Liên Hệ Tràng Giang Của Huy Cận (6+ Mẫu Mở Rộng Hay)

Liên Hệ Tràng Giang Của Huy Cận ❤️ 6+ Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Hay ✅ Trọn Bộ Văn Mẫu Liên Hệ Bài Thơ Tràng Giang Đặc Sắc Nhất.

Cách Liên Hệ Bài Tràng Giang Của Huy Cận

Dưới đây là mẫu bài liên hệ mở rộng bài Tràng giang và bài Đây thôn vĩ dạ mà SCR.VN lấy làm ví dụ để hướng dẫn bạn cách viết bài văn liên hệ:

Ví dụ: Liên hệ thiên nhiên trong 2 đoạn trích của 2 bài thơ là Tràng giang và Đây thôn vĩ dạ

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
( Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử )

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc ,
Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa .
Lòng quê dợn dợn vời con nước ,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà .
( Tràng giang – Huy Cận )

  • Bước 1: Phân tích đề
    • Liên hệ 2 bài thơ đó là Tràng Giang và Đây thôn vĩ dạ
    • Thiên nhiên trong 2 bài thơ
  • Bước 2: Giới thiệu 2 tác giả và phong cách thơ văn
    • Hàn Mặc Tử là nhà thơ lớn của trào lưu Thơ mới, cuộc sống bi thương, hồn thơ nhiều mẫu mã, lạ mắt, sức phát minh sáng tạo can đảm và mạnh mẽ, luôn thể hiện một tình yêu đau đớn hướng về trần gian. Đây thôn Vĩ Dạ là thi phẩm xuất sắc biểu lộ tấm lòng thiết tha đến khắc khoải của nhà thơ với vạn vật thiên nhiên và đời sống .
    • Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu vượt trội của trào lưu Thơ mới và thơ sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ đậm chất cổ xưa, giàu suy tưởng, triết lí, điển hình nổi bật về cảm hứng vạn vật thiên nhiên, tạo vật. Tràng giang là một bài thơ xuất sắc biểu lộ nỗi buồn sầu trước tạo vật bát ngát, hoang vắng, đồng thời bày tỏ một lòng yêu nước kín kẽ .
  • Bước 3: Nhận định 2 bài thơ
    • Tràng giang:
      • Bức tranh tràng giang vào lúc hoàng hôn trang trọng mà rợn ngợp, với mây chiều chất ngất hùng vĩ, chim chiều nhỏ bé đơn côi .
      • Hiện lên một cái tôi trong tâm trạng bơ vơ, lạc lõng của kẻ lữ thứ, chẳng cần cơn cớ trực tiếp mà mong ước sum vầy vẫn cứ dậy lên như sóng trong lòng .
      • Hình ảnh, ngôn từ, âm hưởng đậm chất cổ xưa Đường thi.
      • Kết hợp thủ pháp trái chiều truyền thống cuội nguồn với phép hòn đảo ngữ tân tiến, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình .
    • Đây thôn vĩ dạ:
      • Khung cảnh vạn vật thiên nhiên trời mây – sông nước đang chuyển mình vào đêm trăng với những chia lìa, phiêu tán, chơ vơ ; đượm vẻ huyền ảo và buồn hiu hắt .
      • Hiện lên một cái tôi đang khát khao vượt thoát nỗi đơn độc, với niềm mong mỏi đầy phấp phỏng được gặp gỡ, sẻ chia, gắn bó .
      • Hình ảnh thơ vừa thực vừa ảo, có tính tượng trưng, giàu sức gợi .
      • Phối hợp tả cảnh ngụ tình với trực tiếp biểu cảm ; phối hợp đổi khác nhịp điệu với giải pháp trùng điệp ; dùng cấu trúc trái chiều, phép nhân hoá, câu hỏi tu từ .
  • Bước 4: So sánh
    • Giống nhau: Cùng miêu tả bức tranh vạn vật thiên nhiên trời – nước, qua đó thể hiện nỗi buồn và tình yêu so với tạo vật và đời sống ; sử dụng thể thơ thất ngôn điêu luyện, phối hợp tả cảnh ngụ tình với trực tiếp biểu cảm
    • Khác nhau:
      • Đoạn thơ trong Đây thôn Vĩ Dạ : là nỗi buồn của một người khát khao sống, thiết tha gắn bó với cõi đời nhưng tự cảm thấy mong manh, vô vọng ; trội về những thi liệu trực quan từ thưởng thức của chính mình.
      • Đoạn thơ trong Tràng giang : thể hiện nỗi buồn rợn ngợp trước tạo vật bát ngát, hoang vắng cùng mặc cảm lạc loài của người đứng trên quê nhà mà thấy thiếu quê nhà ; trội về những thi liệu cổ xưa hấp thu từ Đường thi.

Gợi ý 🌸 Dàn Ý Tràng Giang 🌸 ấn tượng!

Tràng Giang Liên Hệ Với Bài Nào

Tổng hợp 1 số bài thơ, câu thơ, đoạn thơ có thể ứng dụng liên hệ mở rộng với bài Tràng Giang của Huy Cận!

  • “Chọn một dòng hay để nước trôi” (Tố Hữu) liên hệ với “Củi một cành khô lạc mất dòng” (Huy Cận)

-> Đều nói về trạng thái cô đơn, bế tắc, lưỡng lự giữa những lựa chọn, ngã rẽ cuộc đời của con người trước Cách mạng tháng Tám 1945.

  • “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” (Thôi Hiệu) liên hệ với “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” (Huy Cận)

-> Thơ xưa hình ảnh khói trở thành hình ảnh quen thuộc, thường dùng mặc định để gợi đến nỗi nhớ nhà, nhắc đến nỗi nhớ nhà thì phải có khói sóng. Huy Cận lại không cần có khói mà vẫn thiết tha nỗi nhớ nhà. Có thể nói, đây chính là sự cách tân, sáng tạo của Huy Cận. Ông đã phủ nhận kinh nghiệm làm thơ cũ để tạo nên giọng thơ cho riêng mình.

