Liên Hệ Việt Bắc Của Tố Hữu ❤️ 21+ Bài Văn Ngắn Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Văn Mẫu Liên Hệ Bài Thơ Việt Bắc Đặc Sắc Nhất Bạn Nên Biết.
Vài Nét Về Bài Thơ Việt Bắc
Việt Bắc là khúc ca hùng tráng và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trong niềm tự hào dân tộc… Sau đây là vài nét về bài thơ này để bạn có thêm tư liệu viết bài liên hệ Việt Bắc:
I. Tác giả:
- Tố Hữu (1920-2000), quê quán ở Huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế
- Quá trình hoạt động văn học, kháng chiến:
- Sinh trưởng trong gia đình nho học ở Huế và yêu văn chương
- Tố Hữu sớm giác ngộ cách mạng và hăng say hoạt động cách mạng và hăng say hoạt động, kiên cường đấu tranh trong các nhà tù thực dân
- Tố Hữu đảm nhiệm nhiều cương vị trọng yếu trên mặt trận văn hóa và trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
- Đường thơ, đường cách mạng: con đường thơ và con đường hoạt động cách mạng của ông có sự thống nhất, không thể tách rời. Mỗi tập thơ của ông là một chặng đường cách mạng.
- Phong cách nghệ thuật:
- Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình – chính trị
- Thơ Tố Hữu thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
- Thơ Tố Hữu có giọng tâm tình, ngọt ngào
- Thơ Tố Hữu mang tính dân tộc đậm đà
- ⇒ Thơ Tố Hữu là tấm gương phản chiếu tâm hồn một người chiến sĩ cách mạng suốt đời phấn đấu, hi sinh vì tương lai tươi đẹp của dân tộc, cuộc sống hạnh phúc của con người.
- Tác phẩm chính:
- Tập thơ “Từ ấy” (1937-1946)
- Tập thơ “Việt Bắc” (1946-1954)
- Tập thơ “Gió lộng” (1955-1961)
- Tập thơ “Ra trận” và tập “Máu và hoa”
- Các tập thơ còn lại: thể hiện những chiêm nghiệm về cuộc đời của tác giả
II. Tác phẩm Việt Bắc:
a, Hoàn cảnh sáng tác
- Chiến thắng Điện Biên Phủ thắng lợi. Tháng 7-1954, Hiệp định Giơ – ne – vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, một trang sử mới mở ra cho toàn dân tộc
- Tháng 10-1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng, Chính phủ rời chiến khu Việt bắc về lại thủ đô. Nhân sự kiện có tính lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ.
b, Bố cục
- Phần 1 (20 câu đầu): Lời nhắn nhủ của người ở lại đối với người ra đi
- Phần 2 (còn lại): Lời của người ra đi với nỗi nhớ Việt Bắc
c, Phương thức biểu đạt: Biểu cảm
d, Thể thơ: Lục bát
e, Giá trị nội dung
- Việt Bắc là khúc ca hùng tráng và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trong niềm tự hào dân tộc…
- Việt Bắc là khúc hát ân tình chung của những người cách mạng, những người kháng chiến, của cả dân tộc qua tiếng lòng của nhà thơ. Bên cạnh đó, bài thơ còn cất lên âm hưởng anh hùng ca vang dội, đưa ta về với một thời kì lịch sử hào hùng, trọng đại của đất nước.
f, Giá trị nghệ thuật
- Sử dụng sáng tạo hai đại từ “mình, ta” với lối đối đáp giao duyên trong dân ca, để diễn đạt tình cảm cách mạng
- Bài thơ Việt Bắc thể hiện tính dân tộc đậm đà:
- Sử dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống.
- Ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, gần gũi, đậm sắc thái dân gian.
- Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật tài hoa như điệp từ, liệt kê, so sánh, ẩn dụ tượng trưng…
Gợi ý cho bạn 🌸 Nhận Định Về Tố Hữu 🌸 để viết bài liên hệ Việt Bắc thật ấn tượng!
7+ Mẫu Liên Hệ Bài Thơ Việt Bắc Hay Nhất
Bài viết này tuyển tập những bài văn mẫu liên hệ bài thơ Việt Bắc hay nhất, mời các bạn cùng theo dõi nhé!
Những Câu Thơ Liên Hệ Với Bài Việt Bắc Đặc Sắc
Các bạn học sinh đừng bỏ qua những câu thơ liên hệ với bài Việt Bắc sau đây vì nó sẽ giúp bạn làm bài đạt điểm cao hơn khi phân tích về bài thơ này!
Nói về sự quen thuộc của cách xưng hô “mình” – “ta”, có thể liên hệ đến ca dao:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ
“Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình”
Chữ trung thì để phần cha
Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình”
Khi phân tích lời đáp của người ra đi:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Chúng ta có thể liên hệ đến lời thơ của Lưu Quang Vũ:
“Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói mà bàn tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn để lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta”
(“Hơi ấm bàn tay” – Lưu Quang Vũ)
Phân tích câu thơ: “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng/ Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô” gợi cho chúng ta nhớ đến hình ảnh người mẹ trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm:
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng”
(“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” – Nguyễn Khoa Điềm)
Khi phân tích chữ “đổ” trong câu thơ: “Ve kêu rừng phách đổ vàng/ Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Chúng ta có thể so sánh với chữ “đổ” trong “Thơ duyên” của Xuân Diệu:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”
Khi nói đến phẩm chất anh hùng, bất chấp hy sinh, gian khổ, sát cánh bên bộ đội của người dân Việt gợi ta nhớ đến:
“Ôi đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
(“Đất nước” – Nguyễn Đình Thi)
Khi phân tích hình ảnh hiện thực “vành mũ” trong câu thơ: “Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan” ta có thể liên hệ đến hình ảnh:
“Vẫn đôi dép lội chiến trường
Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy”
(“Tiếng hát sang xuân” – Tố Hữu)
Ý thơ “Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan” gợi ta nhớ đến: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” (“Tây Tiến” – Quang Dũng)
Khi phân tích hình ảnh: “Những đường Việt Bắc của ta” để làm nổi bật niềm tự hào của nhân vật trữ tình vì cảm giác được làm chủ những vùng không gian rộng lớn của Tổ quốc ta có thể liên hệ cảm hứng quen thuộc ấy trong thơ ca cách mạng: “Mây trời của ta, trời thắm của ta/Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” (“Ta đi tới” – Tố Hữu) Hoặc:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”
(“Đất nước” – Nguyễn Đình Thi)
Nói đến sự tự hào về cuộc kháng chiến thần thánh của thời đại cách mạng, Quân đội nhân dân Việt Nam: “Quân đi điệp điệp trùng trùng/Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan” Ta có thể liên hệ đến niềm tự hào trước các tráng sĩ thời Trần mang tinh thần Sát Thát:
“Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông”
Liên Hệ Bức Tranh Tứ Bình Ấn Tượng
Nếu bạn đang gặp khó khăn về đề tài viết bài văn liên hệ bài thơ Việt Bắc thì hãy dành thời gian tham khảo mẫu dưới đây:
Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết ” Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve keo rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình”.
Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân – hạ – thu – đông.
Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ “ta” lặp lại bốn lần cùng với âm “a” là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người.
Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ.
Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người.Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” – gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
“ Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương”
Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.
Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn.
Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng.
Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – ” đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do ” Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta”. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. “trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ “nở” làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:
“ Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động ” chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ “đổ” là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.
Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây Phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình dọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
“Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về”
Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.
Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
Những mẫu 🌸 Dàn Ý Việt Bắc Của Tố Hữu 🌸 giúp bạn viết bài văn liên hệ Việt Bắc tốt hơn!
Liên Hệ Mở Rộng Bài Việt Bắc Nâng Cao
Cùng SCR.VN viết bài văn liên hệ mở rộng bài thơ Việt Bắc với mẫu nâng cao dưới đây!
Nhắc đến Tố Hữu là ta nhớ đến “Cánh chim đầu vào” của thơ ca cách mạng Việt Nam. Là nhà thơ được mệnh danh là hồn thơ của dân tộc, ông khẳng định văn chương của mình trên thi đàn Việt Nam với phong cách thơ trữ tình và chính trị. Là một nhà chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn nghệ, giống như nhà thơ Sóng Hồng đã từng viết: “Dùng ngòi bút làm đòn xoay chế độ, mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”. Hay Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Nói đến bài thơ Việt Bắc, tháng 7 năm 1954, khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, những người cán bộ từ Việt Bắc trở về miền xuôi để tiếp quản thủ đô Hà Nội. Nhân sự kiện có tính thời sự lịch sử này, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc. “Việt Bắc” không chỉ chinh phục người đọc ở một bản tình ca mà ở đó còn có một bản hùng ca về bức tranh ra quân bi tráng, hào hùng trong tác phẩm Việt Bắc.
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Những đường Việt Bắc là những đường anh bộ đội hành quân ra trận. Cụm từ “của ta” là khát khao được đứng lên, được làm chủ quê hương mình, đất nước mình. Tác giả liên tục sử dụng các từ láy như “đêm đêm” “rầm rập” kết hợp với phụ âm rung và thủ pháp nghệ thuật so sánh. Tác giả tái hiện lại âm hưởng hào hùng của cả một dân tộc hành quân ra trận. Câu thơ trên miêu tả về âm thanh thì câu thơ dưới lại mô tả phần nhiều về hình ảnh.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
“Điệp điệp”, “trùng trùng” vốn dĩ là những từ láy để mô tả núi hoặc sóng. Đó là vẻ đẹp của người dân Việt Nam hành quân ra trận, người người lớp lớp đông đảo như sóng cuộn điệp điệp trùng trùng. Đã từng bước vào trang văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, làn sóng ấy lại vô cùng sôi nổi, nó lướt qua mọi khó khăn thử thách, nó nhấn chìm cả bọn bán nước và bè lũ cướp nước”.
“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Nếu như ta hiểu theo nghĩa tường minh thì “Ánh sao” ở đây là ánh sao của bầu trời Việt Bắc phản chiếu vào nòng súng thép của anh bộ đội vào trận đánh quân thù. Thế nhưng, nếu ta hiểu theo nghĩa hàm ẩn, thì đây là lí tưởng cách mạng, là Đảng là Bác Hồ soi đường chỉ lối cho anh bộ đội vào trận đánh quân thù. “Bạn cùng mũ nan” đó là những chiếc mũ đồng bào dân tộc miền cao gửi tặng cho người lính để vượt qua bao nắng mưa dãi dầu.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghệ thuật đảo ngữ “đỏ đuốc”, là vẻ đẹp lực lượng hậu phương vững chắc của anh bộ đội, là những đoàn dân công quang gánh, xe thồ, ngày đêm tải đạn ra tiền tuyến. Và cũng chỉ có trong những bảo tàng lịch sử Việt Nam ta mới nhận thấy, có chiếc xe đạp mà có thể chở được 2 3 tạ đạn lên chiến trường.
Thơ ca của nhà thơ Tố Hữu rất đồng điệu với thơ ca của Bác Hồ, khi mà hướng bắt đầu luôn luôn là hiện tại đến tương lai, từ bóng tối đến ánh sáng. Và ở đó là nghệ thuật nói quá và phóng đại làm cho vẻ đẹp của những con người Việt Nam bước ta từ trang sử vẻ vang của dân tộc. Đó là vẻ đẹp của những con người đẹp từ gót chân đến mái tóc, đẹp từ như trong chân lí sinh ra.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Một bên là “thăm thẳm sương dày” một bên là “đèn pha bật sáng” , ngọn đèn pha ấy đánh tan đi lớp sương dày. Ngọn đèn xe ấy không chỉ đơn thuần là hình ảnh của những chiếc xe mà ta từng bắt gặp trong “Tiểu đội xe không kính”. Mà ở đây, ta có thể thấy rằng đó là những khó khăn thiếu thốn trong những ngày đầu kháng chiến.
Chúng ta chỉ có vũ khí là giáo mác thô sơ, nhưng quân ta càng đánh, lực lượng càng mạnh, thế tấn công dễ như chẻ tre. Chúng ta đã có những đoàn xe ra tiền tuyến. Chúng ta đã có những pháo binh ra mặt trận và ở đó là bình minh huy hoàng vẫy gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên kháng chiến.
Tám câu thơ trên là cảnh ra quân thì 4 câu thơ dưới là vẻ đẹp của khúc ca ăn mừng chiến thắng:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Điệp từ “vui” được lặp lại 4 lần, thể hiện tiếng reo vui của hàng triệu trái tim con người Việt Nam. Nghệ thuật liệt kê “Hòa Bình” “Tây Bắc” “Điện Biên”,..chiến thắng sau còn giòn giã hơn chiến thắng trước. Bởi vậy mà ta nhận thấy đó là vẻ đẹp của Việt Bắc, đó là lí do người ta nói rằng: Việt Bắc của Tố Hữu không chỉ thuyết phục người đọc ở một bản tình ca mà ở đó còn là bản hùng ca bi hùng bi tráng về cảnh ra quân, là những giai điệu tự hào trong thơ ca Việt Nam.
