Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu Trong Chiếc Lược Ngà ❤️️ 37+ Mẫu ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Bài Văn Mẫu Phân Tích Nhân Vật Hay Và Đặc Sắc Nhất Tại SCR.VN.
Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu
Lập dàn ý phân tích nhân vật ông Sáu sẽ giúp các em học sinh tham khảo cho mình những luận điểm quan trọng của bài viết. Tham khảo dàn ý chi tiết phân tích nhân vật ông Sáu trong truyện ngắn Chiếc lược ngà dưới đây:
I. Mở bài phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà:
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Quang Sáng và tác phẩm Chiếc lược ngà.
- Giới thiệu về nội dung cần phân tích – nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà
II. Thân bài phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà:
a. Phân tích hoàn cảnh của nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà:
- Ông Sáu là một nông dân Nam Bộ
- Tham gia kháng chiến từ năm 1946, khi con gái chưa được một tuổi
- Lúc con chạc tám tuổi mới được về thăm quê ba ngày.
b. Phân tích tình yêu dành cho con của nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà:
-Trong những ngày ông về thăm quê:
- Hành động thể hiện sự nôn nóng mong gặp con: nhảy lên bờ, bước vội, kêu to gọi con.
- Sững sờ, bàng hoàng khi con bỏ chạy: mặt sầm lại, hai tay buông xuống.
- ông Sáu đang xúc động thì phải nhận sự sợ hãi, xa lánh của bé Thu, tâm trạng từ trông chờ, vui sướng trở thành bàng hoàng, đau đớn.
- Thời gian ở bên con: ông Sáu chỉ ở nhà với con, chờ con gọi một tiếng “ba”. Mọi sự cố gắng của ông từ giả vờ không nghe con gọi khi nó nói trỏng, không giúp con chắt nước cơm, gắp thức ăn cho con là một sự nỗ lực đau đớn của người cha khi con gái không nhận mình. Cảm xúc đau đớn dồn nén đến tức giận, ông đánh con.
- Cảnh chia li: ánh mắt của ông trìu mến lẫn buồn rầu, bất lực nhìn con gái. Khi con gái nhận và ôm chặt lấy mình, ông Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con.
- Tình phụ tử đã vượt qua sự ngăn cách của thời gian, của chiến tranh. Ông Sáu đã nhận được sự công nhận và yêu thương của bé Thu.
-Trong những ngày ông ở căn cứ:
- Ông nhớ con, ân hận vì đã đánh con.
- Tìm bằng được mảnh ngà voi để làm lược tặng con.
- Ngày ngày tỉ mỉ ngồi làm chiếc lược ngà. Lúc nhớ con, ông nhìn ngắm và cài lược lên tóc.
- Ông đã hi sinh khi chưa kịp tặng cho con gái chiếc lược ngà. Trong giờ phút cuối cùng, ông vẫn chỉ nhớ đến con, đưa tay vào túi, móc cây lược đưa cho đồng đội.
- Chiếc lược ngà là vật chứa đựng biết bao yêu thương, nhung nhớ của ông Sáu dành cho con gái. Đó là một tín vật của tình phụ tử. Đó cũng là một lời hứa với con gái của ông. Dù ông không thể trở về, nhưng chiếc lược minh chứng cho tình yêu của ông dành cho con vẫn còn đó.
c.Phân tích đặc sắc về nghệ thuật xây dựng nhân vật ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà:
- Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng những tình huống truyện bất ngờ, hấp dẫn mà vẫn tự nhiên, hợp lí.
- Tác giả lựa chọn ngôi kể thứ nhất nhưng đặt vào nhân vật bác Ba – người đồng đội của ông Sáu. Vì thế câu chuyện được tái hiện một cách chân thực, khách quan hơn.
- Tác giả miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc.
- Ngôn ngữ đậm chất địa phương Nam Bộ, mộc mạc, tình cảm.
III. Kết bài phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà:
Khái quát về nhân vật ông Sáu và nêu cảm nhận của bản thân.
SCR.VN tặng bạn 💧 Tóm Tắt Chiếc Lược Ngà 💧 15 Bài Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu Trong Đoạn Trích Chiếc Lược Ngà – Mẫu 1
Đón đọc bài văn mẫu phân tích nhân vật ông Sáu trong đoạn trích Chiếc lược ngà dưới đây để có được những định hướng làm bài cụ thể.
Ông cha ta vẫn thường có câu:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông
Quả thực công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ là trời biển, cả đời này những người con cũng không thể báo đáp hết. Trong bất kì thời điểm nào, tình cảm phụ tử cũng thật thiêng liêng và đáng trân trọng. Và đặc biệt là trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, tình cảm ấy như một viên ngọc quý, sáng ngời. Và tất cả thứ tình cảm thiêng liêng ấy, đã được Nguyễn Quang Sáng dồn tụ trong nhân vật ông Sáu với tác phẩm Chiếc lược ngà.
Trong thời đại kháng chiến vĩ đại, ông Sáu cũng như bao thanh niên khác, theo tiếng gọi tổ quốc lên đường nhập ngũ. Lập gia đình không được bao lâu, ông Sáu đã lên đường, còn chưa kịp nhìn đứa con gái yêu quý của mình. Những ngày ở chiến khu lòng ông lúc nào cũng đau đáu nhớ về gia đình và bé Thu. Ba ngày nghỉ phép như một phép màu, giúp ông thỏa nỗi nhớ quê hương, đặc biệt là được gặp đứa con thân thương của mình.
Lòng ông háo hức hồi hộp, trên chiếc xuồng mắt ông dõi về hướng nhà mình, và khi xuồng chưa cập bến ông đã vội nhảy lên bờ. Lòng ông hồ hởi, hạnh phúc, ông đã mong chờ giây phút gặp con này biết bao lâu rồi. Tiếng gọi con vừa nồng nàn, vừa ấm áp, chỉ hai tiếng “Thu! Con!” mà chất chứa biết bao tình yêu thương ông dành cho bé Thu. Nhưng trái ngược với dòng tình cảm nồng cháy của ông, bé Thu lạnh nhạt, sợ hãi quay đầu bỏ chạy.
Bé Thu không nhận ra anh, nó như một nhát dao cứa vào trái tim anh Sáu, anh lắp bắp gọi con, vết thẹo ở má đỏ ửng lên, con bé vụt bỏ chạy, anh đau đớn khôn cùng, “hai tay buông xuống như bị gãy”. Trông anh vô cùng đáng thương. Có lẽ anh Sáu cũng hiểu phần nào phản ứng của bé Thu với mình, nhưng với thân phận một người cha làm sao anh có thể không đau đớn, xót xa.
Ba ngày nghỉ phép ở nhà, là cơ hội hiếm có để anh đi thăm bà con, hỏi han họ hàng, nhưng anh dành riêng ba ngày đó cho đứa con yêu của mình. Anh quanh quẩn bên nó với chỉ một mong muốn duy nhất, bé Thu nhận ra cha và gọi anh là ba. Cái điều mà những tưởng người ta chẳng cần ước, nhưng anh dành cả tâm sức, thời gian mà bé Thu vẫn không hề lay chuyển.
Đặc biệt trong bữa cơm, bé Thu càng tỏ ra ương ngạnh, bướng bỉnh hơn, đỉnh điểm là khi anh gặp cái trứng cá vào bát nó, Thu đã hất miếng trứng đi. Vừa giận, vừa đau đớn, anh Sáu không thể kiềm chế bản thân mà đã vung tay đánh bé Thu. Không nói ra nhưng chúng ta cũng có thể hiểu rằng, đằng sau phút giây nóng giận ấy là trái tim tràn đầy tình yêu thương, là khao khát cháy bỏng nhận được một cử chỉ, một lời yêu thương từ đứa con.
Mọi sự cố gắng của ông Sáu đã được đền đáp. Trong giờ khắc cuối cùng của cuộc chia tay, bé Thu đã nhận ra anh. Niềm hạnh phúc, sự sung sướng, cảm động đã kết đọng thành giọt nước mắt đầy yêu thương. Dù thời gian của hai cha con vô cùng ngắn ngủi, nhưng anh cũng đã cảm nhận được hết tình yêu thương con dành cho mình. Tình yêu thương đó cũng là động lực để anh chắc tay súng, bảo vệ quê hương và trở về bên con.
Những ngày ở chiến khu tình yêu thương của anh dành cho bé Thu được bộc lộ mạnh mẽ và sâu sắc nhất. Ông luôn ân hận, dày vò bản thân vì đã lỡ đánh con. Nhớ những lời bé Thu dặn anh đã tìm cho được chiếc ngà. Anh thận trọng, tỉ mỉ, cố công như một người thợ bạc để cưa từng chiếc răng lược rồi gò lưng tẩn mẩn khắc từng nét chữ “Yêu nhớ tặng Thu, con của ba”. Anh làm chiếc lược bằng tất cả tình yêu thương dành cho con.
Nhưng anh Sáu chưa kịp trao cho con chiếc lược ngà đã hi sinh trong một trận càn lớn của giặc. Nhưng hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, dù không đủ sức để trăng trối lại bất cứ điều gì, nhưng ông Sáu đã thu hết chút lực tàn để lấy cây lược đưa cho người đồng đội của mình trao cho bé Thu. Dù không một lời nói ra, nhưng nó vô cùng thiêng liêng, bởi đây là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử cao cả, thiêng liêng, sâu sắc.
Với việc lựa chọn ngôi kể phù hợp, bác Ba người thân thiết gần gũi bên cạnh ông Sáu đã giúp cho câu chuyện trở nên chân thực, đáng tin cậy. Câu chuyện về tình phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt càng cho thấy rõ hơn những nỗi đau mà chiến tranh gây ra đối với con người. Nhưng cao cả hơn, đó chính là tình cảm phụ tử thiêng liêng, bất diệt.
Mời bạn tham khảo 💕 Sơ Đồ Tư Duy Chiếc Lược Ngà 💕 12 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay
Phân Tích Nv Ông Sáu Hay Nhất – Mẫu 2
Tham khảo bài văn mẫu phân tích nv ông Sáu hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện đầy sâu sắc và cảm động tình cảm cha con thiêng liêng giữa ông Sáu và bé Thu. Đó là một tình cảm đáng trân trọng, nó sáng lên ngay cả trong khói lửa của chiến tranh bạo tàn. Nhân vật ông Sáu là một trong những nhân vật trung tâm của nhân vật, thông qua tìm hiểu nhân vật ta thấy được tình cảm sâu sắc của một người cha hết lòng yêu thương con gái.
Không chỉ là một người cha tốt, ông Sáu còn là một người công dân hết lòng vì đất nước, trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, cũng như bao người yêu nước khác, ông Sáu đã tự nguyện tham gia vào đội ngũ những người lính, cầm súng chiến đấu vì sự tự do, độc lập của tổ quốc. Để thực hiện trách nhiệm với đất nước, thực hiện lí tưởng cứu dân, độc lập dân tộc đầy cao đẹp thì ông Sáu đã phải rời xa quê hương, rời xa gia đình và cô con gái nhỏ. Ông chỉ được về thăm gia đình khi được nghỉ phép vài ngày.
Khi về ông Sáu mang tâm trạng bồi hồi, rạo rực bởi sắp tới đây ông sẽ được về thăm những người thân yêu, đặc biệt là Thu- cô con gái bé nhỏ mà ông hết lòng yêu thương. Từ khi bé Thu được sinh ra, ông Sáu chưa từng được gặp con, cũng chưa một lần được nâng niu, cưng nựng. Nỗi khao khát muốn gặp lại con khiến cho ông Sáu bồi hồi suốt quãng đường về nhà.
Khi thuyền còn chưa kịp cập bến thì ông Sáu đã vội vàng nhảy xuống “… nhún chân, xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài…” đây là hành động có phần gấp gáp, vội vàng của một người cha nóng lòng muốn gặp con.
Khi nhìn thấy đứa nhỏ chơi ở gần đó, ông Sáu biết chắc đó là con của mình, sự xúc động dâng trào khiến cho ông Sáu kêu to tên con ” Thu! Con”, ông đưa tay ra đón chờ con, nhưng trái ngược với sự mong chờ, hi vọng của ông Sáu, bé Thu lại không biết người đàn ông kêu tên mình là ai. Hơn nữa, vết thẹo lớn trên mặt của ông Sáu khiến cho bé Thu sợ hãi, vừa khóc vừa gọi mẹ.
Nhìn thấy con mình vì sợ hãi mà chạy vào nhà, ông Sáu đã vô cùng đay khổ, ông thẫn thờ, khuôn mặt tối sầm lại, đôi tay thì buông thõng vô cùng đáng thương. Có lẽ, ông Sáu đã không thể ngờ được giây phút mà cha con hội ngộ lại thành ra như vậy, sự thất vọng, bất ngờ xâm chiếm khiến cho ông Sáu trở nên đáng thương.
Tâm trạng của ông Sáu trong những ngày nghỉ phép cũng rất phức tạp, vừa là niềm vui vì được về thăm gia đình, quê hương, người thân nhưng ông cũng buồn bã, đau đớn vì đứa con không chịu nhận cha. Bé Thu không những không chịu nhận cha mà còn đối xử với ông Sáu vô cùng lạnh nhạt. Ông Sáu ở nhà suốt ngày và không muốn đi đâu, ông luôn tìm cách để có thể vỗ về con. Nhưng sự quan tâm, vỗ về của ông Sáu lại không thể thay đổi được thái độ lạnh nhạt của bé Thu.
Là một người cha,ông Sáu luôn cảm thấy có lỗi với con vì không thể ở bên chăm sóc khi con ra đời, ông khao khát được một lần nghe tiếng gọi “ba” của bé Thu. Trước những hành động chối bỏ, lời nói lạnh nhạt của con, ông Sáu không lỡ giận mà chỉ khe khẽ lắc đầu và cười, nụ cười ấy không phải nụ cười của hạnh phúc mà là nụ cười của sự bất lực, cam chịu.
Dù rất yêu thương con nhưng có một lần vì quá nóng giận mà ông Sáu đã lỡ đánh bé Thu, đó là khi bé Thu dùng đũa hẩy miếng trứng cá ra khỏi bát khi ông Sáu gắp cho bé, đây cũng là hành động khiến ông Sáu vô cùng hối hận, ngay cả khi hi sinh trên chiến trường ông cũng không thôi day dứt, đau khổ.
Đến ngày lên đường, dù nhìn thấy bé Thu ở trong góc nhà, dù rất muốn đến gần ôm và tạm biệt con nhưng ông Sáu lại sợ những phản ứng sợ hãi, chối bỏ của con mà chỉ đứng đó nhìn con với ánh mắt đầy đau khổ. Khi chuẩn bị bước lên xuồng, bé Thu bất ngờ chạy đến gọi cha, ông Sáu đã vô cùng xúc động ôm chầm lấy con, lấy khăn tay lau nước mắt và âu yếm hôn lên mái tóc của con. Có thể thấy, đây là lần đầu tiên ông Sáu rơi nước mắt nhưng đây là giọt nước mắt hạnh phúc, giọt nước mắt trùng phùng của tình cảm cha con.
