Phân Tích Khổ Cuối Bài Ánh Trăng ❤️️ 24+ Bài Văn Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Những Bài Viết Ngắn Gọn Và Nâng Cao Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Tại SCR.VN.
Dàn Ý Phân Tích Khổ Cuối Bài Ánh Trăng
Lập dàn ý phân tích khổ cuối bài Ánh trăng dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được những luận điểm cơ bản để triển khai bài viết. Tham khảo gợi ý dưới đây:
1.Mở bài phân tích khổ cuối bài Ánh trăng:
- Giới thiệu khái quát về Nguyễn Duy.
- Giới thiệu nội dung cần phân tích – khổ cuối bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc.
2.Thân bài phân tích khổ cuối bài Ánh trăng:
a. Khái quát về nội dung, nghệ thuật của bài thơ:
- Diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ nghĩa tình.
- Mang nét đặc trưng riêng: có sức khái quát lớn, hàm súc,giàu chất triết lí.
b. Phân tích chi tiết khổ thơ:
-Suy nghĩ về hình ảnh vầng trăng ( mang nhiều tầng ý nghĩa):
- Là hình ảnh của thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, đẹp rạng ngời.
- Là người bạn tri kỉ thưở ấu thơ, hồi chiến tranh ở rừng.
- Là biểu tượng của quá khứ nghĩa tình tròn đầy, bất diệt.
- Là vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của đời sống.
- Là biểu tượng của nhân dân, đất nước bình dị, hiền hậu.
-Suy nghĩ về cái “giật mình” của nhân vật trữ tình:
- Cái “giật mình” đã khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta
- Cái “giật mình” thấm chất nhân văn sâu sắc.
3.Kết bài phân tích khổ cuối bài Ánh trăng:
- “Ánh trăng” không chỉ là tiếng lòng của một người mà là tiếng lòng của muôn người.
- Khổ thơ cuối cùng khép lại nhưng dư âm vẫn ngân lên, tạo sức ám ảnh thật lớn với người đọc: sống ở đời phải biết trọng ân nghĩa, thủy chung.
- Cảm xúc, ấn tượng của người viết.
Mời bạn đón đọc 🌜 Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Ánh Trăng 🌜 Dàn Ý Chuẩn Nhất
Viết Đoạn Văn Phân Tích Khổ Cuối Bài Ánh Trăng 12 Câu
Gợi ý viết đoạn văn phân tích khổ cuối bài Ánh trăng 12 câu dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Ở khổ cuối bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, vầng trăng đột ngột hiện ra với một vẻ đẹp ám ảnh lòng người. ’’Trăng cứ tròn vành vạnh”, thời điểm trăng tròn chính là vào ngày rằm hàng tháng. Câu thơ gợi đến vẻ đầy đặn, tròn trịa của vầng trăng và cũng là vẻ sáng tươi hiền dịu của thứ ánh sáng trong lành nhất vũ trụ.
Đêm trăng tròn, trăng để khắp không gian tràn đi ánh sáng vàng dịu, sóng sánh như mật ngọt. Trăng như rải bạc trên mặt nước. Trăng như tưới sạch, làm đẹp, làm bóng lên những lùm cây. Trăng làm mặt người hớn hở vui cười. Và nói như nhà văn Nam Cao: trăng làm mọi thứ đẹp lên!
Nhưng vẻ “tròn vành vạnh” của vầng trăng còn gợi đến một suy tưởng khác: vầng trăng còn tròn đầy “vành vạnh” nghĩa là trăng vẫn còn trọn vẹn những ân nghĩa xưa với những người lính năm nào. Và điều đáng quý, đáng nghĩ là trăng vẫn tròn ngay cả khi người đã “vô tình”:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình”.
Câu thơ gieo vào lòng người đọc một thoáng giật mình để rồi thấy ăn năn, day dứt. Vầng trăng kia cũng giống như bao con người, bao kí ức đẹp đẽ đã đi qua đời ta. Những con người của quá khứ, những kí ức xa xưa… tất thảy vẫn còn nguyên tấm lòng thuỷ chung trọn vẹn. Còn riêng ta, mới một chút phù hoa, danh lợi mà đã quên đi những ân tình, những thề nguyền thiêng liêng xưa cũ. Và rồi, ta càng thấy day dứt, băn khoăn hơn bởi khoảng lặng mênh mang của vầng trăng tròn cao thượng:
“Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”.
“Ánh trăng im phăng phắc” để ngân mãi những dòng ánh sáng toả đi khắp nhân gian. Điều đó cũng có nghĩa trăng mãi hao dung, hiền từ và độ lương. Cái đáng sợ là cái im lặng của kí ức. Ta đã quên đi quá khứ, ta đã có lỗi với người xưa để sống một cuộc đời ồn ào, náo nhiệt nhưng tất cả vẫn im lặng dõi theo ta với cái nhìn bao dung, rộng mở.
Và chính bởi sự cao thượng ây đã khiến ta ”giật mình”. ”Giật mình để nhận ra sự cao đẹp của người xưa. “Giật mình” để nhận ra phần hờ hững, lãng quên đáng chê trách của mình. “Giật mình” còn để biết nhìn lại mình cho đúng. Tiền tài danh lợi, đó chưa phải là điều quý giá nhất ở đời. Phải biết sống có tình, có nghĩa, thuỷ chung trọn vẹn trước sau mới khiến lòng người sạch trong và thanh thản.
Đừng bỏ qua 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Ánh Trăng Nguyễn Duy 🔥 12 Mẫu Vẽ Tóm Tắt
Phân Tích Khổ Thơ Cuối Của Bài Ánh Trăng – Mẫu 1
Đón đọc đoạn văn mẫu phân tích khổ thơ cuối của bài Ánh trăng dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những định hướng làm bài cụ thể.
Cuộc đời của mỗi con người dù đi đâu về đâu cũng không bao rời xa vầng trăng tình nghĩa. Chỉ có con người có lúc lãng quên trăng, chứ trăng bao giờ cũng ở bên người, sẵn sàng cùng người sẻ chia tâm sự. Chính vì thế, đối với ai trăng cũng sẵn sàng làm tri kỉ. Đối với Nguyễn Duy cũng vậy.
Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 và được đưa vào tập thơ “Ánh trăng. Tập này đã được tặng giải A của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984. Thông qua hình tượng nghệ thuật “Ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ đã diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa.
Khổ thơ cuối cùng khép lại tác phẩm mang nhiều ý nghĩa đưa tới chiều sâu tư tưởng mang tính triết lý:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu. Trăng không trách móc, hờn giận “người vô tình”vì đó là vầng trăng độ lượng, khoan dung, là truyền thống nhân hậu của dân tộc.
Hình ảnh “Ánh trăng im phăng phắc” cũng là hình ảnh của lương tâm nghiêm khắc nhắc nhở từ chính sự im lặng của mình về sự thủy chung, gắn bó với quê hương, với thiên nhiên và con người. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa.
Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người. Mạch cảm xúc của bài thơ lắng kết trong cái “giật mình” cuối bài thơ. Đây là sự ăn năn tự trách để nhắc nhở mình phải sống có nghĩa tình đừng quên ân tình của quá khứ dù bất kì hoàn cảnh nào.
Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, “Ánh trăng” nhắc nhở con người về lẽ sống ân tình thủy chung với thiên nhiên đất nước. từ đó, ta thêm trân trọng quá khứ, có thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”. Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc đã từng nhắc đến vầng trăng nghĩa tình, thủy chung ấy:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi, ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui
Hình ảnh vầng trăng và người lính là hai hình tượng vốn có sự gắn kết bền chặt trong thi ca. Có lẽ, không gian chiến đấu của người lính thường là nơi rừng núi, không gian lặng lẽ, chỉ có trăng là sự vật rực rỡ nhất, gợi nhớ nhất, lặng lẽ đi vào tâm hồn người lính như một nguồn sống bất tận. Trong bài thơ Đồng chí, nhà thơ chính hữu đã có những lời thơ thật hay:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ. Vì vậy, bài thơ dung những lời lẽ, tình đời, tình người vẫn vấn vương cùng người đọc.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Khổ Thơ Cuối Bài Ánh Trăng Hay Nhất – Mẫu 2
Tham khảo bài văn mẫu phân tích khổ thơ cuối bài Ánh trăng hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Đọc “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, người đọc như một lần được đối diện với chính mình và cũng đồng thời giao cảm với một tâm hồn đáng trọng. Vẫn còn trong trẻo trên cao, vầng trăng tròn vành vạnh, vẫn còn vương vấn đâu đây ánh sáng trong mắt, nhẹ nhàng, im ắng quấn quyện trong tâm hồn mỗi chúng ta. Đoạn thơ cuối khép lại tác phẩm đã ghi dấu trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
Dường như khổ thơ cuối dồn nén biết bao niềm tâm sự. Trăng vẫn thế, trăng nhìn cố nhân vô tình kia vẫn bằng con mắt trong trẻo. Chỉ có lương tâm thi nhân đang lên tiếng, những lời sám hối ăn năn dù không cất lên nhưng chính vì thế càng trở nên ám ảnh, day dứt.
Thà rằng trăng cất lời trách móc hay ẩn mình sau đám mây nào đó, có lẽ lòng kẻ vô tình kia đỡ ân hận. Nhưng không, trăng lặng im không nói, cái lặng im làm “ta giật mình”. Nếu như người đọc đã từng giật mình như một phản xạ thì đến đây có lẽ sẽ cảm nhận được cái giật mình của lương tâm.
Vẫn biết rằng vầng trăng trên kia khi ta chưa sinh ra cũng cứ khuyết lại tròn, khi ta tồn tại hay sau này ta có thành cát bụi thì trăng vẫn cứ khuyết lại tròn vậy thôi. Nhưng chính cái giật mình thức tỉnh đáng trân trọng của tác giả khiến lòng ta cảm động. Một sự thức tỉnh đầy ý nghĩa. Có người sẽ hỏi rằng nếu không mất điện liệu nhà thơ có được sự thức tỉnh ấy không?
Một lần nữa xin đừng “mổ xẻ” câu chữ, hãy gượng nhẹ mà đón lấy niềm tâm sự sâu kín của thi nhân. Nguyễn Duy đã diễn tả rất thành công những biến thái tinh vi của một tâm hồn trong quá trình ăn năn,hối hận. Nếu ai đã có lần đọc “Hơi ấm tổ rơm” của tác giả sẽ nhận thấy cảm xúc của Nguyễn Duy rất dễ rung với những tình huống giản dị mà có lẽ ít nhà thơ có được:
Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng
Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm
Của những cọng rơm xơ xác gầy gò
Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no
Riêng cái ấm nồng nàn như lửa
Cái mộc mạc lên hương của lúa
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người.
Lớn lên trong cảnh nghèo ở nông thôn Thanh Hóa, tác giả thường có những băn khoăn, trăn trở về đời sống lam lũ, vất vả của bà con lao động. Chính vì thế, những lời thơ của Nguyễn Duy thường rất mộc mạc, dân dã mà vẫn rất xúc động. Người đọc cảm nhận sâu sắc những gì tâm hồn nhà thơ muốn chia sẻ có lẽ nhờ vào mạch nguồn chân thành ấy.
Trở lại với “Ánh trăng”, có lẽ niềm tâm sự sâu kín giờ đây không chỉ còn là của riêng Nguyễn Duy nữa. Ý kết của bài thơ đã nâng những suy nghĩ của tác giả lên tầm khái quát – triết lí: ai cũng có những vô tình quên đi những gì tốt đẹp của ngày xưa. Nếu như không có sự thức tỉnh, những lúc “giật mình” nhìn lại của lương tâm thì biết đâu chúng ta sẽ đánh mất chính mình?
Và với Nguyễn Duy nếu tác giả không phải là người từng có một thời sống như thế, làm sao có được niềm tâm sự đáng quý như vậy? Những chặng đường của quá khứ và hiện tại cứ nối tiếp nhau, lúc thì đan xen, khi thì tách rời khiến ta nhìn rõ nét băn khoăn, rối bời của tâm trạng. Cả bài thơ thấm đẫm trong ánh trăng trong trẻo, ngời mát và ám ảnh. Lí Bạch đã từng có hai câu thơ rất nổi tiếng:
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương,
(Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê hương.)
