Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng [33+ Bài Văn Hay Nhất]

Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng ❤️️ 33+ Bài Văn Hay Nhất ✅ Giới Thiệu Tuyển Tập Văn Đặc Sắc Với Cách Viết Sinh Động Và Giàu Hình Ảnh. 

Dàn Ý Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng

Mẫu Dàn Ý Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng giúp các em có thể tham khảo để triển khai bài văn logic và mạch lạc.

  • Mở bài: Giới thiệu về tác phẩm Ánh trăng

Nguyễn Duy là một nhà thơ nổi tiếng và đi đầu trong công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. thơ văn của ông gần gũi với cuộc sống, mang hương vị thân thương, giản dị và đằm thắm. một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Duy là tác phẩm Ánh trăng, tác phẩm rất đỗi gần gũi và giản dị. tác phẩm đã mang lại cho chúng ta cảm giác chân thực và vô cùng sâu sắc.

  • Thân bài:
    • Tác giả nhớ đến kỉ niệm của mình với trăng lúc nhỏ: gắn bó với đồng, với sông, với bể,…
    • Tác giả nhớ đến hồi khi chiến tranh mình và trăng đã ở trong rừng cùng
    • Tình cảm gắn bó sâu sắc và thân thiết
    • Trăng như bạn thân tình, người bạn tri kỉ đối với tác giả
    • Ở hiện tại thì trăng như một người dưng qua đường, không quen biết, không rõ ràng trăng như người xa lạ, không quen biết, không từng gặp con người bội bạc, thờ ơ và không thân thiết với thẳng như trước
    • Cảm xúc của tác giả về trăng với con người:
  • Kết bài: Nêu cảm nhận của em về tác phẩm ánh trăng của Nguyễn Duy

Hình ảnh ánh trăng trong tác phẩm là một hình ảnh hết sức chân thực và sâu sắc. qua những kỉ niệm của tác giả về trăng và những biểu hiện của hiện tại cho chúng ta thấy được sự thật về con người, khi cuộc sống đầy đủ thì người ta lại quên đi những khổ sở, khó khăn lúc trước.

Chia Sẻ Bài 🌼 Thuyết Minh Về Bài Thơ Bếp Lửa ❤️️ 10 Bài Văn Hay Nhất

Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng – Bài 1

Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc với từ ngữ sinh động và sáng tạo.

Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, ông là một nhà thơ chiến sĩ, đã từng tham gia phục vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sáng tác tiêu biểu là tập thơ Ánh trăng, một trong những tập thơ đánh dấu son quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy.

Ánh trăng được sáng tác ở thành phố Hồ Chí Minh, vào năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Người lính chiến từ giã chiến trường trở về giữa phố thị, sống trong cảnh hòa bình, đất nước đổi mới, trong lúc đó dường như sự đủ đầy vật chất, cuộc sống bộn bề đã khiến con người ta vô tình quên đi những năm tháng gian khổ nhưng ân tình thủy chung. Để khi yên tĩnh dưới ánh trăng, nhà thơ mới bừng tỉnh nhận ra…

Trong 2 khổ thơ đầu mạch cảm xúc của Nguyễn Duy hướng về những kỷ niệm trong quá khứ, sự gắn bó của của vầng trăng trong từng bước đi của cuộc đời nhà thơ.

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”

Ngay từ khổ thơ đầu thì nhà thơ đã mở ra trong một dòng hoài niệm hết sức tha thiết về tuổi ấu thơ của chính mình bằng nhịp thơ đều đặn, với những câu thơ 5 chữ ngắn gọn, đầy cảm xúc. Đó là lời của một người lính từng đi qua chiến tranh gian khổ này về sống giữa Sài Gòn xa hoa, người lính ấy hồi tưởng về tuổi thơ, về thời trai tráng chinh chiến sa trường.

Nếu lúc nhỏ cuộc đời của cậu bé Nguyễn Duy gắn bó mật thiết với đồng ruộng, với dòng sông tươi mát, với vùng biển bao la, thì khi lớn lên vào cuộc chiến, cuộc sống của nhà thơ lại tiếp tục gắn bó sâu sắc với thiên nhiên núi rừng, như Tố Hữu nói trong Việt Bắc “Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”.

Thế nhưng dẫu hoàn cảnh, điều kiện sống có đổi thay thì duy chỉ có một thứ chẳng hề thay đổi ấy là vầng trăng trên cao, vầng trăng ấy trong lòng của tác giả đã trở thành tri âm, tri kỷ, là người bầu bạn trong những năm tháng hoa niên, trong từng bước hành quân chiến đấu. Trăng chia sẻ những nỗi vui buồn, những niềm gian khó, đi đến đâu trăng theo đến ấy, thân thương, gần gũi vô cùng.

Sự gắn bó, mối quan hệ và tình cảm của nhà thơ và vầng trăng được làm rõ qua mấy câu thơ.

“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”

Cuộc sống của tác giả, từ khi còn thơ ấu đến tuổi thanh niên vào chiến trường vẫn luôn gắn bó mật thiết và “trần trụi” với thiên nhiên, không che giấu bất kỳ điều gì, tác giả sống một cách đơn giản, bình yên và hồn nhiên như những loài cây cỏ với sức sống mạnh mẽ dẻo dai.

Trên trời có ánh trăng sáng lúc nào cũng dõi mắt theo cuộc sống vui vẻ ấy của nhà thơ, thân thuộc đến độ Nguyễn Duy cứ “ngỡ”, cứ đinh ninh chắc nịch rằng bản thân mình sẽ chẳng bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa, vằng vặc trên cao mà mình vẫn xem là tri kỷ suốt mấy mươi năm cuộc đời kia.

Vầng trăng và nhà thơ dường như đối diện với nhau một cách trực tiếp và thẳng thắn nhất, mặt đối mặt, bao kỷ niệm ùa về ùa về trong tâm trí của tác giả như bão tố khiến đôi mắt này “rưng rưng” nước mắt, nào là vầng trăng tri kỷ vẫn một lòng một dạ sắt son giữa trời xanh, xa hơn nữa là hình ảnh cánh đồng, bờ biển thuở ấu thơ, con sông xanh mát.

Và có lẽ nhớ nhất chính là hình ảnh cánh rừng, hình ảnh những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ nhưng giàu những kỷ niệm không thể nào quên. Mà chỉ duy nhất một vầng trăng tri kỷ, vẫn bầu bạn, vẫn sẻ chia, vẫn dõi theo bước chân người lính chiến không rời.

Đối diện với trăng, nhà thơ dường như bị lép vế, bởi sự xấu hổ vì lỗi lầm vô tâm, nỡ bỏ quên những ân tình trong quá khứ, để chạy theo cuộc sống xô bồ tấp nập, theo “ánh điện cửa gương”, tách biệt với thiên nhiên, quên cả tri kỷ mà người đã từng “ngỡ không bao giờ quên”.

Trăng không hờn trách, không chỉ trích, trăng vẫn im lặng soi sáng, phủ lên nhà thơ thứ ánh sáng đẹp đẽ và nhân hậu. Điều ấy càng khiến con người ta thêm “giật mình”, thêm ngỡ ngàng, thậm chí là bàng hoàng về bản thân, sự im lặng đôi lúc chính là liều thuốc hữu hiệu, khiến chúng ta phải tự soi xét lại. Sự bao dung, dịu dàng và thủy chung của vầng trăng khiến nhà thơ hiểu ra được nhiều điều, có lẽ cái “giật mình” ấy chính là sự tỉnh ngộ.

Tỉnh ngộ để tìm lại bản thân, để sống tốt hơn, để nhớ lại và trân quý những gì tốt đẹp trong quá khứ, để không sống vô tình, vô nghĩa, vầng trăng chính là một tấm gương sáng về lòng thủy chung của người tri kỷ, để người lính soi vào và suy ngẫm lại về bản thân mình suốt những năm qua đã sống thực sự nhân nghĩa hay chưa.

Vầng trăng xưa nay vốn đã rất quen thuộc với con người, trăng chiếu rọi xuống những ánh sáng nhàn nhạt, dịu nhẹ như người bạn, người thân, người tri kỷ sẵn sàng sẻ chia, ôm ấp và đồng hành với con người trên mọi nẻo đường. Ánh trăng của Nguyễn Duy là một bài thơ dẫu câu từ có vẻ đơn giản, mộc mạc nhưng lại hàm súc những ý nghĩa lớn, ấy là bài học về sự ghi nhớ những ân tình trong quá khứ, là lời khuyên, là tấm gương về lối sống nhân nghĩa, luôn trân quý, biết ơn những người, những cảnh vật xưa cũ.

Bởi dù đó có là những điều quá vãng, nhưng mãi luôn là những giá trị quan trọng xây dựng nên một tâm hồn, một cuộc đời, dễ dàng lãng quên đồng nghĩa với việc vô tâm, vô cảm với cuộc đời.

Đón Đọc Bài 💦 Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính ❤️️ 15 Mẫu

Thuyết Minh Về Tác Giả Và Bài Thơ Ánh Trăng – Bài 2

Thuyết Minh Về Tác Giả Và Bài Thơ Ánh Trăng chi tiết giúp các em trau dồi thêm cho mình nhiều kiến thức văn học hay và hữu ích.

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng nhận định “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, nhận định đó trở nên đúng đắn và xác thực hơn bao giờ hết. Qua mạch cảm xúc dâng trào mãnh liệt, ta cảm nhận được một ngòi bút sâu sắc, một trái tim tinh tế rung động, trước những đổi thay nhỏ bé nhất, và cả một khát khao ước vọng truyền cho mọi người lẽ sống, cách sống trọn vẹn, tình nghĩa.