Khi về công tác tại đơn vị kháng chiến, tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu vẫn khiến chúng ta vô cùng cảm động. Ông hối hận vì một chút nóng nảy mà lỡ tay đánh con. Trước khi chia tay, ông đã hứa ngày trở về sẽ tặng bé Thu một chiếc lược ngà, có thể thấy tác giả NGuyễn Quang Sáng rất chú trọng tả những chi tiết đến chiếc lược ngà này.
Khi chiến đấu, ông vô tình kiếm được một mảnh ngà voi, khi ấy ông Sáu vui vẻ, hớn hở như một đứa trẻ vừa được cho quà, niềm vui, sự xúc động này được thể hiện trực tiếp qua chi tiết: “từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.
Tình cảm sâu sắc của người cha dành cho con được thể hiện ngay trong việc làm cho con cây lược, ông Sáu tỉ mỉ trong từng chi tiết, cưa từng chiếc răng “…tỉ mỉ cố công như một người thợ bạc…” Khi hoàn thành chiếc lược, ông Sáu đã khắc lên thân lược dòng chữ ” Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Những dòng chữ gắn gọn nhưng lại chứa chan biết bao nhiêu tình cảm khiến chúng ta xúc động.
Mỗi khi nhớ con, ông Sáu lại mang chiếc lược ra để ngắm nghía, đôi lúc mài lên mái tóc để làm cho cây lược bóng hơn vì ông không muốn khi con chải tóc sẽ bị đau. Chiếc lược trở lên ý nghĩa hơn bao giờ hết, nó không chỉ đơn thuần là món quà của người cha mà đó còn là biểu tượng của tình yêu, của nỗi nhớ của một người cha hết lòng yêu thương con.
Khi chưa kịp trao cây lược ngà cho con gái như lời hứa hẹn trước ngày lên đường thì ông Sáu đã hi sinh trên chiến trường, đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mình ông khôn nguôi nhớ về con. Ông dồn chút lực tàn để lấy ra cây lược mà ông luôn mang theo bên mình để đưa lại cho người bạn chiến đấy của mình. Đây là một lời trăng trối đầy thiêng liêng, đó là ước nguyện cuối cùng của người cha ấy.
Qua hình ảnh của ông Sáu, Nguyễn Quang Sáng không chỉ cho chúng ta thấy tình cảm cha con thật thiêng liêng, đẹp đẽ mà nó còn cho thấy sự tàn bạo của chiến tranh, nó làm cho gia đình li tán, con xa cha, vợ lìa chồng. Tuy nhiên, truyện ngắn cũng là sự khẳng định mạnh mẽ về tình cảm gia đình, thứ tình cảm thiêng liêng mà bom đạn của kẻ thù không thể nào phá hủy được.
Gợi ý cho bạn 💧 Cảm Nhận Về Nhân Vật Ông Sáu Trong Chiếc Lược Ngà 💧 10 Bài Văn Phân Tích Ngắn Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu Trong Chiếc Lược Ngà Ngắn Gọn – Mẫu 3
Bài văn phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà ngắn gọn dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những ý văn súc tích và cô đọng nội dung.
“ Tình cha ấm áp như vầng thái dương
Ngọt ngào như dòng suối mát cuộc đời”
Có biết bao lời ca viết về trái tim ấm áp yêu thương của người cha dành cho những đứa con mình đầy ý nghĩa như thế. Bước vào văn học, tình cảm ấy cũng sáng ngời qua bao lời thơ, áng văn đẹp đẽ, truyện ngắn ” Chiếc lược ngà” là một tác phẩm tiêu biểu. Thông qua tác phẩm, ta thấy được tấm lòng rộng lớn, bao dung của một người cha-ông Sáu dành cho con gái của mình.
Ông Sáu vốn là một người nông dân Nam Bộ, đất nước chiến tranh, ông cũng phong ra chiến trường hiểm nguy tranh đấu, góp phần mình cho đất nước thân yêu. Ngày rời đi bé Thu vừa tròn một tuổi, hình ảnh về đứa con thân yêu luôn thường trực trong tâm trí, trong nỗi nhớ da diết của một người cha. Ông luôn khao khát gặp lại đứa con thơ của mình.
Rồi ngày nghỉ phép cũng tới, mấy năm ròng xa cách càng làm lòng ông đau nhói khi nghĩ về con, ông háo hức, mong đợi được thấy con, được ôm con vào lòng mình cho thoát nỗi nhớ mong. Lòng ông non nao vô bờ, khi chiếc xuồng chưa cập bến, thoáng thấy bé Thu dưới góc xoài, ông bước vội vàng trên những bước dài, ôm chầm lấy đứa con run run xúc động, nghẹn ngào” Ba đây con”.
Tiếng ba sao mà thân thương đến vậy, gặp lại Thu ông như được bù đắp hết thảy những khó khăn gian khổ nơi chiến trường, trong lòng ông Sáu giờ đây chỉ còn cô con gái bé bỏng mà thôi, chẳng còn một nỗi khó khăn nào xâm chiếm. Nhưng trớ trêu thay, vết thẹo dài trên má đã khiến bé Thu không nhận ra cha.
Ông Sáu đau khổ, sững sờ và thất vọng vô cùng. Đúng rồi! Còn gì buồn hơn khi chính người ta thương lại không nhận ra ta, ông nghẹn đắng khi chợt nhận ra rằng, chiến tranh đã khiến ông phải chấp nhận nỗi đau con không nhận ra mình. Nhưng không vì vậy mà ngừng thương bé, ông Sáu càng thương bé nhiều hơn.
Những ngày ở nhà, ông cố gắng làm mọi thứ để được gần con nhiều hơn, trong bữa cơm gia đình,ông gắp những đồ ăn ngon. Thời gian bên vợ con ông luôn trân trọng, dành dụm từng chút một. Khi bé Thu hỗn, ông lỡ đánh con đó là điều mà không một người cha nào mong mình làm nhiều vậy, ông đau lòng và ân hận vô cùng.
Khi bé Thu nhận ra mình qua lời ngoại giải thích, được con ôm chặt không rời ông vui mừng khôn xiết. Tiếng ” ba” trong trẻo cất lên xé lòng, tiếng bà mà ông chờ đợi bấy lâu. Rồi ông hứa sẽ mua cho bé một chiếc lược mà em mong bấy lâu. Ngày trở lại căn cứ, nỗi ân hận khi lỡ đánh con khiến ông nhói lòng. Nhặt được chiếc ngà voi ông vui mừng khôn xiết, người cha ấy tỉ mỉ từng chút một làm chiếc lược ngà bằng tất thảy tình yêu thương vô bờ, thứ tình cảm lớn lao của cha dành cho con.
Ông thận trọng khắc lên dòng chữ thân thương. Chiếc lược thật quý giá và thiêng liêng vô bờ, chiếc lược chứa chan nỗi mong nhớ, tình thương, trách nhiệm và kết nối tình cha con. Chiếc lược ấy là cả một bầu trời mộng ước của bé Thu, cả một niềm tin lớn của cha dành cho con gái thân yêu. Mỗi lúc rảnh rỗi ông luôn lấy nó ra ngắm cho vơi đi nỗi nhớ con gái trong lòng mình.
Ngày bom đạn chiến trường ác liệt, ông Sáu bị thương nặng, trước khi nhắm mắt, ông không quên gửi gắm kỷ vật yêu thương cho con gái mình. Đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, vẫn là hình ảnh con gái trong ông, bé Thu chính là món quà lớn và tuyệt vời nhất mà cuộc đời đã dành cho ông.
Chao ôi! Có điều gì có thể sánh được tình cảm dạt dào, lớn lao như thế. Ông Sáu chính là hình ảnh biểu tượng cho bao người cha vĩ đại trên cuộc đời này. Những người đã hy sinh thầm lặng vì hạnh phúc, niềm vui của con, của gia đình.
Đọc tác phẩm, em càng thêm hiểu được những mất mát mà chiến tranh gây ra, hiểu hơn những tình cảm dạt dào của bao người cha trên cuộc đời. Từ đó thêm yêu ,thêm quý hoà bình, càng thêm kính trọng và yêu thương cha mình. Em thầm hứa sẽ cố gắng thành công sớm, để khi cha mẹ già đi có thể phụng dưỡng, đền đáp công ơn to lớn của người.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu Ngắn Nhất – Mẫu 4
Với bài văn mẫu phân tích nhân vật ông Sáu ngắn nhất dưới đây, các em học sinh có thể nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài viết trên lớp.
“Chiếc lược ngà“ là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết về tình cha – con và nỗi đau trong chiến tranh do quân giặc gieo rắc thời chống Mĩ. Ông Sáu là một trong những nhân vật thể hiện sâu sắc chủ đề ấy.
Ông Sáu, một nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước đã tham gia hai cuộc kháng chiến (đánh Pháp và đánh Mĩ), và đã anh dũng hi sinh. Ra đi đánh giặc từ năm 1946 mãi đến năm 1954, hòa bình lập lại, ông mới được về thăm quê một vài ngày. Ngày ra đi bộ đội, đứa con gái bé bỏng thân yêu của ông mới lên một tuổi, ngày về thì con đã 8, 9 tuổi.
Cái khao khát của một người lính sau những năm dài vào sinh ra từ được trở lại quê hương, được gặp lại vợ con, được nghe con cất tiếng gọi “ba” một tiếng cũng không trọn vẹn! Đó là bi kịch thời chiến tranh. Lúc chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào một cuộc chiến đấu mới, ông mới được một khoảnh khắc hạnh phúc khi đứa con gái ngây thơ “nhận ra” ba mình và kêu thét lên: “Ba… ba!”. Ông ôm con “rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con”.
Ông Sáu đã ra đi với nỗi nhớ thương vợ con không thể nào kể xiết. Bom đạn giặc đã làm thay đổi hình hài ông. Vết thẹo dài trên má phải – vết thương chiến tranh – đã làm cho đứa con gái thương yêu, bé bỏng không nhận ra bóng dáng người cha nữa! Ông đã ra đi, mang theo hình ảnh vợ con, với lời hứa mang về cho,con gái chiếc lược cùng với nỗi ân hận day dứt “sao mình lại đánh con” cứ giày vò ông mãi.
Nỗi đau, nỗi nhớ thương và mất mát… do quân giặc đem đến cho ông Sáu, cho bao người lính, cho bao bà mẹ, em thơ trên khắp mọi miền đất nước ta có bao giờ nguôi! Sự hi sinh của thế hệ đi trước để làm nên độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình là vô giá.
Sau năm 1954, ông Sáu không tập kết ra Bắc, ông nhận nhiệm vụ mới ở lại miền Nam “nằm vùng“ hoạt động bí mật. Trong những ngày ở rừng, ở cứ bị giặc ruồng bố triền miên. Thiếu gạo phải ăn bắp. Gian khổ và nguy hiểm. Cái chết bủa vây cuộc chiến đấu thầm lặng. Ông Sáu vẫn không nguôi nhớ vợ con. Ông đã biến vỏ đạn 20 li của giặc Mỹ thành chiếc cưa nhỏ, đã tỉ mỉ, kiên nhẫn và khéo léo như một người thợ bạc chế tác khúc ngà voi thành một chiếc lược ngà xinh xắn có khắc dòng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
Chiếc lược ngà với dòng chữ ấy mang theo bao tình cảm sâu nặng của người cha đối với đứa con bé bỏng. Tình thương con của ông Sáu thật vô cùng tha thiết. Điều đó cho thấy, ông Sáu cũng như hàng triệu chiến sĩ, đồng bào ta hi sinh chiến đấu vì đất nước và dân tộc, vì hạnh phúc gia đình, vì tình vợ chồng, tình cha con.
Chiếc lược ngà như một vật kí thác thiêng liêng của người lính về tình phụ – tử sâu nặng mà bom đạn quân thù không thể nào tàn phá được. Chính vì thế, khi bị trúng đạn máy bay Mỹ bắn vào ngực, lúc hấp hối, ông “đưa tay vào túi, móc cái lược đưa cho bạn, nhìn bạn hồi lâu rồi tắt thở… ông Sáu đã hi sinh trong những ngày đen tối vì gian khổ. Ngôi mộ ông là “ngôi mộ bằng giữa rừng sâu”. Nhưng chỉ có “tình cha con là không thể chết được!”.
Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong truyện “Chiếc lược ngà“ sâu nặng về tình cha – con. Chiếc lược ngà với dòng chữ mãi mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch đầy máu và nước mắt đã để lại nhiều ám ảnh bi thương trong lòng ta. Ông Sáu là người lính của một thế hệ anh hùng đi trước mở đường đã nếm trải nhiều thử thách, gian khổ và hi sinh.
Truyện “Chiếc lược ngà” và hình ảnh ông Sáu đã khơi gợi trong lòng ta bao ý nghĩa về sự hi sinh và hạnh phúc ở đời do các thế hệ cha anh đã đổ xương máu làm nên. Và bài học “uống nước nhớ nguồn” càng thêm thấm thía.
Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Chiếc Lược Ngà 🔥 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Chiếc Lược Ngà Nhân Vật Ông Sáu Chi Tiết – Mẫu 5
Tham khảo bài văn phân tích Chiếc lược ngà nhân vật ông Sáu chi tiết để nắm vững những nội dung kiến thức xoay quanh nhân vật.
Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn Nam Bộ nên trong văn thơ của ông có cái chất hồn hậu, mộc mạc mà thấm tình người như chính con người Nam Bộ vậy. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” sáng tác năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ gay gắt, quyết liệt ở chiến trường miền Nam.
Trong không khí chiến tranh, tình cảm cha con trong truyện ngắn được nhà văn làm nổi bật tạo sự xúc động mãnh liệt cho người đọc. Trong các nhân vật trong truyện ngắn, hình ảnh người cha, tức ông Sáu thật khiến người đọc cảm thấy thật bình dị song cũng thật đẹp, tình yêu ông dành cho bé Thu làm lay động tâm hồn của độc giả.
Ông Sáu sau tám năm chiến đấu ở chiến trường, khi được nghỉ phép về thăm nhà, lòng ông nôn nao vì biết sắp được gặp con gái của mình, khi ông đi, con gái của mình mới được hơn một tuổi. Vì vậy,lần này trở về không tránh khỏi cảm giác hồi hộp, mong chờ. Có lẽ, tình cảm cha con thiêng liêng khiến ông nhận ngay ra bé Thu khi thuyền vừa mới cập bến, đó là một đứa bé khoảng lên chín, lên mười đang chơi ở gốc xoài.
Sự xúc động, vui sướng khiến ông nghẹn ngào gọi tên con: “Thu! con” . Sự nôn nóng, xúc động của ông Sáu ta hoàn toàn có thể hiểu được. Với một người cha mà nói, sự xa cách, biệt li suốt tám năm ròng với chính đứa con gái mình hết mực yêu thương, nay được gặp lại vừa là niềm vui đoàn viên, vừa là niềm hạnh phúc vô bờ bến.
Tuy nhiên, mọi niềm vui của ông Sáu dường như không được lâu, bởi ngay sau đó, khi ông “bước tới vừa đưa tay đón chờ con” thì bé Thu không chạy lại ôm chặt lấy ông như ông từng mường tượng mà còn bé “tròn mắt nhìn”, cái nhìn “vừa lạ lùng, vừa ngơ ngác”. Sự xúc động làm cho vết thẹo trên mặt của ông “giật giật”, giọng nói run run không còn kìm chế được được sự xúc động: “Ba đây con! Ba đây con”.