  • Nói đến phong trào Thơ Mới thì không thể không nhắc đến Huy Cận và nhắc đến Huy Cận thì ta không thể không nhắc đến Tràng giang

-> Ở bài thơ Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu, có lẽ chúng ta đều đã nhận ra Xuân Diệu là một nhà thơ rất nhạy cảm trước bước đi của thời gian. Với ông, thời gian trôi qua là tuyến tính, là một đi không trở lại và kéo theo đó là sự tàn phai, héo úa của vạn vật. Chính vì thế mà nhà thơ băn khoăn, nhà thơ tiếc nuối. Nếu XD là một nhà thơ nhạy cảm trước thời gian như vậy thì Huy Cận lại là một người vô cùng nhạy cảm trước không gian, nhất là những không gian rộng lớn, vĩnh hằng.

  • Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.

-> Có sự gặp gỡ giữa Huy Cận và Hàn Mặc Tử. Những sự vật dường như luôn gắn bó, liên kết với nhau nhưng qua lăng kính chủ quan của 2 nhà thơ, qua đó cảnh vật hiện lên với sự chia lìa ngang trái.

  • Bài thơ Đăng Cao – Đỗ Phủ

Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ,
Bất tận trường giang cổn cổn lai.

Những bài văn 🌸 Phân Tích Tràng Giang Huy Cận 🌸 xuất sắc!

Những Mẫu Liên Hệ Bài Tràng Giang Hay Nhất

Bài viết này tuyển tập những bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài thơ “Tràng giang” với các bài thơ khác hay nhất, mời các bạn cùng theo dõi nhé!

Liên Hệ Mở Rộng Bài Tràng Giang Đặc Sắc

Học cách làm bài văn liên hệ mở rộng bài thơ “Tràng giang” với ngắn gọn nhưng súc tích cùng mẫu đặc sắc dưới đây!

Thi đề, thi liệu mang màu sắc cổ kính của thơ Đường. thơ Tổng nhưng tâm trạng của nhân vật trữ tỉnh lại im đậm một cái tội lãng mạn với một nỗi sau vạn kĩ. Vì thế, ta nhận ra sự đối lập giữa sự vật bé nhỏ cô đơn với cái vô biên, vô hạn của vũ trụ. “Con thuyền xuôi mái” như một dấu chấm buồn nổi bật trên nền không gian của Tràng giang và trở thành linh hồn của bức tranh. Trước đây, con thuyền ấy được đặt trong một khoảng không hữu hạn xác định:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẹo teo.”

Khi xưa nhà thơ Nguyễn Khuyến sống ẩn dật nơi quê nhà mà suy tư về thế sự thì nay nhà thơ Huy Cận lại đau đáu trước một con thuyền không người chèo lái. Con thuyền được đặt trong trạng thái thụ động và trôi dạt trước dòng đời vô định đã làm nổi bật nỗi sầu nhân thể của nhà thơ trước cuộc sống tối tăm không lối thoát trước cách mạng.

Chính cái lẻ loi của con thuyền bé nhỏ “xuôi mái” đã rẽ dòng nước “song song”. Và từ láy “song song” gợi lên nhiều tầng ý nghĩa bên trong nó nữa. Trước đây, rất nhiều người đã liên tưởng và cho rằng hai chữ “song song” được Huy Cận học tập tử câu thơ của Nguyễn Du:

“Đinh ninh hai miệng một lời song song”

Nhưng điều đó là không chính xác bởi về mặt âm tiết, chúng hoàn toàn giống nhau nhưng lại khác nhau rất lớn về mặt ngữ nghĩa. Chữ “song song” của Nguyễn Du nói về lời thề hẹn đồng tâm, hòa điệu của hai trái tim yêu còn trong thơ Huy Cận. “song song” gợi ra cái chia lìa, không gắn kết và sự thật rằng, thuyền và nước dẫu có cùng phương, nhưng lại ngược hướng, thuyền muốn xuôi mà nước đi ngược. Nét đối lập hải hòa cảng làm tăng thêm sự cô đơn. trống vắng trước thời cuộc của nhân vật trữ tình.

Nỗi buồn được nhân lên bởi cảm giác chia lia được khắc đậm ở câu thơ thứ ba. Giờ đây con thuyền nhỏ nhoi trên sông vắng chẳng còn mối liên hệ, ràng buộc nào nữa, thuyền trôi một ngả mả nước xuôi một dòng hoàn toàn riêng biệt. Phải chăng. Huy Cận đã có sự “hợp âm” với nhà thơ điện Hàn Mặc Tử khi trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, người con xứ Quảng Bình ấy cũng viết về sự chia lia nhur the: Gió theo lỗi gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.

“Gió với mây, thuyền và nước vốn luôn phải song hành và bổ trợ cho nhau. Ấy thế mà cả hai nhà thơ đều nhìn nhận chúng ở những khoảng trời riêng biệt chẳng hể gắn kết. Phải chăng chính trong tâm hồn của cả hai nhà thơ Mới đều đang thưởng trực nỗi bâng khuâng, đứt gãy kết nối giữa bản thân và cuộc đời.

Nghệ thuật tiểu đối được tác giả sử dụng và thể hiện tự nhiên, linh hoạt góp phân cực tả nỗi” sáu trăm ngả “. Tác giả không ngừng lại ở số từ cụ thể mà muốn giãi bày nỗi sau muôn phương. ngàn hướng, nỗi sau của nhà thơ không tìm được hướng đi của cuộc đời như sự” chất chứa “trong lời Xuân Diệu: ” Cải lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế. “

Bài thơ tồn tại qua 17 bản thảo và riêng câu thơ” Củi một cành khô lạc mấy dòng “đã được tác giả cân nhắc tới 8 lần. Từ” một cánh bèo “tới” của một cảnh khô “là cả sự thoát xác khỏi hệ thống ước lệ mang tính quy phạm của thi ca cổ điển. Đây không phải là một bè gỗ. bè nữa, một cây xanh mà chỉ là một” cảnh “. hơn thế nữa lại là” cành khô “tầm thưởng bé nhỏ chẳng biết đã rơi xuống tử khu rừng giả nào trên thượng nguồn.