Nguyễn Duy sinh năm 1948, ông thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở day dứt, suy tư khôn ngôi. Hãy lật đến Anh trăng đầy chất triết lí, tìm về Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, nhẹ nhàng, tình cảm nhóm lại tình yêu gia đình với Hơi ấm ổ rơm,… ta sẽ cảm nhận rõ nhất những trăn trở, day dứt, suy tư say sưa ấy trong suốt những tác phẩm của ông.

Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy, lung linh rực rỡ một “ánh trăng” tròn đầy. Ánh trăng ấy là lời thức tỉnh nhẹ nhàng mà hết sức sâu sắc về triết lí nhân sinh, lẽ sống thủy chung, tình nghĩa và những trăn trở suy nghĩ trước cuộc sống hiện đại đầy cám dỗ, đầy lãng quên và vô tình.

Hai khổ thơ đầu tiên gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ. Bốn câu thơ nhẹ nhàng như những lời thủ thỉ, tâm tình, kể về một quãng thời gian của tuổi thơ, tuổi trẻ, nhất là quãng thời gian chiến tranh gian khổ. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, bình dị: “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh”.

Câu thơ mở ra một không gian bao la, mênh mông sông nước, khoảng trời ấy nuôi lớn cả một tâm hồn tuổi thơ với bao khát vọng, khoảng rộng ấy được mở ra rồi thu lại khăng khít, gắn bó với quá khứ biết bao tình nghĩa. Điệp từ “với” được nhắc lại ba lần, nhấn mạnh sự thân thiết, gần gũi giữa con người với thiên nhiên.

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ

Cuộc sống “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh” tuy khó khăn, vất vả mà chan hòa với thiên nhiên. Cuộc sống ấy bình dị, vô tư và mênh mông hoài bão như thiên nhiên, như cánh rừng mặt bể. Chợt nhận ra, ta có một người bạn hiền hòa, gắn bó, “tri kỉ” – vầng trăng tròn đầy, hiền dịu. vẻ đẹp của trăng xoa dịu những vết thương do chiến tranh gây ra, xoa dịu những mỏi mệt, buồn đau của cuộc sống ấy; trăng vỗ về cho con người bằng những sẻ chia lặng im, bằng những đêm sát cánh bên nhau “đầu súng trăng treo”.

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường

“ánh điện, cửa gương” là cách nói hoán dụ cho cuộc sống tiện nghi hiện đại, xa rời thiên nhiên. Từ đổi thay trong hoàn cảnh sống, lòng người cũng dần đổi thay, khó nhận ra, mà hay là đã nhận ra nhưng cố tình quên đi. Vầng trăng từ chỗ là người bạn thân thiết gắn bó trở thành “người dưng qua đường”.

Vầng trăng thì một mực thủy chung tình nghĩa “đi qua ngõ” như đợi người bạn cũ nhận ra, thế nhưng người bạn cũ ngày xưa nay đã quen với ánh sáng của đèn điện vàng bọt giả tạo, giam mình trong bốn bức tường bê tông gạch đá chật hẹp tù túng mà tưởng cuộc sống đã sung sướng hơn xưa.

Người ta đã để cho xi măng láng trơn tuột đi những rung động, xúc cảm tinh tế của trái tim, và trát kín cả những khe sáng huyền diệu từ quá khứ rọi về. Sống cuộc sống như thế, phải chăng ta đang đánh đổi cái giàu có trong tâm hồn lấy những tiện nghi hiện đại phù phiếm xa hoa, khi mà hạnh phúc đích thực luôn là một trái tim tràn đầy tình yêu thương!

Sự lãng quên ấy có thể là mãi mãi nếu không có một chuyển biến bất ngờ: thành phố bị mất điện. Hoàn cảnh bài thơ là bước ngoặt tạo cảm xúc dâng trào, giúp nhà thơ bộc lộ rõ nét cảm xúc, tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Nhà thơ đối diện với trăng trong cái lặng im có phần thành kính; từ “mặt” cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa tạo ý thơ gợi mở cho người đọc, nhà thơ đối diện với trăng hay thiên nhiên đối diện với con người; và có lẽ cũng là hiện tại đối diện với quá khứ, bạc bẽo vô tình với thủy chung gắn bó. Bất ngờ gặp lại người bạn cũ, nhà thơ chợt nhận ra thứ mặt nạ của thời gian đã che lấp tất cả, trong giây phút ấy, nhà thơ tưởng như “rưng rưng” xúc cảm – tự hổ thẹn với chính sự đổi thay vô tình của bản thân.

Từ những hồi tưởng và thức tỉnh, nhà thơ đi đến suy ngẫm và triết lí nhân sinh sâu sắc khái quát nội dung toàn bài thơ:

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình

Trong cuộc gặp mặt bất ngờ, trăng và người như có sự đối lập. Trăng trở thành biểu tượng của sự vĩnh hằng bất biến, vầng trăng “cứ tròn vành vạnh” tượng trưng cho sự tròn đầy, trọn vẹn tình nghĩa của thiên nhiên, cuộc sống và con người trong quá khứ dù cho con người nay đã đổi thay “vô tình”.

Ánh trăng được nhân hóa “im phăng phắc”, gợi cái nhìn bao dung, độ lượng mà nghiêm khắc của người bạn thủy chung. Hình ảnh thơ được lấy từ hiện thực – thiên nhiên bất biến, vĩnh hằng để khái quát nên một lẽ sống cao đẹp 1 tình nghĩa, trọn vẹn, chung thủy và vị tha. Tấm lòng đáng trân trọng ấy là tấm lòng của những người đồng chí đồng đội một thời sống chết vì nhau của đồng bào nhân dân đã san sẻ từng “chia nhau củ sắn bùi/ Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.

Cao đẹp biết bao là tình người vị tha, bao dung, độ lượng, vị tha để, người bạn vô tình được “giật mình” thức tỉnh và kịp có một cơ hội níu giữ quá khứ, níu giữ tấm lòng trong sạch, thanh cao.

Câu chuyện của nhà thơ không chỉ dành riêng cho chính bản thân ông, nó còn có sức khái quát rất lớn với cả một thế hệ trải qua những năm dài mất mát của chiến tranh, nơi đạn bom, gian khổ.

Chia sẻ cơ hội 💧 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 💧 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới

Viết Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng – Bài 3

Viết Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng là chủ đề rất thường hay gặp trong các đề trong các kì thi quan trọng.

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chông Mĩ cứu nước đau thương và oanh liệt của dân tộc. Bài thơ Ánh trăng được viết tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong cuộc sống hòa bình, một số người đã từng trải qua thử thách, gian khổ, từng chứng kiến sự hi sinh lớn lao của đồng đội và nhân dân, từng gắn bó sâu nặng với thiên nhiên nhưng đã vội quên những gian nan, cơ cực và những kỉ niệm thắm thiết nghĩa tình của một thời chưa xa.

Bài thơ là một lần “giật mình” nhìn lại của Nguyễn Duy. Nó có tác dụng thức tỉnh bao người trước cái điều vô tình ấy.

Ánh trăng trước hết là tiếng lòng, là sự tự vấn lương tâm của riêng Nguyễn Duy. Nhà thơ đứng giữa hôm nay mà suy ngẫm về thời đã qua và từ tâm trạng riêng, tiếng thơ ông cất lên như một lời nhắc nhở. Vầng trăng ở đây không chỉ là một hình ảnh cụ thể của đất trời mà còn là biểu tượng cho một quá khứ đẹp đẽ, là mối liên hệ giữa tâm tình riêng và ý nghĩa phổ biến rộng lớn, giữa nội dung cụ thể và tính khái quát của bài thơ.

Bài thơ không chỉ đề cập đến thái độ thờ ơ, quay lưng đối với những hi sinh, mất mát của thời chiến tranh mà còn là chuyện nghĩa tình, nhớ về cội nguồn, nhớ về những người đã khuất. Cao hơn nữa, Ánh trăng còn là lời nhắc nhở mỗi con người về lẽ sống chung thủy với chính mình.

Sự kết hợp khéo léo giữa tự sự với trữ tình đã tạo cho bài thơ dáng dấp của một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Giọng điệu tâm tình được thể hiện bằng thể thơ năm chữ. Hai khổ thơ đầu là cảm xúc của nhà thơ về ánh trăng khi chiến đấu trong rừng. Khổ thứ ba là cảm xúc trước vầng trăng trong thành phố hoà bình.

Nhịp thơ ở phần này tự nhiên, nhịp nhàng. Đến khổ thứ tư, giọng thơ thay đổi, thể hiện thái độ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của tác giả trước sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng trong đêm mất điện. Giọng thơ trầm lắng, thiết tha ở hai khổ cuối rất hợp với sự hồi tưởng và suy tư lặng lẽ.

Dòng cảm xúc trữ tình của nhà thơ cũng tuôn chảy theo những lời tự sự.

Nhà thơ kể rằng:

Hồi nhỏ sống với đồng,
Với sông rồi với bể;
Hồi chiến tranh ở rừng,
Vầng trăng thành tri kỉ.

Nhà thơ tưởng không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa ấy. Thế mà từ hồi về thành phố ăn sung mặc sướng, quen sống giữa những tiện nghi hiện đại, mới chỉ có mấy năm mà đã nhìn vầng trăng tình nghĩa như người dưng qua đường.

Sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư chính là tác nhân gợi nhớ để từ đó tác giả bộc lộ cảm xúc của mình:

Thình lình đèn điện tắt,
Phòng buyn-đinh tối om,
Vội bật tung cửa sổ,
Đột ngột vầng trăng tròn.