Tiếp đó ta thấy:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…
Bài “Từ ấy” gồm 3 khổ thơ, mỗi khổ thơ lại là một vẻ đẹp rất riêng. Khổ 1 là niềm vui của tác giả khi được đến với lý tưởng cách mạng. Ông tự ví tâm hồn của mình là một khu vườn đầy hoa lá, kể từ khi có mặt trời chân lí thì bỗng đậm hương và rộn tiếng chim, là một khu vườn bỗng ngập tiếng chim ca, là niềm vui của tác giả, là ánh sáng của vườn hồng đánh bật bóng đêm lụi, là ánh sáng của triết học Mác Lê nin, đó là mặt trời chân lí, là Đảng soi đường chỉ lối.
Đến với khổ 2, từ niềm vui ấy dẫn đến ý thức trách nhiệm của người chiến sĩ. Họ phải gần gũi với quần chúng nhân dân, khơi dậy khối đại đoàn kết dân tộc. Cuối cùng, từ sự thay đổi về ý thức trách nhiệm dẫn đến sự thay đổi về tâm tư tình cảm. Liên tục sử dụng các từ “là anh” “là em” “là con”, coi tất cả đồng bào, đồng chí của mình là trong một gia đình. Họ đều là máu mủ của mình. Và nhiệm vụ cuối cùng, nhiệm vụ quan trọng nhất đó là phải xây dựng, thấu hiểu nỗi thống khổ của nhân dân. Đó chính là vẻ đẹp của bài thơ “Từ ấy”.
Bài thơ Việt Bắc và Từ ấy điểm giống ở đây là sự nhất quán về phong cách sáng tác “trữ tình và chính trị”. Là người cách mạng làm thơ luôn luôn ý thức được ngòi bút của mình phải thực sự là thứ vũ khí trên mặt trận văn hóa văn nghệ. Thơ ca của ông có thể khẳng định đó là cuốn “Nhật kí về lịch sử Việt Nam”, bởi vậy không phải ngẫu nhiên mà ông được mệnh danh là hồn thơ của dân tộc.
Còn điểm khác ở đây là về nội dung. Một tác phẩm viết về niềm vui của tác giả khi đến với ánh sáng lí tưởng của cách mạng. Một tác phẩm lại viết về những năm tháng không thể nào quên của dân tộc Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Một tác phẩm được viết ở thể thơ lục bát, còn một tác phẩm thì không.
Tóm lại, dù có là trước cách mạng hay sau cách mạng, dù là “Từ ấy” hay là “Việt Bắc” thì rõ ràng phong cách thơ của Tố Hữu thực sự rất đáng khâm phục. Ông là người thư kí trung thành của thời đại, tác phẩm của ông là những tấm gương xê dịch trên quãng đường đời.
Văn mẫu 🌸 Phân Tích Bức Tranh Tứ Bình Việt Bắc 🌸 giúp bạn viết bài liên hệ hay hơn!
Liên Hệ Nỗi Nhớ Việt Bắc Ý Nghĩa
Mẫu bài văn liên hệ nỗi nhớ trong bài thơ Việt Bắc dưới đây được đánh giá hay và ngắn gọn, mời bạn xem ngay!
Nhớ là một động từ diễn tả trạng thái của con người khi giữ lại trong trí điều đã cảm biết, nhận biết để rồi sau đó có thể tái hiện được. Nhớ cũng có nghĩa là nghĩ đến người hay cảnh thân thiết nào đó hiện đang ở cách xa, với tình cảm tha thiết muốn được gặp, được thấy.
Liên hệ nỗi nhớ trong Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu ta đều có thể tìm thấy chủ âm nỗi nhớ bàng bạc khắp cả hai miền không gian, có thể nhận ra miền kí ức sâu đậm neo đậu trong lòng mỗi thi nhân, có thể cảm nhận và tự hào về vẻ đẹp của cả một thế hệ trong một thời đại anh hùng cách mạng.
Ở mỗi bài thơ, mỗi nhà thơ trở về với một kỉ niệm của riêng mình, với nỗi nhớ riêng của lòng mình, ghi dấu ấn sáng tạo riêng trong cách thức, nghệ thuật thể hiện của mỗi tài năng, nhưng ở bài thơ nào người đọc cũng được đi qua những vùng kí ức không thể nào quên của lịch sử dân tộc, đặc biệt là lịch sử tâm hồn con người Việt Nam trong những tháng năm gian khổ, hào hùng không thể nào quên.
Cả bài thơ không một dấu chấm câu, nỗi nhớ tràn từ câu thơ này sang câu thơ khác, bắt nhịp từ tứ thơ này sang tứ thơ khác. Nỗi nhớ tích tụ, dồn nén, bật lên thành tiếng gọi thiết tha Tây Tiến ơi!. Cảm xúc hiện hình trong nỗi nhớ chơi vơi. Đó vừa là trạng thái của nỗi nhớ vừa là trạng thái của cảnh vật được nhớ.
Cả chủ thể và đối tượng dường như đã trộn lẫn vào nhau mà đồng hiện trong nỗi nhớ chơi vơi ấy. Nỗi nhớ trở thành cội nguồn cảm hứng sáng tạo và làm nên cấu trúc của thi phẩm. Mạch bài thơ là mạch nhớ, là sự đan dệt của kỉ niệm, với những sực nhớ miên man, những vụt hiện bất chợt…
Cũng từ đây nỗi nhớ dậy lên làm một nguồn sinh khí, nó soi tràn đến đâu muôn vàn hình sắc trong kí ức tươi tắn, sống dậy đến đó. Nhờ nỗi nhớ mà những hình ảnh của những ngày qua cồn cào sống dậy. Chính nỗi nhớ chơi vơi đã dẫn ngòi bút tác giả đi miên man trong thế giới thơ.
Tất cả kỉ niệm về quãng thời gian không thể nào quên với đồng đội chiến đấu trên vùng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở mà cũng rất thơ mộng ấy bỗng trở thành tiếng gọi hối thúc, cất lên thành tiếng thơ, tiếng lòng của người chiến sĩ, thành âm vang của cả thời đại, của cả dân tộc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Nếu coi Tây Tiến là một phần đời của Quang Dũng, thì Việt Bắc cũng có ý nghĩa tương tự đối với Tố Hữu. Trong thời khắc giao điểm của lịch sử – cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, lịch sử dân tộc và cách mạng bước sang một trang mới, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ chuẩn bị rời chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội – người ra đi, là cán bộ kháng chiến, đã nhớ về Việt Bắc, nhớ về những tháng năm tình nghĩa với một nỗi nhớ khôn nguôi.