Hình tượng thiên nhiên không tràn trề sức sống hay được nâng niu, trân trọng như câu thơ ” Cảnh lê trắng điểm một vài bông hoa ” của Nguyễn Du nữa mà đã trôi nổi qua biết bao sông suối và sẽ chẳng biết còn phiêu dạt tới nơi đâu. Xưa nay, thơ ca bác học thường khó dung nạp những chi tiết hiện thực. sản sùi, thô mộc nhưng” của một cành khô “mà Huy Cận mạnh dạn thả vào dòng” Tràng giang “cổ kinh đem đến cho bức tranh sông nước của thơ ca Việt Nam một màu sắc thật khó quên.

Đảng lẽ bức tranh thơ có thêm sự sống phải sinh động và rộn ràng nhưng trải lại. tất cả chỉ làm cho cảnh hiu quạnh, cô liêu hơn. Sự xuất hiện của tỉnh từ” lơ thơ “.” đìu hiu “kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ khiến cho cồn cát của Tràng giang vốn đã bơ vơ, trơ trọi lại còn” nhỏ “và” lơ thơ “, cảnh vật càng thêm” đìu hiu “. quạnh quẽ. Không khi hoang vắng ấy có lẽ đã được Huy Cận mượn tử hai câu thơ trong bài” Chinh phụ ngâm “của Đặng Trần Côn:

“Non kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phi gió thổi đìu hiu mấy gò.”

Huy Cận đã tái hiện được không khí như hư, như thực trong tâm cảnh của nhân vật trữ hình. Thế nhưng, điểu Huy Cận phát huy được tử Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm chính là không chỉ có hình ảnh mà còn gợi lên được một âm thanh quen thuộc và cũng rất đỗi mơ hổ” tiếng làng xa “vả khung cảnh” vãn chợ chiều “.

Đối với con người Việt Nam ở thôn quê, bình lặng và nghèo khó, thì cảnh chợ quê đông vui tập nập là sự sống tưng bừng, là biểu tượng cho sự giao lưu gặp gỡ. Không có gì buồn tẻ, tiêu điều, xơ xác bằng cảnh chợ chiều văn khách: ” Người về hết vả tiếng ổn ảo cũng mất.. trên đất chỉ còn có rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, là nhãn ” như ta đã từng thấy trong truyện ngắn” Hai đứa trẻ “của Thạch Lam.

Trong lúc lòng buồn chơi với vì cô đơn bế tắc mà hồn thơ Huy Cận vẫn hướng về cội nguồn của làng quê, vẫn khao khát và chắt chịu chút thanh âm mơ hổ xa vắng của chợ chiếu. Nhà thơ như đưa ta trở về với làng quê bình dị, nơi có bánh đa, bánh đúc, có phiên cho nghèo. có con đò. có người thân ta mộc mạc. hỗn hậu, thuần phác mang linh hồn xứ sở:

” Những nàng môi cắn chỉ quét trâu
Những cụ già phơ phơ tóc trăng
Những em nhỏ sột soạt quần nâu. “
(Bên kia sông Đuống – Hoàng Cẩm)

Quả thực như Huy Cận từng tâm sự: ” Không có tiếng người thì cảnh vật hoang vắng và xa lạ. Đôi chút âm thanh của con người không bớt đi sự vắng lặng nhưng tạo được ít nhiều cái màu vẽ của cuộc sống. ” Và trong đó đã thức dậy được tinh yêu quê hương, đất nước của con người Việt Nam.

Tuyển tập bài mẫu 🌸 Cảm Nhận Khổ 1 Tràng Giang 🌸 dành cho bạn!

Liên Hệ Mở Rộng Bài Tràng Giang Với Vội Vàng Ấn Tượng

Một trong những bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài thơ “Tràng giang” với “Vội vàng”, mời bạn cùng xem:

Hai nhà thơ Xuân Diệu và Huy Cận đều là những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam. Hai ông đều có những “cái tôi” riêng biệt góp phần làm nên sự thành công của tác phẩm. Điều này được thể hiện rõ qua hai bài thơ “Tràng giang” và “Vội vàng”.

ràng Giang”  là một ngọn lửa rực rỡ trong tập thơ “ Lửa thiêng” – tập thơ đầu tay của Huy Cận. Bài thơ được sáng tác vào một buổi chiều tháng 9 năm 1939, một buổi chiều buồn khi ông đạp xe trên đê sông Hồng vào mùa nước lũ. Trước dòng sông hùng vĩ và hoang vắng mùa lũ, ông mở rộng lòng mình để tâm hồn trôi nổi theo dòng nước.

Cái hữu hạn của con người được đặt vào không gian bao la, “Tràng Giang” hiện lên với một nỗi buồn man mác. Bài thơ thể hiện tâm trạng một  “cái tôi trữ tình” sầu đượm, cô đơn trước thiên nhiên hùng vĩ cùng những triết lí sâu xa và lòng yêu nước thầm kín.

Nhìn vào bài thơ trước hết ta thấy ngay tựa đê “Tràng Giang” vô cùng nổi bật. “Tràng Giang” nghĩa là “sông dài”. Người ta từng đi tìm hiểu về con sông trong bài thơ này của Huy Cận nhưng rồi chợt nhận ra điều này là vô nghĩa. Huy Cận không nhắc về một con sông cụ thể nào.

Nó có thể là con sông Hồng mùa nước lũ khi ông đi ngang qua và viết bài thơ, nhưng cũng có thể con sông này khởi nguồn từ xa hơn, là con sông quê ông như Ngàn Sâu, Ngàn Phố, Sông Lam, Sông La hay là cả sông Hương nữa. Những con sông luôn nằm trong tiềm thức và luôn gắn bó với ông trong nỗi nhớ quê nhà.

“Tràng Giang” không phải là tên sông, nó gợi lên cho người đọc một con sông u hoài trong kỉ niệm của riêng mình. Và đối với bài thơ, nó đúc kết một cách ngắn gọn nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.