Vì sự nôn nóng, biểu hiện có phần gấp gáp, vồ vập của ông Sáu, lại thêm vết sẹo đỏ ửng trên mặt giật giật khiến cho bé Thu hoảng sợ , bé đã chạy đi, vừa chạy vừa kêu thét “má! Má”. Bé Thu là một đứa trẻ, trước mặt có người lạ, lại có phần đáng sợ bởi vết sẹo trên mặt, sự hoảng hốt của bé, ông Sáu cũng phần nào hiểu được.
Nhưng bởi vì quá hi vọng vào cuộc đoàn viên hạnh phúc này nên khi bị bé Thu khước từ đón nhận, hoảng sợ chạy vụt đi thì ông Sáu đã “ngạc nhiên, đau đớn và hụt hẫng”. Sự đau khổ của người cha bị chính con mình từ chối thừa nhận được nhà văn Nguyễn Quang Sáng miêu tả rất xúc động : “đau đớn khiến mặt anh sầm lại…hai tay buông thỏng như bị gãy”.
Người cha náo nức vì niềm vui được gặp con gái,muốn ôm con vào lòng với tất cả sự âu yếm dành dụm bao năm xa cách nhưng lại bị đứa con hoảng sợ, chối từ. Đó chẳng phải nỗi đau đớn, tuyệt vọng nhất của một người cha hay sao?
Hai ngày ở nhà, ông Sáu cũng chẳng dám đi đâu xa, cứ quanh quẩn tìm mọi cách để được gần con, mong mỏi sự đón nhận của bé Thu. Tuy nhiên, hiện thực diễn ra khiến ông vô cùng đau lòng, bé Thu không những nhất quyết không chịu nhận ông, mà một chút quan tâm, chút lễ phép đối với ông cũng không có. Khi được má sai vào gọi ba xuống ăn cơm, bé Thu cũng gọi cộc lốc, trống không, gọi chỉ vì bắt buộc phải làm vậy: “cơm chín rồi”.Lúc ấy ông Sáu “vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”.
Tuy là cười đấy, nhưng sao nụ cười này thật buồn, còn man mác sự thất vọng, bất lực, khổ tâm của người cha. Vì dù bao nhiêu cố gắng đi nữa thì cũng đều vô vọng, chính đứa con gái ruột thịt mình yêu quý đều một mực khước từ, thậm chí còn phủ nhận sự xuất hiện của ông.
Tuy rất buồn nhưng chưa một phút giây nào ông Sáu thôi cố gắng, thôi chăm chút, lo lắng cho bé Thu. Trong bữa cơm gia đình, vì yêu thương con nên ông Sáu đã gắp cho con miếng trứng cá to nhất, ngon nhất. Nhưng đáplại cử chỉ ân cần ấy là sự chối bỏ quyết liệt của con bé, con bé không những không đón nhận nó mà còn dùng đũa hất miếng trứng ra ngoài. Vì quá tức giận, ông Sáu đã đánh con.
Đánh con nhưng lòng người cha còn đau gấp bội. Vì hành động nóng nảy này mà đến lúc hi sinh, ông Sáu vẫn mang theo sự hối hận. Đến tận lúc chia tay, lên đường vào chiến trận, ông Sáu vẫn “buồn nẫu ruột”, ông không dám chạy lại ôm con, bế con vì sợ con bé hoảng sợ. Ông chỉ đưa mắt lên nhìn, cái nhìn cũng “buồn rầu”.
Nhưng thật bất ngờ, vào giây phút cuối cùng, khi sắp phải chia tay, ông Sáu lại vỡ òa trong hạnh phúc vì tiếng gọi ba bất ngờ từ bé Thu “b…a..”. Ông Sáu sững sờ, một lần nữa không kìm nén được xúc động, người đàn ông ấy một tay ôm con, một tay lau nước mắt. Có thể nói, đây là món quà ý nghĩa nhất mà ông Sáu nhận được trước giây phút lên đường.
Vào chiến trường, ông Sáu không giây phút nào thôi nhớ con, vì lời hứa mua cho bé Thu một chiếc lược, nên khi nhặt được một mảnh ngà, ông đã vui sướng như nhặt được một thứ gì lớn lao lắm. Rồi cũng tự tay ông làm món quà này tặng cho con. Trên chiếc lược ông còn kì công khắc lên những dòng chứa đầy yêu thương: “Yêu nhớ, tặng Thu con của ba”.
Khi chiến đấu, vào giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, ông Sáu vẫn nhớ đến con. Thu hết tàn lực, ông lấy ra cây lược, trao cho ông Ba, bạn chiến đấu thân thiết của mình, cũng là người ông tin tưởng nhất lúc này. Không đủ sức chăng chối điều gì, ông Sáu chỉ nhìn ông Ba thật. Ánh nhìn ấy ám ảnh và thiêng liêng hơn một lời di chúc.
Và đến lúc nhận được lời hứa từ ông Ba: “Tôi sẽ mang về trao tận tay cháu”, ông mới nhắm mắt đi xuôi. Ông Sáu ra đi, nhưng kỉ vật là cây lược ngà, vật chứa đựng biết bao tình cảm của ông dành cho con thì vẫn còn mãi đó. Tấm lòng của người cha dành cho con đến phút cuối của cuộc đời vẫn bao la như vậy, da diết như vậy.
Thông qua nhân vật ông Sáu, nhà văn Nguyễn Quang Sáng không chỉ khắc họa được sinh động mà không kém phần chân thực hình ảnh người cha vĩ đại, cùng với tình yêu to lớn dành cho con của mình. Mà còn đánh động vào sâu thẳm trãi tim mỗi độc giả tình cảm cha con. Tôi tin rằng đọc tác phẩm này, nhiều độc giả nhớ về cha mình, nhớ về những hi sinh thầm lặng của cha trong suốt cuộc đời để dành cho chúng ta.
Ta cảm nhận được sự thiêng liêng, vĩ đại nơi ông Sáu, ông không chỉ dành cho bé Thu tình cảm tuyệt vời nhất mà còn lưu giữ lại cho bé Thu một kỉ vật, đó chính là chiếc lược ngà, để khi nhìn vào đó, bé Thu có thể nhớ về cha mình, biết được tình cảm của cha dành cho mình sâu đậm đến mức nào
Không chỉ là một người cha hết lòng yêu thương con, ông Ba còn là một người chiến sĩ cách mạng kiên trung, dũng cảm. Ông gắn bó với chiến trường, ngày ngày đối đầu với mưa bom bão đạn cũng chỉ mong mỏi đất nước được hòa bình, đất nước được tự do. Ông đã dành hơn nửa cuộc đời của mình để chiến đấu, dù có thương nhớ con nhưng ông cũng chưa bao giờ từ bỏ, vẫn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh, dâng hiến bất cứ lúc nào về Tổ quốc, quê hương của mình.
Ta có thể thấy, dù yêu con nhưng ông Sáu cũng biết được trách nhiệm lớn lao của mình đối với Tổ Quốc. Vì vậy mà ông gác lại mong muốn được gặp con, được ôm con vào lòng, thực hiện nghĩa vụ với Tổ quốc thân yêu. Không chỉ chịu nhiều nỗi đau về thể xác khi chiến đấu, vết tích còn để lại đó là vết thẹo dài trên mặt mà ông cũng đã hi sinh tính mạng của mình cho độc lập, tự do của Tổ quốc.
Như vậy, thông qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, nhà văn Nguyễn Quang Sáng không chỉ làm nổi bật lên sự thiêng liêng của tình cha con, nỗi đau, nỗi mất mát mà chiến tranh mang lại cho mỗi gia đình. Mà nhà văn còn khắc họa thành công nhân vật ông Sáu, người chiến sĩ kiên trung, song cũng là một người cha dành cho con mình tình cảm yêu thương vô bờ bến.
Câu chuyện về ông Sáu thật khiến người đọc xúc động, bồi hồi, bởi hình ảnh ấy quá đẹp, nó chạm vào phần tình cảm sâu thẳm trong trái tim mỗi độc giả, đó là tình phụ tử thiêng liêng.
Giới thiệu tuyển tập 🌜 Phân Tích Tình Huống Truyện Chiếc Lược Ngà 🌜 7 Mẫu Hay
Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu Trong Chiếc Lược Ngà Đầy Đủ – Mẫu 6
Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà đầy đủ để các em học sinh cùng tham khảo.
“Cha là bóng cả ngã che con
Là suối tình thương không bao giờ vơi cạn”
(Ca dao)
Quả thật, nếu tình mẫu tử ngọt ngào, bao la như biển khơi, ôm ấp và vỗ về thì tình phụ tử càng thiêng liêng và cao cả gấp bội. Đề tài về tình cảm gia đình, cụ thể là về tình phụ tử luôn chiếm một vị trí quan trọng và ý nghĩa đối với bản thân người sáng tác lẫn độc giả. Trong văn học Việt Nam hiện đại, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện thành công tình phụ tử cao cả, đặt nó trong thời khắc bùng nổ của chiến tranh và từ đó biết bao cảm xúc được cất lên thành lời, làm lay động biết bao bạn đọc.
Tác phẩm ấy đi theo cùng tháng năm có tên: Chiếc Lược Ngà. Đọng lại trong tâm hồn người đọc khi cảm nhận câu chuyện chính là ấn tượng khó quên về nhân vật ông Sáu là người cha, người chiến sĩ chịu nhiều thiệt thòi nhưng có tình phụ tử thiêng liêng sâu nặng
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Các sáng tác của ông tập trung chủ yếu về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc chiến cũng như sau hòa bình. Nguyễn Quang Sáng viết tác phẩm “Chiếc lược ngà” khi mà miền Bắc nước ta đã giải phóng đang tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, tăng gia sản xuất và chi viện cho tiền tuyến Miền Nam.
Tuy nhiên, trong bối cảnh Nam – Bắc chia hai nhiều người con miền Bắc đã phải đi bộ dọc rừng Trường Sơn để vào Miền Nam đánh Mỹ cứu nước thống nhất nước nhà, nhiều gia đình vì thế mà ly biệt. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” tố cáo tội ác của chiến tranh, tố cáo chiến tranh phi nghĩa mà giặc Mỹ đã gieo xuống dân tộc ta, làm cho đất nước ta phải chia hai. Nhiều người con phải xa cha, người vợ xa chồng.
Truyện kể về ông Sáu, một nông dân Nam Bộ, yêu nước, xa nhà đi kháng chiến khi Thu – đứa con gái bé bỏng chưa đầy một tuổi. Mãi khi Thu tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt ông làm ông không còn giống với người trong bức ảnh mà em biết. Em cư xử với ba như người xa lạ.
Đến lúc nhận ra cha, tình cha con thức dậy mãnh liệt thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, Ông Sáu dồn hết tình cảm yêu quí, thương nhớ con vào việc làm cây lược bằng ngà voi để tặng đứa con gái bé bỏng. Thế nhưng, trong một trận đánh, ông đã hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông chỉ kịp trao cây lược cho người bạn để gửi về cho đứa con ông yêu quý.
Tình cảm của ông đối với con gái nhỏ được biểu hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà. Trên đường về thăm nhà trong lòng ông bồi hồi xúc động: cái tình người cha cứ nôn nao trong lòng ông. Người cha được về thăm nhà sau bao nhiêu năm ở chiến khu. Khao khát đốt lòng ông là được gặp con, là được nghe con gọi tiếng ba, để được sống trong tình cảm cha con, mà lâu nay ông chưa từng được sống, bấy lâu ông mong đợi.
Nhưng mọi chuyện đã diễn ra không ít trái ngang. Khi xuống chưa kịp cập bến, ông vội vàng nhảy thót lên bờ, xô cái xuồng tạt ra xa. Ông khát khao gặp con, khát khao ôm ấp hình hài máu mủ của mình sau bao năm xa cách. Điều này cũng là lẽ tất nhiên thôi. Ông đã xa con gái, xa gia đình trong tám năm trời ròng rã. Tám năm là khoảng thời gian quá dài để kìm nén trong lòng một nỗi nhớ.
Và rồi cuối cùng nỗi nhớ ấy cũng được bộc lộ. Trông thấy đứa trẻ chơi trước sân nhà, ông đã cất tiếng gọi con thân thương trìu mến bằng tất cả tấm lòng mình: Thu con! Ba đây con! Ba đây con”. Tiếng gọi thổn thức của người cha cất lên từ sâu thẳm trái tim của người lính sau bao năm xa cách làm xao động tâm hồn người đọc.
Nhưng trái với niềm mong đợi của ông, những tưởng bé Thu sẽ vào tới, ôm lấy thoả những tháng ngày xa cách. Nhưng không, ông hẫng hụt bất ngờ khi thấy: “Bé tròn mắt ngơ ngác nhìn rồi sợ hãi bỏ chạy” khiến ông Sáu sững sờ, thất vọng, rơi vào tâm trạng hụt hẫng.
Tuy nhiên, tình yêu của người cha đã khiến ông sau cái giây phút choáng váng ban đầu, cái giây phút “mặt sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy” ông vẫn kiên trì gần gũi con. Những ngày ở bên con, trong ba ngày phép ngắn ngủi, ông luôn ở bên con không đi đâu xa, suốt ngày chỉ tìm cách an ủi vỗ về nó.
Ông tìm mọi cách để mong được nghe một tiếng ba” nhưng đều thất bại. Khi má bảo Thu kêu ba vô ăn cơm, dọa đánh để cô bé gọi ba một tiếng. Thu nói trống không: “Con kêu rồi người ta không nghe”. Hai từ “người ta” mà Thu kêu làm ông đau lòng, khổ tâm. Nó cũng chẳng nhờ chắt nước cơm giùm. Ông Sáu buồn quá đến nỗi không khóc được nên cuối cùng ông phải cười mà không nỡ giận con. Quả thật, ông là người cha chịu nhiều thiệt thòi nhưng giàu lòng nhân hậu vị tha.
Trong bữa cơm, bằng lòng thương của người cha ông Sáu gắp cho con cái trứng cá to và vàng ươm, ông tưởng con sẽ đón nhận vậy mà nó bất thần hất cái trứng cá ra khỏi chén. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, ông giận quá đánh con đã làm mất tia hy vọng cuối cùng về tình phụ tử. Lúc đó ông đau đớn vô cùng.
Lòng ông như sa mạc khô cháy mong chờ giọt nước mát lạnh của tình yêu thương nơi đứa con sống với ông vẫn chỉ là khao khát bởi bé Thu bỏ sang ngoại không một lời xin lỗi. Qua đó, chúng ta thấm thía sự mất mát lớn lao của người lính trong kháng chiến
Vì nhiệm vụ đối với đất nước, ông không thể ở lại với con. Trở về khu căn cứ, ông mang nỗi ân hận đã đánh con và lời con dặn trước lúc chia tay vào việc làm một chiếc lược ngà tặng con. Chỉ kiếm được khúc ngà voi, ông đã vô cùng sung sướng, dành hết tâm trí, công sức vào làm chiếc lược: “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ, kì công như một người thợ bạc. Trên sống lưng lược có khắc dòng chữ Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
Chiếc lược ấy chưa chải được mái tóc con nhưng như gỡ được phần nào tâm trạng của ông. Nó trở thành vật thiêng, an ủi ông, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Hàng đêm, ông nhìn ngắm chiếc lược, mài nó lên tóc cho thêm bóng thêm mượt. Tác giả không miêu tả rõ nhưng người đọc vẫn hình dung được cái kỉ vật nhỏ bé mà thiêng liêng ấy. Đó cũng là biểu tượng trắng trong, quý giá, bất diệt của tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu.