Giữa miền đất xa lạ dẫu vẫn nằm trên đất Trung Hoa, Lí Bạch nhìn vầng trăng mà nhớ quê hương mình, như níu lấy chút gì thân quen để sưởi ấm tâm hồn người lữ khách. Với Nguyễn Duy, vầng trăng ngời tỏ trên bầu trời kia gợi lại cả một thời quá khứ và đặc biệt làm cho tâm hồn thi nhân bừng tỉnh và trở về chính mình. Có bao giờ ta tự hỏi tại sao cũng chỉ là vầng trăng ấy thôi, con người lại có thể nhìn thấy nhiều điều khác nhau đến thế…
Qua đoạn thơ cuối bài Nguyễn Duy gửi đến cho chúng ta một thông điệp. Trong cuộc sống này, dù cho có bộn bề với những lắng lo của thực tại hay có ấm êm, vui sướng, đủ đầy thì cũng đừng quên quá khứ, bởi đó chính là những đôi cánh đưa chúng ta đến tương lai. Lòng thủy chung, nghĩa tình sẽ bồi đắp cho cuộc sống của chúng ta ngày một tốt đẹp hơn, giàu có hơn.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Khổ Cuối Bài Ánh Trăng Ngắn Gọn – Mẫu 3
Bài văn mẫu phân tích khổ cuối bài Ánh trăng ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách viết súc tích và cô đọng ý văn.
Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy tuy ngắn gọn, đơn sơ như dáng dấp một câu chuyện ngụ ngôn ít lời mà giàu hàm nghĩa. Vầng trăng thật sự như một tấm gương soi để người ta thấy được những gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta đôi khi để mất.
Đặc biệt là khổ thơ cuối mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lý:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”
Quá khứ khi xưa hiện về nguyên vẹn. Trăng- hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy, viên mãn, thuỷ chung. “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn tỏa sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng “im phăng phắc”, một cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng không hề trách móc con người quá vô tâm như một sự khoan dung, độ lượng.
“Vầng trăng” dửng dưng không có một tiếng động nhưng lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối. “Ánh trăng” hay chính là quan toà lương tâm đang đánh thức một hồn người. Cái “giật mình” của người lính phải chăng là sự thức tỉnh lương tâm của con người? Chỉ im lặng thôi “vầng trăng” đã thức tỉnh, đánh thức con người sau một cơn mê dài đầy u tối.
Chỉ với một “vầng trăng” – “vầng trăng” của Nguyễn Duy cũng có thể làm được những điều tưởng chừng như không thể. “Ánh trăng” là cội nguồn quê hương, là nghĩa tình bè bạn, là quan toà lương tâm, là sự thức tỉnh của con người. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn còn và con người vẫn còn cơ hội sửa chữa sai lầm.
Thành công của Nguyễn Duy chính là đã mượn cái “giật mình” của nhân vật trữ tình trong bài thơ để qua đó rung lên một hồi chuông cảnh tỉnh, nhắc nhở mọi người, nhất là thế hệ của ông, không được phép lãng quên quá khứ, cần sống có trách nhiệm với quá khứ, coi quá khứ là điểm tựa cho hiện tại, lấy quá khứ để soi vào hiện tại. Thủy chung với vầng trăng cũng chính là thủy chung với quá khứ của mỗi con người.
Đó là tiếng lòng của nhà thơ cũng là tiếng lòng của bao người, bởi dù cho lời thơ cuối cùng khép lại thì dư âm của nó vẫn còn ngân lên, tạo một sức ám ảnh thật lớn đối với người đọc.
Gửi đến bạn 🍃 Phân Tích Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy 🍃 Những Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Khổ Cuối Bài Thơ Ánh Trăng Chi Tiết – Mẫu 4
Tham khảo bài văn mẫu phân tích khổ cuối bài thơ Ánh trăng chi tiết dưới đây để nắm được đầy đủ những giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông dung dị, hồn nhiên mà thiết tha, sâu lắng, ít nhiều mang màu sắc triết lí. “Ánh trăng” là bài thơ tiêu biểu của ông. Đến với khổ thơ cuối bài thơ là những suy nghĩ của nhà thơ về vầng trăng.
“Ánh trăng” được Nguyễn Duy viết năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh – ba năm sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, không phải ai cũng còn nhớ những kỉ niệm nghĩa tình, những gian khổ trong quá khứ. Bài thơ được viết ra như một lời tự nhắc, một lần giật mình trước sự vô tình, lãng quên dễ có ấy, nhắc nhở mỗi người về lẽ sống ân nghĩa, thủy chung, đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc.
Nếu như những khổ thơ đầu của bài thơ là quá khứ về vầng trăng,là cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa con người và vầng trăng xưa thì khổ thơ kết là những suy ngẫm của tác giả về vầng trăng và ý nghĩa biểu tượng của vầng trăng:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Anh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”.
Kết cấu “cứ… kể chi” cho thấy sự đối lập giữa người với trăng. Trăng vẫn “tròn vành vạnh” – một vẻ đẹp vẹn nguyên chẳng thể phai mờ tượng trưng cho vẻ đẹp nghĩa tình của quá khứ đầy đặn, thủy chung, nhân hậu, bao dung. Trăng vẫn như xưa chỉ có con người đã thay đổi. Trăng vẫn vẹn trọn nghĩa tình, chỉ có con người đã thành kẻ vô tình.
Trước sự thay đổi của con người, trăng chỉ “im phăng phắc” không nói một lời nào. Thái độ ấy là sự nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im khiến con người phải “giật mình”. Giật mình là hành động thức tỉnh để nhìn nhận lại chính mình, là sự ăn năn, hối hận vì sự vô tình, bội bạc không nên có ở mình. Giật mình để thay đổi thái độ sống – sống ân nghĩa thủy chung. Cái giật mình ấy vô cùng cần thiết, giật mình để tìm lại chính mình.
Trong dòng thác vận động của cuộc sống, những cái giật mình như vậy đáng quý biết bao. Nó níu giữ con người khỏi bị trôi trượt trước những lo toan, bộn bề hằng ngày. Nó bảo vệ con người trước những cám dỗ tầm thường của cuộc sống và trên hết, nó hướng con người đến những giá trị cao đẹp của cuộc đời. Trong cái “ta giật mình” có cái tôi của nhà thơ và cái tôi của tất cả mọi người.