Những câu thơ đầu tiên đưa ta đến với những ấn tượng về cảnh sông nước bao la trong một không gian mênh mông, bát ngát:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song

Sự mênh mang của không gian được gợi ra qua từng lớp từng lớp sóng. Sóng gợn nhấp nhô trên dòng sông dài khiến nỗi buồn chất chồng “điệp điệp”.  Từ “ điệp điệp” vang lên khiên lòng người trĩu nặng, tạo lên một âm điệu trầm buồn còn mãi đọng lại dư âm.

Trước không gian rộng lớn của dòng sông ta bắt gặp hình ảnh một con thuyền xa xăm xuôi mái theo những dòng nước song song rong ruổi về cuối chân trời. Cái nhỏ nhoi của con thuyền đơn độc càng làm nổi bật hơn cái rộng dài tưởng như mênh mang của dòng sông. Hai câu thơ với nghệ thuật đặc tả và khả năng khơi gợi đã làm nổi bật lên cái tôi trữ tình của tác giả: một tâm hồn man mác cô đơn.

Hai câu thơ tiếp

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

“Thuyền về” khiền mặt sông trở lên heo hút, “nước lại sầu trăm ngả”. “Thuyền” và “nước” di chuyển trái chiều nhau như một sự chia ly xa cách. Con thuyền đơn độc, lẻ loi chỉ xuất hiện một chút trong không gian rợn ngợp rồi lại rời đi để lại nỗi buồn ngổn ngang, trăm mối tơ vò. “Nước” và “thuyền” chỉ gợi lên nỗi “sầu trăm ngả” nhưng “củi một cành khô” lại cho ta cảm giác chênh chao, heo hút đến rợn người.

Hình ảnh “củi” đã gầy guộc mong manh, ở đây “củi một cành khô”  lại càng thêm nhỏ bé, như “lạc mấy dòng” vào vô vọng trong những con sóng nối tiếp đến vô cùng. Cái tôi trữ tình ở đây dường như trở lên mong manh, đơn bạc giữa những sóng gió cuộc đời. Những hi vọng xa xăm, những nỗi buồn rồi những băn khoăn về lí tưởng. Chỉ bằng những hình ảnh đơn sơ nhưng câu thơ đã khơi gợi lên thân phận cô đơn của cả một kiếp người.

Đến khổ thơ thứ hai, bức tranh tràng giang mở ra với một nỗi buồn sâu lắng:

“Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Khổ thơ có thêm cảnh, thêm người nhưng nỗi buồn dường như không vơi đi mà còn lặng lẽ hơn. Nỗi buồn được gợi lên từ mặt nước, “lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu”. “Cồn cỏ” xuất hiện nhưng lại “lơ thơ” với “đìu hiu” tạo nên khung cảnh cô liêu, tịch mịch đầy tâm trạng. Làng xóm hiện ra nhưng chỉ với âm thanh xa vời “đâu tiếng làng xa”. “Chợ chiều” thường gắn với hình ảnh hiu hắt khi con người đã ra về hết, chỉ còn lại hàng quán với mái lá vắng tanh.

Cảnh vật, làng xóm dường như càng làm cái tôi trữ tình cô đơn hơn, nổi bật lên khát khao trong tâm hồn của một con người mong muốn sẻ chia. Rồi nỗi buồn như lan toả hết không gian của bến bãi, mặt nước, bầu trời. “Nắng xuống” – “trời lên” hai hình ảnh vận động trái ngược làm cho không gian thêm chiều sâu.  Cụm từ “sâu chót vót” chuyển đổi cảm giác khiến ta như rợn ngợp trước đất trời. Cảm xúc lướt dần để rồi đọng lại ở “bến cô liêu” như lột tả hết những cô đơn, hoang vắng, trống trải trong hồn người.

Tiếp theo:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Những cánh bèo trôi dạt dường như khéo léo ẩn dụ cho thân phận nổi trôi của một kiếp người bế tắc. Những cánh bèo này không chỉ có một mà “hàng nối hàng” , cảm giác như miên man không dứt. Hai câu thơ sau càng cho ta thấy thêm sự vô vọng, “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”, chẳng có một “niềm thân mật” nào để bám víu. Khoảnh khắc mà ánh sáng xanh của bờ bãi và nét vàng mờ nhạt xuất hiện là lúc cai tôi trữ tình chìm sâu trong nỗi buồn, những suy nghĩ mông lung.

Khép lại bài bài thơ là những nét thiên nhiên nhiên và tâm sự con người:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

“Mây cao” và “núi bạc” xuất hiện gợi lên khung cảnh thiên nhiên tráng lệ  nhưng vẫn mang đầy dáng vẻ cô đơn trong bóng chiều hiu hắt. Giữa trời đất bao la chỉ có một cánh chim nhỏ chao nghiêng. Tất cả như cô đơn, lẻ loi đến tội nghiệp và con người như chìm ngập giữa trời đất bao la.

Cảm giác chênh chao của cán chim lẻ bóng lại xuất hiện để nổi bật lên trong nỗi sầu là tình cảm yêu quê hương đất nước đến da diết của cái tôi trữ tình. “Lòng quê dợn dợn vời con nước”, hai chữ “dợn dợn” thật đắt, nó thể hiện được cái dợn dợn trong tâm cảnh cũng như trong tâm hồn. Câu thơ cuối gợi nhớ tới một tứ thơ Đường: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Nhưng ở Huy Cận, ông không cần phải có “khói hoàng hôn” cũng vẫn “nhớ nhà” bởi nỗi nhớ này, nỗi buồn này dường như luôn thường trực trong tâm khảm.

“Tràng Giang” bằng âm điệu trầm buồn cùng cảm xúc tinh tế đã làm nổi bật lên “cái tôi trữ tình” với một trái tim cô đơn nhưng luôn đau đau tình yêu với quê hương đất nước. Theo “Tràng Giang” ta không chỉ cảm thông  với nỗi niềm của thi nhân mà còn quý trọng một tài hoa, một tâm hồn đáng trân trọng của Huy Cận.

Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” đã mang một luồng gió mới đến văn học Việt Nam – một cái tôi mãnh liệt táo bạo đầy mê say. Trong đó, cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng mang một phong cách rất khác biệt.

Cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng trước hết là một cái tôi táo bạo, mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện qua ước muốn táo bạo và có phần vô lý trong bốn dòng thơ ngũ ngôn.

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Trong lúc ta phiêu bạt chốn bồng lai cùng Tản Đà, chìm đắm trong thế giới trăng đầy  mộng tưởng cùng Hàn Mặc Tử thì Xuân Diệu lại là người đã “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Chính tình yêu trần thế đã níu kéo ông với cuộc đời thay vì lựa chọn thoát tục xa rời cuộc sống như những nhà thơ khác.

Phân tích cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng, ta nhận thấy với cuộc đời, ông có một khát khao cháy bỏng mãnh liệt. Điệp ngữ “tôi muốn” kết hợp hài hòa cùng thể thơ ngũ ngôn tạo ra một tiết tấu nhanh mạnh, dứt khoát đã góp phần thể hiện khát khao thiết tha, mãnh liệt của thi sĩ. Nhịp thơ nhanh như tô đậm hơn mức độ mãnh liệt, nồng nàn của ước vọng trong tâm hồn thi sĩ.

Đó là ước muốn “tắt nắng”, “buộc gió” tưởng chừng vô lý ấy nhưng lại chứa chan một tinh thần khát khao mãnh liệt. Một ước muốn táo bạo bởi đó là ước muốn can dự vào quy luật của tạo hóa để bất tử hóa cái đẹp. Bởi cái đẹp ngàn đời vốn mỏng manh trước dòng chảy vô tình của thời gian.

Phân tích cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng, người đọc cũng nhận ra khát khao táo bạo nhưng không phải ngông cuồng, cũng không phải một phút bồng bột mong muốn thách thức tự nhiên. Bởi ông muốn “tắt nắng”, “buộc gió” là để “màu đừng nhạt mất”, để “hương đừng bay đi”. Bởi nắng sẽ làm phai màu cuộc sống, gió sẽ làm nhạt đi hương vị cuộc đời. Vì thế, Xuân Diệu như muốn níu giữ thời gian để mọi vật vẫn mãi giữ được sự xuân sắc của mình dù đó là điều không thể. Có thể nói, đây chính là một khát khao, một tình yêu cuộc sống say đắm của nhà thơ.

Mẫu bài văn 🌸 Phân Tích Tràng Giang Khổ 3 4  🌸 nâng cao!

Liên Hệ Mở Rộng Bài Tràng Giang Với Đây Mùa Thu Tới Nâng Cao

Bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài thơ “Tràng giang” với ” Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu dưới đây được đánh giá hay nhất, mời bạn xem ngay

Nhà phê bình nổi tiếng Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã dùng những lời trang trọng, tốt đẹp nhất: “Một thời đại trong thơ ca” để nói về phong trào Thơ mới (1932-1945). Với các gương mặt tiêu biểu nhất là Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử. Đó là những thi nhân chủ yếu đã đem lại cho thơ ca Việt Nam nhiều tác phẩm đặc sắc.

Đặc biệt là hình ảnh thiên nhiên trong các tác phẩm này thật đẹp và gợi cảm. Có điều là do hoàn cảnh đất nước ta mất chủ quyền, nhân dân ta phải sống trong vòng áp bức của bọn thực dân phong kiến, nên hình ảnh thiên nhiên trong “Thơ mới” ở đây tuy đẹp mà buồn. Cứ thử đọc lại những bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu và Tràng giang của Huy Cận, chúng ta sẽ nhận ra rất rõ điều này.

Thơ Xuân Diệu và Huy Cậu, hai khuôn mặt lớn của Thơ mới, đều có chung một đặc điểm là thể hiện tình yêu thiên nhiên thật nồng nàn và say đắm. Bằng cảm hứng lãng mạn, các nhà thơ tài tình này đã xây dựng lên trong thơ mình những bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc hữu tình và gợi cảm.

Thiên nhiên ở đây mà cũng rất buồn, vì bao giờ cũng lá hình ảnh một thiên nhiên khúc xạ qua tâm hồn của nhà thơ. Nỗi buồn của các thi nhân ở đây cũng là nồi buồn của cả một thế hệ đương thời, nỗi buồn của cả một dân tộc phải sống lầm than trong những năm tháng tối tăm u buồn dưới thời Pháp thuộc.

Thiên nhiên trong bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu cùng buồn lặng “đìu hiu”, phai tàu, héo úa. Nhà thơ bắt đầu tác phẩm của minh bằng những hàng liễu rũ:

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lộ ngàn hàng.

Lá liễu từng sợi dài rũ xuống, dưới mắt thi nhân đã trở thành làn tóc của người thiếu nữ tóc buồn buông xuống. Nước mắt không rơi thành giọt mà rơi thành sợi, sợi buồn “buông xuống lệ ngàn hàng”.

Nhà thơ nhìn lá vàng từng chiếc rơi từng chiếc lại thấy đó là một sắc áo đẹp của mùa thu, nên đã reo lên chào đón:

Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Cái đẹp của mùa thu ớ đây là cái đẹp của vẻ tàn phai, héo úa, khô gầy:

Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.

Nỗi buồn mùa thu từ hoa rụng lá úa ở hai câu đầu của khổ thơ đã lan ra, thấm sâu vào các nhánh cây trơ trụi Khô gầy xương mỏng manh ở hai câu sau khiến cái rét thấu xương của từng luồng gió lạnh đã làm run rẩy rung rinh cả những chiếc lá thu còn sót lại.

Nỗi buồn ấy, cái rét ấy càng dễ nhận ra ở nơi trống vắng, ở những bến đò. Tuy đây là chỗ bốn bề lộng gió lại hội tụ đông người, nhưng chính cái rét thấu xương kia cùng khiếu người ta e ngại, ít muốn sang sông.

Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò

Nỗi buồn mùa thu còn thắm đẫm đến cả mây trời, làm nên một không khí u uất hận chia li với những cảnh chim bay về phương xa tránh rét:

Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li

Tất cả chi tiết của bức tranh thiên nhiên trong bài thơ này đều gợi nên một cảm giác xa xăm, nhớ thương buồn lặng. Cuối cùng, trên bức tranh thơ thấy hiện lên bóng dáng con người:

Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?