Tiếng lòng đó được cất lên thành một khúc tâm tình, trong đó người nghe có thể dễ dàng nhận ra “nhớ” là một nốt nhạc chủ âm được xướng lên ngay từ đầu bài ca và được tạo thành điệp khúc để đồng vọng tới mai sau.
Nỗi nhớ những cảnh vật đơn sơ ở Việt Bắc, một nỗi nhớ khó diễn tả , nhưng rất tha thiết sâu nặng như nhớ người yêu:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương”
Nỗi nhớ cụ thể gắn liền với từng cảnh, từng “bản khói”, từng “rừng nứa bờ tre”, “ngòi Thia”, “sông Đáy”, “suối Lê” , những địa danh quen thuộc, bình dị, nhưng rất nên thơ ở Việt Bắc:
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
Và trong cảnh thấp thoáng bóng dáng con người với những sinh hoạt thường nhật lam lũ nặng ân tình của Việt Bắc: “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về ”
Nhớ con người Việt Bắc. Trước hết là nhớ nhân dân cùng chia ngọt sẻ bùi, cưu mang cán bộ, bộ đội trong thời kháng chiến thiếu thốn, gian khổ. Đó là những tình cảm thắm thiết, sự đồng cam cộng khổ của đồng bào Việt Bắc dành cho người cán bộ .
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi …
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”
Kế đến là hình ảnh bà mẹ Việt Bắc hiện lên thật cảm động :
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô .”
Cảnh và người Việt Bắc trở thành kỷ niệm, ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ không thể phai mờ trong tâm trí người cán bộ khi trở về xuôi .
Về miền nhớ của Tố Hữu, kỉ niệm giữa người cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc suốt mười lăm năm ấy được chuyển hóa bằng một giọng thơ đằm thắm, thiết tha. Hai đại từ mình – ta sử dụng trong lối kết cấu đối – đáp dẫn lối để người đọc đắm chìm trong không gian của liền anh, liền chị, trong điệu nhặt khoan của những khúc hát giao duyên. Tính dân tộc đậm đà của thơ Tố Hữu tinh tế ở những chỗ đó.
Gặp nhau từ cội nguồn cảm hứng là nỗi nhớ, từ cảm xúc nhớ chơi vơi của Quang Dũng và nhớ gì như nhớ người yêu của Tố Hữu, một gai đoạn trong lịch sử đấu tranh của quân và dân ta lần lượt hiện lên thật rõ nét.
Nỗi nhớ là cung bậc cảm xúc khởi nguồn của cả Quang Dũng và Tố Hữu ở cả Tây Tiến và Việt Bắc, nhưng kỉ niệm hiện về trong nỗi nhớ của mỗi nhà thơ lại gắn với những vùng kí ức sâu đậm mà mỗi chủ thể từng gắn bó, những kỉ niệm đó được kiến tạo bởi mỗi tài thơ làm nên giá trị độc đáo cho mỗi thi phẩm.
Cùng tạo dựng nên hình tượng mang dấu ấn thời đại, nếu Quang Dũng lưu lại trong miền kí ức hình tượng người lính Tây Tiến thì Tố Hữu lại khắc sâu ân tình cách mạng với nhân dân Việt Bắc trong suốt chặng đường làm căn cứ địa cách mạng của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Nếu Quang Dũng trổ nét tài hoa trong một bài thơ đậm chất hội họa, giàu tính nhạc trong cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng thì Tố Hữu lại tìm về tính dân tộc đậm đà. Để tạo được giọng điệu ngọt ngào, da diết, sâu lắng ân tình, bên cạnh cách lựa chọn cấu tứ đối đáp tình tứ giữa ta và mình trong một buổi chia tay bịn rịn, lưu luyến, nhà thơ Tố Hữu còn tìm đến thể thơ lục bát truyền thống với nhiều cách tân sâu sắc.
Trên nền nhịp chẵn của lục bát tạo giọng điệu du dương phù hợp với tâm trạng của buổi chia li lưu luyến, dạt dào cảm xúc, sáng tạo của Tố Hữu là ở chỗ biến hóa đa dạng: lúc dung dị, dân dã gần với ca dao, lúc cân xứng nhịp nhàng, trau chuốt mà trong sáng đến độ cổ điển.
Trong nỗi nhớ của nhà thơ cách mạng Tố Hữu bức tranh thiên nhiên, bức tranh cuộc sống kháng chiến, con người kháng chiến hiện lên một cách chân thực, rõ nét, cụ thể và đậm đà bản sắc dân tộc như vậy, thiết nghĩ không chỉ cần đến tài năng nghệ thuật mà quan trọng hơn, căn cốt hơn phải là một tâm hồn dân tộc, phải có một tấm lòng gắn bó sâu nặng, thiết tha với Việt Bắc, có sự trải nghiệm trong lòng kháng chiến, có xúc cảm với thời đại… Tất cả đã hòa nhập, nối tiếp truyền thống ân nghĩa, thủy chung trong đạo lí sống, trong tâm thức của dân tộc từ ngàn xưa. Sức ngân vang của Việt Bắc vào lòng người đọc một phần là bởi sự hòa nhập đó.
Như vậy, có thể nói Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu là những tác phẩm xuất sắc của thơ ca cách mạng. Khởi nguồn từ nỗi nhớ, cả hai thi phẩm đã tạo dựng được không khí đấu tranh gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc ta trong những năm kháng chiến chống Pháp. Khi kí ức mãnh liệt nó có khả năng hiện tại hóa quá khứ. Như một lẽ thường, những gì đã đi vào nỗi nhớ đều là những kỉ niệm ấn tượng mãnh liệt, sâu sắc, đặc biệt có ý nghĩa đối với cuộc đời mỗi con người.
Tây Tiến đối với Quang Dũng, Việt Bắc đối với Tố Hữu đều là những miền diệu vợi mãi lưu lại dấu ấn của hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa Quang Dũng và hồn thơ trữ tình – chính trị đậm đà tính dân tộc – Tố Hữu, trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc.
Đọc thêm văn mẫu 🌸 Phân Tích Việt Bắc Nhớ Gì Như Nhớ Người Yêu 🌸 liên hệ nỗi nhớ trong tác phẩm!
Liên Hệ Việt Bắc Với Tây Tiến Sáng Tạo
Gửi tặng bạn đọc bài văn mẫu liên hệ bài thơ Việt Bắc với bài thơ Tây Tiên của Quang Dũng sáng tạo!
