Phân Tích Khổ 2 Nói Với Con [32+ Bài Mẫu Khổ Cuối Hay Nhất]

Phân Tích Khổ 2 Nói Với Con ❤️️ 32+ Bài Văn Mẫu Phân Tích Nói Với Con Khổ Cuối Hay Nhất ✅ Chia Sẻ Tuyển Tập Bài Văn Mẫu Đặc Sắc Giúp Bạn Học Tốt Tác Phẩm Ngữ Văn Lớp 9.

Dàn Ý Phân Tích Khổ 2 Nói Với Con

Việc lập dàn ý phân tích khổ 2 Nói với con là rất quan trọng trong quá trình làm bài. Nắm được dàn ý phân tích khổ 2 bài Nói với con sẽ giúp các em học sinh định hướng bố cục và những luận điểm chính. Tham khảo mẫu phân tích khổ 2 Nói với con dàn ý chi tiết như sau:

I. Mở bài phân tích khổ 2 Nói với con:

  • Giới thiệu tác giả Y Phương và bài thơ Nói với con.
  • Giới thiệu nội dung cần phân tích – khổ 2 Nói với con

III. Thân bài phân tích khổ 2 Nói với con:

a. Luận điểm 1: Phân tích những phẩm chất cao quý của “người đồng mình” trong khổ 2 Nói với con.

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

  • “Người đồng mình” : người vùng mình, người miền quê mình, đây là cách nói mang tính địa phương của người Tày gợi sự thân thương, gần gũi. Nghĩa rộng hơn là những người sống cùng trên một đất nước, một dân tộc.
  • “thương” kết hợp với từ chỉ mức độ “lắm”, thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia.
  • “Cao đo nỗi buồn / Xa nuôi chí lớn”: “Cao”, “xa” chỉ khoảng cách của đất trời, chỉ những khó khăn, thách thức mà con người phải trải qua trong cuộc đời.
  • Hai câu thơ đăng đối ngắn gọn đúc kết một thái độ, một cách ứng xử cao quí: người biết sống là người biết vượt qua nỗi buồn, gian nan, thử thách… hơn nữa còn phải luôn nuôi chí lớn, nỗ lực phấn đấu đi lên. Có như vậy mới thành công trên con đường đời, gặt hái được nhiều hoa thơm, trái ngọt.
  • “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói” : ẩn dụ cho những gian lao, vất vả
  • “Sống”, “không chê” : ý chí và quyết tâm vượt qua thách thức, khó khăn của “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói”.
  • Cho dù cuộc sống gian nan, vất vả, người đồng mình vẫn chịu đựng và suốt đời gắn bó thủy chung, không chê bai, không một lời than thở
  • Khẳng định và ngợi ca đức tính cao đẹp của “người đồng mình”: sống sâu sắc, ý chí mạnh mẽ, có một trái tim ấm áp và nghị lực phi thường.
  • Biện pháp so sánh “Sống như sông như suối” thể hiện cách sống lạc quan, mạnh mẽ như thiên nhiên (sông, suối) chấp nhận những thác ghềnh để rút ra những bài học quí báu.
  • “Lên thác xuống ghềnh / Không lo cực nhọc”: Niềm tin vào ngày mai tươi sáng, cực nhọc, đói nghèo rồi sẽ tan biến.
  • “Người đồng mình thô sơ da thịt”: giản dị, chất phác, thật thà, ca ngợi bản chất mộc mạc, giản dị, chân thật của người đồng mình sớm khuya vất vả.
  • “Chẳng mấy ai nhỏ bé” ngợi ca ý chí, cốt cách không hề “nhỏ bé” của người đồng mình.
  • “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”: truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi. Ẩn dụ cho tinh thần đề cao, tự hào về quê hương, tự tay xây dựng nên truyền thống quê hương đẹp giàu.
  • “quê hương thì làm phong tục” : phong tục tập quán là điểm tựa tinh thần nâng đỡ và tạo động lực cho con người.
  • Đây chính là mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng : Mỗi người, mỗi cuộc đời chính là một “mùa xuân nho nhỏ” tạo nên mùa xuân cộng đồng và cộng đồng sẽ là cái nôi nâng đỡ cho mùa xuân tâm hồn mỗi người.

b. Luận điểm 2: Phân tích lời dặn dò, nhắn nhủ trìu mến, mộc mạc với biết bao niềm tin hi vọng của người cha trong khổ 2 Nói với con.

Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”

  • “Tuy thô sơ da thịt”, “không bao giờ nhỏ bé” một lần nữa lặp lại để khẳng định và khắc sâu hơn những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”
  • “Lên đường”: Người con đã khôn lớn, đến lúc tạm biệt gia đình, quê hương để bước vào một trang mới của cuộc đời
  • “Nghe con”: hai tiếng ẩn chứa bao nỗi niềm và lắng đọng, kết tinh mọi cảm xúc, tình yêu thương vô bờ bến của cha dành cho con.
  • Qua việc ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, người cha mong con sống có tình nghĩa với quê hương, giữ đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của cha ông, biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của mình.
  • Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao rằng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương, đất nước.

c. Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong khổ 2 Nói với con:

  • Thể thơ tự do phù hợp với lối nói, tư duy khoáng đạt của người miền núi
  • Giọng điệu thơ linh hoạt lúc thiết tha, trìu mến khi trang nghiêm
  • Hình ảnh thơ vừa cụ thể vừa khái quát, mộc mạc, giàu chất thơ
  • Biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ…

III. Kết bài phân tích khổ 2 Nói với con:

  • Khẳng định lại giá trị nội dung của đoạn thơ thứ 2 bài Nói với con
  • Nêu cảm nhận của em về khổ thơ.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Sơ Đồ Tư Duy Nói Với Con Y Phương 🌟 10 Mẫu Vẽ Tóm Tắt

Mở Bài Phân Tích Đoạn 2 Nói Với Con

Gợi ý cách viết mở bài phân tích đoạn 2 Nói với con dưới đây giúp các em học sinh dễ dàng bắt đầu bài viết của mình.

Y Phương là một trong những nhà thơ dân tộc Tày nổi tiếng. Những bài thơ của ông thường thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ, lời thơ hay, giàu hình ảnh về những con người miền núi. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Nói với con”, đây là bài thơ về tình cảm gia đình, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của con người, quê hương đất nước.

Tác phẩm Nói với con được viết năm 1980, in trong tập Thơ Nam 1945, là lời tâm sự của tác giả với đứa con gái đầu lòng và với chính bản thân. Có thể nói, đoạn trích ấn tượng nhất là khổ thứ 2 của bài thơ. Đây là khổ thơ thể hiện lòng tự hào về sức sống mãnh liệt, bền bỉ, những truyền thống tốt đẹp cao cả của quê hương. Những dòng thơ “Người đồng mình thương lắm con ơi… Nghe con” không chỉ là lời dặn dò đơn giản mà còn là tất cả tình cảm trân trọng, ngợi ca, tự hào về con người, về đất nước quê hương.

Gợi ý cho bạn 🌳 Mở Bài Nói Với Con 🌳 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất

Đoạn Văn Phân Tích Khổ 2 Bài Nói Với Con Kết Bài

Tham khảo đoạn văn phân tích khổ 2 bài Nói với con kết bài dưới đây để nắm được những nội dung đánh giá tổng kết về đoạn thơ.

Bằng biện pháp miêu tả, ẩn dụ, đối lập tác giả đã vẽ lên một bức tranh về cuộc sống của người dân miền núi, khí phách, hiên ngang. Đoạn 2 bài thơ “Nói với con” mang giọng điệu thủ thỉ, tâm tình tha thiết, trìu mến và có sự biến đổi phù hợp. Đoạn thơ đã thể hiện tình yêu thương sâu sắc của cha mẹ dành cho con cái cũng như những rung cảm tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của người đồng bào và mảnh đất. Qua đó gửi gắm lời nhắn mang lòng tin mãnh liệt vào những giá trị tích cực vĩnh cửu của dân tộc.

Chỉ qua khổ 2 của bài thơ Nói với con chúng ta đã thấu hiểu phần nào những khát vọng lớn lao của người dân tộc miền núi. Lời thơ giản dị, chân thành nhưng chạm đến trái tim bạn đọc, cảm nhận được tình yêu to lớn của người cha dành cho con hay chính xác hơn là dành cho quê hương đất nước.

Đọc nhiều hơn ☀️ Kết Bài Nói Với Con ☀️ 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất

Viết Đoạn Văn Phân Tích Khổ 2 Nói Với Con Ngắn Gọn

Gợi ý viết đoạn văn phân tích khổ 2 Nói với con ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được những nội dung trọng tâm khi làm bài.

Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày. Quê anh ở Trùng Khánh thuộc tỉnh Cao Bằng. Từ người lính thời chống Mĩ, anh trở thành nhà thơ. Thơ của Y Phương mang một vẻ đẹp riêng, “thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi”. Nói với con của Y Phương là một bài thơ hay, một bông hoa nghệ thuật đầy sắc hương của núi rừng biên giới phía Bắc. Đây là phần thứ hai của bài thơ:

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.

Ở phần đầu, Y Phương đã viết: “Người đồng mình yêu lắm con ơi”, thì ở phần hai, mở đầu đoạn thơ ông lại nhân giọng. Lời cha nói với con nghe thật ngọt ngào thiết tha: “Người đồng mình thương lắm con ơi”. “Người đồng mình” là đồng bào quê hương mình, là bà con dân tộc Tày, dân tộc Nùng, nơi “nước non Cao Bằng”, nơi “gạo trắng nước trong”. Phải yêu, phải thương “người đồng mình” rất đẹp, rất đáng tự hào. Không bao giờ lùi bước trước mọi thử thách khó khăn. Tâm càng sáng, chí càng cao càng bền, tầm nhìn càng xa càng rộng:

Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn

Cha nói với con, dạy bảo con về đạo lí làm người. Trong bất cứ thời gian nào, hoàn cảnh nào “cha vẫn muốn”, cha vẫn mong con biết ngẩng cao đầu và sống đẹp. Quê hương sau những năm dài chiến tranh còn nhiều khó khăn chưa đẹp, chưa giàu. Đường đến các bản còn ”gập ghềnh”, còn nhà sàn vách nứa, thung còn “nghèo đói” thiếu thốn khó khăn. Con nhớ là “không chê không chê…”:

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói.

Con phải biết sống mạnh mẽ, kiên cường “như sông như suối”. Con phải giàu chí khí và có bản lĩnh, dù phải “lên thác xuống ghềnh” vẫn “không lo cực nhọc”. Các điệp ngữ: “không chê… không chê”, “sống trên… sống trong… sống như…” đã làm cho vần thơ phong phú âm điệu nhạc điệu, lời cha dặn con vô cùng thiết tha. Cách ví von, cách vận dụng thành ngữ làm cho lời cha dặn vừa cụ thể mộc mạc, vừa hàm nghĩa, sâu lắng, ân tình:

Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.

Các từ ngữ, hình ảnh: “thô sơ da thịt”, “nhỏ bé”, “tự đục đá kê cao quê hương” đã thể hiện bản chất, bản lĩnh sống của đồng bào mình, bà con quê hương mình. Ba tiếng “người đồng mình” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần đã hiểu lộ niềm yêu mến tự hào quê hương không thể kể xiết. “Người đồng mình” sống giản dị mộc mạc “thô sơ da thịt”, chịu khó chịu khổ, kiên nhẫn trong lao động làm ăn.

Chẳng bao giờ “nhỏ bé”, chẳng bao giờ sống tầm thường trong cuộc đời và trước thiên hạ. Cha nói với con là nói về đạo lí làm người, cha nhắc con phải biết sống đẹp, sống mạnh mẽ, sống có nhân cách. Con phải biết nêu cao lòng tự hào, biết giữ lấy và phát huy truyền thống cao đẹp của “người đồng mình”, của quê hương mình:

Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.

Con chuẩn bị lên đường, như cánh chim bay tới chân trời xa (đi học, đi bộ đội, đi làm ăn?). Cha dặn con, cha khích lệ con, “tuy thô sơ du thịt”, nhưng không thể, không được sống tầm thường, sông “nhỏ bé” trước thiên hạ. Bài học làm người mà cha dạy con tuy ngắn gọn mà thấm thía và lay động biết bao:

Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.

Y Phương đã có một cách nói cụ thể, nói bằng hình ảnh mang phong cách dân tộc mình, “người đồng mình”. Lời thơ bình dị, tình cảm chân thành, giọng thơ tha thiết. Cha nói với con, cha dạy con bài học làm người, biết giữ gìn phẩm giá và đạo lí: yêu mến tự hào quê hương, sống có chí khí, sống đẹp như “người đồng mình” đã bao đời nay.

Nói với con là một bài thơ hay thể hiện tình thương con, niềm tin của người cha đối với đứa con yêu quý. Kết thúc bài thơ là tiếng cha khích lệ con lên đường.