Do đó, trước lúc hi sinh, không đủ sức nói một lời trăng trối, ông vẫn nhớ tới chiếc lược và chuyển giao nó cho người bạn như một cử chỉ chuyển giao sự sống, một ước nguyện gìn giữ muôn đời tình cha con ruột thịt. Điều đó đúng như ông Ba đã nói: “Có lẽ chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Chiếc lược ngà – kỉ vật của người cha – kỉ vật của người đã khuất mãi mười năm sau mới tìm được địa chỉ, mới được trao lại cho đứa con gái bé bỏng để “tình cha con không chết”.
Và hơn thế nữa, nó đang sống lại trong sự sống của người bạn, người đồng chí với bé Thu. Như vậy, câu chuyện Chiếc lược ngà không chỉ ca ngợi tình cha con đậm đà sâu nặng bất diệt, ca ngợi tình đồng chí đồng đội mà còn gợi cho người đọc thấm thía những nỗi đau thương mất mát, éo le mà chiến tranh gieo xuống cho bao con người, bao gia đình trên đất nước Việt Nam.
Tác phẩm Chiếc lược ngà hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản nhưng chặt chẽ. Tác giả đã khai thác tâm lý nhân vật vô cùng tinh tế, thể hiện sự chuyển đổi tâm lý nhân vật vô cùng sâu sắc, khắc họa thành công nhân vật bé Thu vừa trẻ con ngây thơ, vừa người lớn gan góc cứng đầu. Nhưng dù ở hướng nào thì cô bé Thu cũng là người con vô cùng đáng yêu. Sự hy sinh của anh Sáu và kỷ vật mà anh để lại cho con gái mình khiến cho nhiều người đọc cảm thấy xót xa, nghẹn ngào, tội ác của chiến tranh là vô cùng to lớn.
Trang sách khép lại mà sao hình ảnh hai cha con ông Sáu và những tình cảm của họ vẫn còn để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Truyện không chỉ dừng lại ở việc khắc họa tình cảm phụ tử mà còn có ý nghĩa tố cáo hiện thực, tố cáo chiến tranh đã đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đã phá tan đi biết bao nhiêu là hạnh phúc của các gia đình, khiến vợ chồng xa cách, cha con xa nhau. Từ câu chuyện, chúng ta càng cảm thấy trân trọng hơn nền hòa bình dân tộc và càng quý trọng hơn tình cảm gia đình mà mở rộng ra là tình yêu quê hương đất nước.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Mở Bài Chiếc Lược Ngà 🌹 20 Đoạn Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu Nâng Cao – Mẫu 7
Đón đọc bài phân tích nhân vật ông Sáu nâng cao dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu:
Xuất thân là một người lính hoạt động ở chiến trường Nam Bộ từ thời kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Quang Sáng hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình. Chính sự gắn bó chặt chẽ ấy đã giúp ông khắc họa một cách chân thực và rõ nét hình tượng nhân vật ông Sáu – nhân vật chính trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà”.
Truyện được coi là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của Nguyễn Quang Sáng với sự thành công trong việc xây dựng hình tượng một ông Sáu giàu tình yêu thương con, yêu thương đất nước.
Ra đời năm 1966, khi tác giả đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ giữa những khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tác phẩm được rút từ tập truyện ngắn cùng tên: Chiếc lược ngà. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, người kể chuyện là bác Ba- người bạn chiến đấu thân thiết của ông Sáu, nhờ đó, tác phẩm vừa đảm bảo được tính khách quan lẫn tính xác thực của sự việc được kể.
Là người kể lại câu chuyện, bác Ba có thể dễ dàng bộc lộ được cảm xúc của bản thân, chủ động xen vào những bình luận, nhận xét để từ đó, làm nổi bật tình cha con trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.
Dưới góc nhìn và lời kể của bác Ba, nhân vật ông Sáu hiện lên là một người cha trở về nhà sau tám năm xa cách bởi chiến tranh nhưng bé Thu- con gái ông Sáu lại không nhận ra ba mình, đến lúc bé nhận ra và bộc lộ tình cảm thắm thiết thì cũng là lúc hai ba con phải chia tay nhau. Trở về căn cứ, ông Sáu dồn hết tình yêu thương và niềm mong nhớ, làm cho con gái chiếc lược ngà, nhưng chưa kịp trao tận tay thì ông đã hy sinh vì bảo vệ Tổ quốc.
Chiến tranh xảy ra, đất nước lâm nguy, anh Sáu cũng như nhiều thanh niên, đàn ông khác đều xung phong lên đường đi đánh giặc. Ngày anh đi, bé Thu- con gái anh còn chưa đầy một tuổi, trong suốt khoảng thời gian gần chục năm trời ở chiến trường bom đạn khốc liệt, anh chỉ được nhìn thấy con gái qua nhưng tấm ảnh nhỏ hiếm hoi mà vợ anh đem đến mỗi lần liều mình đi thăm chồng nơi tiền tuyến.
Khi có cơ hội được nghỉ, về thăm nhà, anh Sáu đã mong chờ biết nhường nào cái thời khắc được nhìn thấy con gái mình: “cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh”. Trong giây phút đầu gặp gỡ, anh Sáu nhận biết con chỉ bằng linh cảm, nhưng đó là linh cảm của một người làm cha đã tám năm đằng đẵng chỉ được nhìn thấy con gái qua vài tấm ảnh nhỏ, nay trở về thăm nhà với niềm mong chờ và nỗi nhớ mãnh liệt: “đoán biết là con, không thể chờ xuồng cặp lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên”.
Khao khát, mong chờ đến nôn nóng muốn gặp con: “anh bước vội vàng với những bước dài”, “vừa bước vừa khom người đưa tay đón chờ con”. Người cha ấy chờ đợi đã bao lâu rồi thời khắc được ôm con vào lòng, xúc động, nghẹn ngào cất tiếng gọi đầy trìu mến: “Thu! Con”. Thế nhưng, trái ngược hoàn toàn với sự mong chờ của anh Sáu, đáp lại nỗi nhớ của anh lại là thái độ “ngơ ngác, lạ lùng” của bé Thu.
Anh Sáu, vẫn với “vẻ mặt xúc động ấy”, “hai tay vẫn đưa về phía trước” “giọng lắp bắp run run”: “Ba đây con!”. Câu nói được lặp lại tới hai lần đã diễn tả được trọn vẹn sự mong nhớ cùng đợi chờ, xúc động của người cha khi đứng trước đứa con gái nhỏ mình luôn nhớ nhung bấy lâu, hoàn toàn chạm đến trái tim bạn đọc.
Nhưng chính nỗi xúc động đó đã khiến vết sẹo dài trên má phải của anh Sáu đỏ ửng lên, khiến bé Thu sợ hãi: “mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên”. Nỗi buồn, sự đau đớn, thất vọng đổ ập lên anh Sáu, “anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
Trở về nhà, con người ta sẽ được sống trong tình yêu thương tràn ngập, được cảm nhận sự quan tâm ấm áp từ những người thân trong gia đình, nhưng đối với anh Sáu, ba ngày ở nhà lại trở nên thật buồn bã, đau xót. Anh đã cố gắng gần gũi, bù đắp cho con sự thiếu thốn về tình cảm trong suốt tám năm xa cách, “lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về con bé càng đẩy ra”.
Trong hoàn cảnh éo le như thế, anh chỉ “nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”. Khi quá khổ tâm, người ta thậm chí chẳng thể khóc được nữa, nên có lẽ đành cười vậy thôi nụ – cười chua xót, đau khổ của một người cha bị chính con gái mình xa lánh. Buồn bã là thế, đau xót là thế nhưng anh Sáu vẫn luôn tận tình quan tâm, chăm sóc bé Thu bằng tất cả tình yêu thương. Trong bữa cơm, anh Sáu gắp cho con một miếng trứng cá to vàng, đó là hành động chăm sóc bình thường của cha dành cho con.
Nhưng bé Thu không nhận ra ba mình nên cũng từ chối mọi sự quan tâm từ anh Sáu. Nó hất cái trứng ra khỏi bát khiến cơm văng tung tóe khắp cả mâm, và vì quá tức giận, anh Sáu đã “vung tay đánh vào mông nó và hét lên: -Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?”. Hành động và lời nói của anh chỉ là sự giận dữ bột phát, nhất thời sau những tức giận, thất vọng đến không thể kìm nén trong suốt hai ngày qua. Nỗi buồn bã, đau khổ của anh Sáu dường như đến tận cùng khi chỉ còn một đêm nữa thôi, anh sẽ phải trở lại căn cứ, rời xa vợ con.
Cuối cùng, dù không muốn, giây phút chia tay cũng đã đến. Anh Sáu bận sắp xếp đồ đạc rồi lại lo tiếp bà con, họ hàng đến chia tay nên không chú ý nhiều đến con nữa. Thế nhưng ngay lúc anh chuẩn bị đi, bé Thu lại chạy đến ôm chầm lấy cổ anh và cất tiếng gọi ba mà anh Sáu đã mong chờ bấy lâu nay. Sự buồn bã được thay thế bằng xúc động, hạnh phúc. Anh khóc. Khóc vì vui, vì hạnh phúc, khóc vì tiếc nuối khi giây phút chia ly đã cận kề.
Không muốn để con nhìn thấy những giọt nước của mình bởi không muốn không khí buổi chia tay trở nên nặng nề, “anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”. Chính anh cũng không muốn phải xa con, giá như thời gian cứ dừng lại mãi ở giây phút này, anh sẽ có thể cảm nhận được tình yêu thương cùng niềm mong nhớ mà con gái anh dành cho người cha dấu yêu của mình suốt những năm tháng qua.
Nhưng đó tất nhiên chỉ là một điều ước không thể trở thành sự thật, những giọt nước mắt tiếc nuối nhanh chóng được anh Sáu lau đi, bởi nếu để bé Thu nhìn thấy sự yếu đuối ấy, con bé sẽ không để cho anh đi. Giây phút chia tay cũng chính là thời khắc anh Sáu chính thức được đoàn tụ với con gái. Thật éo le, đau đớn!
Mang theo tình yêu thương và lời hứa mua cho con chiếc lược ngà trở về căn cứ, khi nhặt được khúc ngà, anh Sáu đã “hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Lời hứa với con gái sắp được hoàn thành, anh Sáu tràn ngập niềm vui, hạnh phúc.
Ở giữa chiến trường máu lửa khốc liệt, anh càng mong nhớ con gái nhiều hơn. Làm cho con cây lược bằng tất cả tình yêu thương và niềm mong nhớ, anh Sáu càng khát khao được trở về gặp lại con: “Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Tất cả tình cảm của anh được gửi gắm ở “hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba””.
Với tình yêu thương và niềm mong nhớ con tha thiết, anh Sáu đã trở thành nghệ nhân một lần duy nhất trong cuộc đời. Chiếc lược ngà do chính tay mình làm ra dường như đã giải tỏa được mối ân hận vì đã trót đánh con mà anh vẫn day dứt, dằn vặt bấy lâu. Chiếc lược ngà chính là biểu tượng của tình cha con, tình phụ tử thiêng liêng, bất diệt, cũng chính là kỉ vật mà anh Sáu để lại cho con gái trước lúc hy sinh nơi chiến trường khốc liệt.
Với lời văn giản dị, chân thành, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa nên nhân vật ông Sáu, nhân vật chính, cũng là nhân vật đóng vai trò cốt lõi làm nên thành công của tác phẩm. Ông Sáu hiện lên trong truyện ngắn khiến người đọc xúc động, nghẹn ngào với tình yêu thương con tha thiết, mãnh liệt, cùng với đó là tình yêu và sự hy sinh đối với độc lập, tự do của Tổ quốc.
Câu chuyện khép lại, ông Sáu đã hy sinh nhưng chiếc lược ngà chắc chắn sẽ luôn ở bên bé Thu như sự chăm sóc, che chở của người cha dành cho con gái mình.
Tiếp tục tham khảo 🍃 Kết Bài Chiếc Lược Ngà 🍃 20 Đoạn Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Nv Ông Sáu Nâng Cao Đặc Sắc – Mẫu 8
Bài văn phân tích nv ông Sáu nâng cao đặc sắc dưới đây sẽ giúp các em học sinh chắt lọc cho mình những ý văn hay.
Văn học từ cổ chí kim luôn tồn tại một mạch nguồn xuyên suốt, đó là tình cảm thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái. Đã có biết bao khúc ca ấm áp vang lên như sự tri ân của những người con dành cho cha mẹ. Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng cũng là một bài ca đẹp về tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng, bao năm qua luôn là một tiếng ngân sâu lắng trong lòng độc giả Việt Nam.
Chiếc lược ngà là câu chuyện về tình cha con sâu nặng, tha thiết của ông Sáu và cô con gái tên Thu. Một câu chuyện đẹp nhưng buồn, có sức lay động sâu xa, gợi lên trong lòng độc giả bao thế hệ nỗi niềm xót xa, thương cảm, day dứt khôn nguôi về chiến tranh và sự tàn phá của nó. Những ám ảnh ấy như khắc sâu vào tâm khảm mỗi người, khiến ta thấm thía hơn sự hi sinh của những người chiến sĩ của một thời chiến tranh gian khổ và ta biết yêu kính hơn, trân trọng họ hơn.
Bằng lời văn dung dị, nhẹ nhàng, nhiều âm vang với những cung bậc cảm xúc khác nhau, nhà văn đã thể hiện thật sâu sắc và cảm động tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Phải chăng sức nặng của những ám ảnh đó chính là bởi tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng toát ra từ mỗi lời văn, va đập vào trái tim độc giả, lắng đọng và day dứt mãi không thôi ?
Ngay từ đầu câu chuyện, người đọc đã có thể cảm nhận sâu sắc tình yêu con tha thiết của ông Sáu. Người lính đã trải qua khói lửa chiến tranh, gió sương núi rừng, có một khuôn mặt lạnh, một ý chí thép nhưng trái tim người cha trong ông thì vẫn ấm nóng. Vì vậy mà, mới chỉ nghĩ đến việc được gặp con thôi, ông đã thấy “nôn nao mãi“.
Hành động vội vàng: “không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra”, “bước vội vàng với những bước chân dài, rồi dừng lại, kêu to: “Thu ! Con” đã khắc họa rõ nét nỗi lòng khao khát, mong mỏi của người cha. Tiếng gọi con lần đầu như vỡ oà trong tình yêu quá lớn bị dồn nén bao năm. Hình ảnh “vết thẹo dài trên má phải đỏ ửng lên, giần giật…” là biểu hiện của sự xúc động tột độ.