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 có một nguồn cảm hứng bao trùm đó là cảm hứng sử thi và lãng mạn. Cảm hứng ấy hướng về cuộc kháng chiến của nhân dân chống thực dân và đế quốc xâm lược. Trong nguồn cảm hứng bất tận ấy, hình tượng người lính là hình tượng được khắc họa rõ nét để lại nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc.
Liên hệ hai đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu đã phần nào mang đến cho chúng ta vẻ đẹp sáng ngời ấy:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
(Tây Tiến – Quang Dũng
Và:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
(Việt Bắc – Tố Hữu)
Quang Dũng là nhà thơ của lính, đã sống một đời lính oanh liệt hào hùng. Có lẽ chính vì vậy mà đời lính đã ăn sâu vào đời thơ. “Tây Tiến” là bài thơ của lính viết về lính nên khi đọc lên ta đã thấy ngay chất hào hùng bi tráng của những chàng trai “Thạch Sanh của thế kỷ XX”. Bài thơ được viết năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô”.
Tố Hữu đến với thơ sớm hơn Quang Dũng, ông là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa…Trong đó, “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Việt Bắc được viết trong cảm hứng về buổi chia tay lịch sử sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cán bộ về xuôi, kẻ ở người đi.
Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội trong đó có Quang Dũng. Hơn ai hết, Quang Dũng là nhà thơ của lính, đã sống hết đời lính với Tây Tiến. Vậy nên bao khó khăn gian khổ, bao thiếu thốn, bao tự hào đã dệt nên những vần thơ đẹp về lính:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Hai câu thơ mở đầu gợi lên vẻ đẹp bi tráng. Đầu tiên đó là cái bi thương gợi lên từ ngoại hình của người lính ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Đoàn quân trông thật kì dị.
Bên cạnh cái bi ta còn thấy cái Hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm nên khí chất mạnh mẽ trong tư thế của người lính: “Đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ tả cái ngang tàng của người lính, lại như có nét đùa vui, hóm hỉnh: không cần tóc mọc. Lại có thêm “Quân xanh màu lá”, tương phản với “dữ oai hùm”. Cách nói ấy cho thấy những người lính Tây Tiến rất lạc quan, yêu đời, coi thường gian khổ.
Hãy nhìn kỹ ta sẽ thấy ở họ: nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà họ vẫn quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Mặt khác cái hào hùng còn hiện lên qua cách dùng từ Hán Việt “Đoàn binh”. Chữ “đoàn binh” chứ không phải là đoàn quân đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng, trong đó có dáng dấp của “Quân đi điệp điệp trùng trùng”, của “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (Sức mạnh ba quân nuốt trôi trâu) trong thơ Phạm Ngũ Lão.
Ba từ “dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt. Qua đó ta thấy người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ.
Bên cạnh chất bi hùng, đoạn thơ còn để lại dấu ấn lãng mạn của những chàng trai Hà Nội mang tâm hồn hào hoa:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hai chữ “Mắt trừng” gợi nhiều liên tưởng: “mắt trừng” là mắt mở to nhìn thẳng về phía kẻ thù với chí khí mạnh mẽ thề sống chết với kẻ thù. Nhưng đôi mắt trừng ấy còn “gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt có tình, đôi mắt thao thức nhớ về quê hương Hà Nội về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Ra đi chiến đấu là “đầu không ngoảnh lại”, là “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” nên “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Vì nợ nam nhi thời loạn là nợ nước thù nhà. Thật cao đẹp thay lý tưởng sống trọn tình, trọn nghĩa ấy của người chiến binh.
Sáu câu thơ trong bài Tây Tiến là sáu câu thơ được viết bằng bút pháp sử thi và cảm hứng lãng mạn. Ngòi bút Quang Dũng thường hướng về những con người phi thường trong hoàn cảnh phi thường. Nhiều biện pháp nghệ thuật khác như: đối lập, tương phản, ẩn dụ… cũng được sử dụng một cách triệt để mang đến hình ảnh đoàn quân thời chống Pháp gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng.
Với Tố Hữu, nhà thơ trữ tình chính trị, thường lấy những sự kiện chính trị làm đề tài cho thơ. Cuộc chia tay giữa cán bộ, chiến sĩ với nhân dân Việt Bắc cũng trở thành đề tài của ông. Bài thơ “Việt Bắc” là cảm hứng từ cuộc chia tay ấy.
Trong bài thơ Tố Hữu tự sự về những kỉ niệm với thiên nhiên và con người Việt Bắc. Những kỉ niệm ấy được diễn tả bằng những câu thơ mang đậm dấu ấn ca dao dân ca đậm đà tình nghĩa. Trong hồi ức đầy nghĩa tình ấy, nhà thơ không quên nhắc đến bức tranh ra trận đầy khí thế của quân và dân ta :
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
Đoạn thơ đã tập trung miêu tả cuộc thánh chiến của dân tộc “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”. Đoạn thơ là những hình ảnh gợi ra ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc trong kháng chiến, là hình ảnh của những đoàn quân ra trận vô tận điệp trùng, là hình ảnh hùng vĩ của cuộc chiến tranh nhân dân từ hình ảnh những đoàn dân công, hình ảnh những đoàn xe cơ giới trên đường ra trận làm bừng sáng những đêm kháng chiến.
Trước hết đó là ấn tượng chung về sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta trong kháng chiến qua hai câu thơ đầu:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”
Câu thơ đầu tiên vang lên rất đỗi tự hào. Đó là niềm tự hào về những con đường Việt Bắc. Hai chữ “của ta” vang lên khẳng khái, chắc nịch, hùng hồn. Khi tác giả nói “Những đường Việt Bắc” đó là những con đường vừa rất thực như tác giả từng viết:
“Ta đi giữa ban ngày
Trên đường cái, ung dung ta bước.
Đường ta rộng thênh thang tám thước
Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên
Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên
Đường cách mạng, dài theo kháng chiến…
Đến hôm nay đường xuôi về biển
Mới tinh khôi màu đất đỏ tươi
Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!”
Đó là những con đường mở ra cùng với chiến thắng của quân dân ta, nhưng cũng là con đường đầy ý nghĩa tượng trưng khái quát cả một quá trình đi lên của kháng chiến và cách mạng. Con đường ấy đang mở tới chiến công.
Con đường đầy lửa máu ấy đã trở thành con đường chiến thắng trong Việt Bắc. Vì thế ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc đã gắn liền với ấn tượng về con đường chiến thắng này, một con đường “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Đó chính là sức mạnh của quân và dân ta, sức mạnh đã được đo bằng thước đo sông núi.