Ánh trăng toả sáng căn phòng. Chính vầng trăng xuất hiện bất ngờ trong bối cảnh ấy đã gây ấn tượng mạnh, thổi bùng nỗi nhớ về một thời máu lửa chưa xa.

Chia Sẻ Bài 🌹 Thuyết Minh Về Bài Thơ Đồng Chí ❤️️ 15 Bài Văn Hay Nhất

Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Ngắn Gọn – Bài 4

Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Ngắn Gọn và súc tích được nhiều bạn đọc quan tâm sau đây.

Viết về người lính sau chiến tranh là một cảm hứng của thơ ca sau 1975 Nguyễn Duy và bài thơ Ánh trăng nằm trong mạch đề tài ấy.Nguyễn Duy họ tên là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê ở Quảng Xá, thành phố Thanh Hóa. Ông từng là dân quân chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng, rồi gia nhập quân đội từ năm 1966, tại Bộ tư lệnh Thông tin, lính đường dây, tham gia chiến đấu tại các chiến trường Khe Sanh, Đường 9 – Nam Lào.

Ông đã đi suốt hành trình chiến đấu và chiến thắng cùng quân và dân ta trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Năm 1979, tham gia mặt trận phía Nam và phía Bắc. Từ 1976, chuyển ngành về làm báo Văn nghệ Giải phóng. Hiện công tác tại tuần báo Văn nghệ. Xuất hiện vào chặng cuối của chiến tranh chống Mỹ cứu nước, từ khoảng 1972 trở đi, Nguyễn Duy đã trở thành một gương mặt tiêu biểu cho lớp nhà thơ trẻ thời chống Mỹ.

Cho đến nay, Nguyễn Duy vẫn là một trong số không nhiều nhà thơ “thời ấy” còn sung sức và được bạn đọc yêu thích. Có thể thấy tài năng và con đường thơ của ông phát triển và khẳng định gắn chặt với những năm tháng đầy biến động của lịch sử dân tộc.

Ngôn ngữ thơ hình tượng, thơ sáng tạo, gợi cảm và rất đẹp, một vẻ đẹp chân quê. Sau này, cảm xúc trữ tình trong thơ Nguyễn Duy ít nhiều pha màu sắc triết lý khá thâm trầm, ấn tượng, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở day dứt. Hiện nay Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác. Thơ của ông ngày càng đậm đà, ổn định một phong cách, một giọng điệu quen thuộc mà vẫn rất hấp dẫn đối với người đọc. Ông viết đều những bài thơ tài hoa, đậm chất suy tư.

Bài thơ Ánh trăng được tác giả Nguyễn Duy viết năm 1978, sau đưa vào tập Ánh trăng – tập thơ được tặng giải A của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984. Mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Cảm nghĩ trữ tình của tác giả men theo dòng tự sự này để bộc lộ. Bài thơ như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên đất nước. Bài thơ được xem như là niềm thôi thúc của tác giả, nhớ về cội nguồn và ý thức trước lẽ sống thủy chung.

Giọng điệu tâm tình, nhịp thơ lúc trầm lắng suy tư, lúc lại nhịp nhàng, ngân nga, tha thiết. Sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình, các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ… đã góp phần làm nổi bật chủ đề, tạo nên sự chân thành và sức truyền cảm sâu sắc của bài thơ.Từ một câu chuyện riêng, Ánh trăng của Nguyễn Duy như một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở thấm thía về thái độ sống, về chân lí giản đơn đã thành đạo lí: “uống nước nhớ nguồn”, “ân nghĩa thủy chung” cùng quá khứ.

Đón Đọc Bài 🍀 Thuyết Minh Về Truyện Ngắn ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Văn Mẫu Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng – Bài 5

Văn Mẫu Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng là tài liệu tham khảo hữu ích để các em có thể học hỏi và trau dồi thêm cho mình nhiều kiến thức về tác phẩm này.

Trăng – hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương,

Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam. Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảnh tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.

Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh:

“Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ”

Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của tuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là những nơi chôn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể quên được. Cũng chính nơi đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng.

Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:

“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”

Vầng lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc của tác giả vẫn đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong những năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn – vầng trăng ấy sẽ phải làm quen với một hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”

Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể”.

Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.

Vầng trăng trong khổ thơ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”

Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình.

Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nữa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.

“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn.

Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà còn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình đã gây ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

Xem Thêm Bài 🌿 Thuyết Minh Về Truyện Ngắn Làng ❤️️ 10 Bài Văn Mẫu Hay

Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Hay Nhất – Bài 6

Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Hay Nhất được SCR.VN chọn lọc và chia sẻ đến các bạn đọc sau đây.

“Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”, “Ánh trăng”, “Đò Lèn”… là những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Duy. Bài thơ “Ánh trăng” rút trong tập thơ cùng tên, được tác giả viết vào năm 1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh, 3 năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bài thơ như một lời tâm sự chân thành: Vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất nước mà nó còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ. Vầng trăng đối với mỗi chúng ta không bao giờ có thể quên và đừng cố tình lãng quên.

Nếu như trong bài thơ “Tre Việt Nam” câu thơ lục bát có khi được tách ra thành 2 hoặc 3 dòng thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng thì ở bài thơ “Ánh trăng” này lại có một nét mới. Chữ đầu của dòng thơ, câu thơ không viết hoa. Phải chăng nhà thơ muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian, kỉ niệm?

Hai khổ thơ đầu nói về vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng thời chiến tranh. Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên một không gian bao la: “Hồi nhỏ sống với đồng – với sông rồi với bể”. Hai câu thơ 10 tiếng, gieo vần lưng (đồng – sông); từ “với” được điệp lại 3 lần nhằm diễn tả một tuổi thơ đi nhiều, được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thủ của thiên nhiên, từng được ngắm trăng trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể.

Tuổi thơ của chúng ta dễ có mấy ai được cái cớ ấy như nhà thơ? Thuở bé nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng chỉ được ngắm trăng nơi sân nhà: “Ông trăng tròn sáng tỏ – Soi rõ sân nhà em… (Trăng sáng sân nhà em). Tuổi thơ được ngắm trăng thích thế, như một chút hoài niệm xa vời.

Hai câu thơ tiếp theo nói về hồi máu lửa, trăng với người lính, trăng đã thành “tri kỉ”:

“hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.”

“Tri kỉ”: biết người như biết mình, bạn tri kỉ là người bạn rất thân, hiểu biết mình. Trăng với người lính, với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn tri kỉ – “Người chiến sĩ nằm ngủ dưới trăng / Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm” (Hồ Chí Minh).

Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Lại một vần lưng nữa xuất hiện – một ẩn dụ so sánh làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn nhiên người lính những năm tháng ở rừng. Đó là cốt cách của các anh:

“Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ”

Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” ngỡ như không bao giờ có thể quên. Một ý thơ làm động đến đáy tâm hồn, như một sự thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình: “Ngỡ không bao giờ quên – Cái vầng trăng tình nghĩa”.

Sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ. Hoàn cảnh sống đổi thay, con người dễ thay đổi, có lúc dễ trở nên vô tình, có kẻ dễ trở thành “ăn ở bạc”. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được trưng diện và xài sang: ở buyn-đinh, cao ốc, quen ánh điện, cửa gương… Và “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” đã bị người lãng quên, dửng dưng. Cách so sánh thấm thía làm chột dạ nhiều người:

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường.”

Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, trăng như người dưng đi qua, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay. Người có lương tâm, lương tri mới biết sám hối. Biết sám hối để tự hoàn thiện nhân cách, tự vươn lên, hướng tâm hồn về ánh sáng và cái cao cả. Không đao to búa lớn, không đại ngôn, mà trái lại, giọng thơ thầm thì như trò chuyện, giãi bày tâm sự, nhà thơ đang trò chuyện với mình. Chất trữ tình của thơ ca trở nên sâu lắng, chân thành.

Nguyễn Tuân từng coi trăng là có nhân”, nhà thơ Xuân Diệu, trong bài “Nguyệt cầm” viết cách đây 60 năm cũng có câu: “Trăng thương, trăng hở, lời trăng gần. Trở lại với tâm trạng người lính trong bài thơ này. Một cái nhìn đầy áy náy xót xa: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Hai chữ “mặt” trong vần thơ: mặt trăng và mặt người cùng “đối diện đàm tâm”.

Trăng chẳng nói, trăng chẳng trách, thế mà người lính cảm thấy có cái gì rưng rưng. “Rưng rưng” nghĩa là vì xúc động, nước mắt đang ứa ra, sắp khóc. Giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản lại, trong sáng lại, cái tốt lành hé lộ. Bao kỉ niệm đẹp một đời người ùa về, tâm hồn gắn bó, chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng, với bể, với sông, với rừng, với quê hương đất nước.

Cấu trúc câu thơ song hành, với biện pháp tu từ so sánh, với điệp từ là cho thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa:… “như là đồng, là bể, như là sông, là rừng”. Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch chân thành, ở tính biểu cảm, ở tính hình tượng và hàm súc, từ ngôn ngữ hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta một cách nhẹ nhàng mà thấm thía.

Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.”

“Tròn vành vạnh” là trăng rằm, một vẻ đẹp viên mãn. “Im phăng phắc” là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ “kể chi người vô tình” là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thời kì chiến tranh chống Mĩ.

“Ánh trăng” là một bài thơ hay. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, tài hoa. Sự phong phú vần điệu, ngôn ngữ trong sáng, giọng thơ tâm tình vừa hướng nội vừa hướng ngoại. Nhà thơ tâm sự với người đọc những sâu kín nhất nơi lòng mình. Chất triết lí thâm trầm được diễn tả qua hình tượng “ánh trăng” đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. Không nên sống vô tình.

Phải thủy chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với bạn bè, đồng chí, với nhân dân đó là điều mà Nguyễn Duy nói thật hay, thật cảm động qua bài thơ này.

Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone

Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Điểm 10 – Bài 7

Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Điểm 10 sẽ mang đến cho các em thêm nhiều ý tưởng mới để hoàn thiện bài văn của mình.

Là một trong những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nguyễn Duy được biết đến với nhiều bài thơ hay, nhẹ nhàng, giàu cảm xúc chẳng hạn như Hơi ấm ổ rơm, Tre Việt Nam,… Một trong những bài thơ được nhiều người chú ý đó chính là bài thơ Ánh trăng. Bài thơ đã thể hiện được sự tài hoa của ông và thể hiện rõ chất suy tư trong thơ của Nguyễn Duy.

Bài thơ Ánh trăng được nhà thơ Nguyễn Duy viết năm 1978. Một lý do khiến bài thơ này được yêu thích là bởi nội dung bài thơ chứa đựng những tình cảm chân thành, mới lạ nhưng vô cùng sâu sắc. Ở hai khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã nhắc đến những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ nơi quê nhà:

Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ

Từ những ngày còn ấu thơ, vầng trăng đã gắn bó với tác giả. Nói đến trăng là nói đến dòng sông, đồng ruộng, biển cả. Vậy cho nên dù có đi đến nơi đâu thì vầng trăng vẫn cứ gắn bó với con người. Con người đi một bước, vầng trăng cũng đi theo một bước. Vốn dĩ ban đầu trăng là bạn, tới khi nhà thơ đi lính, tham gia vào chiến trường gian khổ và ác liệt, vầng trăng mới trở thành tri kỉ đối với nhà thơ. Lúc này đối với nhà thơ, trăng trở thành người bạn không thể thiếu.

Trăng cùng với nhà thơ chia sẻ những ngọt bùi, cùng nhà thơ vượt qua những khó khăn trong cuộc đời người lính. Cũng chính vì thế mà nhà thơ hiểu vầng trăng hơn. Nhà thơ miêu tả về vẻ đẹp của ánh trăng với một cảm xúc trẻ trung, tươi mới:

Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa

Vẻ đẹp của trăng là một vẻ đẹp bình dị, chẳng cần khoác lên mình bất cứ thứ gì, trăng vẫn đẹp một cách vô tư và hồn nhiên. Cũng chính vì tượng trưng cho vẻ đẹp hồn nhiên nên trăng hòa mình vào thiên nhiên cỏ cây. Trăng đẹp như vậy, gần gũi như vậy trăng lại còn từng đồng cam cộng khổ với mình nên nhà thơ ngỡ rằng sẽ chẳng bao giờ có thể quên được vầng trăng tình nghĩa ấy.

Nhưng đó là nhà thơ nghĩ vậy còn thực tế cho thấy nhà thơ đã có lúc lãng quên vầng trăng:

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường

Nếu như ở tuổi thơ của mình tác giả sống gần gũi với thiên nhiên, với sông, với bể, với rừng thì giờ đây môi trường sống của nhà thơ đã thay đổi rồi. Ông sống ở thành phố, nơi có những ánh đèn chiếu sáng được mọi ngõ ngách, mọi không gian. Chính vì ánh sáng của đèn điện, của cửa gương mà người ta không còn nhớ đến ánh sáng của vầng trăng nữa.

Dần dần, vầng trăng tình nghĩa ngày nào bị đẩy lùi vào quên lãng. Vầng trăng tượng trưng cho kỉ niệm, cho kí ức về những năm tháng đấu tranh gian khổ, cho những người bạn của tuổi thơ, cho những người đồng đội đã từng cùng nhau vào sinh ra tử. Vậy mà giờ đây, trăng trở thành người dưng qua đường. Khi cuộc sống thay đổi, nó kéo theo sự thay đổi trong suy nghĩ của con người. Vầng trăng có lẽ sẽ cứ trôi vào trong dĩ vãng như vậy nếu như không có chuyện thành phố bị mất điện:

Phòng buyn đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn

Trong khoảnh khắc đèn điện vụt tắt ấy, ánh sáng của vầng trăng hiện lên thật bất ngờ. Dường như cùng với ánh trăng, mọi kí ức năm xưa ùa về trong lòng tác giả. Đó là sông, là bể, là rừng, là những năm tháng nghèo đói, thiếu thốn nhưng vẫn luôn đong đầy hạnh phúc. Chính vì lẽ đó đã khiến cho nhà thơ trở nên rưng rưng:

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì dưng dưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Trăng vẫn như vậy, tròn trịa và vẹn nguyên. Thứ duy nhất thay đổi đó chính là lòng người. Chính vì đối diện với vầng trăng mà vầng trăng không nói gì khiến cho nhà thơ cảm thấy hổ thẹn với chính bản thân mình. Đúng là vầng trăng tình nghĩa đã quá bao dung và độ lượng.

Với lối diễn đạt bình dị, bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy đã gây được nhiều xúc động đối với độc giả. Giọng thơ sâu lắng với thể thơ 5 chữ cô đọng khiến cho bài thơ chan chứa cảm xúc. Qua bài thơ này, chúng ta cũng nên nhìn lại cách sống của bản thân để sống tốt đẹp hơn.

Gợi Ý Bài 🌿 Thuyết Minh Đặc Điểm Chính Của Truyện Ngắn ❤️️12 Mẫu Hay

Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Ấn Tượng – Bài 8

Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Ấn Tượng , cùng đón đọc bài văn hay được SCR.VN giới thiệu sau đây nhé!

Nguyễn Duy thuộc thế hệ làm thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài thơ “Tre Việt Nam”. Bài “Hơi ấm ổ rơm” của anh đã từng đoạt giải thưởng báo Văn Nghệ. Hiện nay. Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác. Anh viết đều và khỏe. “Ánh trăng” là một trong những bài thơ của anh được nhiều người ưa thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ.

Hai khổ thơ đầu tác giả nhắc đến những kỉ niệm đẹp:

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng lị thành tri kỉ.”

Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông, biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng ở bên cạnh. Nhưng phải đến khi ở rừng nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn xa gia đình, quê hương vầng trăng mới thành “tri kỉ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau. Trăng chia ngọt sẻ bùi, trăng đồng cam cộng khổ.

Tác giả khái quát vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình cảm yêu thương, quý trọng của mình đối với trăng:

“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.”

Trăng có vẻ đẹp vô cùng bình dị, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng vẻ đẹp thiên nhiên nên trăng hóa vào thiên nhiên, hòa vào cây cỏ. “Vầng trăng tình nghĩa” bởi trăng từng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, bởi trăng là người bạn, tri âm, tri kỉ như tác giả đã nói ở trên. Ấy thế mà có những thời gian tác giả tự thú là mình đã lãng quên cái “vầng trăng tình nghĩa” ấy.

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường.”

“Vầng trăng” xuất hiện thật bất ngờ, khoảnh khắc ấy, phút giây ấy,… tác giả, bàng hoàng trước vẻ đẹp kì diệu của vầng trăng. Bao nhiêu kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm tác giả cứ “rưng rưng” nước mắt:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì dưng dưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”.

Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Tác giả không dấu được niềm xúc động mãnh liệt của mình. “Vầng trăng” nhắc nhở tác giả đừng bao giờ quên những tháng năm gian khổ ấy, đừng bao giờ quên tình bạn, tình đồng chí đồng đội, những người đã từng đồng cam cộng khổ. chia ngọt sẻ bùi trong những tháng năm chiến đấu đầy gian lao thử thách.

Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình…. ”

Trăng vẫn thủy chung mặc cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Trăng bao dung và độ lượng biết bao! Tấm lòng bao dung độ lượng ấy “đủ cho ta giật mình” mặc dù trăng không một lời trách cứ. Trăng tượng trưng cho phẩm chất cao quý của nhân dân, trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững của tình bạn, tình chiến đấu trong những tháng năm “không thể nào quên”.

“Ánh trăng” của Nguyễn Duy gây được nhiều xúc động đối với nhiều thế hệ độc giả bởi cách diễn tả bình dị như những lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ. “Ánh trăng” còn mang ý nghĩa triết lí về sự thủy chung khiến người đọc phải “giật mình” suy nghĩ, nhìn lại chính mình để sống đẹp hơn, nghĩa tình hơn.

Đọc Thêm Bài 🌿Thuyết Minh Về Truyện Ngắn Lão Hạc ❤️️ 15 Bài Văn Hay

Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Đơn Giản – Bài 9

Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Đơn Giản được nhiều bạn đọc yêu thích và chia sẻ rộng rãi trên các diễn đàn văn học nổi tiếng.

Nguyễn Duy nhà thơ có nhiều sáng tác gần gũi, mộc mạc. Bài thơ “Ánh trăng” của tác giả được sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh bài thơ mượn những hình ảnh vô tri vô giác đánh thức và làm lay động cảm xúc của con người.

Bài thơ Ánh trăng mở đầu bằng hình ảnh ánh trăng thân thuộc, gắn bó với những kỉ niệm đẹp gắn bó với tuổi thơ, với thời gian diễn ra chiến tranh ác liệt:

Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.

Hình ảnh “ánh trăng” có thể nói đã trở thành biểu tượng đẹp trong tuổi thơ của tác giả, gắn bó với kỉ niệm tuổi thơ đẹp và khó quên. Ánh trăng nhẹ nhàng lan tỏa từ cánh đồng quê hương, từ dòng sông bến nước nơi giúp nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi con người.

Đến thời gian khi chiến tranh vất vả, ác liệt thì ánh trăng từ người bạn tuổi thơ đã chuyển sang thành người bạn tri âm thủy chung, son sắt. Tác giả Nguyễn Duy tinh tế khi nhân hóa ánh trăng thành một người bạn tri kỉ của những anh bộ đội tham gia chiến tranh. Sự gắn bó giữa ánh trăng và người bộ đội thật đáng quý trọng biết bao. Khổ thơ tiếp theo tác giả đã biến ánh trăng trở nên gần gũi và sắt son:

Trần trụi giữa thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa

Trong bất kì hoàn cảnh nào thì “ánh trăng” vẫn vẹn nguyên, phóng khoáng khiến cho tác giả có cảm giác “không bao giờ quên”. Vầng trăng tỏa ánh sáng thể hiện tình nghĩa, chung thủy luôn nhắc nhở tác giả không được quên đi hình ảnh đáng nhớ và thủy chung đó. Nhưng tác giả đã lãng quên đi hình ảnh vầng trăng:

Từ hồi về thành phố
Quen đèn điện của gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường

Trở về cuộc sống sau chiến tranh, hòa bình trở lại, cuộc sống với ánh đèn điện hiện đại tiện nghi đã khiến cho tác giả quên mất đi ánh trăng chính là quên đi người bạn tri kỉ ngày xưa. Trong hai khổ thơ sau giọng thơ chùng xuống, cách dùng từ “người dưng” gợi lên cảm giác xót xa.

Con người và ánh trăng từng là bạn tri kỉ, tri âm thân thiết nhưng giờ đây tác giả vô tâm, hờ hững xem như kẻ qua đường. Phép so sánh “như người dưng” đã khiến người đọc cảm thấy đau đớn và xót xa. Tình huống đặc biệt đã khiến tác giả nhận ra ngỡ ra nhiều điều:

Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn-đinh tối om,
Vội bật tung cửa sổ,
Đột ngột vầng trăng tròn.

Đến khi “đèn điện tắt” tác giả giật mình nhận ra căn phòng tối om từ, sự chuyển biến nhanh chóng khiến mọi thứ trở nên thay đổi. Cửa sổ “bật tung”, tác giả cảm thấy hổ thẹn khi “đột ngột vầng trăng tròn”. Câu thơ này thể hiện rằng từ xưa đến này trăng vẫn tròn như thế, chỉ có con người vô tâm mới không nhận ra.

Đến khổ thơ này, tác giả nhận ra sự vô tâm, quên lãng của bản thân đối với quá khứ, ánh trăng từng là người bạn thân thiết một thời gắn bó giờ đây ta lãng quên thật hổ thẹn. Đến khổ thơ cuối:

Vầng trăng tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình

Phép đối lập song song đủ làm cho lương tâm con người nhận ra được nhiều điều. Tác giả dùng từ “vành vạnh”, “phăng phắc” để người đọc nhận ra sự nghiêm khắc của ánh trăng. Cuộc sống có nhiều sự thay đổi từ chiến tranh đến cuộc sống hiện đại mặc dù con người thay đổi, ánh trăng xưa vẫn tròn vẫn bao dung và rộng lượng với con người. Khổ thơ cuối để lại những sự xúc động, nghẹn ngào về ánh trăng thời hiện đại.

Giọng điệu bài thơ tâm tình, tự sự như là tự sự hoài niệm về quá khứ của tác giả gắn bó với trăng, người bạn thân thiết bên nhau từ tuổi thơ cho tới kháng chiến. Ánh trăng của tác giả như nhắc nhở với con người về quãng thời gian chiến tranh khi người lính gắn bó với thiên nhiên. Bài thơ nhắc nhở về tính thủy chung, biết yêu thương và quý trọng nhau, sống không được quên đi quá khứ xưa.

Xem Thêm Bài ❤️️ Thuyết Minh Truyện Kiều ❤️️ 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Chi Tiết – Bài 10

Cùng tham khảo bài văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Chi Tiết giúp các em có thể hiểu hơn về tác phẩm nổi tiếng sau đây.

Trong thơ ca, trăng vốn là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho các thi nhân. Ta biết đến ánh trăng làm bạn với Bác trong ngục; ta biết đến một vầng trăng huyền bí của Hàn Mặc Tử. Và ta còn phải nhắc đến trăng trong tác phẩm Ánh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy. Vầng trăng tự nó như một thứ thuốc thử, một lời nhắc nhở đối với mỗi con người về cách sống, cách ứng xử trong cuộc đời.

Mở đầu bài thơ, là hình ảnh xa xôi mà bình dị giữa con người và trăng:

Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ

Lời thơ mộc mạc tựa như một lời thủ thỉ, tâm tình, kết hợp với điệp từ “với” cho thấy tuổi thơ đầy giản dị, mộc mạc, gắn bó với cỏ cây, thiên nhiên. Và trong những người bạn ấy, không thể thiếu vầng trăng mát lành, luôn ở bên cạnh chia sẻ mọi buồn vui khó khăn trong suốt quãng đời tuổi thơ, bởi vậy, “vầng trăng thành tri kỉ”.

Vầng trăng hơn một người bạn thấu hiểu và cảm thông cho những cảm xúc, những khó khăn, vất vả mà bạn phải trải qua. Trăng hiện lên trần trụi gần gũi, không chút toan tính, vụ lợi: trần trụi với thiên nhiên/ hồn nhiên như cây cỏ. Giữa trăng và người là hai hình tượng sóng đôi, song song đồng hành với nhau, nếu như trăng xuất hiện thì còn người lại luôn bị che khuất đi. Để rồi cuối khổ thơ thứ hai, con người phải giật mình, thảng thốt thốt lên:

Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa

Những tưởng những năm tháng bên nhau, cùng chia sẻ gian khổ ngọt bùi, con người sẽ không thể quên được người bạn tri kỉ của mình. Nào ngờ cuộc đời có quá nhiều nỗi truân chuyên, nhiều điều lo lắng khiến ta vụt mất những điều giản dị và ý nghĩa mà không hề hay biết. Chữ “ngỡ” đặt đầu câu như một lời độc thoại thảng thốt, một lời ăn năn, sám hối muộn màng của con người. Hạnh phúc bình dị, đơn sơ thuở nào bị cái hào nhoáng, xa hoa vật chất tầm thường che khuất mất, để ta vô tình lãng quên những điều thiêng liêng:

Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường

Khổ thơ thứ ba, vầng trăng đã được nhân cách hóa thành một con người cụ thể. Ngỡ rằng vầng trăng ấy vẫn là tri kỉ, tình nghĩa bền chặt nào ngờ giờ đây lại chẳng khác gì người dưng nước lã. Thời gian có sức tàn phá thật khủng khiếp, nó có thể biến một tình cảm vốn thiêng liêng, cao đẹp, nay trở thành những mối quan hệ như chưa hề quen biết. Sự thật phũ phàng bởi thời gian, bởi lòng người thay đổi khó mà lường trước được.

Trong vòng xoáy của đồng tiền, con người mải mê lao vào tìm kiếm những xa hoa, dục vọng, để rồi khi: “Thình lình đèn điện tắt/ phòng buyn đinh tối om” , khi ấy con người mới có thời gian tự chiêm nghiệm, suy ngẫm lại. Nguyễn Duy đã lấy một sự việc hết sức bình thường, mất điện, để biến nó thành nút thắt, đẩy bài thơ lên đến cao trào, cũng chính bởi phút giây đó con người mới có cơ hội tự suy nghĩ về chính những ứng xử của mình trong cuộc sống.

Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn

Cả khổ thơ là những chuỗi hành động gấp gáp, liên tiếp nhau. Khi con người ta mất đi ánh sáng nhân tạo, lập tức phải tìm đến một nguồn sáng khác – ánh sáng tự nhiên. Và đột ngột họ gặp lại người bạn năm xưa. Họ ngạc nhiên, ngỡ ngàng, đến nỗi chẳng nói thành lời. Trăng vẫn vậy, vẫn vẹn tròn, thủy chung và biết bao cảm xúc ùa về trong tác giả: “Ngẩng mặt lên nhìn mặt/ có cái gì rưng rưng/ như là đồng là bể/ như là sông là rừng”.

Trong khoảnh khắc lặng im bất chợt, mặt người đối diện với mặt trăng, kí ức của những ngày gắn bó lại ùa về trong tác giả. Là đồng, sông, bể, rừng những người bạn gắn bó trong suốt thuở thiếu thời và những năm tháng kháng chiến kiên cường, gian khổ. Khuôn mặt của trăng chính là quá khứ ân nghĩa, thủy chung mà con người đã vô tình lãng quên. Qua bao nhiêu thăng trầm, biến động trăng vẫn vẹn nguyên, vẫn thủy chung độ lượng với con người:

Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.

Khổ thơ vận dụng hàng loạt các từ láy: vành vạnh, phăng phắc, mỗi từ láy lại mang đến những giá trị biểu cảm khác nhau. Từ láy vành vạnh cho thấy sự ân tình, thủy chung vẹn nguyên của vầng trăng từ quá khứ đến hiện tại. Từ láy phăng phắc lại là cái im lặng giúp cảnh tỉnh con người, cái nhìn đầy nghiêm khắc để con người nhận ra sự bội bạc của chính mình.

Nhưng đồng thời sự im lặng ấy cũng cho thấy thái độ bao dung, độ lượng của vầng trăng, hay rộng ra là của quá khứ, của nhân dân thủy chung tình nghĩa. Cái giật mình ở cuối bài cho thấy sự hối lỗi, đã nhận ra những sai lầm của bản thân. Thật tinh tế và khéo léo, Nguyễn Duy đã sử dụng hình ảnh vầng trăng, cùng với quá trình nhận thức của nhân vật trữ tình để làm bật lên tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.