Có phải Nguyễn Du muốn lay động tất cả những ai còn đang ngủ quên trong cuộc sống đầy đủ, ấm no mà lãng quên quá khứ thì hãy thức tỉnh giật mình để nhận ra chính mình.
Đoạn thơ cuối rất thành công khi sử dụng những nghệ thuật đặc sắc. Đó là thể thơ năm chữ, giọng điệu tâm tình, nhỏ nhẹ mà sâu lắng. Hình ảnh thơ quen thuộc mà giàu sức gợi.
Đoạn thơ nêu lên những suy ngẫm về vầng trăng và ý nghĩa biểu tượng của vầng trăng, góp phần thể hiện tư tưởng toàn bài: nhắc nhở mỗi người về lẽ sống ân tình, thủy chung, đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc. “Ánh trăng” không chỉ là câu chuyện của một người, của nhà thơ mà là câu chuyện của cả thế hệ – thế hệ đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh gian khổ, từng sống gắn bó với thiên nhiên, nhân dân nghĩa tình giờ sống trong hòa bình. Bài thơ có ý nghĩa với mọi thời đại, là tấm gương trăng để soi lòng.
Đoạn thơ cuối nói riêng và “Ánh trăng” nói chung hấp dẫn người đọc bởi câu chuyện thấm thía những lẽ sống đối nhân xử thế ở đời. “Ánh trăng” đã bật tung cửa sổ lương tâm của mỗi người, soi rọi vào những góc tối trong tâm hồn mỗi người để có những cái “giật mình” đáng quý.
Xem nhiều hơn 🌹 Cảm Nhận Bài Thơ Ánh Trăng 🌹 10 Bài Văn Mẫu Hay
Phân Tích Khổ Thơ Cuối Bài Ánh Trăng Nâng Cao – Mẫu 5
Đón đọc bài văn mẫu phân tích khổ thơ cuối bài Ánh trăng nâng cao dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.
Trăng có lẽ là hình ảnh thơ xuất hiện nhiều nhất, thường xuyên nhất trong các tác phẩm của các thi nhân xưa và nay. Trăng là hình ảnh bình dị mà quen thuộc, gần gũi, lãng mạn mà trữ tình.
Hình ảnh vầng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử “Ai mua trăng tôi bán trăng cho” là tình yêu đôi lứa tha thiết, trong thơ Hồ Chí Minh “trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ” là tình yêu thiên nhiên nồng nàn, … nhưng phải đến thơ Nguyễn Duy, người ta mới thấy một hình ảnh về trăng khác lạ nhất. Đó là hình ảnh ánh trăng với triết lý sâu sắc của cuộc đời mỗi người “uống nước nhớ nguồn”. Triết lý ấy thể hiện rất rõ qua khổ thơ cuối của bài thơ:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Nếu ai đã từng biết tới Nguyễn Duy thì hẳn không quên được những tác phẩm đặc sắc của ông như Đò Lèn, Tre Việt Nam, … Chúng đều là những tác phẩm thấm đẫm cái hồn của ca dao, tục ngữ, của những áng văn thơ dân gian Việt Nam. Bởi thơ ông không đi tìm những điều mới lạ như Xuân Diệu mà lại đi tìm lại, khai thác sâu thêm những cái nền nã, cái vốn có tình nghĩa lâu đời của người Việt.
Chính thế, người ta mới được biết tới Ánh trăng. Một vầng trăng tri kỉ của con người, một vầng trăng tình nghĩa bao năm tháng và một vầng trăng thức tỉnh cái lương tâm ta. Tác phẩm là lời nói thức tỉnh mỗi con người chúng ta, đừng bao giờ vì những thứ hào nhoáng, mới mẻ mà quên đi quá khứ của mình.
Mở đầu những trang thơ, người ta thấy xuất hiện trong thơ Nguyễn Duy một vầng trăng sáng tỏa. Vầng trăng ấy chứa chan những kí ức của tuổi thơ, của những ngày gian khổ chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống ở đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Vầng trăng ấy trong thơ Nguyễn Duy trải rộng ra trong không gian mênh mông của tuổi thơ. Tuổi thơ hồn nhiên bên những dòng sông và biển lớn và cả bên vầng trăng nữa. Rồi khi đi lính, vầng trăng lại dõi theo chân ông, trở thành người bạn đường hành quân, trong những lần đứng gác. Đó là vầng trăng tri kỉ của Nguyễn Duy, cũng là vầng trăng tri kỉ của con người, của chúng ta. Bởi mỗi chúng ta sống và lớn lên đều có những kí ức bên vầng trăng yêu quý ấy.
Thế nhưng, khi từ rừng, từ sông trở về đời thường, bước chân vào một hoàn cảnh sống mới mẻ, tâm hồn của người lính qua chiến tranh, của cậu bé hồn nhiên ngày nào dường như đã đổi khác. Chính Nguyễn Duy cũng nhận ra cái thay đổi ấy trong suy tư của mình. Để rồi, trong một tình huống bất ngờ “thình lình đèn điện tắt”, người chiến sĩ đối diện với vầng trăng và được vầng trăng thức tỉnh hoàn toàn:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”.
Khổ thơ cuối thật hàm súc biết bao. Vầng trăng tròn trên cao cứ im lặng chiếu rọi tâm hồn của người bạn của mình. Vầng trăng mà Nguyễn Duy miêu tả “tròn vành vạnh” như cái vẻ đẹp tròn đầy, viên mãn, không bao giờ suy suyển dù trải qua bao năm tháng thăng trầm. Ánh trăng ấy cứ ngắm nhìn người bạn, chỉ vậy thôi cũng khiến cho người lính “giật mình”. Đó là cái giật mình của sự bừng tỉnh, giật mình tự hỏi tại sao mình có thể quên lãng những ngày tháng đó?
Ánh trăng như tấm gương chiếu rọi con người, để con người qua đó mà thức tỉnh lương tri của mình, để con người nhận ra rằng, họ có thể quên đi bất cứ điều gì nhưng không được quên đi quá khứ, quên đi những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc, quên đi những năm tháng máu lửa và xương máu của dân tộc ta đã đổ xuống để có được tự do hôm nay.