Đọc câu thơ ta đã thấy ngay âm hưởng hết sức hùng tráng của bài ca kháng chiến vang lên từ những điệp từ “đêm đêm”, từ láy “rầm rập”. Và từ gợi tả hình ảnh “đất rung”. Những từ ấy đều là những từ được cấu tạo bởi phụ âm nổ (đ – “đêm đêm”), những phụ âm rung (r – “rầm rập”). Tất cả đã tạo nên bức tranh tổng hợp của sức mạnh Việt Nam “Nước Việt Nam từ trong biển máu/ Người vươn lên như những thiên thần”.
Hình ảnh một Việt Bắc trong những năm tháng hào hùng bỗng trở nên rực sáng và hùng vĩ bởi hình ảnh của những đoàn quân ra trận. Đó là sức mạnh của quân đội nhân dân Việt Nam :
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.
Còn nhớ ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại cây đa Tân Trào, đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Khi đó quân đội ta mới chỉ 34 người. Đến thời điểm Điện Biên Phủ quân đội ta đã trưởng thành với “Quân đi điệp điệp trùng trùng”.
Sự hùng tráng, sự mạnh mẽ của đoàn quân được thể hiện qua nghệ thuật điệp từ “điệp điệp”, “trùng trùng” tạo ấn tượng về một sự lớn mạnh khổng lồ của quân đội nhân dân Việt Nam có thể đương đầu đáp trả và đập tan mọi hành động gây hấn của kẻ thù. Đoàn quân nối dài trên những con đường Việt Bắc thật hùng vĩ đông đảo như trải dài vươn rộng khắp mọi nẻo đường Việt Bắc.
Hình ảnh đoàn quân ra trận đã được cảm hứng lãng mạn tạo nên tầm vóc vũ trụ bởi hình ảnh “ánh sao đầu súng”, một hình ảnh rất thật nhưng cũng rất lãng mạn. Đó là hình ảnh những người lính trong đêm hành quân. Đi dưới trời sao, ánh sao trời soi vào đầu súng thép ánh lên lấp lánh, cũng có thể hiểu là những ngôi sao trên mũ người chiến sĩ ánh lên dưới sao trời.
Trong bức tranh tổng hợp về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến, Tố Hữu đã khái quát thêm một sức mạnh. Đó là sức mạnh của đoàn dân công, những con người đã cùng quân đội ta làm nên trang sử vàng cho dân tộc:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đã muôn tàn lửa bay”
Dân công là những người đi mở đường, xẻ núi, lăn bom góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang. Trong bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Tố Hữu từng viết về các anh chị dân công:
“Mấy tầng mây, gió lớn mưa to
Dốc pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn, xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh.”
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
Câu thơ không hề có một chữ “điệp điệp”, “trùng trùng” nào mà ta vẫn thấy sự điệp trùng ấy. Đó là cảm giác có được bởi cấu trúc hết sức độc đáo của câu thơ. Tác giả không viết “Từng đoàn dân công đỏ đuốc”, mà mở đầu câu thơ là hai chữ “dân công”, cuối câu thơ là hai chữ “từng đoàn”. Cấu trúc ấy gợi ra sự điệp trùng vô tận của những đoàn dân công. Ở đây là hình ảnh “Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”. Hình tượng bàn chân là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh của con người gắn liền với những chặng đường đấu tranh cách mạng.
Với thể thơ lục bát, âm điệu hùng tráng, kết hợp với chất sử thi, lãng mạn. Sử dụng nhiều sự tương phản, đối lập, điệp từ, điệp ngữ, phóng đại, thậm xưng… Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ giàu ấn tượng về không khí kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta hơn 60 năm về trước. Gấp trang sách lại mà không khí xuất trận ấy như vẫn còn đọng lại mãi trong tiềm thức của ta về những ngày gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng.
Qua việc phân tích ở trên ta thấy: Cả hai bài thơ đều viết trong thời chống Pháp. Đều sử dụng bút pháp sử thi, lãng mạn để miêu tả đoàn quân. Nhất là cảm hứng lãng mạn được hai nhà thơ khai thác triệt để. Người lính trong thơ Quang Dũng có cái đẹp vừa bi vừa hùng, có cái đẹp lãng mạn hào hoa mang chất lính tiểu tư sản không trộn lẫn. Tố Hữu chủ yếu miêu tả cái đẹp toàn thể, hướng tới số đông. Tầm vóc của câu thơ lãng mạn đẩy hình ảnh người lính chống Pháp sánh với sao trời. Từ hai đoạn thơ mà ta vừa phân tích, người lính hiện lên thật đẹp, thật hào hùng biết bao.
Nét riêng ở đây là, Quang Dũng viết bài thơ “Tây Tiến” trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Do đó, hình ảnh người lính hiện lên rất hiện thực với nhiều khó khăn gian khổ, đói cơm, đói áo, sốt rét đến xanh da trọc tóc. Nhưng không vì thế mà mất đi chất thép vốn có của lính. Dưới ngòi bút ấy, người lính cụ Hồ thật “dữ oai hùm” trong bộ dạng dị thường mà cũng rất đỗi mộng mơ đượm chất lính Hà Thành. Qua đó thấy hồn thơ Quang Dũng thiên về miêu tả cái phi thường trong hoàn cảnh phi thường.
Bài thơ “Việt Bắc” thì được Tố Hữu viết sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Hồn thơ Tố Hữu là hồn thơ trữ tình chính trị nên thiên về ngợi ca, biểu dương nên hình ảnh thơ bay bổng, tự hào. Hình ảnh đoàn quân ra trận trong Việt Bắc vì thế mà mang tầm vóc lớn lao, kỳ vĩ của “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”.
Cùng biểu hiện hình ảnh những đoàn quân ra trận nhưng cảm hứng từ hai nhà thơ rất khác nhau. Chính vì vậy mà hình ảnh người lính thời chống Pháp hiện lên trong hai đoạn thơ vừa có điểm chung vừa có điểm riêng biệt mang đến cho người đọc những ấn tượng khó phai nhòa.
Xem thêm 🌸 Nhận Định Về Việt Bắc 🌸 và liên hệ với các bài thơ khác!
Liên Hệ Bài Thơ Việt Bắc Và Từ Ấy Ngắn Hay
Bài văn liên hệ 2 tác phẩm đó là Việt Bắc và Từ Ấy dưới đây là mẫu ngắn mà hay dành cho bạn:
Đặng Thai Mai đã từng có những lời nhận xét như sau: “Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca”.