Bằng giọng điệu tâm tình tự nhiên, chân thành, hình ảnh giàu tính biểu tượng bài thơ như một lời nhắc nhở đến muôn thế hệ. Nhắc nhở về lối sống ân tình thủy chung, biết ơn quá khứ, những người đã hi sinh để cho chúng ta có cuộc sống bình yên hạnh phúc như ngày hôm nay. Bài thơ ra đời đã lâu, nhưng vẫn giữ mãi giá trị nhân văn tốt đẹp của nó.

Đọc thêm văn mẫu ❤️️Thuyết Minh Về Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo ❤️️ 15 Bài Hay

Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Đạt Điểm Cao – Bài 11

Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Đạt Điểm Cao để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc sau đây với lối văn logic và hấp dẫn.

Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy ra đời năm 1978, năm đất nước đã bước vào công cuộc kiến thiết xây dựng đất nước. Cuộc chiến tranh đã đi qua nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng trong tâm hồn nhiều thế hệ, như một quy luật cuộc sống sau chiến tranh với những bộn bề lo toan xây dựng đã làm người ta quên đi quá khứ, quên đi ân nghĩa của bao người. “Ánh trăng” ra đời trong dòng cảm hứng sám hối, tự truyện của văn học sau những năm 1978.

Ánh trăng trong văn học luôn là đề tài gắn với lãng mạn. Với Nguyễn Duy, ánh trăng biểu đạt một hàm nghĩa mới, mang dấu ấn của tình cảm thời đại. “Ánh trăng” là hình ảnh của quá khứ, là nhân dân, người lính, lí tưởng chiến đấu, “Ánh trăng” được viết theo thể thơ năm chữ gồm sáu khổ và bố cục ba phần tương ứng với ba giai đoạn, ba hoàn cảnh khác nhau trong cuộc đời người lính. Hai khổ đầu là sự gắn bó giữa người lính với ánh trăng. Hai khổ sau là những lãng quên, hai khổ cuối cùng là lời tự thú, tự nhắc nhở mình không được lãng quên quá khứ.

Hình ảnh gắn liền với một quá khứ nghĩa tình gắn bó là ánh trăng tri kỉ: “Vầng trăng tình nghĩa”. Trong quá khứ ấy, người lính sống với vầng trăng, bầu bạn với vầng trăng. Thời gian của quá khứ được tính theo trình tự trước sau: hồi nhỏ: những kỉ niệm mộc mạc mà đáng nhớ, hồi chiến tranh ở rừng. Hai đoạn đó nghĩa tình gắn liền với trăng, vầng trăng là tri kỉ, tình nghĩa.

Ý nghĩa hàm ẩn trong những cách gọi tên vầng trăng đã nói lên mọi quan hệ gần gũi như máu thịt của người lính và vầng trăng – với nhân dân. Cuộc chiến tranh đã trôi qua, người lính trở về với những bộn bề cuộc sống hàng ngày. Những bộn bề đã che khuất vầng trăng.

Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện, cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường

Hình ảnh đối lập với vầng trăng, ánh điện cửa gương – là hình ảnh của tiện nghi vật chất. Sự có mặt của những tiện nghi đã che lấp quá khứ, che lấp kí ức. Sự gắn bó với vầng trăng, nhưng tình nghĩa với vầng trăng đã lùi vào quên lãng: “Vầng trăng đi qua ngõ /như người, dưng qua đường”.

Chỉ đến khi hình ảnh của những tiện nghi vật chất mất đi và sự bình lặng, trong đường tròn không thay đổi của vầng trăng tri kỉ xưa xuất hiện thì quá khứ bỗng như là một nhắc nhở, tràn về trong kí ức. Người đang lãng quên quá khứ. Trăng giờ như gương mặt của quá khứ, gương mặt sáng trong, giản dị, nghiêm khắc soi tỏ tâm hồn người:

Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng, là bể
Như là sông, là rừng.

Trăng hình như chưa bao giờ thay đổi “cứ tròn vành vạnh”. Cả bài thơ, sáu lần sử dụng hình ảnh vầng trăng để nói về quá khứ: vầng trăng khẳng định ý nghĩa tròn đầy như sự thuỷ chung trọn vẹn của nhân dân của những người đã từng nhường cơm sẻ áo cùng người lính.

Ánh trăng không thay đổi bao nhiêu thì nỗi day dứt trong tâm hồn người lính ấy càng sâu sắc bấy nhiêu. Tâm trạng tự thú, sám hối ở cuối bài thơ là lời nhắn nhủ với chính mình: không được lãng quên quá khứ, không được vô ơn. Cảm hứng tự thú và sám hối cũng đã được Nguyễn Minh Châu diễn tả trong truyện ngắn “Bức tranh” khắc họa bức chân dung sám hối của nhà văn đồng thời khẳng định bản chất tốt đẹp, hướng thiện vẫn luôn sống mãi trong tâm hồn người lính.

“Ánh trăng” của Nguyễn Duy cũng là một hình thức để tỏ lòng sám hối. Bài thơ kết thúc bằng một lời nhắc nhở chính mình của những người trong cuộc. Với “Ánh trăng”, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh của nhân dân, một nhân dân thủy chung, độ lượng.

Tìm hiểu hướng dẫn 🌵 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🌵 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào

Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Sinh Động – Bài 12

Bài văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Sinh Động sẽ mang đến cho các em thêm nhiều ý tưởng mới để hoàn thiện bài văn của mình.

Như là một nỗi nhớ, một kỉ niệm đã từ lâu lại hiện về trong kí ức của nhà thơ Nguyễn Duy, Ánh trăng có phải là dòng cảm xúc từ quá khứ đến thực tại này chăng? Có cái gì đó như một nỗi ám ảnh đột ngột hiện về khiến nhà thơ giật mình. Những ý nghĩa sâu kín, Ánh trăng là nỗi niềm rất rộng của Nguyễn Duy mà ta phải đi tìm.

Ta nhận thấy trong bài thơ của Nguyễn Duy một niềm xúc cảm như bất chợt, bàng hoàng khi nhận ra sự hiện diện của người bạn tri kỉ – ánh tráng sau những tháng năm quên lãng. Đó cũng là lời thầm nhắc của nhà thơ về thái độ sống ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

Vầng trăng gắn bó với nhà thơ từ hồi nhỏ cho tới lúc chiến tranh ở rừng. Đó là một khoảng thời gian dài, đủ để xây đắp một tình cảm vững bền. Không phải dễ dàng gì mà người ta coi nhau là tri kỉ, vậy mà chính nhà thơ đã thừa nhận: vầng trăng thành tri kỉ. Điều này chứng tỏ đôi bạn ấy đã có sự sẻ chia, thấu hiểu và đồng điệu.

Thời gian thật dài mà Nguyễn Duy chỉ gói gọn trong bốn dòng thơ ngắn gọn. Ta tưởng như có một nỗi lòng đang rưng rưng xúc động ẩn hiện trong lời thơ, chỉ chực trào lên. Phải chăng đây là những dòng hồi tưởng? Gói gọn cả một trời kỉ niệm trong những dòng thơ, Nguyễn Duy như cố giấu nỗi xúc động trong lòng mình.

Nhưng tấm lòng ấy vẫn dạt dào. Nó chưa thể vội vàng quay lưng với quá khứ đẹp đẽ:

Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa

Con người ấy đã sống hết lòng với thiên nhiên, chân thành và thắm thiết. Đối với thiên nhiên, con người cũng như cây cỏ là những người bạn không thể tách rời. Từ ngỡ như một điểm nhấn, một dấu hiệu đặc biệt. Nó gợi cho ta suy nghĩ về những điều còn chưa nói. Từ ngỡ như một lối rẽ đưa ý thơ đi theo một lối khác. Đó là giá trị của ngôn từ trong Ánh trăng, là tài năng của tác giả trong cách thể hiện mà ta không dễ gì nhận được ra.

Chiến tranh qua đi, hoà bình lập lại, cũng như nhiều chiến sĩ khác, Nguyễn Duy trở về nhưng không phải về với sông, với đồng, với bể mà là về với thành phố tấp nập, đông vui. Sống trong bình yên, đủ đầy với: ánh điện, cửa gương, người ấy dần quên đi người bạn tri kỉ hôm nào. Và không biết tự bao giờ trăng đã thành người dưng:

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường

Ánh trăng bị lu mờ bởi ánh điện chiếu rọi. Vầng ánh sáng ấy vẫn hiện hữu bên ta, vẫn đồng hành từng bước bên ta vậy mà giờ đây ta lại vô tình, hờ hững. Có lẽ vầng trăng cũng biết đau, biết khóc khi trở thành người dưng qua đường. Vẫn là vầng trăng hồi nhỏ, vầng trăng lúc ở rừng nhưng sao ta lại không nhận ra? Lẽ nào ta đã lãng quên quá khứ, quên đi những năm tháng chiến đấu trường kì của dân tộc. Câu thơ không trực tiếp bộc lộ cảm xúc nhưng sức ám ảnh lại vô cùng mạnh mẽ.

Khổ thơ thứ tư là một bước ngoặt trong dòng diễn biến của thời gian, sự việc, để từ đó tác giả bộc lộ nỗi niềm của mình một cách rõ ràng hơn:

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn

Trăng vẫn luôn toả sáng nhưng chỉ khi đèn điện tắt ta mới thực sự cảm thấy ánh trăng thật tuyệt vời. Khi không gian tối om, con người mong chờ ở một thứ ánh sáng mới! Và khi nhìn thấy ánh trăng thì con người đột ngột nhận ra người bạn tri kỉ: vầng trăng tròn. Hai từ láy thình lình, đột ngột thể hiện sự bất ngờ, ngẫu nhiên của cuộc tri ngộ. Hoàn cảnh gặp gỡ đó càng khiến nhà thơ bàng hoàng.

Nhìn lên trăng mà lòng tràn ngập niềm xúc động. Những kỉ niệm một thời tưởng như đã xa vắng nay lại trở về:

Ngửa mặt nhìn lên mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng Không phải là ngửa mặt nhìn lên trăng mà là ngửa mặt nhìn, lên mặt vì với Nguyễn Duy lúc này, trăng đích thực là một con người có gương mặt, có ánh nhìn và tâm trạng. Chính nhà thơ cũng không rõ mình đang nghĩ gì, chỉ biết rằng có cái gì rưng rưng.

Có thể là đôi mắt rưng rưng hay có thể là sự thức dậy của tâm hồn con người. Một cảm giác vừa như buồn vui, vừa như mừng tủi trào lên trong lòng đôi bạn. Khoảng trời xưa hồi sinh, đưa Nguyễn Duy trở về với năm tháng đã qua cùng với sông, với đồng, với rừng… Nhà thơ tiếc nuối quá khứ, khao khát mong gặp lại cảm giác thân thuộc ngày xưa.

Bài thơ ra đời khi đất nước đã hoà bình. Những tháng ngày chiến đấu gian khổ của người chiến sĩ Nguyễn Duy đã không còn. Trong thời gian này tác giả là đại diện thường trú báo Văn nghệ tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng không vì thế mà Ánh trăng mất đi vẻ đẹp chân thực của mình.

Dường như chẳng bao giờ Nguyễn Duy không mang trong mình nỗi niềm hướng về quá khứ, hướng về cội nguồn. Nó cho thấy một thái độ sống đẹp đẽ, thuỷ chung. Không chỉ có vậy, bài thơ Ánh trăng còn như một lời nhắn nhủ sâu kín, nhẹ nhàng: hãy sống và lao động hết mình nhưng đừng bao giờ phủ nhận quá khứ của dân tộc.

Gợi ý ❤️️Thuyết Minh Về Tác Giả Trương Hán Siêu ❤️️12 Bài Văn Hay

Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Chọn Lọc – Bài 13

Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Chọn Lọc từ SCR.VN và giới thiệu rộng rãi đến các bạn đọc để hiểu hơn về tác phẩm nổi tiếng này.

Nguyễn Duy là gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước và tiếp tục bền bỉ sáng tác. Thơ ông nhẹ nhàng, sâu lắng, ít nhiều mang màu sắc triết lí. “Ánh trăng” là bài thơ tiêu biểu của ông. Bài thơ là lời tự nhắc với mình, với mọi người về lẽ sống ân tình, thủy chung, đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc.

“Ánh trăng” được Nguyễn Du viết năm 1978 – ba năm sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, không phải ai cũng còn nhớ về quá khứ, về những năm tháng chiến tranh gian khổ. Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Dòng cảm xúc của nhà thơ men theo dòng tự sự này mà bộc lộ.

Quá khứ về vầng trăng được hiện về, trăng và người gắn bó:

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”

Trong suốt thời gian hơn nửa đời người từ hồi nhỏ đến hồi chiến tranh, con người gắn bó với trăng. Đó là những năm tháng tuổi thơ với “đồng, sông, bể”, là những năm tháng chiến tranh ở rừng gian khổ mà đầy ắp niềm vui. Trăng với người trở thành tri kỉ, tình nghĩa. Chính vì vậy, con người tự nhủ với lòng mình “ngỡ không bao giờ quên – cái vầng trăng tình nghĩa”.

Khi chiến tranh đi qua, hòa bình lập lại, người lính từ các cánh rừng trở về quen với cuộc sống hiện đại:

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”

Với cuộc sống hiện đại nơi phố phường, con người vội quên đi vầng trăng xưa. Trăng với người từ tri kỉ, nghĩa tình giờ trở thành “như người dưng qua đường”. Trăng với người như những người xa lạ, không quen biết. Hoàn cảnh sống thay đổi mà tình cảm, thái độ sống của con người cũng đổi thay.

Nếu mọi chuyện chỉ diễn ra đều đặn như thế thì có lẽ trăng với người sẽ không bao giờ gặp lại nhau. Nhưng cuộc sống tưởng như bình lặng lại chứa đựng những bất ngờ. Đó là khi đèn điện tắt – ánh sáng nhân tạo không còn nữa, cuộc sống hiện đại tạm bị lùi gác, phòng buyn-đinh tối om, bóng tối bao trùm. Theo phản xạ tự nhiên, con người “vội bật tung cửa sổ” để tìm nguồn sáng mới thì bất ngờ gặp lại vầng trăng xưa vẫn vẹn nguyên, tròn đầy: “đột ngột vầng trăng tròn”. Khi bất ngờ gặp lại, con người mới nhìn nhận, suy ngẫm:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”

Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại, có nhân vật, có tình huống. Giọng thơ tâm tình, sâu lắng, lúc nhịp nhàng, ngân nga, lúc thiết tha, sâu lắng. Từ câu chuyện tâm tình riêng, Nguyễn Duy hướng người đọc tới thái độ sống ân nghĩa, thủy chung với quá khứ, với thiên nhiên, với nhân dân.

“Ánh trăng” không còn là câu chuyện của một người, của một thời mà có ý nghĩa với mọi người – những con người đã từng gắn bó với thiên nhiên, nhân dân giờ sống trong hòa bình, đầy đủ vật chất. “Ánh trăng” – Nguyễn Duy mang sức sống nối liền quá khứ – hiện tại, là tấm gương trăng để soi lòng.

Cuộc sống hôm nay dù không còn bom đạn chiến tranh nhưng vẫn còn đó một cuộc đấu tranh với chính mình để loại bỏ cái vô tình, bội bạc, để hướng tới cuộc sống tốt đẹp. “Ánh trăng” – Nguyễn Duy đã, đang và sẽ soi rọi vào những góc tối của tâm hồn để con người nhận ra chính mình và có những cái “giật mình” đáng quý.

Tham Khảo Bài ❤️️Thuyết Minh Về Một Tác Giả Văn Học ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay

Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Ngắn Hay – Bài 14

Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Ngắn Hay là chủ đề rất thưởng hay gặp trong các kì thi kiểm tra văn quan trọng.

Nguyễn Duy là một nhà thơ gắn bó với cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Thơ Nguyễn Duy dung dị, hồn nhiên, trong sáng và mang màu sắc triết lí. “Ánh trăng” là một trong những bài thơ đặc sắc của Nguyễn Duy. Bài thơ viết về câu chuyện của một người lính đã lãng quên quá khứ rồi thức tỉnh bất ngờ khi bắt gặp lại ánh trăng.

Hai khổ thơ gợi về hình ảnh quá khứ, khi con người, vầng trăng sống chan hòa, tình nghĩa. Trong khoảng thời gian từ thuở ấu thơ đến khi chiến đấu, trăng luôn gắn bó và đồng hành cùng con người. Cả một hệ thống đồng, sông, bể, rừng gợi về không gian gợi mở và quen thuộc, một khoảng thời gian đầy khó khăn, gian khổ nhưng luôn ngập tràn niềm vui. Trăng và con người trở thành tri kỉ, tri âm. Trăng hóa thành biểu tượng đẹp của tuổi thơ, của thiên nhiên về quê hương, về quá khứ, về những năm tháng không thể quên.

Người lính đến với thành phố, quen với ánh sáng của vật chất, ánh điện, cửa gương. Khổ thơ đã đề cập đến quy luật của cuộc sống: quan hệ tri kỉ tưởng như không bao giờ quên đã trở thành quan hệ người dưng. Đến với thành phố là đến với tiện nghi vật chất, nó khiến con người ta ích kỉ, chạy theo cuộc sống tầm thường, vầng trăng “như người dưng qua đường”. Quên vầng trăng tức là con người đã quên đi quá khứ, phủ nhận tình nghĩa và quên đi chính mình.

Con người dường như đã quên đi tất cả để chạy theo nhịp sống hối hả của cuộc sống hiện đại. Thế nhưng một tình huống bất ngờ bất ngờ xảy ra:

“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”

Tình huống thường gặp trong cuộc sống hàng ngày – mất điện, nhưng lại tạo ra một biến cố lớn. Mất điện, phòng tối om, mở cửa sổ và người lính gặp lại vầng trăng tròn. Con người đã gặp lại năm xưa và bao nhiêu quá khứ dội về khi con người đối mặt với vầng trăng. Con người đối diện với vầng trăng cũng là lúc đối diện với chính mình, lương tâm mình.

Đây là sự đối diện quá khứ và hiện tại, giữa chung thủy và bội bạc và thật bất ngờ, vầng trăng tròn với thứ ánh trăng tinh khiết, dịu nhẹ đã trả lại cho con người những cảm xúc nguyên xơ, những quá khứ đã đánh mất. Không gì có thể ngăn được quá khứ ùa về và qua hình ảnh “như là đồng là bể / như là sông là rừng”. Trong cái “rưng rưng” không chỉ làm cho con người nghẹn ngào mà còn là nỗi ân hận, xót xa.

Cho dù cuộc sống, lòng người có thay đổi thì ánh trăng vẫn mãi sáng, vẫn mãi đẹp, một vẻ đẹp tròn đầy, viên mãn. “Cứ” có nghĩa là vẫn như xưa, chưa bao giờ thay đổi, rực rỡ và vĩnh hằng. Trăng là biểu tượng của quá khứ nghĩa tình, quê hương, thiên nhiên, đất nước. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên và quá khứ luôn tràn đầy, bất diệt như vầng trăng. Trăng còn bao dung, độ lượng, chung thủy của những mảnh đất, những con người nơi kháng chiến cũ.

Trăng càng tròn đầy thì người lính càng thấy sự thiếu hụt, vô tình của mình. Trăng không một lời trách móc, không một chút giận dữ nhưng đứng trước cái im phăng phắc của vầng trăng, con người cảm thấy giật mình. Giật mình khi nhận ra mình là kẻ vô tình, bạc nghĩa, giật mình khi nhận ra mình đang chạy theo cuộc sống vật chất tầm thường và ích kỉ.

Ánh trăng giúp con người nhận ra sự bội bạc, lệch lạc nhân cách của bản thân. Thật đáng quý biết bao cái thức tỉnh giật mình sám hối ấy. “Ánh trăng” là câu chuyện nhỏ của một người lính sau chiến tranh, thể hiện khát vọng tự hoàn thiện mình, vươn lên cuộc sống thanh cao, tốt đẹp dù đã mắc sai lầm. Cuộc đấu tranh hương thiện âm thầm, quyết liệt đòi hỏi sự dũng cảm ở mỗi người. Lẽ sống cao đẹp nhất trong bài thơ mà nhà thơ muốn nói đến là lẽ sống ân nghĩa, thủy chung.

Bài thơ như một câu chuyện riêng, có nhân vật, có tính huống, có sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình. Kết cấu, giọng điệu của bài thơ có tác dụng làm nổi bật chủ đề, tạo nên tính chân thực. Bài thơ viết bằng thể thơ năm chữ với giọng điệu tâm tình, nhỏ nhẹ, sâu lắng, nhịp thơ khi thì trôi chảy, tự nhiên, nhẹ nhàng theo lời kể, khi thì ngân nga cảm xúc, lúc lại trầm lắng, suy tư.

Các chữ đầu dòng không viết hoa tạo sự liền mạch cho ý tưởng. “Ánh trăng’ không chỉ là chuyện của một người mà còn có ý nghĩa với cả thế hệ, thế hệ đã trải qua những năm tháng gian khổ của cuộc chiến tranh, từng gắn bó với thiên nhiên chung thủy, giờ sống trong cuộc sống hiện đại tiện nghi vật chất. Hơn thế, bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều thời khi nó đặt ra vấn đề: thái độ với quá khứ, với những người đã khuất và với chính mình.

“Ánh trăng” nằm trong mạch cảm xúc “Uống nước nhớ nguồn”, gợi lên đạo lí sống thủy chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Qua bài thơ, ta nhận ra lẽ sống ân nghĩa, thủy chung với quá khứ, trân trọng những giá trị của cuộc sống.

SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free

Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Đặc Sắc – Bài 15

Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Ánh Trăng Đặc Sắc được nhiều bạn đọc quan tâm và chia sẻ rộng rãi sau đây.

Trăng trong thư vốn là một vẻ đẹp trong trẻo tròn đầy, đó là cái gì lãng mạn nhất trong cuộc đời, nhất là trong hai trường hợp: khi con người ta còn ở tuổi ấu thơ hoặc rơi vào những vùng tâm sự cần phải chia sẻ, giãi bày.

Ánh trăng của Nguyễn Duy là cái nhìn xuyên suốt cả hai thời điểm vừa nêu. Chỉ có điều, đây không phải là một cái nhìn xuôi, bình lặng từ trước đến sau, mà là cách nhìn ngược: từ hôm nay mà nhìn lại để thấy có cái hôm qua trong cái hôm nay. Nó không xuôi chiều, phẳng lặng nữa. Tính chất tâm sự, đời tư có ý nghĩa như một hối hận, ăn năn tạo nên con sóng ngầm đằng sau một câu chuyện kể.

Câu chuyện kể trong thơ, cũng là một cách cấu tứ của văn xuôi, hấp dẫn chúng ta một cách bất ngờ từ khả năng dựng cảnh. Cảnh mất điện ở thành phố mà gặp ánh trăng tròn. Nay đã gặp xưa, trong một bối cảnh mà con người rất khó ngoảnh mặt quay lưng như thế.

Ba khổ thơ đầu bởi vậy mới như một hồi tưởng, hồi tưởng về cái đã quên tưởng chừng thời gian đã xoá nhoà tất cả. Quá khứ tưởng đã quên hiện về trong hai cái mốc. Cả hai đều xuất phát từ cái nhìn đánh thức. Sự thức dậy đến xôn xao, ấy là một thời thơ trẻ:

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể

Cả một hệ thống những đồng, sông, biển gọi một vùng không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, nó cứ mở rộng dần ra cùng với thời gian lớn dần lên của đứa trẻ. Nhưng cái chính là nó diễn tả một nỗi niềm sung sướng đến hả hê được chan hoà, ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương như dòng sữa ngọt. Ba chữ với giàu có biết bao như một mối ân tình. Cái thế bè đôi thật quấn quýt chia sẻ, cảm thông, dìu đỡ con người, và đồng hay sông, rồi biển như những người bạn vô tư.

Ở hai câu đầu không thấy nói đến vầng trăng. Thì ra cái thứ ánh sáng bàng bạc lúc này nó cũng để nhớ, để quên như khí trời hít thở. Chỉ đến khi lớn lên, cái ánh sáng mơ hồ kia mới neo đậu vào trí nhớ con người khi phải xa cách quê hương. Vầng trăng đối với người cầm súng ở trong rừng đã thay thế cho tất cả, cả đồng, sông, biển để trở nên một người bạn đồng hành, thành “vầng trăng tri kỉ”. Như vậy là tuổi thơ như một chớp mắt đã qua.

Cái còn lại lúc này là vầng trăng thật đơn sơ nhưng chung thuỷ. Nó đã gieo hạt vào tâm hồn người lính và tường như nó sẽ mãi mãi xanh tươi:

Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.

Thay cho ánh trăng đó là cửa gương, ánh điện. Nhưng có lẽ nào sự biến đổi về kinh tế, về điều kiện sống tiện nghi lại kéo theo sự thay dạ đổi lòng ? Vầng trăng tình nghĩa của ngày xưa đã không còn nguyên vẹn như xưa, thậm chí còn đáng trách hơn nhiều, nó chỉ là người khách qua đường xa lạ bởi tình cảm con người đâu còn son sắt thuỷ chung? Câu thơ thật nhức nhối, xót xa, bởi sự phản bội, ở đây không chỉ với lịch sử, với thiên nhiên mà còn với chính bản thân mình nữa.

Sự xuất hiện trở lại của vầng trăng thật đột ngột, ở vào một tâm thế không ngờ. Sống giữa nơi phố phường, mấy ai còn nghĩ đến một vầng trăng hoài cổ:

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.

Vầng trăng đến thật đột ngột. Ấn tượng về sự đột ngột này ở tình thế đã đành, còn đột ngột ở khía cạnh chân dung của “người mới đến”, về tình thế, ánh sáng của vầng trăng đối lập với ánh sáng, nhất là ở phía chân dung. “Vầng trăng tròn” vẫn đầy đặn, vẫn nguyên vẹn như xưa. Nó trang trọng, nó thuỷ chung như ngày xưa. Điều quan trọng hơn chăng là nó làm sáng lên cái góc tối ở con người, đánh thức sự ngủ quên trong điều kiện sống của con người đã hoàn toàn khác trước ?

Trăng lãng du và con người lãng quên đã gặp nhau trong một phút tình cờ. Con người không còn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa. Tư thế ở đây là tư thế đối mặt: mặt người và mặt trăng, khuôn mặt của hai linh hồn sống :

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng.

“Rưng rưng” diễn tả nỗi xúc động đến không nói được bằng lời, ngôn ngữ bây giờ là nước mắt dưới hàng mi. Một tình cảm chừng như nén lại nhưng nó cứ trào ra đến thổn thức, đến xót xa chính là tâm trạng ấy.

Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao. Hai gương mặt đối diện nhau ở đây làm người đọc nhớ đến cái giây phút “Mặt nhìn mặt càng thêm tươi” của tình yêu mới bén giữa Kim Trọng với Thuý Kiều. Nghĩa là nó lấp lánh bao điều không dễ nói. Tuy nhiên, cái vô tư mà vầng trăng trả lại, nhà thơ chỉ dám nhận vẻ một nửa của sự vô tư. Nửa còn lại kia dành cho những ăn năn dại dột của sự “vô tình”:

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.

Khổ thơ kết lại bài thơ bằng hai vế đối lập mà song song. Đối lập giữa “tròn vành vạnh” nghĩa là sự đầy đặn của vầng trăng với cái hụt vơi của kẻ “vô tình”. Đối lập giữa cái im lặng của ánh trăng (im phăng phắc) và con người thức tỉnh. Thì ra những bài học sâu sắc về đạo lí làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xội. Và sự bừng thức của con người, trong trường hợp đó không thể nào quên, vì nó là tiếng nói bên trong, của chính lòng mình khi lương tâm mỗi người mách bảo.

Bài thơ ngắn gọn, đơn sơ như dáng dấp một câu chuyện ngụ ngôn ít lời mà giàu hàm nghĩa. Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta đôi khi để mất.

Tham Khảo Bài 🌼 Thuyết Minh Về Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó ❤️️ 15 Bài Văn Hay

Viết một bình luận