Bằng lời thơ được viết như một câu chuyện kể, Nguyễn Duy đã kể cho chúng ta nghe một câu chuyện về sự thức tỉnh lương tri của một người lính già qua hình ảnh vầng trăng – người bạn tri kỉ. Những ngôn từ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng, không hề bay bổng, nó đã giúp ghim sâu vào tâm trí người đọc một hình ảnh vầng trăng tròn vành vạnh mang đầy nghĩa tình, sống với con người ta trải qua bao năm tháng.
Qua đó, nhà thơ muốn gửi gắm những điều quý giá rằng: con người phải luôn trân trọng quá khứ, trân trọng những gì đã có ngày hôm qua, không được phép quên lãng đi những giá trị tinh thần cốt lõi của dân tộc.
Thể thơ thất ngôn, cách viết thơ liền mạch, không viết hoa đầu dòng cùng những hình ảnh nhân hóa, so sánh ấn tượng đã giúp Nguyễn Duy sáng tác ra một tác phẩm thật giàu ý nghĩa. Bài thơ là lời nhắc nhở thức tỉnh mỗi chúng ta, nếu có lỡ quên đi những gì quý giá, hãy thức tỉnh, tìm lại chứng, giữ gìn chúng, đừng để những hào nhoáng xung quanh lấp đầy, che khuất chúng. Và mỗi chúng ta đừng bao giờ quên đi đạo lý sâu sắc của đời người: “uống nước nhớ nguồn”.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Mở Bài Ánh Trăng 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Khổ Cuối Ánh Trăng Nâng Cao Đặc Sắc – Mẫu 6
Với bài văn mẫu phân tích khổ cuối Ánh trăng nâng cao đặc sắc dưới đây, các em học sinh có thể tham khảo và vận dụng cho bài viết của mình.
Nguyễn Duy là một gương mặt tiêu biểu cho lớp nhà thơ trẻ thời chống Mỹ giai đoạn sau với phong cách thơ mang màu sắc triết lí mà thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca. Bài thơ “Ánh trăng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh, 3 ngày sau khi đất nước được giải phóng. Khổ thơ cuối bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc vì mang một triết lí sâu xa, gợi nhắc con người về lẽ sống ân nghĩa, thủy chung.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Tính từ “tròn” kết hợp với từ láy “vành vạnh” cực tả, tuyệt đối hoá vẻ đẹp của trăng: sáng trong, viên mãn, ổn định, tròn đầy. Hình ảnh thơ không chỉ dừng lại ở đó mà còn có ý nghĩa khái quát: Sự tròn đầy, bất diệt của vầng trăng biểu tượng cho quá khứ vẹn nguyên, nghĩa tình, thủy chung, nhân hậu ngày nào.
Đây chính là hình ảnh biểu tượng của trăng. Từ “cứ” khiến cho âm điệu câu thơ vừa tha thiết, vừa vút cao, rắn rỏi trong sự khẳng định về lòng thủy chung của vầng trăng. Hai câu thơ đầu có kết cấu đối lập trong lời thơ, ý thơ làm nổi bật ý thơ. Vầng trăng trước sau vẫn vậy, mộc mạc, giản dị và thủy chung mặc cho con người hờ hững, vô tình.
Hai câu thơ sau, ý thơ đã có sự thay đổi, hình ảnh “vầng trăng” chuyển thành “ánh trăng”. Bởi vì chỉ có ánh trăng, thứ ánh sáng huyền ảo đó mới có sức mạnh làm thức tỉnh tâm hồn con người sau bao nhiêu ngày tháng vô cảm. Chỉ có ánh trăng mới đủ ánh sáng để soi rọi vào quá khứ, những ngày tháng sống gắn bó với vầng trăng, từ đó đánh thức lương tâm con người. Từ ánh trăng đất trời vào thơ Nguyễn Duy đã trở thành ánh sáng tươi đẹp để xua đi nỗi tối tăm trong tâm hồn nhân thế.
Nhưng không phải trăng nhắc nhở bằng lời nói mà bằng sự im lặng. “Trăng im phăng phắc” trước hết là hình ảnh tả thực. Trăng không như sao, sao có lúc mọc lúc sa, trăng không như mây, lúc tan lúc tụ, trăng không như mưa lúc tạnh lúc rơi, trăng không như gió khi ngừng khi thổi. Trăng im lặng mà sáng soi. Sự im lặng của ánh trăng biểu tượng cho sự nghiêm khắc của quá khứ. Sự im lặng đó khiến cho người ta giật mình. Giật mình vì trăng nghĩa tình, bao dung mà lại có lúc vô tình, lạnh nhạt, dửng dưng trước trăng, trước quá khứ.
Nguyễn Duy, con người của gốc lúa, bờ tre hiền hậu, của những nắng nỏ trời xanh và những lời hát ru trọn kiếp người, không chỉ tha thiết gắn bó với những điều bình dị trong đời sống, say sưa với văn học dân gian mà còn là con người luôn trăn trở về lẽ sống. Chính vì vậy cái giật mình ở đây là một sự ăn năn, sám hối.
Cái giật mình ấy đầy tính nhân văn. Kết cấu đối lập ở hai câu thơ cuối mang ý nghĩa nhắc nhở nghiêm khắc: Hãy đừng quên quá khứ, hãy sống thủy chung với quá khứ. Mượn hình ảnh ánh trăng, Nguyễn Duy đã làm một cuộc tự vấn tâm hồn để nhắc nhở con người về lẽ sống nghĩa tình, thủy chung. Ra đi từ những trải nghiệm cá nhân nên bài thơ có sức ngấm rất sâu trong lòng độc giả.
Bài thơ ngắn gọn, đơn sơ như dáng dấp của một câu chuyện mang nhiều ý nghĩa triết lí. Khổ thơ nói riêng và bài thơ nói chung qua việc xây dựng thành công hình ảnh quen thuộc “ánh trăng” mang ý nghĩa biểu tượng, đã gợi nhắc con người về lẽ sống thủy chung, nhắc con người luôn ghi tạc một điều: người nào bắn súng lục vào quá khứ thì tương lai sẽ bắn anh ta bằng đại bác.