Đúng là hình ảnh của các cô với nét mặt buồn, với đôi mắt nhìn mãi ra xa, không chú mục vào một cái gì cụ thể mà như đang chìm đắm trong nỗi buồn và cô đơn, ngơ ngẩn.

Bài thơ Tràng giang của Huy Cận bức tranh thiên nhiên ở đây là hình ảnh sông nước thấm đượm một nỗi niềm “Băng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Mở đầu bài thơ là một khung cảnh thiên nhiên êm đềm bình lặng:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

Bên cạnh hình ảnh những “làn sóng”, “con thuyền” quen thuộc, những thi liệu từ lâu đã trở thành cổ điển, khổ thơ trên còn có thêm một nét sáng tạo hết sức bất ngờ: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Một cành củi khô trôi dạt vô định trên dòng sông chính là hình ảnh gợi người đọc nghĩ đến một thân phận lạc loài. Lối đảo ngữ “Củi một cành khô” càng làm nôi bật thêm sự cô độc, lạc loài và héo hon ấy.

Sang khổ thơ tiếp theo, nỗi buồn như càng thấm sâu hơn vào cảnh vật:

Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu

Bức tranh thiên nhiên vụt lớn hẳn gió đìu hiu thổi qua vài dải đất lơ thơ giữa sóng dài quạnh vắng, lặng buồn. Ngay cả tiếng chợ chiều đã tàn từ một làng nào đó cũng không có nữa. Không gian tiếp đó lại được mở rộng và đẩy cao thêm trong hai câu cuối của khổ thơ, vì “nắng xuống trời lên” Nhưng tuyệt vời hơn cả là ở đây nhà thơ đã tả chiều sâu trong chiều cao. “Nắng xuống trời lên sâu chót vót”.

Cảnh vật lại được mở ra thêm trong khổ thơ thứ ba với cả “bờ xanh tiếp bãi vàng” và những đám bèo trôi dạt “hàng nối hàng” chẳng biết sẽ về đâu. Toàn cảnh tràng giang trời rộng sông dài ấy lại tuyệt nhiên quạnh vắng, thiếu hẳn bóng người. Ở đây không có lấy một chuyến đò ngang hay một chiếc cầu để “gợi chút niềm thân mật:” Dưới mắt thi nhân, thiên nhiên dù hoang vắng nhưng vẫn lung linh và có hồn. Chính cảnh tình ấy đã lắng đọng thành lòng quê dờn dợn ở khổ kết bài thơ:

Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Đến đây, con người mới hiện ra cái cả tâm tình sâu nặng của mình giữa một thiên nhiên. Chua xót hơn nữa thi nhân đứng trên quê hương mình mà da diết nhớ quê hương mình, nói một cách khác là cảm thấy mình lạc loài ngay chính thiên nhiên trên quê hương đẹp đến độ kì vĩ lạ lùng.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc. Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” Cả một nỗi niềm “Sông dài trời rộng bến cô liêu” đã dàn trải suốt bài thơ đến đây, bỗng hiện ra với một nội dung cụ thể: Đó là nỗi nhớ quê hương da diết. Ngàytrước, Thôi Hiệu đứng trên Hoàng Hạc lâu, trông vời khói sóng chiều hôm mà buồn nhớ quê hương. Còn ở đây, Huy Cận : “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Tóm lại, hai bài thơ: Đây mùa thu tới của Xuân Diệu và Tràng giang của Huy Cận đều là những bức tranh thiên nhiên tuy tuyệt đẹp. Nhưng cũng đều ẩn chứa một nỗi buồn riêng. Cái buồn ở những bài thơ này cũng như của nhiều cái buồn của các nhà Thơ Mới chính là cái buồn của cá một thế hệ, của dân tộc ta trong những năm phải sống tủi nhục và đen tối dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến đương thời.

Đây cũng chính là một trong những giá trị tư tưởng chủ yếu của Thơ mới trong thời kì 1930. Thơ ca lãng mạn với các tác giả trên thể hiện lòng yêu nước thầm kín.

Sưu tập mẫu 🌸 Mở Bài Tràng Giang Hay 🌸 thú vị!

Liên Hệ Mở Rộng Bài Tràng Giang Với Chiều Tối Hay Nhất

Các bạn học sinh đang tìm kiếm bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài thơ “Tràng giang” với “Chiều tối” thì đừng bỏ qua bài viết này nhé!

Bài thơ Chiều tối (Mộ) của Hồ Chí Minh và Tràng giang của nhà thơ Huy Cận là hai bài thơ nổi tiếng của nền thi ca Việt Nam. Trong đó, hình ảnh buổi chiều tà được hai tác giả phác họa lên với cái nhìn tinh tế, sâu sắc, thể hiện tâm trạng đau đáu nhưng lại gợi lên một niềm tin phơi phới vào tương lai.

Trong cả hai bài thơ đều xuất hiện hình ảnh cánh chim chiều, sự vội vã đi tìm chốn ngủ, chốn nghỉ ngơi của những chú chim sau một ngày tìm kiếm thức ăn, sau những vội vã của cuộc sống mưu sinh vất vả. Những chú chim bất ngờ nhận ra rằng bóng tối đang ập đến.

Những chòm mây, ánh sao bắt đầu xuất hiện, hình ảnh mặt trời xuống núi gợi lên trong lòng hai tác giả Hồ Chí Minh và Huy Cận những tâm trạng bồi hồi, xót xa, một nỗi buồn vương man mác không biết bày tỏ cùng ai.

Trong hai bài thơ hình ảnh những đám mây gợi lên cho con người ta sự nhẹ nhàng, thoát tục đưa con người đến cõi hư vô. Những áng mây chiều trong thơ của chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành nguồn cảm hứng quen thuộc với người đọc. Nó là tôn lên sự bình lặng yên ả của bầu trời, sự thanh thản nhưng cô quạnh của một buổi chiều khi nắng vàng dần tắt.