Tiếng xưng “ba” sau bao ngày nhớ mong, mòn mỏi, vừa muốn vỡ oà, vừa lại như bị dòng cảm xúc quá lớn kìm xuống, khiến nó nghẹn lại trong “giọng run run”: “Ba đây con”. Nhưng chính nỗi mong mỏi, niềm hạnh phúc, mong chờ quá lớn ấy lại khiến ông đau đớn bội phần khi đứa con gái không đáp lại sự vồ vập của ông, “mặt nó tái đi, rồi vụt chạy”.
Cả bầu trời như sụp xuống trước mắt người cha. Niềm đau, sự hụt hẫng bóp nghẹt trái tim ông. Ông “đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
Không nản lòng, trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dành hết tình cảm cho bé Thu. Ông ân cần, nhẹ nhàng chăm chút con bé. Trước sự cự tuyệt, bướng bỉnh của cô con gái, người cha ấy vẫn hết sức bền bỉ, nhẫn nại. Đó là sự bao dung của một người làm cha, của nỗi niềm khao khát “mong được nghe một tiếng gọi ba của con gái”. Và rồi, khi tình cảm quá lớn lại gặp phải sự cự tuyệt kiên quyết của bé Thu, nó như bị thúc ép, khiến ông không giữ được bình tĩnh “vung tay đánh mạnh vào mông” con bé và hét lên: ‘‘Sao mày cứng đầu quá vậy ?”.
Ông Sáu đánh con vì tức giận, đau đớn và bất lực. Thời gian ông có thể ở bên con không còn nhiều, vậy mà con bé vẫn không chịu thừa nhận ông. Hành động đánh con của ông là một sự kìm nén của nỗi lòng mong mỏi quá lớn. Nhưng cũng chính điều đó đã giày vò tâm trí ông, trở thành mối khổ tâm suốt những năm tháng sau này khi phải xa con.
Vào thời khắc cuối cùng được ở nhà, được nhìn thấy con gái, trái tim của người cha đã được xoa dịu khi bé Thu nhận ra ba. Lúc chia tay, ông Sáu cố nén lòng, kìm giữ cảm xúc của mình. Ông “cũng muốn ôm con, hôn con, nhưng cũng lại sợ nó giãy lên, lại bỏ chạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó“. Chỉ cần nhìn thấy sự hiện diện của con thôi, ông cũng cảm thấy được an ủi phần nào. Và bao nhiêu tình yêu ông dồn cả vào ánh mắt nhìn con – “đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu“.
Ánh mắt ấy vừa muốn bộc lộ hết tình yêu tha thiết với con, vừa thể hiện nỗi khao khát bị kìm nén, nỗi buồn của sự chia xa và cả nỗi đau của sự bị khước từ. Để rồi, tất cả như vỡ oà theo tiếng gọi “ba” bất ngờ của bé Thu: “Ba… a… a… ba !”. Tiếng gọi ông Sáu khao khát, trông chờ, tưởng chừng mòn mỏi bao lâu đã vang lên, khiến tim ông như muốn vỡ ra vì hạnh phúc.
Người đọc như cũng lạc nhịp tim trong giây phút âm thanh yêu thương ấy cất lên. Ông Sáu “không ghìm được xúc động”, “một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”. Những dòng nước mắt tuôn trào từ trái tim yêu thương cháy bỏng của người cha.
Có thể nói, Nguyễn Quang Sáng đã thật tài tình khi xây dựng nhân vật ông Sáu. Toàn bộ câu chuyện về người chiến sĩ ấy đều gắn với sự bộc lộ tình yêu con. Từ những hành động đến những chi tiết miêu tả ngoại hình, tâm trạng. Vì thế mà trong tâm trí người đọc, hình ảnh ông Sáu hiện lên với tình yêu con thiết tha, sâu nặng. Những ngày ở chiến trường, tình yêu con được ông Sáu dồn vào việc làm cây lược tặng con.
Dõi theo quá trình làm chiếc lược của ông Sáu, từ vẻ mặt “hớn hở” khi nhặt được khúc ngà đến khi tỉ mỉ ngồi giữa cây lược “như người thợ bạc”, ta có thể cảm nhận được tình yêu sâu nặng của ông. Dòng chữ khắc trên cây lược “yêu nhớ tặng Thu con của ba‘’ thể hiện trọn vẹn nỗi lòng người cha đối với cô con gái ngàn lần dấu yêu nơi quê nhà. Chiếc lược ngà ấy đã “gỡ rối đi phần nào tâm trạng” của ông. Lời hứa của ông đối với con đã thành hiện thực.
Chiếc lược là chỗ dựa tinh thần mỗi khi ông nhớ con. Đó là kỉ vật cuối cùng lưu giữ tình yêu sâu nặng của ông Sáu dành cho con, ông khao khát được tận tay trao cho con gái. Sự khốc liệt của cuộc chiến tranh đã khiến nguyện ước của ông không thành nhưng cây lược sẽ là minh chứng cho tình yêu con của ông.
Tình yêu của ông Sáu dành cho con thật sâu sắc. Bao cung bậc cảm xúc của ông được người đọc thấu cảm, sẻ chia. Trong chiến tranh, có những việc tưởng chừng rất bình dị như nghe một tiếng con gọi “ba”, tự tay tặng cho con một món quà nhỏ, được ôm con trong vòng tay,… cũng trở thành mơ ước của rất nhiều người và cũng rất nhiều người trong số họ giống như ông Sáu đã không thực hiện được ước nguyện đó.
Nhưng cũng chính trong sự khốc liệt của chiến tranh, tình cảm tha thiết, trái tim ấm nóng của người cha lại được bộc lộ rõ nhất. Nó lắng đọng ngân vang mãi trong lòng ta.
Sức ám ảnh của truyện ngắn Chiếc lược ngà được tạo nên bởi nội dung câu chuyện. Ngòi bút của Nguyễn Quang Sáng thật tinh tế trong việc thể hiện mọi cung bậc của cảm xúc, xây dựng tình huống truyện, sử dụng ngôn từ,… Tất cả những điều đó đã góp phần làm nên sức sống của câu chuyện. Tác phẩm khép lại nhưng tình phụ tử ấm áp, thiêng liêng, cao cả sẽ mãi là ngọn lửa lấp lánh sáng, sưởi ấm trái tim độc giả.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Phân Tích Nhân Vật Bé Thu Trong Chiếc Lược Ngà 🌹 14 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất
Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu Học Sinh Giỏi – Mẫu 9
Bài văn phân tích nhân vật ông Sáu học sinh giỏi dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Chiếc lược ngà là truyện ngắn xuất sắc viết về tình cảm gia đình trong chiến tranh của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Qua nhân vật ông Sáu, nhà văn không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về sự khốc liệt và những đau thương mà chiến tranh mang lại mà còn khơi dậy những cảm xúc thật mềm mại, tha thiết về tình cảm gia đình trong trái tim của mỗi người qua câu chuyện cảm động của ông Sáu và bé Thu.
Trong hàng loạt các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cả trước và sau cách mạng tháng tám, bên cạnh các chủ đề xuyên suốt như chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sự tàn khốc của chiến trường đổ lửa thì câu chuyện về những nỗi đau và nỗi bất hạnh mà con người phải gánh chịu trong chiến tranh cũng là một trong những đề tài được nhiều tác giả quan tâm, đặc biệt là những tác giả trẻ trưởng thành sau cách mạng. Trong đó Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất.
Ông Sáu tham gia kháng chiến khi con gái đầu lòng của ông – bé Thu còn chưa đầy một tuổi. Ông Sáu đi là biền biệt suốt 7, 8 năm trời, không có điều kiện để thăm đứa con bé bỏng của mình, chính điều đó đã kéo theo một loạt những bi kịch đến với cuộc đời lính đầy gian khổ của ông.
Khi được về thăm nhà, thăm con sau bao năm xa cách, mọi chuyện lại không như mong đợi, sự xa lạ, lạnh lùng của bé Thu là điều ông Sáu không thể ngờ tới, cái khoảnh khắc ông mong ngóng, đợi trông bấy lâu đã không xảy ra. Khi ông nhún chân nhảy lên bờ, bước những bước dài về phía đứa bé mặc áo bông đỏ, mái tóc ngắn ngang vai đang đứng bên kia bờ, tiếng kêu to “Thu, con!”, chỉ khiến con bé “giật mình tròn mắt nhìn”, “ngơ ngác, lạ lùng”.
Không có cái cảnh đứa bé xô vào lòng ông, ôm chặt lấy cổ ông như mọi người và ông Sáu vẫn tưởng. Nhưng ông Sáu vì quá xúc động và nhớ con, vẫn chưa kịp nhận ra sự khác lạ ấy, ông vẫn tưởng con bé chỉ là chưa nhận ra ông, nên vẫn tiếp tục tiến đến gọi bé Thu bằng chất giọng run run cùng khuôn mặt với vết sẹo đỏ bừng giật giật theo từng cơn xúc động của ông “Ba đây con!”.
Trước cảnh tượng ấy, bé Thu bỗng tái mặt, chạy vụt đi vừa chạy vừa kêu thét lên đầy sợ hãi “Má! Má!”. Cảnh tượng ấy đã giáng một đòn thật mạnh vào trái tim chất chứa đầy tình thương yêu của ông Sáu, khiến ông đau đớn, chua xót không thôi, “mặt anh sầm lại, hai tay buông xuống như bị gãy”, đó là một cảm giác bất lực, thất vọng đến cùng cực của một người cha vốn dành trọn tình yêu cho con nhưng lại bị từ chối phũ phàng, đau đớn.
Người lính đứng trước mưa bom bão đạn chưa từng nản chí, sợ hãi, nhưng đứng trước bi kịch gia đình, bi kịch tình cảm phụ tử lại trở nên yếu đuối và đáng thương, điều khiến người ta không khỏi thấy chạnh lòng, tủi phận.
Tuy nhiên tấn bi kịch của ông Sáu chưa dừng lại ở đó, mà nó còn tiếp diễn suốt trong ba ngày nghỉ phép ngắn ngủi, giày vò trái tim người lính tội nghiệp. Dù bé Thu từ chối nhận mình là ba, thế nhưng bằng tình yêu thương con sâu sắc, ông vẫn luôn tìm mọi cách để gần gũi con bé “suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, cứ ở bên cạnh vỗ về con bé”.
Nhưng thật xót xa canh càng vỗ về, càng cố gắng tiến lại con bé càng đẩy ông ra xa, ông chỉ mong con bé gọi một tiếng “ba”, nhưng nó chưa từng mở lời lấy một lần, mà luôn tìm cách chống đối. Thậm chí để tránh phải gọi ông Sáu là “ba”, khi bị mẹ ép gọi ba vào ăn cơm, bé Thu còn nói trổng “Vô ăn cơm!”, ông Sáu giả vờ không nghe thấy để đợi con bé gọi tiếng ba thì trái lại bé Thu lại đổi cách gọi khác “Cơm chín rồi”.
Trước sự ngang bướng và có phần hỗn hào của con bé ông Sáu không thấy tức giận mà chỉ “nhìn con rồi khe khẽ lắc đầu cười”. Ông cười nhưng lòng đau đớn đến tột cùng, cái cảm giác nghẹn ngào không khóc được, nên đành phải cười vậy, cười cho bi kịch kỳ lạ của cuộc đời mình, bi kịch con không nhận cha, cười cho nỗi mong mỏi tiếng “ba” đến đáng thương của mình.
Nhưng không vì thế mà ông Sáu tức giận, không vì thế mà thôi không cố gắng gần gũi con, ông vẫn kiên nhẫn để mong con bé thay đổi và đáp lại tình cảm của mình trong ba ngày phép ngắn ngủi.
Trong bữa cơm hiếm hoi có mặt đầy đủ cả gia đình sau bao năm xa cách, ông Sáu cố tìm cách quan tâm bé Thu bằng việc gắp cho con bé cái trứng cá. Nhưng con bé lại cầm đũa hất ra, làm vung vãi cơm ra khắp cả mâm. Có lẽ rằng sự vô tình và ngang bướng của bé Thu đã khiến ông Sáu không thể kiềm chế được mà ra tay đánh vào mông nó “Sao mày cứng đầu quá vậy hả?”.
Nhưng có ai biết rằng, sau cái hành động ấy là biết bao nỗi đau đớn, tủi hờn của một người cha, một người đàn ông đang quằn quại trong bi kịch cuộc đời mình, bé Thu đau một, thì có lẽ ông đau mười, nỗi đau ấy không nằm trong da thịt mà quặn xoắn vào trái tim vốn đã có nhiều tổn thương của ông.
Như vậy đến một bữa cơm êm ấm quây quần gia đình, ôngh Sáu cũng không có được, những ngày phép của ông cũng đến hồi hết, ông lại phải đi hòa mình vào cuộc chiến, mà không biết rằng đến tháng năm nào ôngh mới lại có thể trở về, hoặc là mãi mãi không về nữa. Càng nghĩ càng xót xa cho thân phận người lính.
Đến lúc chuẩn bị lên đường trở về căn cứ, khi đã chia tay hỏi han hết người thân, bạn bè, ông Sáu quay lại nhìn con, nhưng nhớ đến sự xa cách, chối bỏ của con bé với mình, ông Sáu lại cố kìm nén cái khao khát được ôm hôn con bé trước khi đi xa, mà chỉ lặng nhìn con bé “với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu” cùng lời từ biệt “Thôi ba đi nghe con!”.
Có lẽ ông cũng không mong mỏi con bé sẽ đáp lại ông điều gì đó nữa. Những tưởng rằng con bé vẫn sẽ lạnh lùng, nhìn ông ra đi cũng như lúc nhìn ông về thì bất ngờ một tiếng “Ba…a…a…ba!” như xé nát không gian, xé vào tâm can mọi người, nghe thật xót xa. Con bé chạy đến nhào vào lòng ông Sáu, ôm chặt lấy cổ ông, vừa nói vừa khóc “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”.
Còn hạnh phúc nào hơn giây phút này nữa, tình phụ tử thiêng liêng bao trùm khắp trong căn nhà bé nhỏ, ông Sáu mừng vui quá đỗi, những giọt nước mắt xúc động chảy dài, ông lau nước mắt rồi hôn lên tóc con bé một cách đầy trân trọng và yêu thương. Hóa ra, bé Thu không nhận ba là vì trên mặt ba nó có vết sẹo dữ tợn quá, khác xa với tấm ảnh mà mẹ đưa cho nó, khi con bé sang nhà bà ngoại, biết được căn nguyên của vết sẹo là do bị thương trong khi chiến đấu, nó mới vỡ lẽ, quay trở về nhận ba.
Nhưng một lần nữa bi kịch lại xảy đến, hạnh phúc ngắn chẳng tày gang, ngay cái lúc cha nhận nhau cũng là lúc ông Sáu phải ra đi, mà chuyến đi này lại là chuyến đi mãi mãi, cũng là lần cuối bé Thu được nhìn thấy cha mình. Ông Sáu ra đi với lời hứa làm cho bé Thu một chiếc lược ngà, và một nỗi khổ tâm day dứt mãi trong lòng, ông ân hận nghĩ mãi sao ngày ấy mình lại đánh con bé.
Cả nỗi nhớ và nỗi ân hận, khiến ông làm chiếc lược ngà càng tỉ mỉ và thận trọng hơn, dường như mỗi một chiếc răng lược, mỗi một vết cắt đều thấm đẫm tình yêu của ông dành cho con. Nhưng đáng buồn thay, ông vĩnh viễn không thể trở về như lời ông hứa “Ba đi rồi ba về với con”, cũng không thể tận tay trao cho đứa con gái yêu dấu chiếc lược mà ông dày công chế tạo.
Có thể nói rằng cả cuộc đời của ông Sáu đã bị chiến tranh hủy hoại, mang đến cho ông tấn bi kịch gia đình với những tổn thương sâu sắc. Nó không chỉ để lại trên thân thể ông những dấu tích kinh hoàng, cướp đi sinh mạng của ông mà còn cướp đi của ông những giây phút êm ấm bên gia đình, chia cắt tình cha con, vợ chồng, để lại trong tim ông những nỗi đớn đau tột cùng. So với những gì đã mất, thứ ông Sáu nhận lại chỉ là vài giây phút được gần vợ, con ngắn ngủi, cùng với nỗi nhớ thương, ân hận da diết đến tận lúc hi sinh.
Không có hạnh phúc nào cho người lính, đó là câu nói dành cho cả những người đã nằm xuống và những người còn may mắn sống sót sau những cuộc chiến khốc liệt. Chiến tranh đã lấy đi của họ quá nhiều, những người ra đi không hối tiếc một lời, dành cả thanh xuân cho đất nước, dân tộc, cống hiến vì hai chữ hòa bình, tự do, còn bản thân nhận lại hết những tấn bi kịch, bất hạnh không nói thành lời.
Nhân vật ông Sáu và tác phẩm Chiếc lược ngà, không chỉ phản ánh sự khốc liệt và đau thương của chiến tranh mà còn nói lên số phận của những người lính, nhắc nhở chúng ta phải biết trân trọng độc lập, tự do của dân tộc, những thứ đã được đánh đổi bằng máu thịt, nước mắt của cha ông trong suốt chiều dài lịch sử.
Tác phẩm cũng khắc họa sâu sắc tình cha con của các nhân vật, thể hiện sự thiêng liêng, gắn kết máu thịt, dù trong hoàn cảnh chia cắt đôi nơi, nhưng thứ tình cảm ấy vẫn đong đầy, vẹn nguyên, thậm chí sâu đậm hơn trong trái tim của ca hai cha con ông Sáu.
Có thể bạn sẽ thích 🌟 Suy Nghĩ Của Em Về Nhân Vật Bé Thu 🌟 10 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu Trong Chiếc Lược Ngà Chọn Lọc – Mẫu 10
Tham khảo bài phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà chọn lọc dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.
Giữa những năm tháng khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, vẫn có những bài ca bất diệt về tình cảm gia đình vang lên. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua tác phẩm “Chiếc lược ngà” của tác giả Nguyễn Quang Sáng. Bằng tài năng trong việc tạo dựng tình huống truyện và xây dựng hình tượng nhân vật, nhà văn đã đem đến một câu chuyện đầy sâu sắc, cảm động về tình phụ tử. Đặc biệt, nhân vật ông Sáu đã để lại một ấn tượng khó phai mờ trong lòng độc giả với tình yêu thương con vô bờ bến.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của tình phụ tử, tác giả đã xây dựng tình huống truyện đặc sắc thông qua cuộc gặp gỡ sau tám năm xa cách của hai cha con ông Sáu nhưng bé Thu không chịu nhận ông Sáu là ba. Trong ba ngày phép về thăm nhà, khi vừa nhìn thấy con gái, ông Sáu không kìm được sự vui mừng và xúc động mãnh liệt: “không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra… vội vàng với những bước chân dài”.
Những hành động vội vã đã thể hiện rõ tâm trạng háo hức của người cha lần đầu tiên được gặp con gái và không thể kìm nén thêm một giây phút nào. Chính vì thế, trước phản ứng bất thường của bé Thu, ông vô cùng đau đớn: “anh đứng sững lại đó, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Xuyên suốt ba ngày nghỉ phép, ông luôn kiên trì, nhẫn nại chờ đợi sự hồi đáp của bé Thu bằng những cử chỉ săn sóc đầy yêu thương: “lúc nào cũng vỗ về con”.
Chỉ đến khi bé Thu phản ứng quyết liệt trước tình yêu mà ông vun đắp, ông đau đớn “không giữ được bình tĩnh mà đánh con một cái”. Bởi vậy, khi chia tay để quay lại chiến trường, ông đã giữ khoảng cách và chỉ dám nhìn con từ xa “với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu”, đồng thời cố gắng kìm giữ nỗi khát vọng được ôm ấp đứa con gái thơ ngây, bé bỏng vào lòng.
Sau tất cả, khi cô bé ngang bướng hiểu được những mất mát, hi sinh cũng như ý nghĩa lớn lao của vết thẹo trên mặt ba và thốt lên tiếng gọi như xé lòng, ông Sáu không thể kìm được những giọt nước mắt của sự hạnh phúc: “một tay ôm con, một tay lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con”.
Như vậy, trong quãng thời gian ba ngày nghỉ phép, ông Sáu đã dành mọi tâm tư để gần gũi, rút ngắn khoảng cách của tình phụ tử sau tám năm xa cách. Đến cuối cùng, tình cảm mà ông dùng cho bé Thu đã chiến thắng sự biệt li về thời gian, sự cách trở về không gian. Tuy nhiên, tình yêu thương mà ông dành cho bé Thu được thể hiện rõ hơn sau khi ông trở lại chiến trường.
Sau khi quay lại với nhịp sống với chiến trường khốc liệt cùng những lửa đạn bom rơi, ông Sáu vẫn luôn ân hận, đau khổ vì nỡ trách phạt con. Tất cả nỗi nhớ nhung, sự thương yêu của người cha được kết tinh qua hình ảnh chiếc lược ngà. Ông đã miệt mài, tỉ mỉ như một người thợ bạc khi cưa từng chiếc răng lược, “tẩn mẩn” khắc lên dòng chữ từ tận đáy lòng: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
Dẫu chiếc lược đó chưa một lần được chải lên đầu bé Thu nhưng những lúc nhớ con, ông lại mang cây lược ra ngắm nghía và “mài lên mái tóc cho cây lược thêm bóng” với tất cả sự nâng niu, trân trọng. Đến những giây phút cuối cùng trước lúc hi sinh, ông vẫn cố gắng gửi gắm chiếc lược ngà cho đồng đội để trao lại cho bé Thu. Như vậy, ông Sáu trở thành một biểu tượng cao đẹp thể hiện sức mạnh của tình phụ tử, chiến thắng mọi khó khăn, khốc liệt nơi chiến trường.
Như vậy, ông Sáu là nhân vật ngời sáng những phẩm chất cao đẹp của sự hi sinh, tình yêu thương và là biểu tượng thể hiện sức mạnh của tình phụ tử. Ông còn là đại diện cho thế hệ cha anh trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ – những vị anh hùng hi sinh hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình, thậm chí là tính mạng để bảo vệ đất nước. Nỗi nhớ thương của ông dành cho bé Thu còn là bản cáo trạng lên án, phê phán tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược cùng những nỗi đau, sự mất mát mà nhân dân ta phải gánh chịu.
Qua những gì đã phân tích, chúng ta có thể khẳng định ông Sáu là biểu tượng cao đẹp thể hiện sức mạnh của tình phụ tử. Tình yêu thương sâu sắc, mãnh liệt mà ông dành cho bé Thu chính là yếu tố quan trọng tạo nên một bài ca bất diệt về tình yêu thương đi qua những mưa bom, bão đạn và chiến thắng mọi “nỗi buồn chiến tranh”.
Ngoài phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà, giới thiệu 🍀 Cảm Nhận Về Nhân Vật Bé Thu 🍀 13 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu Trong Chiếc Lược Ngà Ngắn Hay – Mẫu 11
Tham khảo bài văn phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà ngắn hay để có thêm cho mình những ý văn phong phú hơn khi làm bài.
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn Nam Bộ, các tác phẩm của ông chủ yếu viết cho con người và cuộc sống ở Nam Bộ. Trong đó “Chiếc lược ngà” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu được viết năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ khi cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt.
Điều đáng lưu ý là truyện ngắn này viết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con, tình cảm ấy được diễn ra một cách sâu sắc cảm động từ 2 nhân vật bé Thu và ông Sáu, nhưng có lẽ xúc động và gây ám ảnh hơi cả với người đọc là tình cảm người cha- ông Sáu với đứa con gái của mình.
Ông Sáu là người nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước, lúc đi kháng chiến đứa con gái của ông chưa đầy một tuổi, mãi đến khi con gái lên tám tuổi ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Nhưng bé Thu đã cự tuyệt tình cảm của ông chỉ vì trên mặt ông có vết thẹo khác với người cha trong bức hình mà em đã biết.
Đến phút chia tay ông mới đón nhận được tình cảm của con nhưng giây phút ấy quá ngắn ngủi. Vì nhiệm vụ, ông phải trở lại chiến trường, ông lên đường với lời hứa sẽ mua cho con một cây lược. Chính trong hoàn cảnh ấy tình cảm ông dành cho con thật sâu nặng và cảm động.
Trước hết tình cảm của ông Sáu dành cho con được thể hiện phần nào trong chuyến về phép thăm nhà. Đến lúc được về ” cái tình cha con nôn nao trong lòng anh” Khát khao đốt cháy lòng ông lúc này là được gặp con và mong con gọi một tiếng ba để ông được sống trong tình cha con mà bấy lâu nay ông từng mong đợi, vì thế mà khi xuống xuồng vào bến thấy một đứa bé chạc bảy đến tám tuổi, đoán biết la con không chờ xuồng cập bến, ông nhún nhảy thốt lên, xô chiếc xuồng tạt ra.
Anh bước vội vàng với những bước dài rồi dừng kêu to” Thu con” tiếng gọi của ông Sáu nghe thật xúc động. Nó chứa đựng bao tình cảm yêu thương và khát khao gặp lại con. Nhưng thật trớ trêu bé Thu lại tỏ ra ngờ vực lảng tránh. Điều đó khiến ông vô cùng đau đớn, thất vọng ”nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trong thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
Đặc biệt, mấy ngày ông Sáu ở nhà, ông chẳng dám đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con, ông mong được nghe một tiếng ”ba” của con bé nhưng tất cả đều không trọn vẹn. Ông Sáu càng tỏ ra gần gũi con bao nhiêu thì con bé tỏ ra lạnh nhạt bấy nhiêu. Nó nhất định không chịu gọi ông là ”ba”, không nhờ ông chắt nước nồi cơm đang sôi, những lúc như vậy ông khổ tâm hết sức, yêu con ông không lỡ mắng mà chỉ ”nhìn con khe khẽ lắc đầu vừa cười”.
Nụ cười lúc này không phải là vui mà phản ảnh sự khổ tâm của ông ” có lẽ vì khổ tâm quá đến nỗi không khóc được nên phải cười vậy thôi. Sự mất mát quá trong tình cảm của ông chính là bi kịch của chiến tranh, nó đã làm cho mặt ông đổi khác ”vết thẹo dài” nên con bé trông ông không còn giống trong hình với má nó.
Ông vẫn không nản lòng, vẫn quan tâm tới con, nhưng ông càng quyết tâm thì nó phản ứng càng dữ dội hơn, đó là trong bữa ăn ông gắp cái trứng cá to vàng để vào chén nó, tưởng nó sẽ hiểu được thành ý nhưng ngược lại nó liền ” lấy đũa soi vào chén rồi hất cái trứng cá ra, cơm văng tung tóe” lúc này ông bị con cự tuyệt hoàn toàn. Vì quá thất vọng không kịp suy nghĩ ” anh vung tay đánh vào mông nó và hét lên ”sao mày cứng đầu vậy hả”. Tình yêu thương con của ông trở nên bất lực.
Đến lúc chia tay, ông cũng muốn ôm con hôn con nhưng lại sợ nó từ chối và bỏ chạy nên ông chỉ nhìn con với đôi mắt trìu mến và buồn rầu nhưng rồi trước những biển hiện tình cảm mãnh liệt của con, ông thực sự xúc động khi con bé cất tiếng gọi ”ba”.
Không kìm được xúc động và không muốn cho con nhìn thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên tóc con. Giọt nước mắt của ông lúc này không vì đau khổ mà nó là ”giọt châu” rơi trong sự sung sướng hạnh phúc của một người cha yêu thương con sâu sắc.
Tình cảm yêu thương của ông Sáu được thể hiện tập trung và sâu sắc ở phần sau của truyện, khi ông Sáu trở lại chiến tranh. Sau khi chia tay với gia đình, ông Sáu vô cùng nhớ con. Những lúc ấy ông lại thấy dằn vặt day dứt vì đã đánh con trong lúc nóng giận, rồi lời dặn của con: ”Ba về, ba mua cho con một cây lược nghe Ba” đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà để tặng cho con.
Khi kiếm được khúc ngà voi ông đã vô cùng vui mừng sung sướng “mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi người ta “hóa thành” trẻ con lại chính là lúc người ta đang hiện lên cá tư cách người cha cao quý của mình, rồi ông Sáu dồn hết tâm sức và tình yêu thương và chiếc lược ” những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố gắng như một người thợ bạc”.
Trên sống lưng lược có khắc một chữ nhớ mà ông gò lưng tẩn mẩn khắc từng nét “yêu nhớ tặng Thu con của ba” chiếc lược ngà trở thành kỉ vật thiêng liêng của ông Sáu là kết tinh của tình phụ tử mộc mạc đằm thắm sâu nặng. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao tình cảm yêu mến nhớ thương mong đợi của người cha đến với đứa con xa cách ”cây lược ấy chưa chải được mái tóc của con nhưng như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh”.
Những đêm nhớ con anh anh mang chiếc lược ngà ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Lòng yêu thương con được kết tinh trong cây lược ngà ấy đã khiến cho người cha – người đã trở thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tác ra một tác phẩm duy nhất của cuộc đời.
Nhưng rồi trong tình cảnh đau thương lại đến với ông Sáu, ông bị trúng đạn của giặc. Trong giờ phút cuối cùng không kịp trăng trối lại điều gì, ông đưa tay lên túi, móc cây lược cho ông Ba- người bạn chiến đấu và nhìn bạn một hồi lâu, cái nhìn như một lời chăng chối ủy thác thiêng liêng là ước nguyện giữ gìn tình phụ tử muôn đời. Ông Sáu đã hi sinh nhưng tình cha con ở ông thì không thể nào chết được, tình cha con mãi thiêng liêng bất diệt.
Nhân vật ông Sáu người cha giàu tình yêu thương con đã để lại bao mến phục với độc giả, một phần nhờ cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Quang Sáng, trước hết nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện bất ngờ để bộc lộ nội tâm nhân vật ngoài ra tác giả chọn ngôi kể chuyện trong vai người bạn thân thiết của ông Sáu nên không chỉ là người chứng kiến khách quan kể lại câu chuyện mà còn bày tỏ sự đồng cảm chia sẻ với nhân vật ông Sáu.