Mời bạn tham khảo 🌠 Kết Bài Ánh Trăng 🌠 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn Cuối Bài Thơ Ánh Trăng Học Sinh Giỏi – Mẫu 7
Tham khảo bài văn mẫu phân tích đoạn cuối bài thơ Ánh trăng học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” – đó là truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống ấy đã được nhắc đến rất nhiều trong các tác phẩm văn học từ bao đời nay. Chỉ bàn đến các tác phẩm văn học hiện đại lớp 9, hẳn chúng ta đều biết đến các tác phẩm thuộc chủ đề này: “Bếp lửa” của Bằng Việt, “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Qua các bài thơ, các tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thủy chung cao quý trong cuộc đời của mỗi con người.
Bằng hình tượng “Ánh trăng” thấm đượm ý nghĩa nhân văn và tư tưởng triết luận, Nguyễn Duy đã thẳng thắn và quả cảm gửi tới chúng ta một bức thông điệp tha thiết, đẹp đẽ: “Hãy lắng lại một phút cái chen lấn, bận bịu của cuộc sống để nhìn lại bản thân mình!” – để trở về với cội nguồn đạo lý “nhớ nguồn” của dân tộc thông qua việc xây dựng nhân vật trữ tình biết tự soi rọi, tự ý thức về những lầm lỗi của mình, để hướng thiện.
Lời nhắn nhủ của nhà thơ giống như một câu chuyện nhỏ với giọng điệu tâm tình. Đây là câu chuyện của chính nhà thơ. Lời thơ mở đầu như đưa người đọc trở về với quá khứ tuổi thơ của tác giả với một giọng kể nhỏ nhẹ. Đó là một tuổi thơ gắn bó thân thiết với thiên nhiên. Tuổi thơ được cảm nhận những điều kì thú của thiên nhiên. Đến khi trở thành người lính, sống ở trong rừng vầng trăng lại thành tri kỉ. Người chiến sĩ có thể nằm ngủ dưới trăng, đứng gác dưới trăng, trăng cùng chia sẻ những gian lao của cuộc đời người lính.
Trăng cũng đã cùng vui niềm vui thắng trận của người chiến sĩ. Rõ ràng tình cảm của người chiến sĩ và trăng là tình cảm keo sơn gắn bó, tưởng như tình cảm đó gắn bó mãi mãi. Nhưng câu chuyện chuyển biến về hiện tại, điều “ngỡ không bao giờ quên” bây giờ đã quên. Giọng thơ như trầm lắng lại với nét trầm ngâm, suy tư khi kể tới. Cảnh phồn hoa nơi đô thị tấp nập, đời sống của con người cũng bắt đầu thay đổi. Ánh sáng của điện đã thay cho ánh sáng của trăng.
Bởi thế mà lòng người lúc này cũng thay đổi. Vẫn là vầng trăng xưa, bây giờ vầng trăng ấy lại đi qua ngõ. Thế nhưng người bạn ấy bây giờ đã thành người dưng tức là không hề quen biết. Sự đổi thay này diễn ra trong lòng người lính. Anh đã quên đi người bạn năm xưa, người bạn đã từng chịu chung gian khổ ở rừng, cùng gắn bó với anh tuổi ấu thơ.
Giọng thơ thầm thì như lời trò chuyện. Anh đang trò chuyện với chính mình, suy nghĩ về việc mình đã thay đổi tình cảm quên đi vẻ đẹp của thiên nhiên, bình dị. Phải chăng, sự suy ngẫm này như một sự sám hối, tự trách mình. Sống trong hiện tại mà quên đi quá khứ, sống trong hòa bình có đầy đủ vật chất mà quên đi những ngày gian khổ.
Nhưng nhà thơ không dừng lại ở đó mà còn sáng tạo ra một cuộc sống chân thật mà cũng rất quen thuộc xảy ra ở đô thị đó là hệ thống đèn điện tắt cả. Một không gian phòng – đinh tối om. Người chiến sĩ cũng giống như bao người khác vội bật tung cửa sổ, đột ngột thấy vầng trăng. Như vậy trăng xưa lại đến với người vẫn tròn vẫn đẹp và thuỷ chung với mọi người.
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông, là rừng
Người ngắm trăng và suy ngẫm bâng khuâng “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Hai chữ “mặt” trong một vần thơ, mặt trăng và mặt người đối diện nhau. Đó là nhìn mặt tri kỉ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu nay mình dửng dưng. Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Trăng chẳng nói chẳng trách nhưng tâm trạng của người lính có gì đó rưng rưng.
Phải chăng đó là tâm trạng xúc động nghẹn ngào. Nước mắt như chực ứa ra. Bao kỉ niệm đẹp của một đời người đã ùa về trong tâm trí người chiến sĩ. Từ “rưng rưng” gợi tả nỗi xúc động của thi sĩ. Những kỷ niệm ngày nào bấy lâu tưởng bị chôn vùi nay lại ùa về đánh thức tâm hồn người trong cuộc “như là đồng là bể, như là sông là rừng”.
Câu trúc của câu thơ sóng đôi kết hợp với phép tu từ so sánh, từ “là” được nhắc lại bốn lần cho ta thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa. Ông đã gợi ta được sự gắn bó chan hòa với thiên nhiên của người chiến sĩ trong quá khứ. Bởi lẽ nhớ tới đồng, tới sông, tới bể là nói tới thời ấu thơ, nói tới rừng là nói tới thời chiến tranh. Hai hình ảnh thơ này được lặp lại ở khổ thơ đầu. Như vậy vầng trăng trong đoạn thơ không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của quá khứ tình nghĩa.
Vầng trăng đã đánh thức dậy tất cả, từ những năm tháng hoa niên cho đến khi cầm súng hành quân đuổi giặc dưới những cánh rừng. Hóa ra những ký ức đẹp đẽ ấy đã không mất đi và con người không phải hoàn toàn vô tâm đến thế. Ký ức ấy chỉ tạm lắng xuống, con người trong lúc bận rộn có thể lãng quên đi nhưng chỉ cần một tác động nhỏ nào đó, chúng sẽ sống dậy vẹn nguyên, thậm chí còn đằm sâu hơn, tạo nên vẻ đẹp không gì sánh nổi của tâm hồn con người.
Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm tong suy tư, trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Bài thơ dừng ở cảm xúc “rưng rưng” cũng đã rõ chủ đề. Nhưng thêm một đoạn cuối, ý tưởng bài thơ được đẩy cao thêm, rõ hơn và mạnh hơn trong sự bình luận về một thái độ sống. Hình ảnh “vầng trăng” còn được nhà thơ nhìn lại “tròn vành vạnh” thật là đẹp, một cái đẹp viên mãn không hề bị khiếm khuyết dù ai kia thay đổi, vô tình. Ánh trăng sáng tròn đầy hay chính là cái đẹp của tình nghĩa thủy chung, nhân hậu? Ánh trăng vừa nghiêm khắc, lạnh lùng, vừa bao dung độ lượng: “kể chi người vô tình”.
Chính ánh trăng vô ngôn, không một lời trách cứ ấy đã khiến cho “người vô tình” thấy rõ cái khiếm khuyết của bản thân mà không khỏi “giật mình“ tỉnh ngộ. Thật khó diễn tả cho hết tâm trạng của con người lúc ấy, biết bao ý nghĩa hàm ẩn trong hai chữ “giật mình”. Cái “giật mình” chân thành thay cho một lời sám hối ăn năn. Dù lời sám hối ấy không được cất lên nhưng chính vì thế nó lại làm cho ý thơ trở nên ám ảnh, day dứt hơn.
Cả bài thơ là vô nhân xưng, đến đây tác giả mới xưng “ta” để nhận lỗi, để tạ tội. Một cái giật mình tái mặt khi nhận ra chân tướng của chính mình. Đằng sau cái giật mình ấy người đọc cảm nhận được niềm ân hận day dứt của một con người đã nghiêm khắc nhìn thẳng vào mình để nhận ra cái sai của mình. Người xưa hay nói “trong cái rủi có cái may”. Một sự cố rất bình thường của nền văn minh hiện đại đã thức tỉnh con người trở về với những giá trị cao đẹp, vĩnh hằng. Đó chính là cái hay và độc đáo của bài thơ có sức cảm hóa lòng người.
Đọc bài thơ người đọc đều cảm nhận thấy đây không chỉ là câu chuyện riêng của nhà thơ mà cũng là chuyện của mình. Từ câu chuyện ấy gợi ra cho người đọc sự suy ngẫm và liên tưởng tới cách sống của chính mình . Nhà thơ tâm sự với bạn đọc những điều sâu kín nơi lòng mình nhưng cũng là để gửi tới người đọc một bức thông điệp về cách sống đẹp trong hoàn cảnh đất nước hòa bình.
Qua tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy ở bài thơ “Ánh trăng”, chúng ta như được thanh lọc lại tâm hồn mình, như lay động miền ký ức mà có lúc vô tình chúng ta đã lãng quên. Mong sao những ai từng ở với sông, với biển, với đồng, với rừng… trong những năm tháng gian lao ấy luôn luôn có được tình cảm này.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Khổ 1 Ánh Trăng 🍀 10 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Phân Tích Bài Thơ Ánh Trăng Khổ Cuối Ngắn Hay – Mẫu 8
Bài văn mẫu phân tích bài thơ Ánh trăng khổ cuối ngắn hay dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý làm bài phong phú hơn.
Trong thi ca xưa, hình ảnh vầng trăng thường gắn liền với những mộng mơ, qua đó thể hiện được sự tinh tế và nhạy cảm trong tâm hồn của người nghệ sĩ. Viết về ánh trăng – mảng đề tài tưởng như quá quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Duy không những không bị chìm khuất trong những cái bóng quá lớn của tác phẩm thành công trước đó mà lại thể hiện được những sáng tạo nghệ thuật độc đáo rất Nguyễn Duy.
Không chỉ thể hiện được những cái mộng mơ thường thấy mà thông qua hình ảnh của ánh trăng nhà thơ đã gửi gắm được những tâm sự, cảm xúc thầm kín, bởi ánh trăng trong thơ ông đã trở thành biểu tượng của những kí ức đã qua, của những kỉ niệm khó quên trong cuộc đời. Tư tưởng, nội dung này được thể hiện chi tiết thông qua khổ thơ cuối của bài thơ Ánh trăng.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chỉ người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”
Trăng là món quà tuyệt vời mà thiên nhiên ban tặng cho con người, vẻ đẹp ấy không chỉ đến từ ánh sáng dịu dàng, vẻ đẹp tròn đầy của vầng trăng mà nó còn là tượng trưng cho những gì viên mãn nhất. Từ láy “vành vạnh” càng gợi cho ta cảm giác đủ đầy, không thiếu thốn cũng chẳng dư thừa, trăng lúc này đây chất chứa những yêu thương của quá khứ vẹn nguyên, những lòng bao dung của hiện tại và sự bất diệt của tương lai.
Dấu ấn quá khứ với những kí ức tuổi thơ, những ngày đi lính cùng trăng đồng hành nếu ai đó đã vô tình quên thì trăng vẫn ở đó, vẫn lưu giữ đầy những yêu thương của kỉ niệm. Trăng không một lời trách móc “im phăng phắc”, không một ánh mắt hờn giận, vẫn cứ thế toả sáng dịu dàng, toả sáng những ân tình cao đẹp. Trăng im lặng, dùng ánh sáng của mình mà thức tỉnh con người, thức tỉnh sự lặng im của những tâm hồn đang “dửng dưng” với quá khứ.
Vầng trăng vẫn tĩnh lặng, bao dung, tình nghĩa như vậy, thế nhưng lòng người đâu thể đứng yên như ánh trăng trên trời xa kia chứ, cái “giật mình” đáng sợ cũng chính là lúc mà người ta đang cảm thấy ăn năn, hối hận với quá khứ, với vầng trăng và với cả chính mình.
Vòng xoáy của cuộc sống với những đổi thay, những tiện nghi hiện đại cuốn con người theo, họ chới với trong thực tại mà quên mất đi những kí ức đẹp đẽ, quên mất đi những “bạn đồng hành” cùng ta trước đây. Ánh trăng kia chẳng nói một lời mà lòng người vẫn thổn thức, xót xa và dằn vặt bởi sự vô tình của chính mình.