Những câu thơ tả cảnh nhưng chứa đựng nhiều ngụ ý trong đó. Những cánh chim mệt mỏi, vội vã đi tìm sự bình yên sau một ngày mệt mỏi. Hình ảnh người tù chính trị bị giải đi qua khắp núi non, hiểm trở với gông cùm xiềng xích cũng giống như chú chim kia cần một sự nghỉ ngơi .

Trong cảnh lao tù mất tự do, bị xiềng xích nhưng tác giả Hồ Chí Minh vẫn vượt lên nỗi đau của thể xác để cảm nhận sự tươi đẹp sinh động của thiên nhiên, thể hiện tâm hồn người vô cùng tinh tế.

Điều này không chỉ thể hiện tình yêu thiên của Bác mà còn cho thấy nghị lực phi thường trong tâm hồn của Bác. Dù hoàn cảnh nào thì Bác vẫn luôn bình tĩnh và tự tin yêu đời.

Qua cách nhìn, quan sát của tác giả ta thấy được sự kiên cường chất thép trong thơ của Bác, phong thái, khí phách vô cùng ung dung thể hiện bản lĩnh của một người lãnh đạo của nhà nước ta.

Trong bài thơ Mộ của Bác thì hai dòng thơ đầu thể hiện về những chú chim đang vội vã trở về tổ ấm của mình, cho chúng ta thấy cảnh núi rừng hoang sơ:

Chim vội về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Còn trong hai câu thơ đầu của bài thơ Tràng giang, tác giả Huy Cận đã nói lên về nỗi buồn của những con sóng của mặt nước mênh mông:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song

Trong hai câu thơ này hình ảnh mặt nước, dòng sông gợi lên trong lòng người cảm giác buồn da diết thể hiện sự thê lương của tác giả. Điệp điệp, song song, là hai cặp từ láy làm cho câu thơ trở nên sinh động, gợi tính nhạc và chất trữ tình sâu sắc.

Tuy nhiên, trong bài thơ Mộ nỗi buồn của tác giả Hồ Chí Minh là nỗi buồn của một nhà cách mạng yêu nước, nỗi buồn khi phải chịu cảnh tù đày vô cớ. Tác giả muốn được trở về quê hương, lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc của nước nhà. Nỗi buồn khi người dân lao động vẫn phải chịu cảnh lầm than nô lệ.

Trong bài thơ Mộ tới cuối bài tác giả Hồ Chí Minh đã tìm thấy nguồn con đường ánh sáng của mình. Hình ảnh bếp than Hồng gợi lên một sự ấm áp cho con người, gợi lên tương lai, niềm tin của tác giả vào con đường mà mình đã lựa chọn.

Còn trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận ta tìm thấy nỗi buồn, một nỗi buồn mênh mông nhưng không có niềm vui, con người trong bài thơ này không tìm ra phương hướng cho chính bản thân mình.

Hai bài thơ giống nhau là do tư chất nghệ sĩ của hai tác giả, nhưng sự khác nhau là một người có khí phách, phương hướng lý tưởng sống của một nhà cách mạng, tìm thấy con đường lý tưởng mà mình đã chọn. Còn một người thì vẫn đang trên con đường tìm lý tưởng sống của mình và chưa biết nên đi theo hướng nào cho phù hợp.

Trong sự kết hợp hài hòa tinh tế của mình bức tranh chiều tối của tác giả Hồ Chí Minh về vùng rừng núi heo hút đã mang đậm chất thơ Đường thể hiện nỗi buồn của một người tù yêu nước, nhớ quê hương da diết.

Hình ảnh người con gái xay ngô tối bên bếp than rực hồng thể hiện cảnh sinh hoạt, sự ấm áp trong bài thơ của tác giả.

Bài thơ Mộ là một bài thơ hay thể hiện việc sử dụng ngôn ngữ vô cùng sinh động, tài tình của tác giả Hồ Chí Minh, thể hiện một phong cách văn học đậm chất trữ tình nhưng có chất thép, khí phách kiên cường trong thơ của Hồ Chí Minh.

Đọc thêm 🌸 Lời Bình Về Tràng Giang 🌸 hay nhất!

Liên Hệ Mở Rộng Bài Tràng Giang Với Đoàn Thuyền Đánh Cá Đơn Giản

Dưới đây là bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài thơ “Tràng giang” với “Đoàn thuyền đánh cá” đơn giản mà bạn có thể áp dụng:

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới, một nhà thơ mang nỗi buồn thiên sầu vạn cổ, khao khát được tách ra khỏi đời.

Cảm hứng thời đại ảnh hưởng rất lớn đối với những tác phẩm của nhà thơ, có thể thấy sự bế tắc, bối rối trong thơ của Huy Cận trước cách mạng tháng tám với bài “Tràng Giang”. Song, sau khi đất nước khởi sinh từ đầu, thơ của ông có sự chuyển biến mạnh mẽ, đó là một hồn thơ phấn khởi, hừng hực sức sống. Điều này được thể hiện rất rõ qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.

Huy Cận là một nhà thơ của thiên sầu vạn cổ, ông luôn nhìn thiên nhiên và con người bằng tâm trạng của một kẻ sầu đời:

Nắng chia nửa bãi; chiều rồi…
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau;
Em ơi! hãy ngủ… anh hầu quạt đây.
(Ngậm ngùi)

Có thể nói trước cách mạng tháng tám, phong cách thơ định hình của Huy Cận là luôn luôn buồn, luôn luôn chán nản. Cái chán chường ăn sâu vào từng con chữ, ám ảnh đến từng thanh âm. Nỗi buồn trong thơ Huy Cận gấp nhiều lần so với các nhà thơ cùng thời:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

Song dường như lột xác thành con người mới, ở “đoàn thuyền đánh cá”, một Huy Cận hoàn toàn khác xuất hiện, với thiên nhiên hào hùng tráng lệ, dạt dào cảm xúc lãng mạn, với con người hăng say lao động. Không khí gấp gáp song tràn ngập sự phấn khởi:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa,
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Cảnh trời biển quê hương đã được Huy Cận giới thiệu một cách tài tình. Mặt trời lặn, sóng cài then giữ chặt cánh cửa đêm. Màn đêm buông xuống, con người đã bắt dầu một buổi lao động đầy hăng say, náo nức. Mặt trời như hòn than rực cháy đang nhanh chóng lặn xuống biển, với năng lực tưởng tượng phong phú, nhà thơ gợi lên những liên tưởng thật bất ngờ, thú vị. Vũ trụ bao la huyền bí như ngôi nhà khổng lồ, không gian khép lại nhưng đã hoàn toàn biến mất vẻ đau buồn thường thấy ở Huy Cận.

“Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những bài thơ thể hiện sự chuyển mình mạnh mẽ trong phong cách thơ của Huy Cận. Trước cảm hứng của cuộc sống mới, nhà thơ đã không thể nào giữ yên lặng mà phải đặt bút. Có thể nói đây là một trong những sáng tác hay nhất của ông.

Quà tặng 👉 Thẻ Viettel 200k Miễn Phí 🎁

Liên Hệ Mở Rộng Bài Tràng Giang Với Đây Thôn Vĩ Dạ Học Sinh Giỏi

Gửi tặng bạn đọc bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài thơ “Tràng giang” với “Đây thôn vĩ dạ” dành cho học sinh giỏi!

Nhận xét về Thơ Mới, trong tuyển tập Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu.

Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn neo neo theo hồn ta”. Nỗi buồn, cái tôi đó gặp nhau bởi những tâm hồn đồng điệu.

Đặc biệt là những nhà thơ lấy thiên nhiên làm chủ đạo. Phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) cũng vậy, nó đưa tình cảm mênh mang trong “Tràng giang” của Huy Cận đến với nỗi niềm hẫng hụt, chơi vơi trong “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.

Được biết đến là những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới (1939 – 1945), Hàn Mặc Tử và Huy Cận đã có một vị trí khá tốt trong thi đàn văn học Việt Nam.

Hàn Mặc Tử với cuộc đời bi thương, hồn thơ phong phú, kì lạ và có cái “điên” của riêng mình. Ông luôn bộc lộ một tình yêu đau đớn hướng về trần thế. “Đây thôn Vĩ Dạ” là tác phẩm xuất sắc thể hiện tấm lòng tha thiết với cuộc sống của thi nhân.

Còn Huy Cận – hồn thơ cổ điển, giàu suy tưởng và triết lí, nổi bật về cảm hứng thiên nhiên. “Tràng Giang” là một bài thơ xuất sắc thể hiện nỗi buồn sầu trước tạo vật mênh mông, hoang vắng, u buồn và luôn mang một tình yêu thầm kín đáo với quê hương, đất nước.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là bức thư của Hàn Mặc Tử gửi một cô gái mang tên Kim Cúc, là tiếng lòng, là lời mời, là nỗi nhớ nhung của anh chàng thi sĩ. Bài thơ được ra đời trong thời gian Hàn Mạc Tử đang bệnh nặng, nên nỗi buồn dường như còn phảng phất trong từng câu, từng chữ.

Nhìn chung, “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ tao nhã, xinh xắn, lần theo một mối tình đơn phương và thuần khiết, ta cảm thấy được một thế giới tâm hồn tha thiết yêu người, yêu cảnh, yêu đời. Dù có gặp bi kịch nhưng vẫn không thôi hi vọng.

“Thơ đi từ cái hiện thực đến cái ảo ảnh, từ cái ảo ảnh đến cái huyền diệu, từ cái huyền diệu đến cái chiêm bao. Bao trùm cả bài thơ là một thế giới mơ.” Có lẽ quan niệm đó được thể hiện rõ trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

 Tràng Giang là bài thơ được sáng tác vào năm 1939, in lần đầu tiên trên báo “Ngày nay” sau đó in trong tập “Lửa thiêng” – tập thơ đầu tay của Huy Cận. Ngay khi đọc tên bài thơ, ta có thể hình dung được tâm tư và tình cảm mà tác giả gửi gắm trong bài.

Bài thơ với tựa đề hiện ra một con sông dài, mênh mông, bát ngát. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh sông dài còn là những mảnh đời bấp bênh, trôi nổi, u sầu. Câu đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” tiếp tục khẳng định nỗi niềm u uất, không biết tỏ cùng ai của nhân vật trữ tình trước không gian bao la của dòng sông.

Với “Tràng giang”, Huy Cận không chỉ mang đến bức tranh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông mà qua đó tác giả còn nhấn mạnh sự cô đơn của “cái tôi” trước ngân hà rộng lớn. Sự đối lập này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, sự trôi nổi của những kiếp người. Đồng thời tác giả bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước của mình.

Thông qua hai bài thơ ta thấy được sự đồng điệu, gặp gỡ của hai thi nhân đó là miêu tả bức tranh thiên nhiên trời – nước, cảnh vật. Qua đó bộc lộ nỗi buồn và tình yêu của mình đối với tạo vật thiên nhiên và cuộc sống. Hơn thế nữa, cả hai đều sử dụng rất nhuần nhuyễn thể thơ thất ngôn điêu luyện, kết hợp tả cảnh ngụ tình và miêu tả trực tiếp.

Tuy nhiên chỉ gặp nhau ở một tư tưởng nhất định, mỗi bài thơ của mỗi tác giả đều có một nét hay, nét đẹp riêng.

“Đây thôn Vĩ Dạ” là viết về nỗi buồn của một người khát khao được sống, được yêu và thiết tha gắn bó với cõi đời, cõi người nhưng lại cảm thấy mong manh và vô vọng; bài thơ được viết từ những thi liệu trực quan từ trải nghiệm của chính mình.

Còn “Tràng Giang” là nỗi buồn rợn ngợp trước tạo vật mênh mông, hoang vắng cùng mặc cảm của thi nhân, của nhân vật trữ tình khi đứng trên quê hương; bài thơ thành công bởi những thi liệu cổ điển từ trong thơ Đường.

Như vậy, thiên nhiên chính là tình yêu, là nguồn cảm hứng bất tận đối với người thi nhân. So sánh Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ ta có thể thấy được điều đó qua từng câu từng chữ trong bài.

Quà tặng 👉 Cho Acc Roblox VIP Free 🎁

Viết một bình luận