Đọc thơ của Y Phương, chúng ta bồi hồi nhớ lại lời ru của mẹ hiền thời thơ ấu:

Con ơi muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Văn Mẫu Phân Tích Bài Thơ Nói Với Con Khổ 2 – Mẫu 1

Văn mẫu phân tích bài thơ Nói với con khổ 2 dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những định hướng làm bài cụ thể.

Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ mai sau nối tiếp xứng đáng, phát huy truyền thống của tổ tiên, dân tộc vốn là một tình cảm cao đẹp của người Việt Nam suốt bao đời nay. Bài thơ “Nói với con” của Y Phương một nhà thơ dân tộc Tày, cũng nằm trong nguồn cảm hứng nhân văn phổ biến ấy.

Đó là một bài thơ mà tác giả mượn lời một người cha chân tình, dặn dò con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, về những đặc điểm tính cách cao đẹp của quê hương, dân tộc với ước muốn đứa con hãy ghi nhớ, phát huy. Điều ấy đã thể hiện qua cách nói mộc mạc, giàu hình ảnh của người dân miền núi, đem đến cho bài thơ giọng điệu thiết tha, trìu mến, tin cậy:

“Người đồng mình nghe con”

Đoạn thơ được nối tiếp theo sau đoạn cảnh người cha khơi gợi cội nguồn sinh dưỡng giúp đứa con khôn lớn, trưởng thành. Bằng đoạn thơ trên, người cha đã ngợi ca những đức tính cao đẹp của con người quê hương nằm khơi gợi cho con lòng từ hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ về truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm mong ước con hãy tiếp tục xứng đáng với truyền thống ấy.

Bắt đầu đoạn thơ bằng cụm từ “người đồng mình” với ý nghĩa là người vùng mình, người miền mình, cách nói giản dị của miền núi và được lặp đi lặp lại ba lần trong đoạn trích, Y Phương đã gửi vào đó niềm tự hào của mình về những đức tính cao đẹp của người dân miền núi bằng tấm lòng yêu mến vô hạn.

Nếu trên kia “yêu lắm con ơi” là yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây niềm ước vọng càng thêm tha thiết: “thương lắm con ơi”. Tình cảm được nâng lên nhiều lần bởi sau từ “thương” đó là những những nỗi vất vả, gian khó của con người quê hương. Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua.

Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:

“Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”.

Ta dễ dàng nhận ra tính tả thực và phép ẩn dụ tượng trưng đã được nhà thơ vận dụng ở đây. Với phép tả thực, Y phương đã vẽ ra cảnh người dân miền núi mà ở đây dân tộc Tày có cội nguồn sinh dưỡng là những vùng núi cao ngút ngàn, rất hoang vắng và rất buồn bởi cuộc sống nghèo khó, nhọc nhằn. Tuy buồn, tuy khó khăn gian khổ nhưng họ vẫn bám đất, bám bán làng, vẫn thủy chung cùng quê hương. Và càng ở cao, càng gian khổ mới thấy được tấm lòng quyết tâm gìn giữ cội nguồn sinh dưỡng của người dân miền núi.

Tư duy của người miền núi mộc mạc chân tình hiện lên trong cách so sánh độc đáo. Họ lấy hình sông, lấy dáng dáng để biểu thị vẻ đẹp của tinh thần và lối sống. Cách sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nâng cao mức độ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ, càng quyết tâm chinh phục, vượt qua.

Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc và không ngừng mơ ước đến tương lai nơi mà chí lớn sẽ vươn tới.

Chính từ niềm mơ ước ấy, người cha đã nhẹ nhàng nhắc nhở đứa con hãy khắc ghi, rèn luyện, phát huy:

“Dẫu làm sao thì cha cũng muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh không lo cực nhọc”

Đoạn thơ với những hình ảnh cụ thể như núi rừng quê hương được Y Phương nhắc lại theo phép liệt kê: “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói”, “như sông”, “như suối”, “lên thác xuống ghềnh”…”kết hợp với các điệp ngữ: “sống…không chê…”, nhà thơ đã gợi lại cuộc sống vất vả, gian nan đầy thử thách đối với người dân Tày giữa hoang sơ đại ngàn.

Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sống trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.

Cách gợi của nhà thơ được đặt trong giọng điệu mạnh mẽ, chắc nịch, đầy quyết tâm và niềm tin tưởng. Một lần nữa y Phương trong vai người cha đã nhắc con nhớ rằng người đồng mình, người trong cùng bản làng của mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn.

Thông qua đó, nhà thơ với vai trò người cha mong muốn đứa con phải biết tự hào về truyền thống quê hương, phải luôn tự tin, vững bước trên đường đời:

Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”.

Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi. Tuy “người đồng mình” không mấy đẹp đẽ ở hình thức nhưng luôn ẩn chứa một sức mạnh tinh thần lớn lao, không bao giờ nhỏ bé, không bao giờ thôi ước vọng vươn cao.

Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình. Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí, về mong ước xây dựng quê hương.

Lời cha giản dị, ân cần trang nghiêm, chắc nịch đã giúp đứa con nhận ra rằng chính nhờ những “người đồng mình” như thế, những con người có ước mơ xây dựng quê hương với những truyền thống, phong tục tốt đẹp:

“Người đồng mình tự đụng đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.

Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống quê hương tốt đẹp của người đồng mình. “Đục đá” là công việc vô cùng nặng nhọc, đòi hỏi phải bền bỉ, nhẫn nại. “Đục đá” vào ý thơ dã trở thành hình ảnh sinh động, gợi cảm. Bởi qua ý thơ, hình ảnh ấy giúp ta hình dung hiện thực người dân lao động miền núi bằng khát vọng và ý chí “đục đá kê cao quê hương” đã tôn tạo vẻ đẹp văn hóa của dân chọi với bao thiên tai, bão lũ, bao bọn giặc hung tàn để gìn giữ, bảo vệ quê hương của cả dân tộc.

Đó là hình ảnh Sơn Tinh (thời Hùng Vương thứ 18) bốc từng quả cũng chính là hình ảnh anh hùng Núp và dân tộc Ba Na anh em đã quyết tâm không khuất phục giặc Pháp bảo vệ cho vùng đất Chư-lây thân yêu, làm nên chiến tích lịch sử. Cách mạng hào hùng cho quê hương, đất nước. Hình dung ra điều ấy, ta mới thấy chi tiết “đục đá kê cao quê hương” là một hình ảnh ấn tượng, chứa chan niềm tự hào cao độ của nhà thơ đối với dân tộc thân yêu.

Lòng mong muốn ấy còn được thể hiện trong giọng thơ thiết tha, trìu mến bởi ngữ điệu cảm thán: “con ơi”; “đâu con”; ở những lời tâm tình dặn dò:“nghe con” nhưng lại chắc nịch niềm tin của nối nói của người dân miền núi, vừa giàu hình ảnh vừa tự nhiên, xúc động lòng người. từ đó, ta cảm nhận điều lớn lao nhất là người cha muốn truyền lại cho đứa con là lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ với quê hương cao đẹp và niềm tin con bước vào đời:

Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”.

Hành trang của người con mang theo khi “lên đường” không có gì khác ngoài niềm tự hào về quê hương, nguồn cội cùng với ý chí, quyết tâm và hi vọng lớn lao về một ngày mai tươi sáng. Người con lên đường khắc sâu lời cha dặn và không ngừng nhắc nhở mình thực hiện điều tâm nguyện ấy. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời,tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương.

Bằng những từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, lối nói miền núi mộc mạc, cách ví von sinh động, giọng điệu thiết tha trìu mến, nhịp điệu lúc nhanh lúc chậm đầy khát vọng làm người, đoạn thơ ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, cha mong con sống có tình nghĩa với quê hương, phải giữ đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của cha ông từ bao đời để lại. Hơn nữa, con phải biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của mình.

Y Phương đã rất tinh tế khi lựa chọn hình ảnh và giọng điệu khi biểu đạt. Hình như ông đã không hề “mĩ lệ hóa” hay tô vẽ gì thêm cho hình ảnh thơ. Cứ thế, rất tự nhiên, hình ảnh núi non và “người đồng mình” đi vào thơ ông một cách chân thực, hồn nhiên mà sâu sắc đến kì lạ.

Tham khảo trọn bộ 🌳 Phân Tích Bài Thơ Nói Với Con 🌳 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Khổ 2 Nói Với Con Hay Nhất – Mẫu 2

Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích khổ 2 Nói với con hay nhất được chọn lọc dành cho các em học sinh.

Lấy cảm hứng từ tình yêu thương con và ước mong thế hệ mai sau sẽ gìn giữ, phát huy những truyền thống của quê hương, dân tộc, nhà thơ Y Phương đã sáng tác bài thơ “Nói với con”. Bài thơ xuất phát từ tình cảm gia đình, mở rộng ra là tình yêu quê hương đất nước. Đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã bộc lộ rất rõ niềm tự hào, kiêu hãnh về sức sống mạnh mẽ, đức tính tốt đẹp và truyền thống cao đẹp của quê hương, nhắn nhủ người con hãy phát huy truyền trống ấy.

Nếu như trong khổ thơ đầu là sự gợi nhớ về tình yêu thương của cha mẹ và sự đùm bọc của quê hương dành cho con thì đến khổ thơ thứ hai, người cha muốn nói với con về những đức tính cao đẹp của đồng bào mình, dặn dò con phải kế tục và phát huy một cách xứng đáng.

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”

Tiếng gọi “người đồng mình” sao mà thân thương, thân mật và gần gũi đến thế, trong phạm vi nhỏ đó là người cùng một bản, một vùng, rộng hơn đó là người cùng dân tộc cùng một đất nước. “Thương lắm” ở đây không chỉ đơn thuần là tình yêu thương mà còn chứa đựng sự đồng cảm, sẻ chia, giúp đỡ và đùm bọc lẫn nhau của con người.

“Cao” và “xa” là khoảng cách của đất trời, cũng chính là những thử thách khó khăn mà người đồng mình phải chiến đấu. Người đồng mình tuy sống trong khó khăn, đói khổ nhưng biết cách vượt lên tất cả, vẫn nuôi chí lớn và không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên.

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”

Mặc dù đá gập ghềnh, mặc cho thung nghèo đói nhưng cha vẫn muốn sống ở nơi mảnh đất quê hương, không vì những thiếu thốn gian khổ mà chối bỏ hay chê bai quê hương. Ngược lại phải lấy đó làm động lực để biết phấn đấu, biết vươn lên trong cuộc sống, làm nên nghị lực phi thường trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Sống như sông, suối nghĩa là sống một cách lạc quan và mạnh mẽ, sống thủy chung với quê hương, biết chấp nhận khó khăn và vượt qua khó khăn bằng chính niềm tin, thực lực của mình.

“Người đồng mình” sống trong vất vả nhưng mạnh mẽ và khoáng đạt, gắn bó chung thủy với quê hương, chấp nhận mọi khó khăn, thử thách và chiến đấu hết mình với niềm tin và ý chí của mình. Lên thác rồi lại xuống ghềnh, không màng mệt nhọc mà chỉ vững tin vào ngày mai tươi sáng, khi đó mọi khó khăn, đói nghèo sẽ tan biến.

“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”

Hình ảnh người đồng mình “thô sơ da thịt” là ẩn dụ cho những cốt cách giản dị, mộc mạc, chất phác thật thà của người dân tộc. Tuy cũng chỉ là con người bình thường bằng da bằng thịt nhưng ý chí và tâm hồn của người đồng mình lại lớn lao chứ không hề “nhỏ bé”.

Truyền thống đục đá kê cao nhà của người đồng mình mang ý nghĩa kê cao nhà cũng là kê cao quê hương, tự hào về quê hương và tự tay mình xây nên những truyền thống tốt đẹp làm cho quê hương giàu đẹp vươn lên. Ngược lại quê hương chính là cội nguồn cho những phong tục tập quán để nâng đỡ, làm động lực cho con người thêm tin yêu, tự hào.

“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”

Tiếng gọi “con ơi” tha thiết, tâm tình, nhắn nhủ với con điều lớn lao nhất đó là lòng tự hào dân tộc và niềm tự tin khi con bước vào đời. Đã đến lúc con phải trưởng thành, rời xa quê hương để phát triển, đứng trước mọi hoàn cảnh, mọi khó khăn, con hãy vững tin và phải luôn tự hào với truyền thống của quê hương, hãy tự tin rằng mình không nhỏ bé mà phải vững bước trên đường đời. Hai tiếng “nghe con” là lời nhắn chứa chan tình yêu thương, nồi niềm và sự kỳ vọng con sẽ làm rạng rỡ, vẻ vang quê hương, đất nước.