Có người thấy sự im lặng của vầng trăng chính là sự bao dung mà nghiêm khắc của trăng đối với con người, thế nhưng tôi lại thấy ẩn sâu trong sự tĩnh lặng ấy là tình nghĩa vẹn nguyên, là lòng bao dung, yêu thương chẳng hề vơi cạn của vầng trăng, dẫu con người vô tình mà lãng quên đi những kỉ niệm thì vầng trăng vẫn ở đó, bao dung, vị tha cho mọi lỗi lầm.
Đêm về khi bóng tối tràn tới, trăng vẫn sáng soi, toả rạng khắp mọi chốn, từ rừng già tới biển bạc, từ chốn làng quê yên bình đến nơi phố thị phồn hoa. Dù con người có cần, có chờ, có đợi hay không thì trăng vẫn ở đó, giúp đời, làm đẹp cho đời.
Mỗi con người chúng ta có thể đến một lúc nào đó sẽ lãng quên quá khứ, sẽ vô tình với mọi người nhưng rồi sự khoan dung và độ lượng của quê hương sẽ tha thứ tất cả. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ mãi mãi soi sáng để đưa con người hướng tới tương lai tươi đẹp. Đạo lí sống thuỷ chung, nghĩa tình với quá khứ, với quê hương sẽ đưa lối mỗi chúng ta đến với cuộc đời hạnh phúc ở tương lai.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Ánh Trăng ☀️ 10 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn Cuối Bài Ánh Trăng Đơn Giản – Mẫu 9
Tham khảo bài văn mẫu phân tích đoạn cuối bài Ánh trăng đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và luận điểm cơ bản nhất.
Ánh trăng của Nguyễn Duy là một trong những bài thơ hay để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Nội dung bài thơ nói về hình ảnh ánh trăng và tình nghĩ của con người. Con người vốn quen thuộc với ánh trăng, coi ánh trăng là bạn, là người tri kỉ và ngỡ rằng sẽ không thể nào quên được.
Nhưng rồi cuộc sống thay đổi, người ta cũng thay đổi theo và rồi ánh trăng trong phút chốc đã đi vào quên lãng. Ánh điện, cửa nhà sáng choang khiến người ta không còn cần tới ánh sáng của ánh trăng nữa. Khổ thơ cuối của bài thơ chứa đựng một triết lí sâu xa, nó khiến cho người đọc nhớ về lẽ sống ân nghĩa, thủy chung:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình
Hình ảnh ánh trăng tròn đã là một hình ảnh đẹp. Vậy mà tác giả còn kết hợp tình từ tròn với từ láy vành vạnh khiến cho vẻ đẹp ấy được tuyệt đối hóa. Đó là hình ảnh trăng trong sáng, tròn đầy, ổn định, viên mãn. Không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh thơ mang một ý nghĩa khái quát: sự tròn đầy, bất diệt của vầng trăng biểu tượng cho quá khứ vẹn nguyên, nghĩa tình, thủy chung, nhân hậu ngày nào.
Từ đó giúp khẳng định cho lòng thủy chung của vầng trăng. Kết cấu của hai câu thơ đầu có sự đối lập trong lời thơ, ý thơ khiến cho ý thơ trở nên nổi bật hơn. Cho dù con người có hờ hững, vô tình nhưng vầng trăng vẫn vậy mộc mạc, giản dị và thủy chung.
Ở hai câu thơ cuối cùng hình ảnh vầng trăng đã chuyển thành ánh trăng. Đúng là chỉ có ánh trăng, thứ ánh sáng huyền ảo đó mới có sức mạnh làm thức tỉnh tâm hồn con người sau bao nhiêu ngày tháng vô cảm. Ánh trăng đã soi rọi vào quá khứ, vào những ngày tháng mà con người vẫn còn gắn bó với trăng để từ đó đánh thức lương tâm con người.
Trăng không trách mắng bằng những lời nói mà trăng chỉ im lặng, một cái im lặng đáng sợ hơn cả lời nói. Đó trước hết là một hình ảnh thực bởi chúng ta biết rằng trăng không thể nào nói chuyện. Cái sự im lặng ấy biểu thị cho sự nghiêm khắc của quá khứ. Nhưng nó khiến cho con người giật mình bởi trăng vẫn vị tha và bao dung con người khi mà trăng vẫn luôn soi sáng dù con người không cần.
Hai chữ giật mình trong khổ thơ như thể hiện một sự ăn năn, sám hối của tác giả. Đó là một cái giật mình đầy tính nhân văn. Cái kết cấu đối lập ở hai câu thơ cuối mang một ý nghĩa nhắc nhở nghiêm khắc rằng đừng quên quá khứ mà hãy sống thủy chung với quá khứ.
Thông qua hình ảnh ánh trăng, nhà thơ Nguyễn Duy đã làm một cuộc tư vấn tâm hồn để nhắc nhở con người về lẽ sống nghĩa tình, thủy chung. Nội dung bài thơ là những trải nghiệm cá nhân của chính tác giả nhưng nó gần gũi với đời thường vậy nên nó có sức ngấm rất sâu trong lòng người đọc.
Khổ thơ cuối bài đã xây dựng thành công hình ảnh quen thuộc mang ý nghĩa biểu tượng: ánh trăng. Hình ảnh ấy gợi nhắc con người về lẽ sống thủy chung, nhắc con người ghi nhớ quá khứ, gắn bó với quá khứ. Có như vậy thì tương lai mới trở nên tươi đẹp.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Phân Tích Bài Việt Bắc 🌟 Những Bài Văn Cảm Nhận Hay
Phân Tích Ba Khổ Cuối Bài Ánh Trăng – Mẫu 10
Bài văn mẫu phân tích ba khổ cuối bài Ánh trăng dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết hỗ trợ các em học sinh trong quá trình làm bài.
Trăng – hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam. Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảnh tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.
3 khổ thơ cuối khép lại tác phẩm đã thể hiện sâu sắc triết lý sống mà nhà thơ muốn gửi gắm:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vội bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta.
“Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đoán biết trước được.
Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những quanh co, uốn khúc. Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể”.
Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được.
Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thơ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình.
Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nữa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. Còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn.
Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà còn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình đã gây ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
Đón đọc tuyển tập 🌟 Nghị Luận Việt Bắc 🌟 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất