bị giết chết, Kiều bị ép lấy viên thổ quan, nàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn nhưng được cứu thoát rồi đi tu.

Kim Trọng trở lại vườn Thúy, kết duyên với Thúy Vân. Kim Trọng và Vương Quan thi đỗ được bổ làm quan. Cả gia đình qua sống Tiền Đường may mắn gặp vãi Giác Duyên, tìm đến ngôi chùa Kiều đi tu. Kiều gặp lại cha mẹ, hai em và chàng Kim sau 15 năm trời lưu biệt.

Truyện có giá trị nội dung hết sức sâu sắc. Đó là giá trị tố cáo hiện thực, lêu án xã hội phong kiến thối nát, những thế lực hắc ám tàn bạo, dã man đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc con người như bọn quan lại tham ô thối nát, bọn buôn thịt bán người, bọn ma cô lưu manh tàn ác; lên án mặt trái của đồng tiền hôi tanh…

Giá trị nhân đạo của truyện thể hiện ở việc xót thương cho nỗi đau khổ của con người tài sắc bị dập vùi, nói lên ước mơ về hạnh phúc, tự do và công bằng, đề cao quyền sống của con người…

Nguyễn Du còn thể hiện nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, tạo ra những mẫu người với những tính cách tiêu biểu cho cái đẹp, cái xấu, cái thiệu, cái ác… trong xã hội phong kiến suy tàn, thôi nát. Bên cạnh đó là nghe thuật tự sự hấp dẫn, cảm động, tạo ra những tình huống, những bi kịch. Lúc miêu tả, lúc tả cảnh ngụ tình, lúc đôi thoại, câu chuyện về nàng Kiều diễn biến qua trên ba nghìn câu thơ liền mạch.

Trong ngôn ngữ thi ca, Nguyễn Du đã kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ bá( học, sử dụng điển tích, thi liệu văn học cổ Trung Hoa với ca dao, tục ngữ. thành ngữ… nâng lên thành một ngôn ngữ văn chương trong sáng, trau chuốt, mượt mà, mẫu mực. Cho đến nay chưa có nhà thơ Việt Nam nào viết thơ lục bát trên ba nghìn câu hay bằng Nguyễn Du Truyện Kiều xứng đáng là “tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày” (Tố Hữu).

Truyện Kiều đã được nhiều độc giả trong và ngoài nước biết đến, nó được liệt vào hàng những tác phẩm còn sống mãi với thời gian và tên tuổi của Nguyễn Du vì thế mà cũng không còn giới hạn ở trong nước nữa.

Xem thêm ❤️️ Thuyết Minh Truyện Kiều ❤️️ bên cạnh bài giới thiệu một tác phẩm văn học

Thuyết Trình Về Tác Phẩm Văn Học Yêu Thích

Tác phẩm “Những chiếc lá thơm tho” là một bức tranh sống động về quãng thời gian đáng nhớ trong sân vườn của tác giả. Nó không chỉ là một bài thơ, mà còn là những kí ức tươi đẹp về người bà và những chiếc lá thơm đầy ý nghĩa. Tác giả kể lại những kỷ niệm đáng quý từ tuổi thơ và những chiếc lá đã gắn liền với mỗi khoảnh khắc đáng nhớ ấy.

Trong những chiếc lá ấy, tác giả thấy hình ảnh bà, người bà yêu thương và chăm sóc cháu trong suốt thời gian tuổi thơ. Những chiếc lá thơm đó không chỉ là món quà vật chất, mà còn là biểu tượng của tình cảm và quan tâm sâu sắc mà bà dành cho cháu.

Tại những thời điểm khi tác giả ốm, bà đã biết cách tận tâm nấu nước xông bằng những chiếc lá đó để giúp cháu nhanh chóng hồi phục. Dù sau này có nhiều phương pháp điều trị hiện đại và thuốc tân dược, nhưng tác giả luôn cảm thấy rằng không có điều gì có thể thay thế được mùi thơm và sự quan tâm từ những chiếc lá mà bà đã dành cho mình.

Những chiếc lá ấy đã thấm đẫm tình thương của bà và trở thành một phần của ký ức tuổi thơ của tác giả. Mỗi lần nhớ về bà, tác giả cảm nhận được mùi thơm dịu dàng và tình yêu thương đong đầy trong trái tim mình. Bà không chỉ tặng những chiếc lá cho tác giả mà còn dành chúng cho người bạn đời của bà. Bằng cách đó, bà muốn thể hiện tình cảm và sự trân trọng của mình đến ông, người bạn đời đã đi cùng bà suốt cuộc đời.

Và khi ông ra đi, bà đã chuẩn bị tất cả mọi thứ một cách chu đáo nhất để đảm bảo rằng ông sẽ có một hành trình cuối đẹp đẽ và êm ấm. Bà đã phơi khô những chiếc lá thơm đó, lặng lẽ và chăm chỉ, để ông có thể nằm trên những hương thơm ấy, đồng thời cảm nhận được tình cảm sâu sắc và yêu thương mà bà luôn dành cho ông. Bà đã tạo ra một không gian ấm áp và đầy ý nghĩa để ông có thể ra đi một cách thanh thản.

Tác phẩm này thể hiện sự tôn trọng, tình cảm chân thành và sự quan tâm của người bà trong cuộc sống của tác giả. Nó là một bức tranh tình thương đẹp đẽ và sâu sắc, khắc sâu vào trí nhớ và trái tim của tác giả suốt đời.

Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Văn Học Hấp Dẫn

Bài thơ Trong lời mẹ hát của Trương Nam Hương đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng. Ở những dòng thơ đầu, tác giả nhắc lại về tuổi thơ đầy thơ mộng, ngọt ngào. Bất cứ đứa trẻ nào cũng đều được lớn lên trong vòng tay của mẹ. Lời ru, cùng với truyện cổ tích qua lời kể của mẹ trở nên ngọt ngào hơn. Từng nhịp võng đưa con vào giấc ngủ, đưa con đi cùng đất nước.

Trong lời ru của mẹ, con đã gặp hình ảnh quen thuộc của làng quê. Đó là cánh đồng xanh mướt, cánh cò trắng bay lượn. Hay những màu vàng của hoa mướp, con gà cục tác, lá chanh. Đó còn là lũy tre huyền thoại, dây trầu, vầng trăng hay hương cau. Tất cả đều mang hồn của quê hương thân thuộc. Đặc biệt nhất, hình ảnh người mẹ hiện lên đầy xúc động. Mẹ xuất hiện với công việc giã gạo đầy vất vả. Hình ảnh tấm áo bạc phếch cho thấy cuộc đời lam lũ, nhọc nhằn của mẹ. Để từ đó, người con bộc lộ nỗi thương xót, thấu hiểu.

Thời gian chảy trôi qua tóc mẹ, làm cho mái tóc xanh mượt ngày nào của mẹ giờ đây trở nên bạc trắng. Cuộc đời vất vả đã đè nặng trên đôi vai mòn mỏi của mẹ, khiến cho người con đi làm không khỏi xót xa. Ở khổ thơ cuối, người con đã bộc lộ những tình cảm chân thật của mình dành cho người mẹ. Lời ru của mẹ chính là sức mạnh, chắp cánh cho con bay xa hơn. Dù có bay xa đến đâu, mẹ vẫn dõi theo con, động viên và chờ đợi con trở về trong vòng tay âu yến. Bài thơ Trong lời mẹ hát thật giàu cảm xúc, gợi ra một tình mẫu tử đẹp đẽ và chân thành.

Chia sẻ thêm mẫu 🌼 Phân Tích Bài Thơ Trong Lời Mẹ Hát 🌼

Bài Thuyết Minh Về 1 Thể Loại Văn Học Xuất Sắc

Truyện ngắn là một thể loại văn học thuộc hình thức tự sự loại nhỏ. Đây là một trong những thể loại văn học vô cùng quan trọng.

Truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ, tập trung mô tả một mảnh cuộc sống, một biến cố, một hành động, một trạng thái nào đó trong cuộc đời nhân vật, thể hiện một khía cạnh của tính cách hay một mặt nào đó của đời sống xã hội. Truyện ngắn “Tôi đi học” của Thanh Tịnh ghi lại một biến cố quan trọng trong cuộc đời đứa trẻ khi em từ thế giới gia đình bước vào thế giới nhà trường.

Trong “Chiếc lá cuối cùng” của O’ Hen-ri, đó là việc Giôn-xi bị ốm nặng nằm chờ chết; việc cụ Bơ-men lặng lẽ vẽ chiếc lá cuối cùng trong một đêm mưa tuyết dữ dội để cứu sống cô gái, và cụ đã ra đi sau khi hoàn thành kiệt tác ấy. Còn trong “Lão Hạc”, Nam Cao ghi lại mảnh đời cuối cùng của người nông dân già nghèo khổ, đơn độc, nhưng trước khi tìm về cái chết đã lo lắng thật chu đáo cho đứa con lúc nó trở về. Truyện ngắn thường có ít nhân vật và sự kiện như trong ba truyện ngắn trên.

Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một không gian, thời gian hạn chế. Nó không kể trọn vẹn một quá trình diễn biến một đời người mà chọn lấy những khoảnh khắc, những lát cắt của cuộc sống để thể hiện. Tôi đi học chỉ thu lại trong buổi tựu trường đầu tiên trên con đường từ nhà đến trường, trên sân trường, trong lớp học; Lão Hạc chỉ là khoảnh khắc cuối đời của nhân vật từ nhà của lão sang nhà ông giáo; Chiếc lá cuối cùng được kể lại trong những ngày Giôn-xi ốm nằm ở căn phòng nhỏ có chiếc cửa sổ trông ra cây thường xuân.

Kết cấu truyện ngắn thường là sự sắp đặt những đối chiếu, tương phản để làm nổi bật chủ đề, như sự tương phản giữa tình mẹ con và những tình cảm mới mẻ đối với nhà trường, thầy giáo, bạn bè trong tâm trạng đứa trẻ (Tôi đi học); giữa cuộc sống nghèo khổ với cái chết đau đớn với tình yêu thương lo lắng cho đứa con của lão Hạc (Lão Hạc), giữa sự trở về với cuộc sống của Giôn-xi và sự ra đi của cụ Bơ-men, giữa chiếc lá thường xuân đã rụng và chiếc lá cuối cùng vẫn còn mãi mãi trên tường (Chiếc lá cuối cùng).

Những đặc điểm trên đây đã khiến cho dung lượng truyện ngắn thường ngắn. Nhưng không phải vì thế mà truyện ngắn không đề cập tới những vấn đề lớn của cuộc đời như Lão Hạc hay Chiếc lá cuối cùng. Và nếu đọc các tác phẩm của các bậc thầy trong thể loại này, ta càng thấy rõ điều đó.

Như vậy truyện ngắn là một thể loại văn học hiện đại. Ngày nay nó đã và đang phát huy được ưu thế và đóng góp không nhỏ vào thành tựu của văn học Việt Nam thế kỉ XX, XXI và mãi về sau.

Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Văn Học Lớp 8 Sinh Động

Bài thơ “Chái bếp” của Lý Hữu Lương đã đưa em về với thế giới tuổi thơ, với chái bếp vương khói đong đầy những kỉ niệm ấm áp. Những nhung nhớ ùa về, cùng với những kỉ niệm không quên của tác giả khiến hình ảnh chái bếp hiện lên chân thật làm sao.

Chái bếp là một bài thơ bảy chữ gồm năm đoạn văn. Hai đoạn đầu là hình ảnh chái bếp hiện lên với hình ảnh mẹ cha tần tảo. Ba khổ sau chái bếp được hiện lên với thật nhiều hình ảnh và âm thanh sống động. Những hình ảnh chái bếp hiện lên như luôn nằm trong tâm trí tác giả. Những ngọn khói “cong ngủ”, “nằm nghe”, “thõng mình” giống như một đứa trẻ đang được mẹ ru ngủ.

Đó vừa là những hình ảnh nhân hóa độc đáo, vừa khiến người đọc cảm nhận được cái ngộ nghĩnh, đáng yêu mà tác giả dành cho căn chài bếp thân thương này. Những âm thanh với tiếng cười nói, tiếng khóc của những đứa trẻ trên nôi khiến cho căn bếp lúc nào cũng nhộn nhịp. Từ những lời thơ đầu tiên, hình ảnh chái bếp hiện lên với ngọn khói lập lờ qua nồi cám của mẹ, rồi lại trải dài qua nhiều hình ảnh xung quanh chái bếp như hiện lên thật sinh động.

Tác giả miêu tả cái chái bếp, từ trong ra ngoài trong không gian và thời gian, khiến cho mọi hình ảnh hiện lên rất mộc mạc và giản dị. Rất nhiều điệp từ “cho” xuất hiện như nhấn mạnh cái hoài niệm, cái nhớ nhung da diết mà tác giả đã từng trải qua trong chái bếp thân thuộc này. “Cho” cũng như là những kỉ niệm tuổi thơ thật đẹp mà căn chái bếp đã mang lại cho kí ức tuổi thơ của chính tác giả.

Cả bài thơ là những tình cảm thắm thiết nhất mà tác giả dành cho cái chái bếp nhà mình. Tác giả yêu, nhớ từng hình ảnh về ngọn khói lập lờ, có thần bếp, có hình ảnh tiếng khóc tiếng cười và có cả bầu trời kí ức tuổi thơ của thơ tác giả.

Đọc xong bài thơ em càng thêm yêu những kí ức tuổi thơ mình có, trân trọng những từng kỉ niệm bên những hình ảnh, âm thanh thân thuộc như tràn đầy trong trái tim mỗi đứa trẻ. Đọc bài thơ, em như chìm đắm vào trong tuổi thơ của tác giả. Dẫu có phủ bụi thời gian, dẫu có thay đổi cảnh vật thì những kí ức đó vẫn sẽ in sâu trong lòng tác giả và trong tâm trí người đọc như câu nói “Yêu sao những kí ức tuổi thơ còn mãi trong tim”.

Thuyết Minh Về 1 Tác Phẩm Văn Học Lớp 8 Chi Tiết

Bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu được lấy cảm hứng từ một tiếng hò thân thuộc của quê hương và tiếng hò ấy trở thành mạch cảm xúc của bài thơ.

Về mặt hoàn cảnh trữ tình, khi nghe một tiếng hò vọng lên lẻ loi, đơn độc giữa trời trưa, thi sĩ cảm nhận tất cả sự hiu quạnh, và bỗng thấy nhớ thương đồng quê, con người nhọc nhằn trên đồng quê ấy. Đó là sự đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh: hiu quạnh của không gian đồng vắng, của thời gian trưa vắng, của cuộc đời buồn tủi nhọc nhằn và hiu quạnh ngay trong lòng người đang bị giam cầm giữa bốn bức tường đá, cách biệt với cuộc sống bên ngoài.

Về mặt nội dung, hai câu thơ vang lên một tiếng than. Tiếng kêu xác nhận về nỗi quạnh hiu thăm thẳm mà mình đang trải nghiệm. Cũng là tiếng kêu của một triết lí về nỗi quạnh hiu cùng cực, không gì có thể sánh nổi này! Qua đó, người ta thấy được một cõi lòng hoang vắng vì cách biệt và thiếu vắng cảnh sắc cuộc sống bên ngoài. Cho nên nổ là nỗi quạnh hiu của một người tha thiết yêu đời mà bị cách li khỏi cuộc đời.

Hiệu quả nghệ thuật của việc lặp lại trước hết có tác dụng liên kết. Lặp và điệp từ là một cách liên kết các mảng nội dung khác nhau, thậm chí xa nhau trở nên liền mạch ý. Nhưng quan trọng hơn là tác dụng biểu cảm. Việc lặp lại này bao giờ cũng có tác dụng như một điệp khúc, nó nhấn mạnh, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng. Lặp lại, điệp từ tạo ra một nhịp điệu luân hồi, triền miên khiến cho một nỗi niềm trở nên da diết khôn nguôi, thậm chí càng lúc càng nặng trĩu.

Đồng quê hiện lên rất đậm nét qua nỗi nhớ của tác giả. Đó là những cảnh sắc như đồng ruộng với những cồn thơm, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai sắn ngọt bùi; xóm nhà chìm lặng, con đường mòn mỏi theo năm tháng. Tất cả đều là những cảnh sắc đơn sơ quen thuộc mà rất đỗi thân thương. Là những bóng dáng người lao động lam lũ, nhọc nhằn, và nhất là bóng dáng người mẹ già đơn chiếc – những kiếp người muôn đời gắn bó với đất đai. Họ chất phác và bền bỉ như đất đai.

Tóm lại, Nhớ đồng là nhớ toàn bộ cuộc sống bên ngoài mà giờ đây đã trở nên cách biệt đối với người chiến sĩ bị tù đày.

Nhớ đồng là một tâm trạng khá chân thực và trọn vẹn với những diễn biến tự nhiên, liền mạch. Nỗi nhớ bắt đầu dâng lên khi nghe thấy tiếng hò. Tiếng hò gợi dậy tất cả những gì của thế giới đồng quê bên ngoài. Đầu tiên là nhớ những cảnh sắc, rồi nhớ đến những bóng dáng con người: từ những người lao khổ trên đồng đến hình bóng thân yêu nhất là người mẹ già nua đơn chiếc. Rồi nhớ về chính mình những ngày chưa bị giam cầm, tóc đang được tung hoành trong bầu trời tự do bát ngát. Cuối cùng khi trở lại với thực tại bị giam cầm, trong lòng tác giả trĩu nặng một nỗi nhớ triền miên.

Nỗi nhớ bắt đầu từ hiện tại đi ngược về quá khứ rồi cuối cùng lại trở về hiện tại; từ thực tại giam cầm ngược về thuở tự do rồi lại trở về với thực tế giam cầm. Nó không chỉ có nhớ nhung mà còn tràn ngập xót thương, không chỉ có buồn rầu thương nhớ cuộc đời mà còn cháy bỏng niềm khao khát tự do. Và quan trọng hơn, bên dưới tâm trạng ây là một nỗi bất bình, phẫn uất với thực tại.

Bài thơ mang tên Nhớ đồng nhưng cảm xúc và hình ảnh không dừng lại ở nỗi nhớ đồng, mà đó còn là sự nhớ thương cuộc sống, nỗi lòng khao khát tự do và bất bình với thực tại.

Xem thêm ❤️️ Thuyết Minh Về Một Tác Giả Văn Học ❤️️ngoài bài giới thiệu một tác phẩm văn học

Thuyết Minh Về Tác Phẩm Văn Học Lớp 9 Dài Hay

Trong chương trình Ngữ văn 9 có rất nhiều những tác phẩm tự sự hay, mang những giá trị về nội dung và nghệ thuật lớn. Nhưng một tác phẩm đã để lại cho em ấn tượng sâu sắc nhất chính là truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân.

Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, ông sinh năm 1920 tại Bắc Ninh. Kim Lân là nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam. Tuy viết không nhiều nhưng ông có nhiều tác phẩm thành công. Kim Lân là nhà văn của nông thôn Việt Nam, ông đã viết về cuộc sống và con người nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Vì thế, ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của những người nông dân nghèo. Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Nhân vật của ông là những người nông dân chất phác, hiền hậu và khao khát cuộc sống bình yên.

Làng cũng là một tác phẩm rất đặc sắc của ông khi viết về đề tài trên. Nó ra đời đầu thời kì chông Pháp năm 1948. Làng kể về nhân vật có tên là ông Hai. Ông Hai vô cùng yêu cái làng Chợ Dầu của mình, vì thế khi Pháp đến đánh chiếm ông quyết định ở lại làng làm du kích, làm thanh niên chống giặc, mặc dù tuổi ông đã cao.

Nhưng vì hoàn cảnh gia đình neo đơn, ông buộc phải cùng gia đình tản cư lên thị trấn Hiệp Hoà, đi đến đâu ông cùng hồ hởi khoe với mọi người cái làng của mình. Thế rồi một hôm, ông nghe tin sét đánh là làng Chợ Dầu đã theo giặc. Ông cảm thấy vô cùng đau khổ và gia đình ông có thể lâm vào tình cảnh mất nơi ở. Đến khi nghe tin cải chính làng của ông là làng kháng chiến thì ông vô cùng sung sướng, ông đi khoe củi nhà của ông bị đốt hết trong niềm tự hào, sung sướng.

Vậy đó, với cốt truyện thật đơn giản, ít nhân vật, tuy nhiên lại có sự đỉnh điểm rồi cởi nút rất dễ dàng. Truyện ngắn Làng bao hàm một giá trị nội dung vô cùng sâu sắc. Thông qua nhân vật ông Hai, một con người vô cùng yêu làng quê của mình, khi nghe tin làng theo giặc, ông tỏ thái độ vô cùng bất ngờ, đau đớn, tâm trạng mâu thuẫn. Từ lúc đó trở đi, ông không ra khỏi nhà, gia đình ông im lặng và tràn ngập nỗi buồn. Nhà văn Kim Lân thật tài tình khi xây dựng tình huống truyện để bộc lộ nội tâm nhân vật.

Đó là chi tiết ông Hai trò chuyện với thằng con út đã thể hiện tình yêu làng sâu sắc, gắn bó tình yêu nước, niềm tin vào cách mạng. Đến một đứa trẻ bé tuổi như con út ông cũng tin cậy ủng hộ Cụ Hồ, không có lí gì lại không tin vào việc cái làng Chợ Dầu là làng kháng chiến, tất cả nhân dân trong làng đều đồng lòng chống Pháp.

Mặc dù ở xa cái làng quê yêu dấu của mình nhưng ông vẫn luôn trông ngóng tin tức và dõi mắt theo công cuộc kháng chiến của cả làng. Câu chuyện đang lúc lên cao trào như vậy, mà Kim Lân đã có cách mở cởi nút câu chuyện hết sức đơn giản, nhẹ nhàng.

Rằng ông nghe cái tin chính từ ông chủ tịch ở làng lên. Khỏi phải nói ông vui mừng cỡ nào, ông lại đi khoe với mọi người trong thái độ vội vàng, lời nói tràn đầy cảm xúc, có phần nào không rõ về chữ nghĩa (toàn sai sự mục đích cả), đã bộc lộ nội tâm một cách tự nhiên, phù hợp với tâm trạng của ông lúc đó.

Qua đây, tác giả muốn nêu lên một ý nghĩa: bao trùm lên cả tình yêu làng quê đó chính là tình yêu đất nước vô bờ bến, tinh thần quyết chiến quyết thắng khi đất nước bị giặc xâm lăng. Nhà văn cũng muốn nói lên rằng, người dân cần phải tin tưởng vào đường lối của Đảng và Nhà nước ta, tin vào công cuộc cách mạng của nhân dân ta, cùng đoàn kết với mong đuổi được giặc xâm lược ra khỏi đất nước.

Để có được nội dung câu truyện sâu sắc ấy, Kim Lân đã tạo ra những biện pháp nghệ thuật vô cùng đặc sắc như độc thoại, ngôi kể, điếm nhìn của người kể, những mâu thuẫn nội tâm, đối thoại, miêu tả dáng người để từ đó bộc lộ tình cảm ….

Nếu được phép đặt tên lại cho tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân thì xin được đặt đó là “Tình yêu quê hương”, để những từ ngữ đó nói lên tình yêu của nhân dân ta với làng quê nói riêng và với Tổ quốc nói chung là mãi mãi, không bao giờ đổi thay.

Gửi tặng bạn mẫu bài 💕 Thuyết Minh Về Truyện Ngắn Làng 💕

Thuyết Minh Tác Phẩm Văn Học Lớp 9 Nâng Cao

Bằng Việt bắt đầu làm thơ từ những năm 60 của thế kỉ XX. Ông là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.Thơ ông toát lên vẻ đẹp trong sáng mượt mà “như những bức tranh lụa”; rất đằm thắm và sâu sắc khi viết về những kỉ niệm tuổi ấu thơ, tuổi học trò, tình cảm gia đình…

Bài thơ “Bếp lửa” là một trong các bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất cho đặc điểm thơ, phong cách nghệ thuật và sự nghiệp cầm bút của ông. Tác phẩm được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, là tập thơ đầu tay của Bằng Việt, sau được đưa vào tuyển tập “Hương cây – Bếp lửa” cùng với Lưu Quang vũ. Qua bài thơ người đọc cảm nhận được tình cảm bà cháu bình dị, sâu sắc, cảm động và rất đỗi thiêng liêng, rất đáng trân trọng.

Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó mà người cháu (chính là Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể hiện niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối với người bà, đối với gia đình, đối với quê hương, đất nước.

Trước hết là hình ảnh “bếp lửa” – nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có gia đình, có người thân yêu, có bà và có cả những kỉ niệm ầu ơ khi còn nhỏ. Và dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm / Một bếp lửa ấp iu nồng đượm / Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” giàu tính chất tả thực, gợi lên hình ảnh một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm mai. Những đốm than hồng đỏ rực nồng đượm sự ấp ủ, được nhóm lên bởi bàn tay dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà. Đồng thời, cái bếp lửa ấy cũng chờn vờn trong tâm trí , trong nỗi nhớ ám ảnh của nhà thơ, ấp ui, trân trọng và giữ gìn.

Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương của người cháu về người bà – người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh của người bà. “Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia vả bao hảm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.

Như vậy, với ba câu thơ mở đầu tác phẩm, Bằng Việt đã thể hiện tình cảm nỗi nhớ da diết của mình về bếp lửa quê hương và người bà thân yêu. Có thể coi đây là khúc dạo đầu viết về nỗi nhớ. Từ đó định hướng cảm xúc cho toàn bài. Bài thơ sẽ là lời tâm tư, nỗi nhớ của người cháu về bếp lửa, về người bà và cả những kỉ niệm buồn vui khi còn bên cạnh bà.

Nhắc đến tuổi thơ, có lẽ trong mỗi chúng ta luôn thường trực nghĩ tới những năm tháng hồn nhiên, tinh khôi, trong trẻo khi được sống trong sự đủ đầy cả về vật chất và tình cảm yêu thương của cha mẹ, người thân. Nhưng với những thế hệ như lớp nhà thơ Bằng Việt thì điều đó làm sao có được khi họ phải sống trong những năm tháng bom rơi đạn lạc chiến tranh, sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc.

Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có một kỉ niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn.

Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Đó phải chính là phẩm chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh.

Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát. Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ “một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất diệt của ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu.

Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lí, điều kì diệu giữ cuộc đời bình dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử thiêng liêng.

Chính vì thế nhớ về bà là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc. Bài thơ khép lại bằng câu thỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hoài vọng xa xăm của người cháu luôn đau đau, thiết tha nhớ tới tuổi thơ, nhớ tới gia đình, nhớ tới quê hương, đất nước.

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình tượng bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm tình, thiết tha; nhịp điệu thơ linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tình của nhà thơ đối với người bà kính yêu.

Chia sẻ bài 💧 Thuyết Minh Về Bài Thơ Bếp Lửa 💧ngoài giới thiệu một tác phẩm văn học

Thuyết Minh Về Một Tác Phẩm Văn Học Lớp 9 Hay Nhất

Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài.

Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.

“Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.

Vũ Thị Thiết – người con gái quê ở Nam Xương thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Chàng Trương Sinh mến vì đức hạnh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Chẳng bao lâu Trương Sinh phải đi lính. Nàng đang có mang, xa chàng vừa đầy tuần thì sinh ra đứa con trai đặt tên là Đản, nửa năm sau, mẹ chàng vì già yếu và nhớ thương con mà lâm bệnh. Vũ Nương hết lòng săn sóc, cơm cháo thuốc men, mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay tế lễ như đối với cha mẹ mình. Qua năm sau, giặc đã chịu lui, Trương Sinh trở về.

Con trai đã vừa học nói nhưng chỉ vì câu nói ngây thơ của đứa con đã dẫn đến Trương Sinh hiểu lầm rằng vợ mình đã thay lòng đổi dạ. Trương Sinh nhiếc mắng, đuổi nàng đi. Nàng thanh minh cho mình, rồi hàng xóm bênh vực nhưng không được. Trước cảnh đau buồn đó Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Nàng chết rồi, một hôm Trương Sinh ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya chợt đứa con nói: “Cha Đản lại đến kìa” rồi chỉ cái bóng trên tường. Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ, biết vợ mình chết oan.

Lại nói về chuyện Phan Lang đã cứu Linh Phi, là vợ vua biển Nam Hải. Thế rồi Phan Lang không may đắm thuyền chết, được Linh Phi cứu giúp, chữa trị, đền ơn. Trong cuộc hành trình thăm động của Linh Phi, Phan Lang tình cờ gặp Vũ Nương. Nàng gửi về cho chồng một chiếc hoa vàng và dặn chồng con nhớ làm đàn giải oan… Phan Lang trở về kể chuyện cho Trương Sinh. Vũ Nương hiện lên đa tạ tình chàng nhưng nàng không thể trở về trần gian được.

Chuyện người con gái Nam Xương nói lên sự xót thương với những người phụ nữ tài sắc, đức hạnh mà chết oan trong bi kịch gia đình. Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, hiếu thảo, một mình nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ già. Cái chết của Vũ Nương có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho hạnh phúc lứa đôi phải li biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn, lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó, Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Với nghệ thuật điêu luyện, bố cục chặt chẽ, chi tiết hoang đường, li kỳ, hấp dẫn, dùng chi tiết gợi mở, thắt nút cởi nút câu chuyện tài tình, giải quyết câu chuyện nhanh chóng, bất ngờ, kết thúc có hậu,…

Chuyện người con gái Nam Xương đã khẳng định được nét đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời thể hiện niềm cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến. Đây là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, dựng nhân vật, kết hợp cả tự sự, trữ tình và bi kịch. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhưng chuyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Qua “Truyền kì mạn lục”, người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.

Đọc nhiều hơn 🌻 Phân Tích Chuyện Người Con Gái Nam Xương 🌻

Giới Thiệu Về Một Tác Phẩm Văn Học Mà Em Yêu Thích Lớp 9

“Lặng lẽ Sa Pa” là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thành Long sáng tác năm 1970. Truyện ra đời trong hoàn cảnh miền Bắc đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, là hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam.

Ra đời trong giai đoạn ấy, truyện mang dấu ấn của một thời điểm lịch sử mà mọi người dân đều có ý thức sống cho cái chung và dường như quên đi chính bản thân mình. Người thanh niên làm khí tượng trong truyện là một điển hình cho thế hệ thanh niên chỉ biết xả thân mình cho đất nước. Đọc “Lặng lẽ Sa Pa”, chúng ta chợt thấy mình như lắng lại trong chiều sâu xúc cảm.

Truyện bắt đầu thật tự nhiên theo vòng quay của bánh chiếc xe chở khách lên Tây Bắc và lời kể của người lái xe. Hình ảnh người thanh niên chạy xuống đón xe khi xe ngừng đã ngay lập tức làm người đọc phải chú ý: “người con trai tầm vóc bé nhỏ, nét mặt rạng rỡ”. Phải, chính người con trai ấy là nhân vật chính trong truyện, là người làm nên những điều bất ngờ không những chỉ cho người hoạ sĩ già và cô kĩ sư trẻ mà còn cho cả người đọc.

Giá trị của “Lặng lẽ Sa Pa” là ở chỗ tác phẩm đã khắc hoạ được chân dung của những con người trẻ tuổi dám nghĩ, dám làm, dám sống đầy bản lĩnh và nghị lực, sống tốt cho mình và cho mọi người.

Nhân vật đầu tiên phải nhắc đến là anh thanh niên hai mươi bảy tuổi đời, sống và làm việc một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai ngàn sáu trăm mét. Anh đã sống thật đặc biệt và nghĩ suy thật đặc biệt ở cái độ tuổi tưởng chừng chưa “chín” ấy. Sống một mình trên đỉnh núi mây mờ quanh năm bao phủ, mọi người phong cho anh biệt hiệu “người cô độc nhất thế gian”, nhưng anh vẫn vui vẻ và yêu đời, sống tốt.

Nhìn vườn hoa quanh nhà anh với đủ các loại hoa rực rỡ, nhìn căn phòng ngăn nắp, sạch sẽ của anh, người ta buộc phải hiểu đây là một con người nghiêm túc, có chiều sâu. Càng phải hiểu điều đó hơn nữa khi nghe những lời anh tâm sự. Anh cũng là người, cũng biết buồn, biết sợ. Lúc mới lên làm việc, anh buồn đến nỗi khiêng cây chắn ngang đường để chặn xe lại, để gặp mọi người, vì anh “thèm người lắm”. Ôi, cái cảm giác “thèm người” ấy mới chân thật làm sao! Quả thực làm sao mà sống nổi khi quanh ta không có ai.

Còn nữa, anh quan niệm cũng thật thú vị: “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi”, và sách nữa, sách cũng là bạn, là người để anh tâm sự, trò chuyện. Suy nghĩ như vậy, anh cảm thấy bớt cô đơn. Rõ ràng, con người ấy sống bằng ý chí, bằng một tình yêu thật lớn với cuộc đời.

Chính cách sống và nghĩ suy của anh đã làm cho người hoạ sĩ già và cô gái trẻ phải suy ngẫm. Người hoạ sĩ già đang cảm thấy mình như trẻ lại với ước ao làm được thật nhiều việc có ý nghĩa. Còn cô gái, “trong cô dâng lên cảm giác hàm ơn”, có lẽ, chính anh đã thắp sáng lên trong cô bao hoài bão, bao ước nguyện thánh thiện được dâng hiến sức lực của mình cho cuộc đời.

Nhân vật thứ hai trong truyện có lẽ nên nói về cô gái này. Cô vừa ra trường, nhận công tác tại công ty Nông nghiệp Lai Châu. Chính tác giả đã khẳng định về cô: “Cô là thanh niên thì ra trường có thể đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì, nhận bất kì lương hưởng, tiếp đón thế nào, cô thấy lòng cô cũng nhẹ nhàng”. Như vậy, chính cô gái cũng là một mẫu người dám xông pha, dám sống cao hơn cuộc sống chật hẹp của đời thường.

Lần đầu xa Hà Nội, cô thấy mình háo hức, đầy những xúc cảm kì lạ. Cô bấy giờ chính là anh của những năm tháng trước, ở cô, người đọc có quyền tin tưởng rồi đây, tại một nơi nào đấy, cô cũng sẽ vui vẻ hoàn thành mọi công việc được giao, ở buổi ban đầu bước vào đời, cô gặp anh để một lần nữa thấy được hướng đi đúng cho mình và bước đi mạnh mẽ, can đảm hơn.

Như vậy, hai người trẻ tuổi ấy đã gặp nhau trong niềm say mê chung đối với công việc, trong ý thức chung về sự cống hiến cho đất nước. Niềm mê say tràn đầy nhựa sống ấy của họ làm bừng lên sức trẻ cho tác phẩm. Và chính người họa sĩ ở vào tuổi đã chuẩn bị về hưu lại muốn mình được tiếp tục sống và làm việc cho đời.

Ông dự định đi “thực tế” chuyến cuối cùng rồi về cùng anh em liên hoan tiễn biệt. Nhưng đến đây, ông bỗng cảm nhận mình còn phải sống và hiến dâng. Ông quyết sẽ trở lại, để “biết cái yên lặng lúc một giờ sáng chon von trên cao nó thế nào”.

Ra đời năm 1970, trong không khí hai miền đang hăng say xây dựng và chiến đấu, “Lặng lẽ Sa Pa” đã từ trong lặng lẽ mà tạo nên những âm vang rất riêng, góp phần giúp cho mọi người nhìn nhận người mà sống tốt hơn, dâng hiến nhiều hơn.

Hình ảnh chàng trai và cô gái với những suy nghĩ và việc làm của họ nghe cứ như một huyền thoại khiến cho lớp trẻ ngày nay chợt giật mình để nghĩ suy về mình nhiều hơn. Liệu chúng ta có dám tự nguyện sống và hành động, suy nghĩ như họ không? Đó là câu hỏi mà chúng ta, những học sinh cần phải biết trả lời cho một ngày không xa của tương lai mình.

Bằng giọng kể chân thật, hồn hậu mà cũng thật giản dị, bằng cách xây dựng truyện theo một trình tự tự nhiên trước – sau, bằng cách kết hợp miêu tả cảnh với tình, tác giả Nguyễn Thành Long đã khéo léo đưa người đọc đến với đỉnh cao Yên Sơn ngập tràn mây và gió, để tiếp xúc và hiểu được những con người thật sự lí tưởng, để yêu thêm cuộc sống, yêu thêm công việc.

“Lặng lẽ” mà lại không lặng lẽ, tác phẩm của Nguyễn Thành Long đã để lại tiếng vang cho hôm nay. Hy vọng, đó sẽ là những vang vọng trong tâm hồn của nhiều thế hệ thanh niên mai sau.

Đừng bỏ qua mẫu 🔥 Phân Tích Lặng Lẽ Sa Pa 🔥ngoài bài giới thiệu một tác phẩm văn học

Giới Thiệu Về Một Tác Phẩm Văn Học Hoặc Tác Phẩm Nghệ Thuật Lớp 11 Chọn Lọc

Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.

Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm. Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.

Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực.

Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.

Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vẽ lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực. Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được.

Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bây giờ. Hình ảnh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.

Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tình thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi.

Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”.

Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.

Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn.

Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lí nhân vật sắc sảo,độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt.

Tiếp theo tham khảo 🌹 Phân Tích Vợ Nhặt Kim Lân 🌹

Giới Thiệu Một Tác Phẩm Văn Học Hoặc Một Tác Phẩm Nghệ Thuật Theo Lựa Chọn Cá Nhân Lớp 11

Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), thường được gọi là Đồ Chiểu, ông là nhà thơ lớn và lỗi lạc nhất của miền Nam Việt Nam trong những năm nửa cuối thế kỷ XIX, giai đoạn nước nhà có nhiều biến động, triều đình phong kiến suy yếu, thực dân Pháp tràn vào xâm lược nước ta.

Ông là một nhà thơ có tấm lòng yêu nước sâu sắc, là nhà thơ tiêu biểu cho nghị lực sống mạnh mẽ, thơ văn của ông luôn hướng đến khẳng định các tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân, về sau khi Pháp xâm lược nước ta thì ngòi bút xuất sắc của ông lại chuyển sang khuynh hướng chiến đấu, lên án thực dân Pháp xâm lược, phê phán triều đình nhu nhược đồng thời hết lòng ca ngợi, ủng hộ các phong trào kháng chiến cứu quốc của nhân dân.

Có nhận định cho rằng: “Sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu sống dậy và hướng tới chúng ta những bài ca yêu nước”, chúng ta có thể nhận thấy rõ điều ấy thông qua tác phẩm Chạy giặc, một trong những bài thơ yêu nước xuất hiện đầu tiên trong thời kỳ chống Pháp.

Không rõ là bài thơ Chạy giặc được sáng tác vào khoảng thời gian nào, nhưng với nội dung có thể suy đoán rằng bài thơ ra đời vào lúc thành Gia Định bị thực dân Pháp tấn công và chiếm đóng. Xuyên suốt nội dung tác phẩm đó là cảnh tượng chạy giặc khốn khổ, đầy hoang mang lo sợ của nhân dân ta, vốn vẫn đang quen cảnh thái bình, ngờ đâu tai họa đã ập xuống ngay trước mắt.

“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế lúc sa tay”

Hai câu đề đã gợi lên thời điểm và hoàn cảnh chạy giặc lúc bấy giờ, đó là sau một buổi họp chợ như bình thường, là nơi đông đúc, người người nhà nhà quây quần với nếp sinh hoạt trao đổi mua bán, vốn là một cảnh bình yên, sung túc. Thế nhưng tất cả đã bị phá vỡ bởi một “tiếng súng Tây”, âm thanh khủng khiếp, xa lạ ấy đã làm kinh hồn bạt vía những con người lương thiện, vốn xưa nay chẳng biết đến đạn dược là gì.

Không chỉ xa lạ trong tiềm thức nhân dân Việt Nam thời bấy giờ, mà âm thanh kinh hoàng gợi sự chết chóc, hủy diệt hàng loạt ấy cũng lần đầu đầu xuất hiện trong văn học Việt Nam, mở ra một thời kỳ văn học kháng chiến, yêu nước đầy sôi nổi. Hình ảnh “Bàn cờ thế lúc sa tay” mở ra một liên tưởng đến tình cảnh của đất nước lúc bấy giờ, cũng rơi vào thế bị động, bất ngờ, không kịp trở tay, nhân dân đang đứng trước khốn cảnh nước mất nhà tan, đất nước dường như bị rung chuyển tận gốc bởi “tiếng súng Tây”, tình thế hết sức nguy cấp.

Hai câu thực là cảnh chạy giặc trong nỗi kinh hoàng bạt vía của nhân dân.

“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”

Hàng loạt tiếng súng đinh tai nhức óc, khiến con người lâm vào hoảng loạn, khung cảnh chợ vốn đông đúc nhưng trật tự, yên bình giờ đây chẳng khác mấy so với đàn ong vỡ tổ, người người đều chạy, nhưng biết chạy về đâu? Hình ảnh “lũ trẻ” và “bầy chim” là tiêu biểu cho số phận thảm thương của người dân lúc bấy giờ, đều chịu chung một cảnh mất nhà, mất tổ, buộc phải rời xa cái nơi mình gắn bó bấy lâu để hòng thoát thân, thoát khỏi cái âm thanh ma quỷ, giết chóc từ tiếng súng Tây.

Các tính từ “lơ xơ”, “dáo dác” đều gợi lên một cảm giác hoang mang, vô định, bỏ chạy trong thất thần, sợ hãi mà không có một ai dẫn dắt, mọi người mọi vật đều tán loạn, tan tác như gà con mất mẹ, như đàn ong vỡ tổ. Hai câu thơ tả thực nhấn mạnh nỗi ám ảnh cảnh chạy giặc điêu tàn, bi thương trong những năm đầu thực dân Pháp xâm lược nước ta, đó là ký ức kinh hoàng không thể nào phai mờ trong tâm trí những con người buổi ấy.

Hai câu luận là viễn cảnh đối lập của đất nước trước và sau khi giặc tới càn quét.

“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”

Còn đâu một Bến Nghé giàu có, sung túc, nhân dân an yên vui vầy buôn bán, giặc dữ quét qua bao nhiêu “của tiền tan bọt nước”, cơ nghiệp xây dựng bao đời nay cũng tan thành mây khói. Còn đâu một Đồng Nai, nhà mái ngói đỏ tươi, mái tranh vàng ấm áp, nay cũng chỉ còn lại những cột khói ngút trời, tựa như màu mây xám, ảo não, bi thương vô cùng. Tất cả đã bị hủy diệt bởi tiếng súng kinh hoàng của quân xâm lược, nghĩ mà đau xót, thương tâm vô cùng.

Nếu như 6 câu thơ đầu Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng bút pháp tả thực, cùng những hình ảnh tiêu biểu, đặc trưng để vẽ nên bức tranh thành thị Gia Định tan hoang, thê thảm ngày giặc đến, thì hai câu thơ kết bài lại là nỗi lòng của tác giả trước thảm cảnh điêu tàn của dân tộc.

“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này”

Đó là một câu hỏi tu từ đầy đau xót, giọng điệu trầm buồn, day dứt, phẫn uất, phản ánh hiện thực đau lòng về một triều đình phong kiến vô năng, nhu nhược, nhẫn tâm giương mắt để giặc giày xéo lên quê cha đất tổ mà không dám phản kháng, không dám đứng lên lãnh đạo nhân dân cùng đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Đó cũng là lòng trông mong những nhân tài kiệt xuất đứng ra cùng nhân dân chống lại quân xâm lược như bao lớp cha ông ngày trước, như lời Nguyễn Trãi đã từng viết “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Nhưng hào kiệt thời nào cũng có”.

Dẫu đất nước có nằm dưới một chính quyền thối nát yếu hèn, tuy nhiên Nguyễn Đình Chiểu vẫn tin tưởng và hy vọng vào những bậc anh hùng có lòng yêu nước sâu sắc, sẵn sàng đứng lên phụng sự khi Tổ quốc cần. Đồng thời hai câu thơ cuối này cũng là tiếng lòng yêu nước thương dân sâu sắc của tác giả, dẫu đôi mắt có không thấy được, nhưng trái tim ông thấu hiểu rõ tình cảnh khốn cùng của dân tộc.

Nguyễn Đình Chiểu đau đớn, xót xa đến tột cùng khi thấy cảnh đất nước điêu tàn, nhân dân phải chịu cảnh ly tán tang thương, điều đó lại càng thôi thúc ngòi bút tài năng sáng tác thêm nhiều tác phẩm thơ ca cổ vũ ca ngợi phong trào đấu tranh bảo vệ tổ quốc, thôi thúc và làm sống dậy tinh thần yêu nước của nhân dân ta cho đến tận ngày hôm nay.

Đồng thời đó cũng là những lời phê phán, lên án gay gắt cái chế độ phong kiến bù nhìn, những kẻ bán nước đổi lấy sự sang quý đớn hèn ngu nhục, cùng thực dân Pháp những kẻ cướp nước tàn ác, gây ra cuộc chiến tranh phi nghĩa, đầy ải nhân dân.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Chạy Giặc  🍀 ngoài bài giới thiệu một tác phẩm văn học

Bài Mẫu Giới Thiệu Một Tác Phẩm Văn Học Lớp 11 Chân Trời Sáng Tạo

Anh Thơ là một nữ thi sĩ nổi tiếng của văn học Việt Nam, bà để lại cho đời nhiều tác phẩm hay và có giá trị, có thể kể tới Theo cánh chim câu, Đảo ngọc hay Hương Xuân,…. Thơ bà mang thương nhớ cho người thưởng thức bởi sự nhẹ nhàng, sâu lắng và đẫm dư vị của tình quê. Đến với thơ Anh Thơ, ta bất chợt lắng lòng mình lại để cảm nhận vẻ đẹp của vạn vật, của quê hương từ những điều dung dị, đời thường. Bài thơ “Chiều xuân” trích trong tập thơ “Bức tranh quê” là một thi phẩm đầy yên bình và dịu ngọt vị quê nhà như thế:

” Mưa bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi”

Một chiều mùa xuân có chút gì đó đượm buồn, vẫn bình lặng yên ả thế thôi nhưng bầu không khí có phần thiếu tươi vui như bao mùa xuân trong thơ Xuân Diệu hay Nguyễn Bính. Làn mưa bụi bay bay “êm êm” trong cơn gió nhẹ, mưa cũng thân thương mà đầy dịu dàng, không quá nặng hạt cũng chẳng phải mang giông tố, mưa mơ màng êm ả đi qua bến vắng của dòng sông.

Và có lẽ mưa cũng đang dừng chân nơi bến đỗ để ngắm dòng sông thơ, nơi có con đò nằm “im lìm” lặng lẽ, sau một ngày dài làm việc, con đò dường như cũng mệt mỏi, đành cho phép bản thân “biếng lười” đôi chút, thả mình dưới dòng nước mênh mang, mặc kệ sông kia có bồng bềnh sóng nhỏ. Không gian có trời, có sông, cao rộng mà phảng phất buồn bởi chút trống trải, yên tĩnh lạ thường.

“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”

Cảnh vật xa xa dần lại gần hơn, quán tranh những ngày sớm mai vốn đông vui thì khi ngày gần tàn lại đầy im ắng, tịch liêu, quán tranh đang “im lìm trong vắng lặng” gợi sự cô đơn, lặng lẽ, hiu hắt buồn. Đó phải chăng còn là hình ảnh người thi sĩ đang một mình thưởng thức cảnh quê hương giữa khung cảnh mênh mang. Cánh hoa xoan tím rụng “tơi bời” theo làn gió xuân nhẹ nhàng, sắc tím nhạt màu của cánh hoa càng làm tăng thêm vẻ hoang hoải nơi cảnh vật.

Chiều cuối ngày, thiên nhiên phải chăng đã mệt mỏi, muốn ngơi nghỉ, mà không còn rộn ràng, háo hức, sức sống tươi vui như những buổi sớm bình minh hay khi ngày trưa sống động. Bức tranh xuân qua bốn câu thơ đầu có buồn nhưng không phải là cái buồn của bi lụy, hoang tàn mà là nét buồn lãng mạn, nên thơ, nét buồn thấm vào mưa, vào con đò, vào mái tranh hay cánh hoa đều mang cả sự mơ màng, thương mến.

“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”

Làng quê Việt Nam tự bao đời gắn với cánh đồng mênh mông rộng lớn, những triền đê xanh mát mỗi chiều về. Triền đê bước vào thơ Anh Thơ cũng đẹp đẽ đến nao lòng, những áng cỏ non ” biếc” như đang thi nhau vươn mình đón nắng, mọc tràn cả bờ đê xanh mát, tươi non mơn mởn.

Những chú bướm dang đôi cánh của mình bay “rập rờn” giữa khoảng trời yên bình, trong từng cơn gió thổi. Những đôi cánh mỏng manh ấy lượn lờ chào nghiêng thật mềm mại và duyên dáng. Nơi triền đê là những chú trâu, chú bò “thong thả cúi ăn mưa”, cuối chiều, khi những hạt mưa êm êm buông mình xuống mặt cỏ, trên những cây cỏ còn đọng lại những giọt mưa, trâu bò ăn cỏ mà tựa như đang thưởng thức những hạt mưa tinh túy của đất trời. Sự lắng đọng của cảnh trước được thay thế dần bằng những hoạt động của vật, bởi thế mà cảnh cũng tình hơn.

“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.”

Đồng lúa quê hương xanh rờn được đắm mình trong những cơn mưa xuân, lúa lặng lẽ tận hưởng vị mát dịu của những hạt mưa trong lành mà ông trời ban tặng, ướt đẫm trên lá. Những cánh cò trắng trốn mình nơi những vạt lúa xanh, “chốc chốc” bay ra tận hưởng khí trời xuân tuyệt diệu.

Đẹp nhất là hình ảnh những người lao động thôn quê, cần mẫn cúi cuốc cào, chắc có lẽ “cô nàng yếm thắm” ấy đang tập trung với công việc của mình mà chợt cò bay ngang qua khiến nàng không khỏi giật mình. Thửa “ruộng sắp ra hoa” phải chăng chính là những thành quả lao động mà còn người sẽ nhận được sau những ngày vất vả cuốc cày chăm bón.

Còn điều gì đẹp hơn khi một bức tranh có cảnh, có người. Một bức tranh nghệ thuật chiều xuân đầy hài hoà và xinh đẹp của quê hương đất Việt, biểu tượng của hồn quê hương, hồn dân tộc.

SCR.VN gợi ý 💧 Phân Tích Chiều Xuân Của Anh Thơ 💧

Viết một bình luận