Với giọng điệu thiết tha, trìu mến và đầy tình yêu thương, nhà thơ Y Phương đã thành công lan tỏa lời tâm tình của mình đến với mọi người. Hình ảnh “người đồng mình” vừa nổi bật lại thật thân thương trìu mến, ai cũng nhận ra mình cũng chính là “người đồng mình”. Từ đó thêm yêu quê hương đất nước, thêm sức mạnh để vươn lên trong cuộc sống, tự hào về truyền thống cao đẹp và vững tin sẽ xây dựng quê hương giàu đẹp bằng chính bàn tay của mình.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Nghị Luận Về Bài Thơ Nói Với Con 🍀 15 Bài Văn Ngắn Hay

Phân Tích Khổ 2 Nói Với Con Ngắn Nhất – Mẫu 3

Bài văn phân tích khổ 2 Nói với con ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập cho bài viết trên lớp.

Trong nền văn học Việt Nam, Y Phương là nhà thơ có phong cách sáng tác vô cùng độc đáo qua tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua bài thơ “Nói với con”. Bài thơ là lời người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng của con. Đặc biệt, qua khổ thơ thứ hai, tác giả đã ca ngợi sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình, mong con tiếp nối và phát huy truyền thống tốt đẹp đó.

Bằng lời nói giản dị, mộc mạc gợi bao yêu thương và gần gũi, trong khổ thơ thứ hai, tác giả đã tái hiện thành công vẻ đẹp của người đồng mình. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp điệp ngữ thông qua cụm từ “Người đồng mình” được lặp đi lặp lại nhằm khẳng định vẻ đẹp của “người đồng mình” chính là phẩm chất của quê hương. Đặc biệt, trong khổ thơ, cách tư duy giàu hình ảnh người miền núi đã được tác giả vận dụng qua câu thơ: “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”.

Bằng lối nói cân xứng, nhịp nhàng, đăng đối giữa hai câu thơ, kết hợp sử dụng những tình từ vốn để diễn tả khoảng cách không gian như “cao”, “xa”, nhà thơ Y Phương đã khắc họa thành công vẻ đẹp của “người đồng mình”. Đó là tầm cao của lối sống tâm hồn và ý chí nghị lực phi thường của người đồng mình. Dù cuộc sống phải trải qua nhiều khó khăn, cực nhọc, nhưng họ vẫn giữ được sự lạc quan cùng niềm vui:

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như núi
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc

Thông qua biện pháp tu từ điệp ngữ kết hợp hình ảnh so sánh cụ thể “Sống như sông như suối” cùng việc vận dụng các kiểu câu ngắn dài khác nhau, cuộc sống cùng phẩm chất của “người đồng mình” đã được khắc họa rõ nét. Dẫu phải trải qua nhiều khó khăn, “lên thác xuống ghềnh” nhưng họ vẫn sống khoáng đạt, mạnh mẽ như sông như suối. Đặc biệt là luôn giữ vững tinh thần lạc quan, niềm vui đối diện và vượt qua mọi thử thách, gian nan bằng ý chí, nghị lực và niềm tin để gắn bó với quê hương:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục

Thông qua việc sử dụng động từ “tự đục đá kê cao”, câu thơ đã diễn tả hành động dựng nhà dựng cửa quen thuộc của người miền núi. Tuy nhiên, quê hương vốn là một khái niệm trừu tượng, bởi vậy hình ảnh trên còn là biểu tượng ẩn dụ cho tinh thần tự tôn, ý thức bảo vệ cội nguồn của đồng bào miền núi. Bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại, họ đang làm nên những phong tục, tập quán tốt đẹp cho quê hương. Câu thơ đã chất chứa niềm tự hào của người cha khi nói về quê hương của mình.

Qua khổ thơ thứ hai, chúng ta còn thấy được ước mong của người cha. Qua câu thơ “Dẫu làm sao thì cha cũng muốn”, tác giả đã thể hiện mong muốn con hãy kế tục xứng đáng những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình. Đặc biệt, người cha mong muốn người con đem những truyền thống tốt đẹp của quê hương trở thành hành trang để con vững bước vào đời:

Con ơi, tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con

Bằng những hình ảnh cụ thể, mộc mạc cùng giọng điệu thiết tha, trìu mến, lời dặn dò, nhắn nhủ của người cha đã được thể hiện một cách trực tiếp. Dù con đường phía trước còn nhiều chông gai, và con người chỉ “thô sơ da thịt” nhưng con “không bao giờ nhỏ bé được”.

Câu thơ thể hiện mong muốn người con luôn vững bước trên đường đời bởi hành trang của con có gia đình, quê hương, bởi trong tim con vẫn luôn ẩn chứa những phẩm chất quý báu của người đồng mình. Đồng thời, người cha mong con hãy tự tin bước vào đời, hãy kế tục và phát huy xứng đáng những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Lời cha dặn là lời gửi trao thiêng liêng là lời chuyển giao của các thế hệ người Việt Nam.

Như vậy, thông qua khổ thơ thứ hai, tác giả Y Phương đã khắc họa thành công những vẻ đẹp, phẩm chất của con người, quê hương. Qua đó gửi gắm bức thông điệp về ý chí, nghị lực cùng niềm tin, ước mong con vững bước, trưởng thành và sống xứng đáng với quê hương. Tình yêu thương đối với người con đã hòa với tình yêu dân tộc, quê hương, tạo thành một tình cảm thiêng liêng, cao đẹp.

Tiếp theo đón đọc 🌹 Cảm Nhận Bài Thơ Nói Với Con 🌹 16 Bài Cảm Nghĩ Hay Nhất

Phân Tích Khổ 2 Nói Với Con Chi Tiết – Mẫu 4

Bài văn phân tích khổ 2 Nói với con chi tiết dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.

Quê hương là đề tài quen thuộc và trở thành nguồn cảm hứng bất tận để người nghệ sĩ thể hiện tình yêu sâu sắc, thấm thía. Nếu nhà thơ Đỗ Trung Quân bày tỏ tình cảm đó bằng những vần thơ tha thiết cùng giai điệu êm dịu “Quê hương là chùm khế ngọt – Cho con trèo hái mỗi ngày…” thì tác giả Y Phương lại giãi bày tình yêu thiêng liêng đó thông qua những lời tâm tình của người cha dành cho người con.

Tình cảm cha con, gia đình đã được khái quát thành tình cảm quê hương hết sức tự nhiên. Điều này đã được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ hai của bài thơ. Tác giả đã ngợi ca sức sống, những phẩm chất cao đẹp của người miền núi cùng mong ước thế hệ sau nối tiếp, phát huy những truyền thống của dân tộc, quê hương.

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”

Tác giả vẫn sử dụng lối nói giàu hình ảnh “người đồng mình” – cách xưng hô quen thuộc, trìu mến của người vùng cao để gợi lên sự thân thương, gần gũi nhưng cùng chung một gia đình. Hệ thống từ ngữ chọn lọc, đặc biệt là động từ “thương” kết hợp với từ chỉ mức độ “lắm” để thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia về tinh thần đối với những những khó khăn, vất vả, sóng gió. Để vượt qua những điều đó, con người quê hương đã đo nỗi buồn bằng độ cao của bầu trời vời vợi, lấy xa của đất để làm thước đo đong đếm ý chí con người.

“Cao” và “xa” trong không gian đất trời đều là những khoảng không hữu hạn không điểm dừng, gợi lên tưởng đến những dãy núi cao, trùng điệp cùng sự rộng lớn, xa xăm. Sự chọn lọc ngôn ngữ tài tình, điêu luyện của nhà thơ đã thể hiện sự tăng tiến của ý chí con người: khó khăn, thử thách càng lớn thì bản lĩnh “người đồng mình” càng trở nên mạnh mẽ hơn, vượt qua cuộc sống đói nghèo, cơ cực của “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói”.

Trải qua mọi thiếu thốn, họ vẫn lạc quan, mạnh mẽ “sống” với tâm hồn phóng khoáng như thiên nhiên: “Sống như sông như suối”. Tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập “lên thác” – “xuống ghềnh” để thể hiện một cuộc sống lam lũ, vất vả chốn núi rừng. Từ đó, nhà thơ đã khái quát những vẻ đẹp truyền thống của người vùng cao:

“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”

Cách gọi thân thương “Người đồng mình thô sơ da thịt” ẩn chứa niềm tự hào về những con người giản dị, chất phác, thật thà, đồng thời là lời ngợi ca ý chí, cốt cách không hề “nhỏ bé” của họ. Phẩm chất tốt đẹp của người dân miền cao đã được phác họa trong một tầm vóc kì vĩ, lớn lao hoàn toàn đối lập với vẻ ngoài “thô sơ da thịt”.

Đặc biệt, cách nói hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” tạo nên một lối nói độc đáo, vừa diễn tả quá trình dựng nhà, dựng cửa làm nên truyền thống của người miền núi, vừa là hình ảnh ẩn dụ diễn tả ý thức tự tôn, tinh thần đề cao, nâng tầm, làm giàu đẹp mảnh đất quê hương. Những phong tục tập quán, truyền thống văn hóa của quê hương chính là điểm tựa tinh thần nâng đỡ và tạo động lực cho con người vượt qua mọi gian nan, thử thách.

Sau khi nêu bật những phẩm chất của “người đồng mình” bằng giọng điệu ngợi ca, tự hào, tác giả Y Phương đã khép lại bài thơ bằng những lời dặn dò ân cần, trìu mến:

Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”

Trong những câu thơ chan chứa tình yêu thương, chúng ta có thấy được niềm tin yêu, hi vọng mà người cha đã gửi gắm. Đó là mong ước khi khôn lớn, trưởng thành, tự tin “Lên đường” sải bước trên đường đời, người con vẫn khắc sâu những phẩm chất của “người đồng mình” và “không bao giờ được nhỏ bé” để bản lĩnh, kiên cường mạnh mẽ bước qua những gian khó, thử thách của cuộc đời. Lời dặn dò vì thế trở thành một bài học quý giá và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với thế hệ trẻ trong mọi thời đại.

Như vậy, bằng tài năng trong việc sử dụng ngôn từ, hình ảnh, tác giả Y Phương đã làm nổi bật những vẻ đẹp, phẩm chất cao quý của “người đồng mình”. Tất cả đã được thể hiện thông qua thể thơ tự do phù hợp với lối nói, tư duy khoáng đạt của người miền núi cùng giọng điệu thơ linh hoạt cùng sự kết hợp nhuần nhuyễn các biện pháp nghệ thuật.

Có thể bạn sẽ thích 🌼 Cảm Nhận Khổ Thơ Đầu Bài Nói Với Con 🌼 10 Bài Hay Nhất

Phân Tích Đoạn 2 Bài Nói Với Con Đầy Đủ – Mẫu 5

Chia sẻ bài văn mẫu phân tích đoạn 2 bài Nói với con đầy đủ dưới đây để các em học sinh cùng tham khảo:

Tình mẫu tử là một đề tài luôn được nhắc đến nhiều nhất trong thơ ca. Thế nhưng, không chỉ tình mẫu tử, tình phụ tử cũng là thứ tình cảm thiêng liêng bậc nhất của cuộc đời mỗi con người. Hiếm có tác phẩm nào trong thơ ca về tình phụ tử lại ý nghĩa và thật nhiều cảm xúc như tác phẩm “Nói với con” của Y Phương. Bài thơ là tiếng lòng chân thành của người cha cất lời khuyên dạy người con của mình, chứa đựng trong đó là những chiêm nghiệm về cuộc đời, những triết lý sống mà người cha dành cho đứa con của mình.

Bài thơ “Nói với con” bao gồm hai khổ thơ, khổ thứ nhất nói về tình yêu thương của mẹ cha, gia đình dành cho con khi còn nhỏ còn khổ thơ thứ hai là lời khuyên dạy về những đức tính cần có trong cuộc sống đồng thời là lời dặn dò đứa con về bản lĩnh trước những sóng gió của cuộc đời. Có thể nói, khổ thơ thứ hai chính là khổ thơ bao trùm ý nghĩa của cả bài thơ, mang đến cho chúng ta những cảm xúc chân thành nhất của những con người vùng núi Tây Bắc Việt Nam:

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn

Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”

Khổ thơ đầu, Y Phương đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên có rừng, có hoa, có những vách nhà cùng tiếng hát, ở đó có cộng đồng những người dân tộc sống hòa bình cùng nhau. Ông gọi họ là “người đồng mình” – tiếng gọi ấy nghe thật thân thương, thân thuộc. Quê hương, đồng bào là những phần tất yếu, tốt đẹp nhất nuôi dưỡng con người trưởng thành, khôn lớn. Có lẽ vì vậy nên ở khổ thơ thứ hai này, Y Phương mở đầu bằng lời cất gọi con với ba chữ “người đồng mình”:

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”

Đó là một lời nhấn giọng gọi con vừa ngọt ngào lại đầy thiết tha. “Người đồng mình” tức là người đồng bào của mình, những người được sinh ra cùng từ bọc trăm trứng của mẹ u Cơ, là những người Kinh, người Tày, người Nùng, … Tuy tên gọi khác nhau, nhưng chúng ta có chung cùng nguồn gốc, nơi nước non Cao Bằng, Bắc Cạn, nơi “gạo trắng nước trong”.

Tác giả đã sử dụng cách gọi thật thân thương để gọi những người đồng bào của mình. Nếu như ở khổ trên, người cha đã gọi “người đồng mình yêu lắm con ơi”, đó là tình yêu tha thiết với bản làng, với những con người chân thành, giản dị thì ở đây, ông lại gọi rằng “người đồng mình thương lắm con ơi” để thể hiện một niềm khát vọng tha thiết.

Từ “yêu” đến “thương”, đó là khoảng cách mà tình cảm được nhân lên gấp nhiều lần, thương con người, thương những nỗi khó nhằn, gian khổ mà bản làng quê hương đã gánh chịu. Qua đó, người cha biểu hiện nỗi lòng của mình, vừa yêu thương vừa tự hào về những “người đồng mình”. Bởi họ không chỉ là những con người giản dị, tài hoa, biết “đan lờ cài nan hoa” mà còn là niềm tự hào bởi họ biết lo toan, biết ước mơ cao rộng:

Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”

Có thể nhận thấy, nghệ thuật ẩn dụ và tả thực được Y Phương vận dụng một cách tinh tế, khéo léo trong hai câu thơ này. Xét về hướng tả thực, ta biết những người dân tộc Tày miền núi luôn sống ở vách núi, những thung lũng cao sâu.

Núi rừng là nguồn sống tuy có vất vả, có khó khăn, thế nhưng họ luôn kiên cường bám đất, bám bản, quyết không rời xa mảnh đất quê hương của tổ tiên. “Người đồng mình” không bao giờ khuất phục trước khó khăn, thử thách, càng khó khăn thì chí lại càng bền, tâm lại càng tỏ hơn nữa. Đó cũng là những đức tính cha muốn con học được từ những người dân quê hương mình.

Tư duy của những người miền núi thật giản dị, với họ chẳng gì cao bằng núi, chẳng gì xa rộng bằng “thung”. Họ đã lấy chính những hình ảnh thân thuộc nhất ấy để gợi lên chí khí và ước mơ của mình. Với Y Phương, cách sắp xếp từ theo hướng tăng dần, từ “cao” rồi đến “xa”, biểu thị rằng càng khó khăn, càng là thử thách lớn thì càng phải vượt qua.

Cuộc sống của “người đồng mình” còn nhiều điều vất vả, nhiều “nỗi buồn”, còn nhiều thiếu thốn trăm bề, thế nhưng họ vẫn nuôi trong mình “chí lớn”, luôn mơ ước tới mai sau, đó là tương lai rạng rỡ, tốt đẹp của dân tộc.

Từ niềm ước mơ khôn xiết ấy, người cha lại thủ thỉ, nhắc nhở đứa con của mình, hãy sống, rèn luyện và khắc ghi những đức tính cao đẹp của con người quê hương ta:

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”

Người dân tộc miền núi luôn chọn những đỉnh núi cao, những thung lũng sâu trong núi rừng để lập nên bản làng của mình. Vậy nên, cuộc sống của họ thường ngày đều là hoặc trên những đỉnh núi đá gập ghềnh, trắc trở, hoặc ở dưới thung sâu, hoặc ở trên những con suối, con sông. Thế nhưng, ở đâu, họ cũng đều thích nghi, đều có thể tồn tại, vươn lên bằng ý chí và nghị lực của mình.

Ở đây, người cha muốn đứa con của mình học tập những đức tính đó của cha ông, sống ở nơi đâu cũng không được lùi bước trước khó khăn, phải tập thích nghi trước hoàn cảnh. Y Phương cũng sử dụng ở đây một loạt những phép liệt kê nào “đá gập ghềnh”, nào “thung nghèo đói”, nào “lên thác xuống ghềnh”, … để chỉ ra những khó khăn, vất vả, gian nan trong cuộc sống của những người dân tộc giữa đại ngàn hoang sơ.

Thế nhưng, ông cũng nói rằng “không chê” tức là tự hài lòng, tự chấp nhận những khó khăn, vất vả ấy để rồi từ đó vươn lên một cách thật mạnh mẽ. Điệp từ “không chê” được lặp lại như để nhấn mạnh sự nhắc nhở mà người cha dành cho con mình. Ông muốn đứa con yêu của mình phải biết chấp nhận thực cảnh để rồi thích nghi, vươn lên chứ không lùi bước trước thử thách cuộc đời.

Tiếp theo là phép so sánh “sống như sông như suối”, một là người cha muốn nhắc nhở đứa con của mình phải luôn sống mạnh mẽ trước cuộc đời, hai nữa là để gợi tả lên vẻ đẹp tâm hồn, ý chí của những người con núi rừng Tây Bắc. Sống giữa cái khó khăn của đại ngàn, của những vất vả thế nhưng họ vẫn luôn mang trong mình một tâm hồn tràn trề sinh lực, sức sống, với ý chí sắt đá, cuồn cuộn như dòng suối, dòng sông.

Cách nói của nhà thơ, cách so sánh, gợi tả thật quá đỗi giản dị. Nó như là một câu chuyện nhẹ nhàng, lời khuyên bảo chân thành dành cho đứa con yêu quý của mình. Thế nhưng chứa đựng trong đó xiết bao niềm tự hào về phẩm chất, ý chí của “người đồng mình”.

Ông luôn luôn khẳng định rằng, dù “người đồng mình” có phải chịu cuộc sống vất vả, khó khăn, gian nan thì vẫn luôn mực gắn bó, thủy chung với quê hương, xứ sở của mình, vượt qua tất cả khó khăn đó mà vươn lên trong cuộc sống. Và qua đó, ông cũng nhắc nhở đứa con của mình phải luôn biết tự hào về truyền thống của quê hương và phải luôn giữ cho mình những đức tính đáng trân trọng ấy.

Không chỉ nhắc nhở đứa con của mình về những đức tính cao đẹp của “người đồng mình”, người cha còn ca ngợi phẩm chất của họ rằng:

“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”

Y Phương đã tạo nên hình ảnh tương phản đối xứng qua hai câu thơ để ca ngợi cái phẩm chất ẩn chứa bên trong cái hình thức bên ngoài. “Người đồng mình” chẳng đẹp đẽ về hình thức “thô sơ da thịt” thế nhưng ở trong họ luôn ẩn chứa một sức mạnh tinh thần to lớn, khát vọng mãnh liệt được vươn cao vươn xa. Chính cái sức mạnh ấy làm nên con người họ, khiến họ trở lên thật cao lớn, chẳng thể nào nhỏ bé được.

Lời thơ của Y Phương là lời của người cha đang thủ thỉ cùng đứa con của mình, vậy nên chúng ta cảm nhận được ở trong đó sự chân thành, giản dị, ân cần nhưng cũng đầy nghiêm khắc. Ông muốn nhắc đứa con phải biết sống cho đúng, cho đủ, phải học tập, rèn luyện những phẩm chất, đức tính của cha ông để vượt lên những sóng gió của cuộc đời.

Những “người đồng mình” tuy “thô sơ da thịt” nhưng chứa chan trong họ là khát vọng xây dựng lên quê hương của mình thêm vững vàng:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”

Chỉ đôi câu thơ nhưng đã khái quát lên cả cái tinh thần tự hào tự tôn của dân tộc, cái ý thức bảo vệ quê hương, non sông, cội nguồn, bảo vệ những phong tục, những truyền thống của cha ông để lại. “Người đồng mình tự đục đá” – “đục đá” là một công việc vất vả, gian lao, nặng nhọc, đòi hỏi trong đó sự bền bỉ, kiên trì, nhẫn nại, siêng năng. Vậy mà “người đồng mình” suốt bao năm tháng “tự đục đá kê cao quê hương”, đây là hình ảnh thơ hết sức chân thực, hết sức sinh động.

Những người dân miền núi bằng ý chí, bằng khát vọng của mình “tự đục đá kê cao quê hương” để bảo vệ quê hương, bản làng trước thiên tai, lũ lụt và cũng là để bảo vệ quê hương trước kẻ thù xâm lăng. Hình ảnh thơ ấy thật đẹp đẽ biết bao, chính những người dân miền núi”thô sơ da thịt” ấy đã tạo nên vẻ đẹp văn hóa, phong tục rất riêng của mình.

Hình ảnh “tự đục đá” ấy cũng gợi cho chúng ta thật nhiều về những truyền thuyết của cha ông, khi Sơn Tinh bốc từng ngọn núi ném xuống biển, là hình ảnh của những người anh hùng như anh hùng Núp, như Kim Đồng, … với một lòng quyết tâm đánh giặc tạo nên bản hùng ca cho cả dân tộc ta. Chỉ bằng chi tiết này thôi cũng cho chúng ta thấy được sự tự hào đến vô cùng của nhà thơ đối với dân tộc thân yêu của mình.

Đến cuối cùng, sau những lời khuyên bảo, răn dạy, ngợi ca, bằng giọng thơ trìu mến, thân thương, người cha dặn dò đứa con của mình trước lúc “lên đường”:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”

“Con ơi” – tiếng gọi ấy thật thân thương, thật ngọt ngào biết mấy. Hành trang mà người cha muốn trao tặng đứa con của mình trước khi “lên đường” là niềm tin, là lòng tự hào về dân tộc của mình, về nguồn cội, quê hương của mình. Tuy “người đồng mình” chúng ta chẳng đẹp đẽ về hình thức “thô sơ da thịt”, thế nhưng chúng ta sẽ luôn luôn ngẩng cao đầu, “không bao giờ nhỏ bé được”.

Kết lại bài thơ, hai tiếng “nghe con” sao mà xúc động đến thế? Đó là niềm tin chắc nịch của người cha dành cho con, niềm tin của một người miền núi với quê hương, núi rừng của mình. Và đứa con lên đường với hành trang cha tặng in dấu sâu đậm trọng tâm trí, hi vọng rằng đứa con sẽ luôn vững vàng, tiếp nối truyền thống của cha ông, làm vẻ vang cho dân tộc mình.

Lời thơ của Y Phương không chỉ giản dị, mà còn vô cùng chân thành, lối nói chuyện của người dân miền núi thật mộc mạc, cùng với đó là giọng điệu tha thiết, ngọt ngào, lúc khuyên răn, dạy bảo, lúc dặn dò với lòng mong mỏi. Đoạn thơ là lời ca ngợi những đức tính của người dân tộc miền núi với những phẩm chất cao đẹp cùng lòng tự hào tự tôn dành cho quê hương. Đồng thời, nhà thơ cũng mượn lời người cha để răn dạy chúng ta về đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của cha ông và tinh thần vượt khó, biết chấp nhận gian khổ.

Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Phân Tích Khổ 1 Nói Với Con ☀️ 12 Bài Mẫu Khổ Đầu Hay Nhất

Phân Tích Khổ Thơ 2 Nói Với Con Nâng Cao – Mẫu 6

Đón đọc bài văn phân tích khổ thơ 2 Nói với con nâng cao dưới đây để chắt lọc cho mình những ý văn đặc sắc.

Y Phương là một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam, ông sinh ra và lớn lên tại tỉnh Cao Bằng- cái nôi văn hóa của người Tày. Có lẽ chính vẻ đẹp của non nước Cao Bằng hùng vĩ, nên thơ cũng như bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Tày đã thấm sâu vào tâm hồn nhà thơ, góp phần làm nên chất nghệ sĩ trong ông.

Với quan niệm nghệ thuật đa chiều cùng cảm quan tinh tế của người nghệ sĩ, ông đã để lại cho văn học nước nhà nhiều bài thơ hay. Một trong số đó phải kể đến thi phẩm Nói với con- một bông hoa trong sáng và tinh khôi viết về cuộc sống và con người nơi miền Đông Bắc của Tổ Quốc. Khổ hai bài thơ đã tập trung khắc họa vẻ đẹp của “người đồng mình”.

Với người cha, tâm hồn con không chỉ được nuôi dưỡng bởi văn hóa độc đáo của quê hương, được bao bọc, chở che bởi thiên nhiên thơ mộng, hữu tình mà hơn thế con còn được sống trong tình cảm nồng hậu, nghĩa tình của người quê hương. Cơ thể con, tiếng nói con, sức sống của con được bồi đắp bao vẻ đẹp phẩm chất của “người đồng mình”:

“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”

“Người đồng mình” là cách gọi gần gũi, thân thiết chỉ những người cùng sinh sống trên một mảnh đất, vùng quê. “Người đồng mình” – nghe sao thân thương đến lạ!, thật gần gũi, thật tự nhiên biết bao. Ở đây, mọi người đều sống chung trong một gia đình lớn, luôn bảo vệ và chia sẻ với nhau, thấu hiểu cả những nhọc nhằn vất vả, những mong ước và chí nguyện của nhau.

Người đồng mình “thương lắm ”, “thương” bởi cuộc sống còn nhiều gian khó, “thương” bởi những nhẫn nại, âm thầm, “thương” cả ý chí, bản lĩnh của người đồng mình trên mảnh đất quê hương. “Thương” ở đấy chính là sự cảm thông, thấu hiểu và sẻ chia.

“Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”

Tác giả đã sử dụng các tính từ “cao”, “xa”- những tính từ đặc tả không gian địa lý của vùng đất Cao Bằng, nơi mà “người đồng mình” đang sống. Một chốn không gian xa phố thị phồn hoa, nơi đây chỉ có núi cao hiểm trở. Tính từ “cao”, “xa” còn để chỉ nỗi buồn và chí lớn của con người nơi đây. Người đồng mình nén “nỗi buồn” ở lại để “chí lớn” đi xa. Tác giả đã mượn chiều kích của không gian để thể hiện tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, thể hiện sự bền gan, vững chí của “người đồng mình”.

Lời thơ giản dị thấm đẫm lòng tự hào của người cha khi kể về “người đồng mình”, qua đó, ta còn thấy được một trái tim nhạy cảm, một tâm hồn đồng điệu của tác giả với nhân dân mình, hiểu và thương cuộc sống của nhân dân mình. Từ tiếng thơ tự hào ấy, tác giả cất tiếng lòng mình gửi gắm mong muốn đến con, rằng con hãy sống một cuộc đời bản lĩnh, sống ân nghĩa, thủy chung, tiếp nối những giá trị vĩnh cửu của “người đồng mình”:

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.

Ba tiếng “dẫu làm sao” chất chứa cả những nhọc nhằn, vất vả của cuộc sống, chứa đựng cả những đấu tranh tâm lý bên trong người cha. “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn” là một nốt lặng thiết tha nhưng cũng là một tiếng nói đầy quyết liệt, mong muốn con hãy gìn giữ và phát huy những giá trị làm người cao quý của “người đồng mình”. Những tính từ “gập ghềnh”, “nghèo đói”, thành ngữ” lên thác xuống ghềnh” càng khắc họa những gian nan, trắc trở, những bấp bênh, vất vả của cuộc sống.

Đó là những thử thách mà bất kì ai cũng sẽ phải trải qua, bởi vậy mà cha mong con hãy dùng bản lĩnh để vượt qua. Điệp từ “sống” đứng đầu câu kết hợp với các từ phủ định “không chê” đã khẳng định một thái độ sống đầy tích cực trên hành trình cuộc đời. Hình ảnh so sánh độc đáo “sống như sông như suối’ mang trong đó cả một lời khuyên ý vị của cha cho con, rằng con hãy sống một cuộc đời tự do, rộng mở, dẫu bao thác ghềnh vẫn vượt qua, tưới mát đời bằng những giọt trong xanh.

Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.”

“Người đồng mình” được tiếp tục sử dụng khẳng định sự gắn kết thiêng liêng của con với con người quê hương mình. Biện pháp tương phản qua hai hình ảnh “thô sơ da thịt” và “chẳng mấy ai nhỏ bé” đầy mộc mạc, giản dị càng tô đậm ý chí, nghị lực phi thường của người lao động nơi đây. Ở họ luôn khao khát được vươn ra biển lớn, luôn sống với những ước mơ, hoài bão của mình khát khao vươn đến những điều tốt đẹp.

Nét vẽ gân guốc “người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” khắc họa rõ nét tinh thần tự lực, tự cường, dựng xây quê hương giàu đẹp, bằng bàn tay và khối óc của mình họ hun đúc nền văn hóa độc đáo cho chính dân tộc mình. Quê hương cũng vậy, càng giàu đẹp, thịnh vượng thì đời sống con người càng thay đổi, vui tươi và hạnh phúc. Những câu thơ cuối khổ là khúc hát lên đường cũng là lời nhắn nhủ đầy tâm tình của cha:

Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”

Giọng diệu thiết tha, trìu mến, chất chứa tin yêu của cha trên hành trình con đi phía trước. “Lên đường” – hành động ấy con phải thực hiện trong tư thế chủ động, lấy phẩm chất của “người đồng mình” để vượt gian khó trên mỗi bước đường con đi. Chúng ta có thể còn “thô sơ” còn nghèo khó, còn cực khổ, còn vất vả, còn thiếu thốn nhưng không bao giờ “nhỏ bé”.

Chúng ta sống trên đá, mang vóc hình của núi đá, vì vậy hãy mang cả ý chí mạnh mẽ, sự cứng cỏi và kiên cường của đá núi để tự tin bước vào đời. Hãy sống một cuộc đời đường hoàng, bản lĩnh, tự tin để xứng đáng với gia đinh đình, với quê hương mình.

Bằng thể thơ tự do, giọng điệu thiết tha, trìu mến, những hình ảnh giản dị, mộc mạc, mà chân thực, giàu chất thơ, Y Phương đã viết nên những vần thơ đầy đẹp đẽ. Đoạn thơ đã gợi nhắc trong mỗi chúng ta tình cảm gắn bó với con người, với truyền thống đẹp đẽ của quê hương, dân tộc mình và nuôi dưỡng ý chí vượt lên khó khăn để vững bước vào đời.

Mời bạn tham khảo 🌠 Cảm Nhận Khổ 2 Bài Nói Với Con 🌠 12 Bài Cảm Nghĩ Hay

Phân Tích Nói Với Con Khổ 2 Học Sinh Giỏi – Mẫu 7

Tham khảo văn mẫu phân tích Nói với con khổ 2 học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.

Y Phương sinh năm 1948, tên thật là Hứa Vĩnh Sước, là nhà thơ người dân tộc Tày. Ông nổi tiếng với lối viết tự nhiên, giàu hình ảnh, lời thơ trong sáng, tự nhiên, giản dị, mang đậm âm hưởng của người dân tộc miền núi phía Bắc. Y Phương là một trong số ít các nhà thơ dân tộc thiểu số có tác phẩm được đưa vào chương trình giáo dục văn học Việt Nam.

Nói với con là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà thơ, với cách viết gần gũi thông qua lời tâm tình của người cha với đứa con nhỏ, đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, tác giả đã kín đáo bộc lộ được vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn của người đồng mình trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, dẫu còn nhiều khó khăn vất vả.

Nếu như ở khổ thơ thứ nhất tác giả tập trung thể hiện vẻ đẹp của người đồng mình thông qua cuộc sống lao động, trong những nét phong tục tập quán đặc sắc, thì đến khổ thơ thứ hai tác giả tập trung vào những nét đẹp tâm hồn, phẩm chất quý giá của người đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc:

“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”

Tác giả tiếp tục sử dụng cụm từ “người đồng mình” tức là chỉ dân tộc mình, thể hiện sự gắn kết, thân thuộc của những con người có cùng nguồn cội, chung sống hòa hợp với nhau như một đại gia đình. Chính vì thế khi đóng vai trò là một thành viên trong gia đình lớn ấy người cha đã nói lên mấy chữ “thương lắm con ơi” thể hiện tấm lòng đồng cảm sâu sắc, thấu hiểu cho những nỗi vất vả, khó nhọc của những con người sống tận nơi vùng núi xa xăm.

Thế nhưng những khó khăn của hoàn cảnh cũng chẳng ngăn được ý chí, tấm lòng của họ, “Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”. “Cao” và “xa” là hai từ ngữ ám chỉ khoảng cách địa lý và không gian sinh sống của người đồng mình với những điều kiện hết sức khó khăn. Đó là nơi rừng sâu, núi cao đầy hiểm trở, lại xa xôi so với phố thị đồng bằng, phương tiện qua lại hầu như hiếm hoi.

Thế nhưng không vì thế mà “người đồng mình” chịu lùi bước, cam chịu cuộc sống vất vả, lầm lũi, mà trái lại chính những điều kiện ngặt nghèo, không gian sống đặc biệt đã trở thành nền tảng nuôi dưỡng trong lòng họ ý chí vượt khó mạnh mẽ, sự cố gắng không ngừng nghỉ. Câu thơ “Xa nuôi chí lớn” dù ngắn ngủi, giản đơn nhưng bộc lộ rõ ý chí kiên cường, bản lĩnh vững vàng, không ngại gian khó của người đồng mình trong cuộc sống.

Lời thơ mộc mạc, chất liệu thô sơ nhưng thể hiện thật chân thành tấm lòng thương cảm ngậm ngùi của tác giả đối với cuộc sống của người đồng mình, đồng thời là tấm lòng lòng tự hào trước những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của dân tộc. Từ đó người cha nhắn nhủ với đứa con của mình những lối sống đẹp đẽ, cần phải học tập và phát huy để có thể kế thừa truyền thống, lập nên ý chí kiên cường của bản thân, hòa vào sức mạnh dân tộc mình.

“Dẫu làm sao thì cha cũng muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh không lo cực nhọc”

Lời người cha dặn con nghe thật giản dị, mà thấm thía với các chất liệu tự nhiên như hình ảnh sông, suối, núi đá, thác ghềnh, thung lũng,… Hình ảnh thơ giản dị, gần gũi giúp cho vần thơ thêm phần tự nhiên, chân chất, gây ấn tượng mạnh với độc giả. Lời dạy của một người cha đối với đứa con nhỏ thật sâu sắc, cảm động, cha không dạy con những thứ gì quá xa xôi mà nói với con bằng những vật thể tự nhiên gắn liền với đời sống, lối so sánh giản dị, dễ dàng khắc ghi vào đầu trẻ thơ.

Khuyên con rằng dẫu sống ở đâu là núi đá hay thung sâu cũng đừng bao giờ ghét bỏ, chùn bước trước điều kiện khó khăn vất vả. Thay vào đó hãy tìm cách khắc phục chúng, tìm cách thích nghi, linh hoạt như sông suối chảy từ rừng sâu, dù trải qua thác ghềnh, muôn vàn khó khăn, nhưng cuối cùng vẫn vươn ra biển lớn.

Trong cuộc sống này cũng vậy, đặc biệt là khi con sinh ra và lớn lên ở vùng núi phía Bắc xa xôi thì lại càng phải kiên cường, cố gắng gấp bội, không chỉ là phục vụ cuộc sống, mà còn phải góp sức xây dựng quê hương sớm ngày giàu mạnh. Không chỉ đơn thuần là lời khuyên cha dành cho con, mà ở những câu thơ này tác giả cũng khéo léo thể hiện vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình, ấy là sự thích nghi với mọi hoàn cảnh, không ngại gian khó, sẵn sàng đối mặt với sự thiếu thốn, cư trú ở nơi hiểm trở mà vẫn vui vẻ sinh sống làm ăn.

Không chỉ ở ý chí vượt khó, sự kiên cường trong tâm hồn mà vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình còn được thể hiện thông qua những phong tục tập quán có từ bao đời nay rằng:

“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”

Tuy rằng người dân tộc thiểu số phía Bắc những năm sau kháng chiến còn khó khăn nhiều, trong công cuộc lao động họ chủ yếu dùng chính đôi bàn tay không để sản xuất, khai hoang đất đai, tạo lập cuộc sống mới, xây dựng quê hương mình. Sự chai sần của từng đôi tay lao động và những vóc người nhỏ bé đã làm nên một vùng trời phía Bắc ngày càng trù phú, tốt đẹp.

Và để khẳng định sự nỗ lực, kiên cường trong lao động sản xuất ấy, Y Phương đã tinh tế viết rằng “Người đồng mình tuy thô sơ da thịt/Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”, ý rằng dẫu chỉ có đôi bàn tay không, với vóc người nhỏ bé, thế nhưng ý chí của người đồng mình luôn lớn lao, vững vàng hơn tất cả.

Sống trên núi đá hoang sơ, cằn cỗi, đôi bàn tay chai sần “tự đục đá kê cao quê hương”, làm nên diện mạo mới cho, cuộc sống mới cho dân tộc mình, tạo nên những giá trị vật chất, tinh thần cho quê hương xứ sở, dẫu rằng còn lắm gian lao vất vả và hơn hết là cần một sự kiên trì mạnh mẽ.

Nối tiếp câu thơ sau “Còn quê hương thì làm phong tục”, hai từ “quê hương” ở đây không đơn thuần là chỉ một vùng đất, mà nó còn là đại diện cho lớp lớp những con người đi trước đã tạo dựng, kết tinh, để lại cho thế hệ sau nhưng giá trị văn hóa, những phong tục truyền thống tốt đẹp. Trở thành bản sắc dân tộc, là thứ mà người đồng mình luôn cố gắng giữ gìn, đồng thời cố gắng phát huy hơn nữa, để nâng lên tầm vóc quê hương, xứ sở mình.

Nói với con là một trong những tác phẩm viết về đề tài người dân tộc miền núi phía Bắc đặc sắc và đáng chú ý nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Bằng lối tư duy trong sáng, sinh động, lời thơ giản dị mang âm hưởng miền núi, chất liệu thơ lấy từ cuộc sống sinh hoạt, gần gũi, chất phác, tác phẩm đã mang đến cho người đọc những cảm nhận độc đáo.