Có thể nói, chiến tranh đã lùi xa hơn ba mươi năm nhưng hình ảnh nhân vật ông Sáu và câu chuyện về ”Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng vẫn để lại bao ám ảnh day dứt trong lòng bạn đọc.
Câu chuyện ấy không chỉ nói lên tình cha con thắm thiết sâu nặng của cha con ông Sáu, đặc biệt là tình cảm ông Sáu dành cho con, mà còn gợi cho người đọc nỗi đau thương mất mát của chiến tranh gây ra bao nhiêu gia đình, con người. Từ đó, ta càng có ý thức trân trọng giữ gìn tình phụ tử cao đẹp đồng thời trân trọng cuộc sống hòa bình đang được hưởng hôm nay.
Tiếp theo đón đọc 🌹 Phân Tích Lặng Lẽ Sa Pa 🌹 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu Trong Chiếc Lược Ngà Đơn Giản – Mẫu 12
Đón đọc bài phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và luận điểm cơ bản nhất.
Tác phẩm Chiếc Lược Ngà được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết vào thời điểm kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang diễn ra hết sức căng thẳng và quyết liệt năm 1966. Truyện kể về tình phụ tử sâu nặng của cha con Ông Sáu sau chiến tranh trong cảnh ngộ éo le sinh li tử biệt đã để lại trong lòng người đọc những suy ngẫm và xúc động. Đây là một câu truyện ngắn vô cùng giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ, tác phẩm đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử.
Ở thời đại nào cũng vậy chiến tranh không đem lại lợi ích cho con người mà ngược lại nó gây ra bao nhiêu đau thương. Sự bình yên, gây đau thương về tinh thần thể xác ông Sáu trong văn bản Chiếc Lược Ngà là như vậy.
Trong những ngày nghỉ phép ngắn ngủi Ông Sáu càng gần gũi vồ vập thì Thu càng lạnh nhạt xa lánh, Ông Sáu càng chiều thương con thì con càng cự lại để rồi đến phút cuối chia tay ông Sáu mới được hưởng hạnh phúc mọi mặt trong tình cha con, tiếng ba buồn thốt như xé lòng ông, xé lòng mọi người. Nào ngờ chút hạnh phúc nhỏ nhoi đấy lại là lần sinh li tử biệt vĩnh viễn cha lìa con.
Vậy biểu hiện cụ thể tình cảm của ông Sáu với con trong chuyến về thăm nhà. Trong chuyến về thăm nhà khi xuồng chưa kịp cập bến trông Sáu vội vàng ” nhảy lên bờ, khom người hai tay đưa về phí trước miệng lắp bắp ” ba đây con, ba đây con” những tưởng bé Thu sẽ ào tới ôm lấy cổ ba cho thỏa những ngày xa cánh.
Nhưng không ông hẫng hụt bất ngờ khi thấy bé tròn mắt ngơ ngác nhìn tôi rồi sợ hãi bỏ chạy, thời gian ở nhà không nhiều lên ông Sáu không đi đâu xa suốt ngày chỉ gần gũi vỗ về con, mong con gọi một tiếng ba mà không được, có lúc giận quá ông đã đánh con. Lúc chia tay tình yêu mãnh liệt của bé Thu khiến ông cảm động. ” Một tay ôm con tay kia lấy khăn thấm nước mắt” cảm động và đau đớn hơn khi biết rằng đây là lần đầu tiên cũng là cuối cùng ông được nghe tiếng ba thân thương.
Sau khi chia tay gia đình trở lại căn cứ ông nhớ con không nguôi. Nỗi day dứt ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày là việc mình lỡ tay đánh con. Ông nhớ lời dặn của bé Thu trong tiếng khóc mếu máo khi chia tay ba về ” ba mua cho con một cây lược nghe ba”. Tình cảm yêu quí và thương nhớ con đã thúc đẩy ông khi tìm được một khúc ngà để làm lược cho con.
Tác giả đã tập chung diễn tả tình cảm ông Sáu xung quanh truyện làm chiếc lược đó là những cảm xúc của ông khi kiếm được ngà ” anh hớt hải chạy về tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi mắt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà. rồi sau đó ông dồn hết tâm trí và công sức vào công việc” anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và kì công như một thợ bạc. Trên sống lưng lược có khắc hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng tần mẫn khắc từng nét ” Yêu nhớ tặng Thu con ba”.
Chiếc lược và hàng chữ trở thành một vật quí giá thiêng liêng để mỗi khi nhớ con ” anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt” cây lược xoa đi nỗi ân hận vì đánh con mỗi khi ngắm cây lược ông càng thương mong gặp lại con.
Đau đớn, chiến tranh khiến ông Sáu chẳng bao giờ trở về bên con cái được nữa ông đã hi sinh trong một trận chiến. Trước lúc hi sinh ” dường như chỉ có tình cha con là không thể chết ông cầm chiếc lược trao cho bạn với niềm mong mỏi khó cắt thành lời”. Từ lúc ấy cây lược bằng ngà đã thành biểu tượng thiêng liêng của tình mẫu tử, những dòng cuối cùng của văn bản khép lại trong nỗi buồn mênh mông mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Khép lại những trang sách, câu chuyện về Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng còn âm vang mãi trong lòng người đọc. Nó gây nên những xúc động mạnh mẽ về tình phụ tử sâu nặng, thắm thiết và gợi cho người đọc những suy ngẫm về một quá khứ đau thương của dân tộc. Căm ghét chiến tranh đã gây ra và thấm thía những nỗi đau thương, éo le, mất mát của chiến tranh, biết bao nhiêu con người, gia đình phải chịu cảnh tang thương chia lìa như thế.
Song đó cũng là những niềm tự hào và vinh quang của cả một dân tộc anh hùng. Tác giả khẳng định và ngợi ca tình cảm cha con vô cùng thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc, nó lại càng cao đẹp ở trong cảnh ngộ khó khăn.
Khám phá thêm 💕 Phân Tích Nhân Vật Anh Thanh Niên 💕 14 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu Trong Chiếc Lược Ngà Lớp 9 – Mẫu 13
Bài văn mẫu phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà lớp 9 dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Năm 1966, cuộc kháng chiến chống Mỹ đã diễn ra á liệt, biết bao nhiêu người đã phải hi sinh, mãi mãi nằm lại trong lớp đất sâu. Nguyễn Quang Sáng cũng đã kịp thời viết nên truyện ngắn Chiếc lược ngà cổ vũ mạnh mẽ cho tinh thần chiến đấu của nhân dân miền Nam. Chiếc lược ngà một tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng đã gây nhiều xúc động cho độc giả. Có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng người đọc chính là nhân vật ông Sáu – cha bé Thu, một chiến sĩ cách mạng phải rời xa gia đình khi đứa con bé bỏng chưa tròn một tuổi.
Nét đẹp đầu tiên chúng ta cảm nhận được từ ông Sáu là tình yêu đất nước tha thiết. Khi đất nước bị xâm lược, ông sẵn sàng từ bỏ quê hương, gia đình để đi chiến đấu. Ở khu căn cứ, ông kiên cường chiến đấu quên mình vì trong lòng anh có khao khát đất nước được hòa bình, mọi người không phải chia xa với gia đình, quê hương, đất nước.
Đâu ai biết được, trong lòng ông vẫn ngày đêm mong mỏi ngày được trở về với gia đình. Muốn được về ôm đứa con vào lòng và âu yếm nó. Nhưng đất nước vẫn còn tràn ngập bóng quân thù, ông không nào vì lợi ích cá nhân, hạnh phúc gia đình mà quên đi đất nước được? Ông Sáu hiểu được rằng một khi đất nước còn bị kẻ thù xâm lược thì sẽ không có gia đình nào được hạnh phúc. Vì vậy, càng yêu gia đình, ông càng quyết tâm chiến đấu đến cùng.
Mặc dù ở chiến trường tràn đầy nguy hiểm, có thể đối mặt với sự chết chóc bất cứ lúc nào nhưng hình ảnh một gia đình hạnh phúc vẫn tràn ngập trong tim ông. Nó là động lực để ông vững tin chiến đấu để rồi một ngày được trở về. Suốt thời gian đi chiến đấu, ông chỉ được nhìn hình ảnh của người con qua tấm ảnh hồi nhỏ. Hình ảnh lớn dần của bé Thu chỉ qua trí tưởng của ông mà thôi. Mỗi lần vợ ra thăm, ông cứ nằng nặc bảo mang con đến, nhưng vì sự khốc liệt của chiến trường miền Đông nên chị Sáu đâu dám mang con đến.
Để rồi, cho đến khi được nghỉ phép trở về thăm con, ông Sáu đã không thể giấu hết nỗi vui mừng. Hình ảnh “xuồng chưa cập bến, anh đã nhún chân nhảy thót lên” đã một phần diễn tả được tâm trạng háo hức được gặp con của ông. Ông chờ đợi bé Thu chạy tới ôm chầm lấy và gọi lên một tiếng “ba” tha thiết. Tất cả rộn ràng trong trái tim ông.
Nhưng sự thật lại hoàn toàn không giống như những gì ông đã nghĩ. Bé Thu nhìn ông ngơ ngác rồi hét lên, chạy vào kêu “má”. Còn nỗi đau nào sánh kịp khi đứa con mình mong mỏi gặp từng ngày lại không nhận ra cha nó. Ông Sáu hụt hẫng, “hai tay buông xuống như bị gãy”. Ông đâu nào biết được hóa ra vết sẹo dài trên mặt anh đã làm cho bé Thu không nhận ra cha mình bởi vì vết sẹo làm cho ông khác với trong hình. Chính điều đó dẫn đến những căng thẳng giữa ông và con trong mấy ngày về nhà.
Ba ngày ngắn ngủi, những hành động và cách nói chuyện của bé Thu đã làm cho trong lòng ông Sáu như có thêm một vết sẹo khác nữa. Ông đã làm mọi cách nhưng bé Thu vẫn không chịu gọi ông là ba. Không biết làm gì hơn, ông Sáu chỉ biết trông đợi và lo lắng vì ba ngày nghỉ phép đã sắp trôi qua.
Căng thẳng lên đến đỉnh điểm khi bé Thu thẳng tay hất cái trứng cá ra khỏi chén. Hành động vô lễ ấy khiến ông Sáu không thể kìm nén cơn giận, như giọt nước làm tràn ly, ông Sáu đã đánh con. Sau khi đánh xong, anh đã rất hối hận vì hành động ấy của mình. Đó cũng là sự bất lực của anh trước sự ngang bướng của con bé.
Tưởng chừng như ông Sáu sẽ thất bại trong lần về nhà này. Nhưng không phải thế. Tác giả Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo cài đặt các tình tiết, nhẹ nhàng cởi mở mâu thuẫn và căng thẳng cho truyện. Nhờ bà ngoại giải thích về vết sẹo trên khuôn mặt ông Sáu mà bé Thu đã hiểu ra tất cả. Ông Sáu, người mấy hôm nay ở nhà nó đích thực là cha nó đấy. Cả đêm hôm ấy con bé đã không thể ngủ được. Nó cứ nằm trằn trọc. Đôi lúc khẽ thở dài. Nó đang hối hận. Nó muốn nhanh tới sáng để mau về với cha nó, nó cần làm một vài việc rất cần thiết.
Buổi sáng chia tay trên bến sông là cảnh tượng vô cùng cảm động. Ngay lúc ông Sáu đã hoàn toàn thất vọng thì bé Thu cất tiếng gọi ba tha thiết rồi chạy thật nhanh lại ôm chầm lấy ông. Quá bất ngờ và xúc động, ông Sáu cũng ôm con thật chặt trong niềm hạnh phúc tột cùng.
Con bé cứ gọi ba tha thiết và vồ vập hôn lên khắp khuôn mặt ông. Nó hôn lên cả vết sẹo như muốn nói lời xin lỗi đã ngộ nhận nó bấy lâu. Nó bấu riết lấy ông Sáu, không muốn rời xa. Cảnh tượng ấy khiến những người tiễn đưa không cầm được nước mắt. Ông Sáu lên đường mang theo ước muốn của con. Nó muốn có một chiếc lược để chải tóc.
Khi trở về chiến khu ông Sáu đã tìm được một khúc ngà, mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà. Sau đó ông tỉ mỉ cưa từng chiếc răng lược bằng tất cả tâm tình ông dành cho đứa con của mình. Những đêm nhớ con, ông lại lấy chiếc lược ra ngắm, thỉnh thoảng lại mài lên tóc cho cây lược thêm bóng. Nhưng còn chưa kịp trao cây lược đến tay con ông đã hi sinh trong một trận càn khốc liệt của địch.
Đối với nông Sáu, phần quan trọng nhất trong thâm tâm của ông chính là bé Thu. Tình yêu cha con lúc chiến tranh sao mà mãnh liệt, tang thương như vậy.Tình cảm gia đình của ông Sáu, bé Thu chưa được bao lâu đã bị biến mất. Chính chiến tranh đã làm cho biết bao nhiêu gia đình phải chia lì. Chính chiến tranh đã chia cắt họ mãi mãi. kẻ thù như những bóng ma len lỏi vào từng ngóc ngách cuộc sống của con người.
Qua nhân vật ông Sáu, người đọc không chỉ cảm nhận tình yêu con tha thiết sâu nặng của người cha chiến sĩ mà còn thấm thía bao đau thương mất mát đối với những em bé, những gia đình. Ông Sáu đã hi sinh nhưng tình cảm cha con không bao giờ chết.
Tình yêu thương cha tha thiết của bé Thu đã trở thành sức mạnh chiến đấu sau này của cô bé, khi em trở thành cô giao liên, tiếp tục nhiệm vụ chiến đấu dang dở của cha. Nó chứng minh một điều rằng bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt được sự sống của con người, còn tình cảm của con người, tình phụ tử thiêng liêng thì không bom đạn nào có thể giết chết được.
Đọng lại trong mỗi chúng ta là hình ảnh nhân vật ông Sáu trong cuộc chiến tranh khốc liệt. Dù hoàn cảnh có khốc liệt đến mấy thì tình yêu cha con ấy vẫn bất diệt. Bằng cách xây dựng nhân vật và cốt truyện hoàn hảo. Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng đã để dư âm mãi trong lòng chúng ta.
Tiếp theo phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà, chia sẻ 🌼 Phân Tích Làng Của Kim Lân 🌼 18 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu Và Bé Thu – Mẫu 14
Tham khảo bài văn phân tích nhân vật ông Sáu và bé Thu dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình những ý tưởng hay khi viết bài.
Chiến tranh đã đi qua nhưng những nỗi đau mà nó gây ra thì vẫn còn đó. Nó dập tắt ngọn lửa sum vầy mỗi buổi xế tà của nhiều gia đình, nó cướp đi người cha, người anh, người con của những mái nhà đơn sơ, nó đem bầu trời vốn dĩ bình yên phủ đầy bóng tối của khói bom đạn.
Nhưng sau tất cả, chiến tranh vẫn không thể nào ngăn cách yêu thương của tình cảm ruột thịt. Trong “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng đã tái hiện một cách chân thực tình cha con sâu nặng dù bị chia cắt bởi chiến tranh của ông Sáu và bé Thu. Đồng thời, tác phẩm cũng là một lời tố cáo bản chất xấu xa và những nỗi đau mà cuộc chiến tranh phi nghĩa đã gây ra cho con người.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã xây dựng được hai tình huống truyện vô cùng đặc sắc, để rồi chạm đến nơi sâu thẳm nhất của trái tim độc giả. Tình huống đầu tiên đó chính là cuộc gặp gỡ đầy xúc động của hai cha con ông Sáu sau tám năm trời xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu lại không chịu nhận cha. Đến khi Thu chịu nhận cha thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường trở về đơn vị.
Tình huống thứ hai là khi ông Sáu ở khu căn cứ, ông đã dùng tất cả tình yêu thương và nỗi nhớ con để làm nên một chiếc lược ngà tặng bé Thu. Nhưng lược chưa kịp trao tay thì ông đã phải hi sinh nơi chiến trường. Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, ông đã nhờ một người đồng đội chuyển chiếc lược cho con.
Từ hai tình huống đó, tác giả đã thành công thể hiện tình cha con sâu nặng, thắm thiết của ông Sáu và bé Thu. Đồng thời, việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh éo le đã làm bộc lộ tính cách và tình cảm cha con. Để rồi, tình cha con thiêng liêng, cao cả và sức mạnh của nó đã khiến người đọc không khỏi ngậm ngùi tiếc thương sau khi gấp lại trang sách cuối cùng.
Bé Thu là một cô bé có tình yêu thương ba sâu sắc. Tám năm trời đằng đẵng xa cách khiến cho cô bé luôn ấp ủ ước mơ được gặp lại ba và rồi cái ngày ấy cũng đã đến. Những tưởng Thu sẽ vui mừng khôn xiết, sẽ chạy đến chỗ ba mà ôm, mà hôn, nhưng mọi thứ lại không như ta nghĩ. Ngày gặp ba và nghe tiếng ông gọi, cô bé chỉ “tròn xoe mắt” như chẳng hiểu chuyện gì rồi vội vã chạy đi tìm mẹ. Trong ba ngày ngắn ngủi ở nhà, mặc cho ông Sáu luôn yêu thương, dỗ dành, bé Thu vẫn nhất quyết không chịu nhận ba.
Ngay cả khi cô bé cần có sự giúp đỡ chắt nước nồi cơm to, cô bé cũng loay hoay, tự xoay xở vì không muốn gọi ông Sáu là ba. Đỉnh điểm của sự bài xích là trong một lần ăn cơm, khi ông Sáu gắp trứng cá cho bé Thu, cô bé đã hất ra khiến cơm văng tung tóe. Cô bé bị ông Sáu trách phạt nhưng chẳng hề khóc lóc mà bỏ về nhà ngoại.
Qua cuộc trò chuyện với bà ngoại, người đọc mới hiểu ra lý do Thu không nhận ông Sáu là ba vì trên mặt ông có một vết thẹo. Khác với bức hình tám năm qua Thu nhìn thấy. Bà ngoại đã giải thích cho Thu về mọi chuyện và cuối cùng Thu cũng đã hiểu ra.
Sáng hôm sau khi Thu trở về nhà cũng là lúc ông Sáu phải chia tay mọi người để trở về đơn vị. Thái độ Thu lúc này đối với ông Sáu đã có sự thay đổi rõ rệt. Không còn vẻ cau có, cố chấp nữa. Thay vào đó là một khuôn mặt “sầm lại buồn rầu” với “đôi mắt mênh mông bỗng xôn xao” khi bắt gặp ánh mắt trìu mến pha lẫn chút buồn rầu của ba.
Để rồi, trong khoảnh khắc cuối cùng, cô bé đã cất tiếng gọi ba – một tiếng kêu đến xé lòng, tiếng kêu của tình yêu thương, tiếng kêu của nỗi nhớ da diết, của sự đợi chờ và mong ước mà cô bé đã giấu trong mình suốt tám năm đằng đẵng.
Cô bé ôm chặt lấy ba, hôn ba thật nhiều, hôn lên cả vết thẹo mà cô từng ghét bỏ, quất quýt cho đủ những tháng ngày đã cách xa. Cô bé không muốn ba đi nữa, nhưng rồi cũng phải nhìn bóng ba ngày càng xa. Vào lúc chia tay, cô ước ba sẽ mua cho mình một chiếc lược ngà, để cô bé có cảm giác được ba yêu thương cạnh bên. Có thể thấy, Thu là một cô bé bướng bỉnh, cố chấp, nhưng sự bướng bỉnh, cố chấp ấy lại sinh ra từ lòng yêu thương, quý mến ba.
Cùng với bé Thu, ông Sáu cũng là một nhân vật đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Ngày được trở về quê hương sau tám năm dài xa cách, bao nỗi nhớ cùng kỷ niệm ùa về khiến ông Sáu không khỏi xúc động. Nghĩ đến việc được gặp lại đứa con gái bé bỏng, ông lại vui vẻ và vội vã lạ thường.
Nhưng rồi, trước thái độ xa lạ của con, ông hụt hẫng đầy đau khổ. Trong ba ngày ít ỏi được ở nhà, ông không đi đâu xa mà chỉ tìm cách gần gũi với con, chờ con gọi mình là ba, chờ con chấp nhận mình. Đến khi được con nhận cha thì cũng là lúc ông lại phải xa con, xa gia đình, xa quê hương.
Hình ảnh một người cha đang cố “ghìm được xúc động và không muốn cho con nhìn thấy mình khóc, một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con” khiến người đọc phải ngậm ngùi. Những giọt nước mắt của ông không chỉ là giọt nước mắt của sự xúc động, mà nó còn là niềm hạnh phúc lớn lao được tạo nên bởi tình yêu thương con sâu nặng.
Mang theo lời hứa tặng con một chiếc lược ngà trở về chiến khu, ông luôn ân hận vì đã trách phạt con. Vì thế, ông đã dồn tất cả tình yêu thương và nỗi nhớ con vào việc làm chiếc lược ngà, chỉ mong đến ngày được tận tay trao nó cho con mình. Mỗi lần nhớ con, ông lại mang cây lược ra ngắm, rồi chải lên tóc mình cho lược thêm bóng.
Chiếc lược ấy chính là kết tinh của nỗi nhớ, là vật tượng trưng cho tình yêu thương con sâu sắc của người cha. Tình cảm ấy thật lớn lao, đến cả những giây phút cuối của đời mình, ông vẫn canh cánh tiếc nuối vì chưa thể trao nó cho Thu. Ông chỉ có thể nhờ đồng đội hoàn thành tâm niệm cuối cùng. Và khi chiếc lược đến tay của Thu, tình cha con của họ sẽ chẳng bao giờ chết, mà nó đã trở thành một điểm tựa để Thu khôn lớn và trưởng thành.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc không chỉ bởi tình huống đặc sắc, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn mà nó hơn hết đến từ sự ấm áp của tình cha con thiêng liêng, cao quý. Đồng thời, tác giả đã góp phần tái hiện những mất mát to lớn mà chiến tranh đã gây ra cho nhiều gia đình, để rồi ta yêu thêm cuộc sống hôm nay và mãi trân trọng giá trị của hai chữ hòa bình.
Đừng bỏ qua 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Bài Làng Kim Lân 🔥 11 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay
Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu Facebook – Mẫu 15
Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích nhân vật ông Sáu facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
Mỗi một nhà văn đều có cho mình một vùng đất để thương, để nhớ. Là Nguyễn Trung Thành viết về Tây Nguyên đại ngàn dẫu chìm trong đau thương vẫn sáng ngời ý chí đấu tranh, là Kim Lân luôn khắc khoải mảnh đất nông thôn Bắc Bộ nơi có những con người chân chất thật thà, và là Nguyễn Quang Sáng yêu mảnh đất Nam Bộ trong từng hơi thở.
Hoạt động ở chiến trường từ thời kháng chiến chống Pháp khiến ông thấu hiểu và luôn hướng ngòi bút đến cuộc sống con người Nam Bộ. Chính lẽ đó, ông đã khắc họa nên hình tượng nhân vật Ông Sáu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” với đủ đầy những tính chất con người Nam Bộ – Yêu kháng chiến và yêu con như sinh mệnh.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ra đời năm 1966 khi Nguyễn Quang Sáng đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ trong những ngày tháng kháng chiến chống Mỹ khốc liệt nhất. Được rút ra từ tập truyện cùng tên, truyện ngắn được kể theo ngôi kể của bác Ba, chính thế vừa đảm bảo tính mạch lạc và khách quan cho mạch truyện.
Ngày đất nước xảy ra chiến tranh, ông Sáu cùng những thanh niên, cánh đàn ông khác xung phong ra chiến trận. Ngày ông xa quê ra đi vì nghĩa lớn, vì Tổ quốc quê hương, bé Thu con ông chưa đầy một tuổi. Từ đấy, ông bám trụ vào những bức ảnh hiếm hoi của đứa con thơ dại như một điểm tựa tinh thần mà mỗi lần vợ ông liều mình ra tiền tuyến thăm chồng vì thương nhớ.
Được nghỉ phép ngắn ngủi chỉ vỏn vẹn ba ngày, ông Sáu trở về nhà ngay bởi ông đã khao khát cái thời khắc này từ lâu. Ông nhớ nhà, nhớ vợ nhưng nhớ hơn cả là đứa con gái nhỏ của mình, ông chờ đợi khoảnh khắc này cũng đằng đẵng tám năm ròng “Cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh”.
Trong giây phút đoàn tụ, từ khoảnh khắc đầu tiên bằng linh cảm của một người cha và sự thiêng liêng khó tả của tình thân, ông đã nhận ra ngay đứa con thơ tám năm dài cách biệt “ Đoán biết là con, không thể chờ xuồng cặp lại bên, anh nhún chân nhảy thót lên”.
Khao khát muốn nhanh chóng gặp con “anh bước vội những bước dài”, “vừa bước vừa khom người đưa tay đón chờ con”. Tám năm nay, ông chỉ dựa vào ngày đoàn tụ này như động lực để bản thân chiến đấu, ông cất tiếng gọi con trìu mến “Thu! Con” thế nhưng đáp lại ông là thái độ ngơ ngác, lạ lùng của bé Thu. Ông vẫn kiên trì, giọng lắp bắp, run run: “Ba đây con”.
Sự mong nhớ con kìm nén bấy lâu dằn vặt ông mỗi ngày nay đã được giải tỏa bởi đứa con đang đứng trước ông, là bé Thu bằng da bằng thịt. Nỗi xúc động ấy đã làm vết sẹo dài trên má phải của ông đỏ ửng lên. Khiến bé Thu sợ hãi: “mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên”. Tất cả diễn ra ngoài dự đoán, nỗi thất vọng như bám chặt lấy tâm can ông mà dày xé “Nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
Ba ngày ông ở nhà còn đau lòng, thất vọng và bất lực hơn cả lúc ở tiền tuyến mong con. Ông càng cố gần gũi, bù đắp kéo sát khoảng cách tám năm xa cách, thế nhưng “Càng vỗ về con bé càng đẩy ra”. Ra sức bù đắp cho con những thiếu thốn về tinh thần trong những tháng ngày không cha bên cạnh, đứa nhỏ lại càng trở nên cự tuyệt.
Bất lực là thế ông chỉ có thể “nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”. Ông cười nụ cười bất lực, từng giây từng khắc ở chiến trường ngóng trông ngày đoàn tụ, tất cả những gì ông nhận được là sự xa lánh từ con. Tuy thế, ông vẫn luôn tận tình chăm sóc con, tận tình quan tâm bằng cả tình thương.
Trong bữa cơm, ông gắp cho con miếng trứng cá to vàng, được xem là phần ngon nhất của miếng cá thế nhưng bé Thu vẫn kháng cự đến cùng. Nó hất cái trứng ra khỏi chén khiến cơm văng tung tóe khắp cả mâm, vì quá tức giận ông Sáu vung tay đánh vào mông nó và hét lên: “Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?”. Sự đau đớn trong hai ngày vừa qua khiến ông bộc phát đến đỉnh điểm, càng đau đớn khi chỉ còn một đêm nữa ông phải trở về căn cứ, rời xa vợ và con để tiếp tục chiến đấu.
Khoảnh khắc đoàn viên trở nên ngắn đến lạ, ba ngày trôi qua làm thế nào cũng chẳng bì được với những mất mát mà khoảng trống tám năm mang đến. Tưởng rằng ba ngày ấy sẽ giúp anh sống trong tiếng cười rộn vang ngôi nhà nhỏ, trong những bữa cơm chiều ấm áp thơm nồng vị bếp quê. Ông nỗ lực kéo con lại gần để bù đắp những tháng ngày ấm áp mà chiến tranh đã lạnh lùng cướp đi thì con bé lại càng lạnh lùng với ông như người dưng.
Giờ chia tay đã điểm, ông Sáu bận thu xếp đồ đạc rồi tiếp đón bà con, họ hàng đến tiễn chân rất đông vào lúc này nên ông không còn thời gian chú ý đến đứa con gái nhỏ của mình nữa. Ngay thời khắc chuẩn bị lên đường, bé Thu chạy đến ôm chầm lấy cổ ông và cất tiếng gọi ba. Một chữ đơn giản nhưng dường như là khát khao cả đời của ông. “Anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”.
Giọt nước mắt của ông kết tinh muôn vàn cảm xúc, là cảm động vì đứa con dại tám năm xa cách đã từng chống cự quyết liệt nay lại ấm áp gọi một tiếng “ba”, là quyến luyến vì thời khắc chia ly đã cận kề, gia đình từ nay lại mang nỗi thống khổ chia xa và vì tình thân đang rung lên từng hồi bên trong ngực trái. Giá mà thời gian có thể ngưng đọng, anh và con có thể sống mãi trong vòng tay ấm áp này. Anh ôm chặt con cho thỏa những nhớ mong mà bom đạn chiến tranh gây nên.
Mang theo lời hứa mua tặng cho con chiếc lược ông trở về căn cứ, tìm được khúc ngà ông hớt hải chạy về làm ngay cho con một chiếc lược. Tình yêu của ông dành cho con len lỏi vào từng chi tiết nhỏ, đan cài ngày một lớn dần hình hài nên được cây lược.
Tình yêu của ông dành cho con cao cả đến thiêng liêng ở “hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc cho con từng nét”: “Yêu nhớ tặng con Thu của ba”. Chiếc lược ngà là biểu tượng của tình cha con bất diệt, tình phụ tử thiêng liêng đến lúc mất ông vẫn giữ kĩ bên mình rồi nhờ đồng đội trao cho con. Có lẽ chiếc lược còn mang thông điệp rằng dẫu ông không tồn tại, tình yêu của ông dành cho con vẫn mãi mãi trường tồn.
Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa nên hình tượng nhân vật ông Sáu với đủ đầy những nét đặc trưng của con người Nam Bộ – Yêu Cách mạng và yêu con đến da diết. “Chiếc lược ngà” còn là câu chuyện về tình phụ tử thiêng liêng, bất diệt không những của ông Sáu, bé Thu mà còn là hàng vạn những gia đình bị tước đi quyền được hạnh phúc vì bom đạn chiến tranh.
Không chỉ có phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà, đón đọc 💕 Phân Tích Nhân Vật Ông Hai 💕 16 Mẫu Hay Nhất