Có thể nói, cả cuộc đời thơ của Tố Hữu đều có sự gắn bó mật thiết với con đường cách mạng đầy gian khổ nhưng cũng không thiếu những chiến thắng vang dội lịch sử dân tộc. Vì thế mà, tất cả các tác phẩm của ông đều mang khuynh hướng trữ tình chính trị kết hợp cùng chất liệu dân tộc theo một cách rất riêng biệt, rất độc đáo.
Trong đó, Từ Ấy và Việt Bắc là hai tác phẩm nổi bật nhất. Liên hệ Việt Bắc với Từ ấy ta mới thấy hai tác phẩm này được sáng tác vào hai giai đoạn khác nhau của cách mạng, vì thế mà nó cũng mang sự vận động, dịch chuyển trong cái tôi trữ từ qua hai giai đoạn lịch sử của đất nước.
Trong các tác phẩm của Tố Hữu, cái tôi trữ tình của nhà thơ luôn hiện lên với vẻ đẹp tươi sáng của người chiến sĩ cách mạng khát khao được hòa mình với cộng đồng. Đặc biệt, trong tập thơ đầu tay của mình – Từ Ấy – ông đã thể hiện khát vọng cháy bỏng đó qua những vần thơ nhẹ nhàng và sâu lắng:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…”
Càng về sau, càng đi chung với những người cùng chí hướng trên chặng đường cách mạng gian nan, khó nhọc thì cái tôi trữ tình của ông lại càng thêm sâu sắc. Cái tôi chiến sĩ đó đã hóa thành cái tôi lớn, là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh nhân dân.
Cũng vì thế mà những vần thơ được ông viết lên lại càng mặn mà, sâu lắng tình cách mạng. Từ đó, cái tôi trữ tình gắn liền với cách mạng đó, một mặt giữ mãi những sơ tâm thuở đầu, một mặt trưởng thành và chuyển mình thành hồn thơ nguyện trọn vẹn với cách mạng, nghệ thuật và tình yêu.
Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy sự chuyển mình của cái tôi trữ tình ấy trước hết qua cơ sở ra đời của hai tác phẩm. Với Tố Hữu, mỗi tác phẩm của ông đều mang ý nghĩa và đánh dấu những cột mốc quan trọng đối với cách mạng và sự nghiệp lâu dài của dân tộc.
Trong đó, Từ ấy là bài thơ được ông sáng tác vào những ngày cách mạng nước nhà đang dần có những đường lối rõ ràng. Vào tháng 7/1938, Tố Hữu – một người thanh niên Huế luôn tích cực tham gia các phong trào thanh niên – được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Nếu như Từ ấy là một tác phẩm được sáng tác từ niềm hân hoan riêng của tác giả, thì đến Việt Bắc, cảm hứng chủ đạo cho bài thơ chính là niềm hân hân chung của cả dân tộc.
Bài thơ Việt Bắc được Tố Hữu viết sau sự kiện chiến thắng Điện Biên Phủ (7/1954), hiệp định Giơ ne vơ được ký kết đã đem lại sự độc lập cho miền Bắc. Từ đó, một trang sử mới của dân tộc đã được mở ra.
Tuy nhiên, bên cạnh niềm vui như muốn vỡ òa ấy, việc phải rời xa chiến khu Việt Bắc để trở về thủ đô đã khiến người chiến sĩ chìm trong những nỗi niềm xúc động khó tả, xen lẫn chút tiếc nuối nhớ thương. Cũng chính từ những cung bậc cảm xúc đó, Việt Bắc đã ra đời và ghi một dấu ấn khó phai trong sự nghiệp văn chương của Tố Hữu.
Sự vận động cái tôi trữ Tình của Tố Hữu có thể nhìn thấy trong sự thay đổi về hoàn cảnh lịch sử. Bên cạnh đó, dựa trên nền tảng lịch sử, nội dung của tác phẩm cũng có sự thay đổi. Và dĩ nhiên, cái tôi trữ tình ấy đã có một sự vận động để trưởng thành hơn.
Tuy nhiên, dẫu mọi thứ có thay đổi như thế nào, thì lý tưởng cách mạng cùng tình yêu đất nước của ông vẫn mãi nguyên vẹn, chẳng hề sờn đi theo năm tháng. Có thể nói, sự chuyển mình của cái tôi đó chính là sự tự hoàn thiện của thi nhân, cũng là sự phát triển của cách mạng dân tộc từ non trẻ đến khi trưởng thành.
Việt Bắc ra đời vào đúng mười sáu năm sau. Trong một hoàn cảnh mới, được sự tôi luyện của chiến trường khắc nghiệt cùng cuộc sống gian khổ mà cũng không kém phần vẻ vang, Tố Hữu đã chẳng còn là một chàng thanh niên vừa mới bước chân vào con đường cách mạng. Tiếng súng đạn đã dạy ông trở thành một người chiến sĩ nòng cốt, quả cảm và anh dũng. Vì thế mà, những cảm nhận của ông cũng đã có sự chuyển mình, đổi mới.
Ở Việt Bắc, ta chẳng còn nhìn thấy khát khao và cảm xúc được bộc lộ trực tiếp mà thấy sự ấm áp cùng những suy tư chan chứa ân tình thủy chung. Việt Bắc không chỉ là một bài thơ, nó còn là một bức tranh hồi tưởng về tháng ngày kháng chiến trường kỳ khắc nghiệt, là lời giãi bày nỗi nhớ nhung của người đi với kẻ ở, là ca khúc mang những giai điệu bùi ngùi, xúc động. Đặc biệt, ở bài thơ này, cái tôi trữ tình đã nhập với cái ta chung của dân tộc.
Lời người đi nói với người ở lại, lời người ở lại dành cho người đi cứ thế luân phiên thay đổi với danh xưng “ta với mình”, “mình với ta”. Phải chăng, Việt Bắc chính là tiếng nói đại diện cho tình cảm của bao chiến sĩ đã cùng đồng cam cộng khổ, đã cùng chiến đấu và gắn bó với nhau tại núi rừng Tây Bắc, để rồi họ thổ lộ tình cảm của mình với đồng bào, với cảnh thiên nhiên núi rừng nơi đây.
Cả bài thơ Việt Bắc đều sáng lên lòng biết ơn sâu sắc cùng những lời gợi nhắc đến ân tình sâu sắc, thủy chung. Dẫu đó là những cảm xúc khó tả, là sự xúc động, bịn rịn giữa người ra đi – kẻ ở lại, nhưng nó tuyệt nhiên không phải là nỗi buồn bã ủy mị. Bởi lẽ, ai cũng sẽ hiểu rằng, quá khứ dù đẹp mấy rồi cũng sẽ qua đi, thay vì cứ mãi đau buồn sống trong đó, sao không đón chờ tương lai tươi đẹp hơn ở phía trước.
Hơn cả thế, sự chia tay ngày hôm nay lại chính là tiền đề cho sự thống nhất đất nước ngày mai.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Sự vận động cái tôi trữ tình thể hiện qua phong cách viết. Cùng với đó, sự vận động của cái tôi trữ tình còn được thể hiện rõ nét từ phong cách viết thơ của Tố Hữu. Nếu như trong Từ Ấy, ông chọn cho mình thể thơ tự do với những vần thơ bay bổng để đẩy cảm xúc lên cao trào, thì Việt Bắc lại được ông truyền đạt với thể thơ lục bát – một thể thơ truyền thống của dân tộc.
Chính điều này cũng khẳng định sự phát triển, trưởng thành trong chính hồn thơ Tố Hữu. Ông đã chuyển từ khuynh hướng trữ tình chính trị sang dòng thơ mang khuynh hướng trữ tình chính trị kết hợp cùng chất liệu truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc.
Như vậy, có thể chứng minh rằng, cái tôi trữ tình của Tố Hữu đang có sự vận động và dịch chuyển để tiến gần đến nhân dân, gắn bó với nhân dân. Sự vận động cái tôi trữ tình của Tố Hữu được đánh giá là có mối quan hệ chặt chẽ và gắn với hoàn cảnh lịch sử cũng như sự phát triển của phong trào cách mạng dân tộc.
Tố Hữu, từ một hồn thơ trẻ trung, bay bổng trong những suy nghĩ của cái tôi mạnh mẽ, đã dần chuyển mình để trưởng thành hơn. Nhưng rồi, dẫu cho thời gian có làm người ta thay đổi đến đâu, thì hồn thơ ấy vẫn luôn giữ nguyên vẹn những tình cảm sơ tâm buổi ban đầu với cách mạng, với sự nghiệp chung của đất nước.
Dẫn Chứng Liên Hệ Mở Rộng Việt Bắc Ngắn Gọn
Tham khảo dẫn chứng liên hệ mở rộng thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc với Tây Tiến một cách ngắn gọn!
Trong rất nhiều bài thơ viết về mảnh đất phía Bắc của Tổ quốc có hai tác phẩm nổi bật hơn cả đó là Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng và Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. Liên hệ Việt Bắc với Tây Tiến, ta có thể thấy đây đều là những tác phẩm viết về cách mạng, về người lính nhưng thông qua đó, người đọc lại được thưởng thức và cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên vùng núi phía Bắc thật sinh động và rõ nét.
Thiên nhiên trong Tây Tiến là ở các tỉnh Thanh Hóa, Lào Cai và vùng đất của nước bạn Lào. Cả chặng đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến dù vô cùng gian nan vất vả hiểm nguy nhưng cũng vô cùng tươi đẹp, lãng mạn. Dù phải đối mặt với cái chết và những căn bệnh quái ác, sự đói khát, thiếu thốn, gian khổ nhưng những người lính Tây Tiến vẫn luôn yêu đời, vẫn ngắm nhìn và cảm nhận thiên nhiên qua vẻ đẹp thuần túy của nó.
Hàng loạt các địa danh của vùng núi phía Bắc được tác giả nhớ đến và gọi tên: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu, Viên Chăn… Mỗi địa danh, tác giả lại nhớ và nhắc đến với những vẻ đẹp gắn liền với nó. Đó là những trườn dốc cheo leo, khúc khuỷu, là những cồn mây thăm thẳm những cơn mưa mù mịt đất trời.
Thiên nhiên ở Tây Tiến hiện lên với nét đẹp hoang sơ, nguyên thủy như chưa có bước chân của con người. Cách miêu tả nhẹ nhàng hài hước ấy vừa tô vẽ lên vẻ đẹp phong thủy, hùng vĩ của đất trời nhưng đồng thời cũng không làm giảm đi giá trị của sự thực đó là sự khắc nghiệt và hiểm nguy của thiên nhiên, con đường họ hành quân.
Người đọc cảm nhận như đang mường tượng ra những địa danh mờ mịt mà tác giả nhắc đến, nó hùng tráng, huy hoàng nhưng độc và đầy gian nan. Từ đây người đọc có thể thấy được sự dũng cảm của những người lính đồng thời cũng hiểu được lí do họ gắn bó và tha thiết nhớ mãi không quên vùng đất này.
Thiên nhiên trong Việt Bắc chính là thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc, căn cứ địa cách mạng, nơi đóng quân của bộ máy đầu não trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ở đấy, thiên nhiên Việt Bắc có thể nói là được miêu tả sinh động, tươi đẹp nhất trong khổ thơ:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”.
Đây có thể coi là bức tranh tứ bình về cảnh đẹp Việt Bắc xuất sắc nhất bài thơ. Đó là mùa hè với những cảnh vật đặc trưng như cánh rừng xanh thẳm, hoa chuối nở đỏ rừng, là ánh nắng chói chang trên những ngọn đồi và nương rẫy.
Mùa xuân thì đến với những hình ảnh hoa mơ trắng rừng lãng mạn, thơ mộng huyền ảo vô cùng. Mùa thu lại là màu của lá vàng, của ánh trăng dìu dịu nhẹ nhàng phủ lên đất trời. Mỗi một mùa của núi rừng Việt Bắc lại gắn với những cảnh vật và màu sắc đặc trưng khiến cho cả đoạn thơ trở thành một bức tranh màu sắc, sống động, rực rỡ và đầy sức sống. Chính nơi đây đã nuôi sống cán bộ, nuôi sống những chiến sỹ Việt Bắc, trở thành quê hương thứ hai của họ. Khiến họ khi về xuôi vẫn luôn thổn thức “Mình về mình có nhớ ta, ta về ta nhớ…”.
Thông qua hai bài thơ, người đọc có thể thấy được cảnh vật ở miền Bắc nước ta tươi đẹp quá, mỗi vùng đất lại có những nét đẹp riêng, được miêu tả bằng cách nhìn riêng nhưng nổi bật hơn cả là sự tự nhiên, hoang dã đầy sức sống. Những bức tranh ấy như lời kêu gọi con người hôm nay càng phải biết trân trọng, yêu quý hơn nữa từng mảnh ghép quý giá của thiên nhiên đất trời. Biết ơn những người chiến sỹ đã ngã xuống cho chúng ta hòa bình ngày hôm nay.
Ngoài liên hệ Việt Bắc, bạn có thể xem thêm 🌸 Liên Hệ Mở Rộng Bài Thương Vợ 🌸 thú vị!