Nó không chỉ đơn thuần thể hiện tình yêu thương tha thiết người cha dành cho đứa con nhỏ bằng những lời dạy vừa dịu dàng vừa nghiêm khắc, mà hơn thế nữa thông qua đó tác giả còn thể hiện được những vẻ đẹp phẩm chất tâm hồn đáng quý của người đồng mình, những con người luôn nỗ lực, cố gắng, ý chí kiên cường trong cuộc sống, bền bỉ trong lao động để xây dựng quê hương, đất nước.

Có thể bạn sẽ thích 🌼 Cảm Nhận Khổ Thơ Cuối Bài Nói Với Con 🌼 10 Bài Hay Nhất

Phân Tích Khổ Cuối Nói Với Con Ngắn Hay – Mẫu 8

Tham khảo bài văn phân tích khổ cuối Nói với con ngắn hay dưới đây với cách hành văn hàm súc và giàu hình ảnh.

Ai đã đọc qua bài thơ “Nói với con” của Y Phương hẳn sẽ xuất hiện không ít cảm xúc, nỗi xúc động về tình cảm gia đình cũng như tình quê hương thắm thiết. Nổi bật trên nền cảnh núi rừng Tây Bắc là vẻ đẹp đời sống và phẩm chất của “người đồng mình” cần cù nhẫn nại, gắn kết muôn đời với quê hương, với cội rễ sinh thành khiến ta thêm trân trọng và mến yêu được thể hiện rõ nét qua đoạn 2 bài thơ.

Ở đoạn 2 bài thơ “Nói với con”, Nhà thơ Y Phương đã dùng những lời thơ mộc mạc, chân thành để khắc họa hình ảnh “người đồng mình” trong mối liên hệ giữa con người và nguồn cội sinh thành. Tuy cuộc sống khó khăn, gian khổ, nhưng lúc nào họ cũng ngời sáng ý chí vươn lên:

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”.

Từ “thương lắm” xuất phát từ tấm lòng đồng cảm, tri ân những con người đã bao đời làm nên bản sắc của cuộc sống “người đồng mình”. Giữ đại ngàn bao la, “người đồng mình” muôn đời vẫn không thôi ước vọng vươn cao, vươn xa. Cách dùng đảo ngữ tinh tế khiến cho lời thơ thanh thoát lạ thường.

Dù biết là khó khăn, nhưng ước mơ không bao giờ vơi cạn. Đó chính là nguồn cội sức mạnh giúp họ sinh tồn và vươn tới cuộc sống tươi đẹp. Y Phương thấu hiểu, trân trọng và lấy điều đó làm bài học dạy con. Một lần nữa, vẻ đẹp đời sống và phẩm chất của “người đồng mình” hiện lên thật cao đẹp:

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói”.

Biện pháp điệp cấu trúc “sống – không chê” và nghệ thuật so sánh vẽ ra hình ảnh cuộc sống của người đồng mình đầy khó nhọc nhưng hào hùng, mạnh mẽ. Cuộc sống có thể gian khổ nhưng tâm hồn lúc nào cũng thanh cao, lạc quan, yêu đời. Họ biết chấp nhận và trân trọng cuộc sống vốn có; biết cải tạo nó theo chiều hướng tốt đẹp và gìn giữ cho muôn đời sau. Càng khó khăn, gian khổ, họ càng biết nương tựa vò nhau, dựng xây một lối sống bao dung, hài hòa với thiên nhiên:

“Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.

Với giọng điệu dịu dàng, yêu thương và trìu mến, cùng cách diễn tả mộc mạc, chất phác đúng chuẩn chất giọng dân tộc Tày – quê hương tác giả, ở vùng Cao Bằng cùng với lối ví von, so sánh thường thấy trong trong các bài thơ dịu nhẹ, Y Phương đã chỉ ra được nét đặc sắc qua lời tâm tình của người cha đối với con.

Con thường được lớn lên trong sự chở che, nuôi dưỡng của cha mẹ. Với cách tư duy riêng, tác giả đã nói lên sự vất vả ở các vùng quê miền núi khó khăn, “gập ghềnh”, “nghèo đói”. Đó cũng là niềm tự hào, lời ca ngợi vẻ đẹp đời sống và phẩm chất của “người đồng mình” mà nhà thơ đã dành tặng cho quê hương, dân tộc mình.

Tính cách người miền núi lại vô tư, không toan tính hay ích kỉ, keo kiệt, giữ của cho riêng mình cho riêng mình. Họ có gì họ cho nấy. Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi lên vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình: đó là sức sống mạnh mẽ, bền bỉ. Tuy gian nan và cực nhọc, họ vẫn ngập tràn khí phách, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh bạt ngàn của sông núi. Tuy mộc mạc và giản dị nhưng lại giàu có về ý chí, tâm hồn. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối không bao giờ cạn, niềm tin yêu cuộc sống, con người.

“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”

Một lần nữa, “người đồng mình” được lặp lại với biết bao trìu mến. Người đồng mình “tuy thô sơ da thịt” nhưng “chẳng mấy ai nhỏ bé”. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, “người đồng mình” cũng luôn đề cao danh dự, nhân phẩm và biết gìn giữ, bảo vệ lấy như chính sinh mệnh của mình. Họ không vì đời sống vật chất mà đánh đổi lương tâm, phản bội núi rừng, phản bội quê hương. Từng hoạt động sống khắc ghi vào đá núi, khắc ghi vào sông suối, khắc ghi vào trí nhớ mỗi con người và biến thành phong tục, cách sống, cách ứng xử của cả cộng đồng:

“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.

Niềm tự hào về sức mạnh sinh tồn và vẻ đẹp văn hóa “người đồng mình” khiến cho lời thơ càng thêm tha thiết. Tuy đó chưa hẳn là những giá trị lớn lao khi so sánh với những giá trị tương đồng nhưng sẽ là lớn nhất, quý nhất đối với “người đồng mình”. Họ tự hào và kiêu hãnh khi đã dựng nên quê hương trên núi đá, sinh tồn ngay giữa vùng đất dữ dội và chinh phục thế giới xung quanh bằng chính sức mạnh của văn hóa cộng đồng.

Họ hiểu rõ, nếu không gìn giữ và phát huy sức mạnh ấy, một ngày nào đó, quê hương của họ sẽ sớm tàn lụi, mọi công sức của cha ông đều tiêu tan trước sức mạnh của tự nhiên vĩ đại. Họ cũng hiểu rõ, ở ngoài kia luôn có những điều tốt đẹp hơn nhưng họ mong muốn mọi thế hệ mai sau không vì sự hẹp hòi, ích kỉ của bản thân mà thay đổi mình:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”.

Cách diễn đạt của tác giả kèm với biện pháp nghệ thuật đã góp phần khiến bài văn trở nên sinh động và giàu tính nhạc hơn. Việc điệp cấu trúc đã tạo nên nét riêng cho bài thơ giúp độc giả có những ấn tượng sâu sắc hơn mà ít bài thơ khác có thể đi sâu vào lòng người đến vậy.

Y Phương dùng cả hai biện pháp trên chủ yếu để nhấn mạnh, nhắc nhở, “khắc cốt ghi tâm” người con rằng tuy có vất vả, gian lao thế nào thì cũng không chê bai, trách móc mà hãy hòa mình vào nó. Có gì ăn nấy, sống thanh thản thoải mái, không chạy đua với cuộc sống thành thị, đua đòi. Nhà thơ đã một phần thay lời cha dặn con phải chịu khó, chung thủy với đất rừng, quê hương, tổ tiên mà mỗi ai cũng cần phải giữ lấy nhưng ít ai làm được.

Lời thơ tha thiết, thủ thỉ, tâm tình, dặn dò. Lời cha gửi gắm đến con về bổn phận phải biết tự hào, yêu thương, tôn trọng và gìn giữ truyền thống quê hương cũng là lời nhắc nhở chúng ta phải sống có trách nhiệm với quê hương, đất nước.

Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người. Qua vẻ đẹp đời sống và phẩm chất của “người đồng mình” cùng tình cảm thiết tha của nhà thơ Y Phương, đoạn thơ 2 bài thơ “Nói với con” đã giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một người miền núi. Đồng thời gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, quê hương mà bấy lâu nay ta đã chôn vùi.

SCR.VN tặng bạn 💧 Cảm Nhận Và Suy Nghĩ Của Em Về Tình Cảm Cha Con Trong Bài Nói Với Con 💧 Văn Mẫu Đặc Sắc.

Phân Tích Bài Nói Với Con Khổ 2 Đơn Giản – Mẫu 9

Đón đọc văn mẫu phân tích bài Nói với con khổ 2 đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và luận điểm cơ bản nhất.

Từ xưa đến nay, tình cảm gia đình vẫn luôn là tình cảm thiêng liêng và cao cả biết bao. Nó như dòng sữa ấm áp nuôi nấng ta khôn lớn trưởng thành. Nếu như Chế Lan Viên đã mượn những khúc hát ru thắm đượm tình người để thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng cao quý trong bài thơ “Con cò” thì Y Phương – một nhà thơ dân tộc miền núi, lại tha thiết “Nói với con” về tình cảm cha con thắm thiết, hay rộng hơn cả đó chính là tình cảm đối với quê hương dân tộc, với bản làng. Đặc biệt được thể hiện tiêu biểu qua đoạn thơ thứ hai:

“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được nghe con
Nghe con.”

Cảm nhận được tình nghĩa sâu nặng của gia đình và quê hương là chiếc nôi, là cội nguồn sinh trưởng của mỗi con người, người cha “nói với con” về những đức tính cao đẹp của người đồng mình, cha mong con hãy luôn biết tự hào vè bản làng quê hương, về những người dân tộc Tày trọng tình, trọng nghĩa. “Người đồng mình” (người quê mình) giàu tình cảm, nhẫn nhục chịu đựng những khó khăn gian khổ nhưng tâm hồn luôn phóng khoáng ấp ủ ước mơ.

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”

Lời của người cha “nói với con” là lời trao gửi tâm tình bằng tất cả tấm lòng và tình cảm của người cha. Giọng thơ nhẹ nhàng tha thiết, cách gọi thân mật “người đồng mình” thể hiện sự gắn bó thiêng liêng giữa mỗi con người với quê hương. Lời thơ gợi cảm, tự nhiên “thương lắm con ơi”, người cha ca ngợi và mong con biết trân trọng, giữ gìn những đức tính tốt đẹp, những phẩm chất cao quý của dân tộc mình.

Kết cấu câu thơ sóng đôi, cân đối, cách nói giản dị, mộc mạc “cao đo nỗi buồn”, là nỗi buồn của người dân tộc quanh năm giữa mây ngàn đá núi thường xuyên phải rời xa bản làng, bước chân của họ ngày càng trải dài trên đỉnh non cao. Qua đó ta thấy rằng người đồng mình sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ. Họ nhẫn nhục chịu đựng nỗi buồn dai dẳng của mảnh đất quê hương.

“Xa nuôi chí lớn”, người cha muốn nói với con dân tộc mình ai cũng có một ý chí, nghị lực ai cũng muốn bay cao bay xa trong tương lai. Lời thơ ngắn gọn, khẳng định niềm tự hào về phẩm chất, truyền thống của dân tộc. Với niềm tự hào về ý chí, nghị lực và truyền thống tốt đẹp của “người đồng mình”, cha mong con luôn sống nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương:

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói”

Điệp từ “sống” và điệp ngữ “không chê” thể hiện sự gắn bó nghĩa tình, chung thuỷ, sẵn sàng chấp nhận sẻ chia. Không gian gợi tả trên đá, trong thung nói lên những khó khăn vất vả của quê hương. Từ láy gợi hình “gập ghềnh” gợi nên cuộc sống bấp bênh không ổn định. Từ đó người cha mong con sống nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương dẫu quê hương còn nhiều khó khăn vất vả. Đồng thời người cha khuyên con phải có ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống:

“Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”

Hình ảnh so sánh cụ thể “sống như sông như suối”. Người cha khuyên con hãy sống cuộc đời rộng lớn, tự do, khoáng đạt, không thụ động chấp nhận thực tại mà luôn hướng tới tương lai không bao giờ cam chịu cuộc sống nhỏ bé tầm thường. Cách nói ẩn dụ “lên thác xuống ghềnh” kết hợp lời nói mộc mạc thường ngày “không lo cực nhọc”, cha khuyên con hãy sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách của cuộc đời, không được chùn bước, nản chí.

Bởi cuộc đời không bao giờ yên ả như một mặt nước hồ thu nên con hãy ngẩng cao đầu dũng cảm vượt qua chông gai, thử thách của cuộc đời. “Người đồng mình không chỉ giàu ý chí nghị lực mà còn giàu về đời sống tinh thần, tâm hồn phóng khoáng để xây dựng nên quê hương với những phẩm chất tốt đẹp:

Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.”

Âm điệu thơ nhẹ nhàng, tha thiết như một lời tâm tình. Hai câu thơ đối nhau:

Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”

Hình ảnh cụ thể “thô sơ da thịt” cho ta thấy sự giản dị, mộc mạc của người đồng mình. Giọng thơ khẳng định “chẳng mấy ai nhỏ bé” thể hiện niềm tự hào về lẽ sống cao đẹp và tâm hồn phong phú của dân tộc. “Người đồng mình” không ai chịu tự bó mình trong cuộc đời nhỏ nhoi, tầm thường mà ngược lại ai cũng có ước mơ, hoài bão sống cuộc đời rộng lớn, ai cũng có khát vọng vươn lên. Cơ sở của sự khẳng định trên chính là truyền thống tốt đẹp của “người đồng mình”:

“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”

Cách nói bằng hình ảnh mộc mạc, cụ thể “tự đục đá” mà ý thơ sâu sắc, người dân tộc bao đời nay chắt chiu, gầy dựng từng mầm sống nhỏ nhoi quê nghèo nhưng tình người lại giàu có vô cùng. “Người đồng mình” cần cù, chịu thương chịu khó luôn sống gắn bó với quê hương, luôn có ý thức đóng góp xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, ngày càng phát triển.

“Còn quê hương thì làm phong tục” đã khẳng định rằng quê hương càng phát triển thì đem đến cho con người sự thay đổi lớn lao về đời sống vật chất và tinh thần. Với lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương, người cha còn gửi đến con những lời nhắn nhủ tâm tình:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”

Nhịp thơ chậm rãi tha thiết, điệp ngữ “thô sơ da thịt” được lặp lại một lần nữa nhưng khẳng định thêm về phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”. Lời thơ chắc gọn như một mệnh lệnh “lên đường” vừa thể hiện mong ước tha thiết của người cha đối với con: khi bắt đầu bước vào hành trình của cuộc đời mình con hãy sống đúng với phẩm chất của “người đồng mình”. Bởi vì “người đồng mình” có thể cực khổ, lam lũ nhưng luôn mạnh mẽ với chí lớn.

Có thể “thô sơ”, mộc mạc với áo chàm nhưng không nhỏ bé về khí phách cho nên con không bao giờ được bằng lòng với cuộc sống bó hẹp, tầm thường phải biết trân trọng giữ gìn và phát huy truyền thống của quê hương, ngẩng cao đầu vượt qua chông gai, thử thách để tự tin khi bước vào đời.

Kết thúc bài thơ chỉ có hai tiếng “nghe con”. Câu thơ chắc gọn như một mệnh lệnh: đừng chối bỏ cội nguồn dân tộc, hãy khắc sâu tình cảm quê hương vào trong trái tim mình, luôn tôn trọng và phát triển truyền thống dân tộc. Đó là tấm lòng của cha dành cho con hay nói đúng hơn là quê hương của mỗi chúng ta.

Tóm lại, âm điệu thơ tha thiết, ngôn ngữ thơ mộc mạc, hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa khái quát, đậm chất trữ tình. Đoạn thơ thể hiện niềm tin tưởng, hy vọng của người cha đối với bước đường tương lai của con. Đồng thời giúp ta cảm nhận được điều tốt đẹp, được tình cảm gắn bó thuỷ chung của dân tộc miền núi. Từ đó gợi trong mỗi chúng ta tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương xứ sở và ý chí vươn lên để tiến bộ, sống làm chủ cuộc đời, làm chủ bản thân.

Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Nghị Luận Về Bài Thơ Sang Thu 🍀 15 Bài Văn Ngắn Hay

Phân Tích Khổ 2 Bài Thơ Nói Với Con Facebook – Mẫu 10

Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích khổ 2 bài thơ Nói với con facebook giúp các em học sinh có thêm gợi ý làm bài phong phú.

“Nói với con” là bài thơ tiêu biểu nhất của Y Phương. Qua khổ thơ 2, mượn lời nhắc nhở con về cội nguồn sinh thành, người cha khéo léo ca ngợi những vẻ đẹp trong phẩm chất cao quý của “người đồng mình”, ngợi ca bản sắc văn hóa của quê hương xứ sở. Những phẩm chất ấy không có gì lớn lao nhưng hết sức đáng tự hào và gìn giữ, là hành trang mà con cần phải mang theo khi bước vào cuộc đời lớn.

Phẩm chất cao quý của “người đồng mình” cứ hiện dần qua lời tâm tình của người cha. Đó là một cuộc sống tràn đầy niềm vui và lòng lạc quan:

“Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”.

Cách đảo ngữ đầy thú vị khiến cho ý thơ cao vời, thanh thoát. Người miền núi lấy núi, lấy suối, lấy sông làm đơn vị đo. Tập quán ấy đi vào lời thơ Y phương trở nên hết sức ấn tượng. Người đồng mình cũng lắm suy tư (nỗi buồn). Người đồng mình tuy nghèo khó nhưng lúc nào cũng biết “nuôi chí lớn”. Họ mạnh mẽ, kiêu hãnh sinh tồn giữa đại tự nhiên đầy khắc nghiệt và bí ẩn. Chưa bao giờ họ bị khuất phục. Đó chính là phẩm chất đáng tự hào mà Y Phương muốn nói đến.

Đó còn là tấm lòng thuỷ chung của “người đồng mình” với nơi chôn rau cắt rốn:

“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói”

Bằng những điệp từ, điệp ngữ, cách so sánh cụ thể, kết hợp với kiểu câu ngắn dài khác nhau, lời tâm tình của người cha đã góp phần khẳng định người miền núi tuy cuộc sống hôm nay còn vất vả, khó nhọc, “lên thác xuống ghềnh” nhưng họ vẫn sống mạnh mẽ, khoáng đạt “như sông như suối”, bền bỉ, gắn bó và tha thiết với quê hương. Từ đó người cha mong muốn con phải có nghĩa tình chung thuỷ với quê hương. Biết chấp nhận và vượt qua những khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin của mình.

“Người đồng mình” mộc mạc, dung di, giàu ý chí và niềm tin. Họ tuy “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn và ý chí. Họ biết lo toan và mong ước. Họ biết tự lực, tự cường xây dựng quê hương, duy trì truyền thống với những tập quán tốt đẹp của “người đồng mình”:

Người đồng mình đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”

Câu thơ có 2 lớp nghĩa. Về nghĩa tả thực: Đục đá kê cao quê hương là hành động có thật thường thấy ở miền núi. “Quê hương” vốn là khái niệm trừu tượng, chỉ nơi chốn sinh thành của một người nào đó. Họ thường xây dựng nhà cửa trên những miền đất cao đầy sỏi đá để có cơ ngơi vững chắc, chống chọi lại với thiên nhiên khắc nghiệt. Từ ngàn năm xưa họ sống với đá, sống trên đá. Đá núi trở thành một phần quen thuộc trong cuộc sống của họ, biểu trưng cho ý chí kiên cường, rắn rỏi, không bao giờ bị khuất phục.

Nghĩa ẩn dụ: Nói đục đá kê cao quê hương. Hình ảnh thơ khái quát về tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn cội nguồn. Tình yêu và niềm tự hào của con và tất cả “người đồng mình” cũng vững bền như đá núi vậy. Đó là một niềm tin vĩnh cửu, không gì thay đổi được. người cha muốn ca nằm lòng điều đó dẫu cuộc sống sau này có thay đổi như thế nào.

Kết thúc bài thơ là lời nhắn nhủ, dặn dò và hi vọng của người cha mong muốn con mình phải tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương mình. Hãy lấy những tình cảm đó làm hành trang để vững bước trên đường đời rộng lớn”

“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”.

Hình ảnh người đồng mình “thô sơ da thịt” lặp lại hai lần như muốn con ghi nhớ sâu sắc về hình ảnh con người và quê hương mình. “Người đồng mình” tuy mộc mạc, chân chất nhưng có lẽ sống cao đẹp. Trên đường đời con phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng với “người đồng mình” đã từng sống, từng yêu như thế.

Con là đại diện của người đồng mình, con mang theo những phẩm chất của người đồng mình thế nên “bao giờ nhỏ bé được”, dù con đường phía trước còn đầy chông gai. Con hãy tự tin bước đi, bởi sau lưng con có gia đình, có quê hương, bởi trong tim con sẵn ẩn chứa những phẩm tốt đẹp và quý báu của “người đồng mình” rồi.

Hai tiếng “nghe con” chứa đựng tấm lòng yêu thương và niềm tin sâu nặng cha đặt nơi con. Hai tiếng ấy khép lại bài thơ để lại một dư âm nhẹ nhàng mà âm vang xao xuyến.

Với thể thơ tự do, mạch cảm xúc tự nhiên, cách nói giàu hình ảnh vừa mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ, cụ thể mà giàu sức khái quát, bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ, những phẩm chất cao quý của “người đồng mình”, của quê hương nguồn cội. Khổ thơ 2 của bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

Gợi ý cho bạn ☔ Phân Tích Bài Thơ Sang Thu Của Hữu Thỉnh ☔ 15 Bài Hay

Phân Tích Khổ 1 2 Nói Với Con – Mẫu 11

Bài văn mẫu phân tích khổ 1 2 Nói với con dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết cho các em học sinh trong quá trình làm bài.

Bài thơ Nói với con ra đời cuối những năm bảy mươi của thế kỉ XX, khi cả đất nước đứng trước hiện thực khó khăn sau chiến tranh. Với hai mươi tám câu thơ tự do, bài thơ có thể chia làm hai phần. Mười một câu thơ đầu là tình cảm gia đình, quê hương đầm ấm, tươi vui. Mười bảy câu còn lại là truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người đồng mình và mong muốn của người cha.

Gia đình, quê hương là cái nôi đầu đời của mỗi con người. Tình cảm gia đình, quê hương là sợi dây vô hình níu giữ bước chân của những con người xa quê với cội nguồn. Với giọng điệu tâm tình nhỏ nhẹ, Y Phương cho ta cảm nhận niềm hạnh phúc gia đình bình dị mà ai trong chúng ta cũng từng được trải qua:

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười

Đó là những bước đi chập chững đầu tiên, gia đình tràn ngập trong “tiếng nói, tiếng cười” yên vui. Khi con lớn lên, cha mẹ vẫn luôn theo dõi bước chân của con trên mọi nẻo đường đời. Cha mẹ là điểm tựa vững chắc nâng đỡ từng bước con đi, không gì hạnh phúc bằng con có cha mẹ.

Bảy câu thơ tiếp: Con còn lớn lên trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. “Người đồng mình” là người vùng mình, người quê hương. Đây là cách nói giản dị, thân thuộc, mộc mạc của người miền núi.

Đan lờ cài nan hoa
Cách nhà ken câu hát

“Đan lờ” để bắt cá, “ken” vách nhà làm chỗ che nắng, che mưa, những công việc lao động hàng ngày qua cách liên tưởng của tác giả trở nên thi vị, lãng mạn, đầy chất thơ. Động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả những động tác, cử chỉ cụ thể, vừa nối liền cuộc sống vật chất và tinh thần. Lao động, xây dựng cuộc sống no ấm, từ đó mà nảy sinh thơ ca, nhạc họa, nảy sinh đời sống tinh thần phong phú (hoa, câu hát).

Hoa biểu tượng cho cái đẹp. “Rừng cho hoa” để tâm hồn người đồng mình thêm phong phú, biết yêu thương, trân trọng những giá trị tinh thần. “Con đường cho những tấm lòng” thơm thảo, biết sẻ chia, biết đồng cảm nỗi buồn vui. Thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình đã nuôi dưỡng, chở che con người, nếu con người biết gắn bó với quê hương, quê hương sẽ cho tất cả những gì tốt đẹp nhất cả giá trị vật chất lẫn tinh thần. “Người không phụ đất thì đất chẳng phụ người”.

Ở khổ thơ thứ nhất Y Phương đã vận dụng lối diễn đạt của người dân tộc, thiên về cách nói cụ thể, vừa sinh động, khái quát mà vẫn không kém phần thi vị về vẻ đẹp cuộc sống lao động của người miền núi.

17 câu còn lại trong khổ thơ thứ 2 đã khắc hoạ những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong muốn của người cha qua lời tâm sự với con. Mỗi lần người cha tâm sự với con về “người đồng mình” thì một lần phẩm chất cao đẹp của người đồng mình lại hiện ra.

Người đồng mình … cực nhọc

“Người đồng mình” cuộc sống vất vả “lên thác xuống ghềnh” nhưng giàu chí khí, biết lấy “nỗi buồn” mà “nuôi chí lớn”, lấy cái cao xa của đất trời làm thước đo “nỗi buồn” và “chí lớn” ấy. Người cha muốn con ghi nhớ lấy những truyền thống ấy để mà thương mà nhớ:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn…nghèo đói”.

Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, là mảnh đất thiêng liêng, càng nghèo khó, càng phải gắn bó sẻ chia. Bởi vậy, mà quê hương đi vào văn học với một niềm thương nỗi nhớ của bao thế hệ. Họ tự hào hát về quê hương. Người dân xứ Nghệ hát về quê mình:

“Ơi Hà Tĩnh mình, đường về có nhớ
Trời chang chang nắng ai quàng áo tơi
Cho ta thương nhau mồ hôi chát mặn
Cho ta thương nhau vầng trăng không lẻ bạn
Đứt ruột nhớ mong…”

Người Quảng Bình tự hào:

“Giữ lấy đất trời của quê hương ta
Giữ lấy con người mà ta yêu quý…”

Quê hương dù nghèo đói, khổ đau… nhưng bát cơm, dòng nước quê hương vẫn chảy trong ta, nơi đó ấp iu bao nghĩa tình. Nhạc sĩ khẳng định:

Sông cứ chảy trong ta, núi cứ lớn trong ta
Đi xa lại muốn về, khổ đau càng muốn về”

Bởi như nhà thơ Đỗ Trung Quân từng nói:

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nỗi thành người”.

“Người đồng mình thô sơ da thịt” nhưng không nhỏ bé về tâm hồn. Như đã nói ở trên, họ giàu chí khí, tâm hồn phong phú, biết đồng cảm, sẻ chia.

Người đồng mình… phong tục.

“Đục đá”, một cách nói cụ thể diễn đạt công việc lao động vất vả theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Dẫu phải “đục đá”, họ vẫn muốn lao động xây dựng quê hương giàu đẹp, “kê cao quê hương”. Một tình yêu chân chính, sâu sắc phải được biểu hiện bằng hành động cụ thể.

Yêu quê hương mà quê hương vẫn còn nghèo khó thì phải lao động để xây dựng quê hương. Còn “quê hương thì làm phong tục”, “phong tục” là lối sống, nếp sống sinh hoạt đẹp đẽ của quê hương. Lối sống đó sẽ theo con đi bốn phương trời, nhớ về quê hương là nhớ những phong tục đẹp đẽ ấy.

Từ những truyền thống đẹp đẽ của quê hương, từ những phẩm chất của người đồng mình, người cha mong muốn:

Con ơi, tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.

Lần thứ nhất người cha nói đến “Người đồng mình thô sơ da thịt” để nói cho con về sức sống mạnh mẽ của quê hương, sức mạnh truyền thống của quê hương; lần thứ hai, người cha nhắc lại như để con khắc cốt ghi xương rằng: quê hương mình tuy mộc mạc, chân chất, người đồng mình tuy thô sơ da thịt nhưng sống cao đẹp, nên trên đường đời con phải làm những điều lớn lao, con phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng là “người đồng mình”.

“Lên đường” đi xa con phải biết tự hào về quê hương và tự tin để bước vào đời. Truyền thống của quê hương, niềm tự hào về quê hương trở thành hành trang con mang theo trên mọi nẻo đường. Người cha đã truyền cho con mình vẻ đẹp, sức mạnh của truyền thống quê hương.

Trách nhiệm của người con là phải biết tự hào, phát huy những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, đồng thời gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của quê hương, cố gắng học tập thật tốt để góp phần xây dựng quê hương ngày một tốt đẹp.

Tiếp theo đón đọc 💕 Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Của Viễn Phương 💕 18 Bài Đặc Sắc Nhất

Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Nói Với Con – Mẫu 12

Khi viết phân tích 2 khổ thơ đầu bài Nói với con, các em học sinh cần nắm được giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Tham khảo văn mẫu phân tích 2 khổ đầu Nói với con dưới đây:

Không mềm mại và dịu dàng như tình mẫu tử, tình cảm của người cha dành cho con cái luôn có sự vững chãi, bền bỉ và trường tồn. Với nhà thơ Y Phương, tình phụ tử thiêng liêng ấy nhiều hơn một lời “cha yêu con”, cao hơn cả núi Thái Sơn ngàn năm lừng lững, đó là ước mơ mong con lớn lên mạnh mẽ, vững bước trên đường đời gian nan.

Qua bài thơ Nói với con, tác giả đã gửi gắm những xúc cảm vừa nguyên sơ, bình dị lại vừa chan chứa, sâu nặng của người cha với đứa con thơ bé, đồng thời thể hiện sự mong mỏi và kì vọng của đấng sinh thành đối với mầm non tương lai của đất nước.

Bài thơ được viết theo thể thơ tự do giống như lời thủ thỉ, tâm tình. Xuất thân là người dân tộc Tày, câu thơ của Y Phương không chau chuốt, hoa mĩ mà vô cùng chân chất, mộc mạc nhưng không kém phần sâu lắng, cảm động. Từ tình cảm cha con thuần túy, tác giả mở rộng tới tình cảm gia đình và tình yêu dân tộc, yêu tổ quốc.

Bởi lẽ, có yêu gia đình, yêu cha mẹ thì mới có nền tảng cho những tình cảm mang tính thời đại, và vì yêu tổ quốc, yêu đồng bào nên người con hãy nhớ lấy công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ, đồng thời bộc lộ sự tự hào với dòng máu dân tộc quật cường, bất khuất trung kiên.

Mở đầu bài thơ bằng những vần điệu ngây ngô:

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”

Người con may mắn được sinh ra trong một gia đình đầy đủ, có cha, có mẹ, có tiếng nói, tiếng cười hạnh phúc của tuổi thơ. Từng bước đi chập chững đầu đời của con đều được dìu dắt bởi cha mẹ “chân phải bước tới cha”, “chân trái bước tới mẹ”, cha mẹ là người nâng bước con đi trên đường đời.

Ở cạnh con những ngày con thơ bé, mang đến cho con niềm vui tuổi thơ trọn vẹn, tình máu mủ ruột thịt vĩ đại và đặc biệt là công ơn sinh thành của cha mẹ dành cho con. Với nền tảng vững chắc và hạnh phúc như vậy, người cha thủ thỉ với con về cuộc sống thường nhật, về con người quê hương xứ sở:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”.

Ở đây, người đọc tưởng tượng giọng thơ giống như lời kể chuyện cổ tích của người cha cho con trước giờ đi ngủ, trầm ấm và say mê. Những hình ảnh đặc trưng của người dân tộc Tày sinh sống tại miền núi như “lờ”, “nan hoa”, “vách nhà” được Y Phương lồng ghép duyên dáng và khéo léo. Một bức tranh đa sắc màu kể về cuộc sống lao động tươi đẹp của những người dân thật thà, chất phác.

Người đồng mình hăng say lao động, lờ – một dụng cụ để bắt cá được đan tết chắc chắn, tinh xảo “cài nan hoa”, nhà tranh vách đất đơn sơ, mộc mạc được lấp đầy bằng những câu hát phóng khoáng của người dân miền núi. Đồng bào dân tộc yêu lao động, làm việc nhưng không quên điểm xuyết cho cuộc sống những sắc màu nghệ thuật tài hoa.

Tác giả thể hiện sự yêu quý đối với đồng bào bằng câu nói tình cảm “người đồng mình thương lắm con ơi”, “con đường cho những tấm lòng”,tiếng lòng dành cho những người anh em ruột rà, yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Những tấm lòng thơm thảo như hoa, đùm bọc, che chở lẫn nhau của những người cùng chung dòng máu đỏ da vàng.

Trên cái nền cuộc sống chan chứa tiếng cười và niềm vui ấy chính là nơi cha mẹ đã nên duyên vợ chồng, “ngày đẹp nhất trên đời” khi được cùng nhau về chung một mái nhà, cùng làm việc, cùng sinh ra con và dạy dỗ con nên người.

Trong những lời đầu tiên cha dạy con không chỉ nhắc con ghi nhớ về núi rừng nguồn cội mà còn có tình yêu thương với con người. Nhắc đến người đồng mình, người cha mang một niềm tự hào vì những đức tính tốt đẹp, quý báu truyền thống của dân tộc:

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”.

“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì là phong tục”

Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với những cuộc chiến tranh giữ gìn độc lập và chủ quyền dân tộc, có lẽ vì vậy, người dân đều lớn lên với ý chí quật cường, đứng lên từ thất bại, từ máu lửa đạn bom. “Cao đo nỗi buồn”, “xa nuôi chí lớn” chính là để nhắc về những nỗi đau, nỗi mất mát gia đình, người thân, từ đó trở thành động lực phấn đấu không ngừng, rèn luyện ý chí kiên cường, vững chắc.

Tuy chỉ là một đất nước nhỏ bé, con người nhỏ bé về tâm vóc, không được trang bị đầy đủ, rèn luyện trong môi trường chuyên nghiệp như các cường quốc, nhưng trí lực thì không hề nhỏ bé. Những dẫn chứng lịch sử oai hùng từ thời vua Hùng, vua Lê cho đến chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, ngày giải phóng Đất nước, Bắc Nam về cùng một mối năm 1975 gây rúng động toàn nhân loại, chẳng có ai dám nói người Việt Nam nhỏ bé và yếu đuối.

Vượt lên những khó khăn cả về điều kiện tự nhiên, “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”, cải tạo đất đai, cải tạo thiên nhiên để làm giàu cho đất nước. Sau bao nhiêu năm bị đô hộ và trải qua thời kì hội nhập, dân tộc Việt Nam vẫn trường tồn, giữ lại những nét đẹp phong tục truyền thống, đồng thời phát triển cả về kinh tế và văn hóa.

Đoạn thơ giàu cảm xúc với âm hưởng bi tráng, khẳng định tinh thần nghĩa khí bất khuất của dân tộc ta, dẫu có đạn bom loạn lạc, dẫu có phải trải qua âm mưu đồng hóa và đô hộ của giặc ngoại xâm vẫn không nao núng, giữ vững tinh thần dân tộc và từng bước phát triển đất nước.

Nối tiếp truyền thống dân tộc, người cha mong con mình lớn lên, nhìn vào những tấm gương các thế hệ đàn anh đi trước để luyện rèn bản thân:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”

Người cha muốn con hãy lớn lên quật cường, nối tiếp truyền thống quý giá được xây dựng ngàn năm của nhân dân, sống ngay thẳng, có ý chí vươn lên và luôn biết trân trọng những gì mình đang có. “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh”, “Sống trong thung không chê thung nghèo đói”, đất nước Việt Nam tự do độc lập là thành quả của biết bao mồ hôi nước mắt cha ông đã hi sinh, vì vậy, nhiệm vụ của con là dựng xây, kiến thiết đất nước, đưa Tổ quốc sánh vai với các nước bạn trong khu vực và trên toàn thế giới.

Sống trong sạch “như sông như suối”, không quản ngại “lên thác xuống ghềnh”, “không lo cực nhọc”, tích lũy hành trang vững chắc để bước vào đời. Ở đây, người đọc dễ dàng cảm nhận được tình cảm của người cha dành cho đứa con bé nhỏ, không phải những lời an ủi ngợi ca êm ái, lời dặn của cha mang tầm vóc lớn lao với cái nhìn xa rộng, mong muốn con nên người và hoàn thiện bản thân. Và cuối cùng, những lời căn dặn của người cha càng trở nên ý nghĩa, sâu sắc:

Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.

Người đọc có chút băn khoăn rằng không biết người cha đang thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ của mình, hay người con đã lớn và chuẩn bị đi xa, người cha muốn gửi gắm những lời căn dặn về lẽ sống với con. Lời nói có âm sắc vừa quyến luyến, vừa rắn rỏi, vừa dặn dò con cũng là vừa răn dạy. “Không bao giờ nhỏ bé”, cha mong con không bao giờ từ bỏ giấc mơ, không nản chí khi gặp khó khăn và không sa ngã vào con đường lầm lối.

Quả thực, người cha đặt vào con rất nhiều niềm tin và mong con thành công vang dội. Điều vĩ đại nhất người cha muốn con thực hiện chính là sống sao cho thanh khiết, liêm chính, sống cho xứng đáng với sự hi sinh của cha ông, sống đúng với đạo làm người của dân tộc.

Thể thơ tự do bay bổng và linh động, lời thơ chứa chan cảm xúc yêu thương và tự hào, đây giống như lời của chính nhà thơ muốn gửi tới con mình, mong con có một cuộc sống tốt đẹp và xứng đáng với những gì cha mẹ đã cho. Câu từ gần gũi, những hình ảnh miêu tả đặc trưng nếp sống sinh hoạt của người miền núi phía Bắc cũng thể hiện tinh thần tự hào của tác giả đối với đồng bào mình. Người cha gửi tới con những lời dạy vừa nhẹ nhàng, tha thiết mà vừa mang sức nặng tầm vóc lớn lao của cả một dân tộc.

Tình cha con thắm đượm xúc cảm được thể hiện qua cách dặn dò, dạy bảo của người cha với con, Y Phương rất xuất sắc trong việc khắc họa chân dung người nông dân Việt Nam với những đức tính tốt đẹp, ý chí cao cả, kiên trung, qua đó truyền tải tới người đọc những chiêm nghiệm về cuộc sống, con người cũng như mong muốn thế hệ trẻ lớn lên tiếp thu được những tinh hoa dân tộc, lấy đó làm cơ sở phát triển và đưa đất nước lên một tầm cao, một vị trí mới.

SCR.VN chia sẻ 🌼 Phân Tích Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ 🌼 5 Bài Văn Hay Nhất

Viết một bình luận