Liên Hệ Đất Nước: 32+ Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Hay Nhất

Liên Hệ Đất Nước ❤️ 32+ Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Hay Nhất ✅ Những Bài Văn Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Đất Nước Đặc Sắc Nhất.

Cách Liên Hệ Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm

Hướng dẫn cho bạn những bước nhanh nhất để hoàn thành bài văn liên hệ bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm:

  • Bước 1: Phân tích trích đoạn “Đất nước” trong bài “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm.
  • Bước 2: Liên hệ với ngữ liệu
    • Ngữ liệu có thể do đề bài quy định sẵn.
    • Ngữ liệu có thể do bạn tự chọn: Ví dụ như “Liên hệ niềm tự hào về lịch sử dân tộc của Đất nước với Bình Ngô Đại Cáo”….
    • Trình bày điểm giống nhau và khác nhau của 2 ngữ liệu, tạo sự liên quan với nhau.
  • Bước 3: Nhận định về đoạn trích “Đất nước” thuộc chương 5 của “Mặt đường khát vọng”

Đất Nước Liên Hệ Với Bài Nào

Dưới đây là các bài thơ có thể dùng để liên hệ bài thơ “Đất nước”, xem ngay nhé!

  • Liên hệ bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm với bài “Tây Tến” của Quang Dũng.
  • Liên hệ bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm với bài “Việt Bắc” của Tố Hữu.
  • Liên hệ bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm với bài “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi.
  • Liên hệ bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm với bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
  • Liên hệ bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm với bài “Sóng” của Xuân Quỳnh.

Những Câu Thơ Liên Hệ Với Bài Đất Nước

Tham khảo các câu thơ hay có thể dùng để viết bài văn liên hệ bài thơ “Đất nước” mà SCR.VN chia sẻ bên dưới nhé!

  • Khi nói đến niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử trong câu thơ “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Ta có thấy Nguyễn Trãi cũng từng khẳng định điều ấy trong “Bình Ngô đại cáo”:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”

  • Khi phân tích câu thơ “Đất Nước có trong những cái ngày xưa mẹ thường hay kể”. Để thấy được vai trò của những câu truyện cổ tích trong đời sống tinh thần của nhân dân ta, chúng ta có thể liên hệ đến:

“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm”
(“Truyện cổ nước mình” – Lâm Thị Mỹ Dạ)

  • Từ hình ảnh “Tóc mẹ thì bới sau đầu” trong “Đất nước” ta có thể liên hệ đến ca dao:

“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài bối rối lòng anh”

  • Khi phân tích nghĩa tình của cha mẹ trong câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” gợi ta nhớ đến lời ca dao quen thuộc, thấm đậm tình nghĩa thủy chung:

“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

  • Nói đến nỗi nhớ trong câu thơ “Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” trong “Đất nước” ta có thể liên hệ đến nỗi nhớ trong “Sóng” – Xuân Quỳnh:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Hay nỗi nhớ mãnh liệt trong “Tương tư chiều” – Xuân Diệu:

“Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!”

  • Từ hình ảnh thơ “Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm“, còn làm ta nhớ đến những vần ca dao lay động lòng người, bồi hồi xao xuyến trước tình cảm chân thành của những trái tim đương thời say đắm:

“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên ai”

  • Khi phân tích: “Thời gian đằng đẵng/ Không gian mênh mông/ Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”. Ta thấy: câu thơ ngầm ngợi ca dân mình đã gắn bó, đoàn kết dựng nước và giữ nước, bảo vệ từng tấc đất quê hương qua bốn nghìn năm lịch sử. Ý thơ làm ta nhớ đến những lời cuối trong bản “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
  • Khi phân tích câu thơ “Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần Đất Nước”, với tư tưởng trong ta luôn có một phần Đất Nước, ta có thể liên hệ đến tác phẩm “Quê hương” của Giang Nam:

“Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần máu thịt của em tôi”

  • Hình ảnh so sánh “Đất Nước là máu xương của mình” gợi ta liên hệ đến câu thơ:

“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
(“Sao chiến thắng” – Chế Lan Viên)

  • Khi nói đến trách nhiệm của cá nhân đối với Đất Nước “Em ơi em đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ / Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở / Làm nên Đất Nước muôn đời…” Chúng ta có thể liên hệ đến những câu hát như:

“Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà phải hỏi rằng ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”
(Khát vọng tuổi trẻ)

Hay liên hệ đến những khát vọng cống hiến trong bài “Tự nguyện”:

“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa tôi sẽ là một đoá hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương”.

  • Khi nói đến ý thức giữ gìn và truyền lại những giá trị văn hóa, tinh thần của thế hệ trước cho thế hệ sau trong đoạn thơ: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng …. Có nội thù thì vùng lên đánh bại” ta có thể liên hệ đến “Báng súng” của Hoàng Trung Thông:

“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.

  • Từ ý thơ “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” ta có thể liên tưởng đến câu ca dao:

“Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng”

  • Nói về tinh thần yêu nước, bất khuất của người Việt Nam trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm:

“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ lâu dài”

  • Ta có thể liên hệ đến những câu ca dao ngợi ca tinh thần quật khởi của dân tộc:

“Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què”

Mẫu 🌸 Dàn Ý Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm 🌸 chi tiết nhất!

Những Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Đất Nước Hay Nhất

Tham khảo những mẫu bài văn liên hệ bài thơ “Đất nước” hay nhất mà SCR.VN chia sẻ bên dưới nhé!

Liên Hệ Bản Thân Bài Đất Nước Đặc Sắc

Bạn có thể tham khảo bài văn liên hệ bản thân với bài thơ “Đất nước” đặc sắc mà chúng tôi gợi ý bên dưới:

Mặt đường khát vọng là tập trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971. Bản trường ca khái quát quá trình thức tỉnh của tuổi trẻ các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam. Họ nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ; hướng về nhân dân, về đất nước; ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.

Đất Nước có thể coi là chương hay nhất trình bày sự cảm nhận và lý giải của tác giả về đất nước, cũng đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của cả bản trường ca, đó là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Trình tự triển khai mạch suy nghĩ và cảm xúc của tác giả khá chặt chẽ nhưng cũng rất phóng túng.

Đoạn thơ mở đầu bằng những lời định nghĩa say sưa về đất nước. Tiếp đó là sự hình dung về đất nước qua chiều dài thời gian – lịch sử, qua về rộng của không gian – lãnh thổ địa lí và qua chiều sâu văn hóa – phong tục, lối sống, tính cách của người dân Việt Nam, với một niềm tự hào sâu sắc. Từ ba bình diện này, lời thơ hào hứng, giàu chất suy tư hướng đến tư tưởng chủ đạo: “Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân“.

Trong phần đầu của đoạn trích, bằng hình thức trữ tình – chính luận, nhà thơ đã đưa ra định nghĩa riêng của mình về đất nước bằng những cảm nhận về đất nước trong cổ tích, ca dao. Lời thơ định nghĩa thoát khỏi những khái niệm khó khăn để trở thành một cuộc chuyện trò gần gũi, thân mật mà bay bổng. Mức độ đậm đặc của các chất liệu lấy từ cổ tích, truyền thuyết, ca dao, dân ca, huyền thoại…. tạo cho đoạn thơ đầu một âm hưởng đầy quyến rũ. Những câu thơ như:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “Ngày xửa ngày xưa…”mẹ thường hay kể

Đoạn thơ đầu làm mờ đi khái niệm đất nước là của các vương triều. Ngay từ lúc sơ khai, nó đã là của nhân dân. Định nghĩa đất nước bằng sự lựa chọn chất liệu từ văn hóa dân gian, đó là một ẩn ý của Nguyễn Khoa Điềm bời văn hóa dân gian của nhân dân. Cách định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm là một sự khám phá mới mẻ, độc đáo tạo ra sự hấp dẫn và thú vị đối với người đọc.

Cách định nghĩa về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chạm được vào những gì thiêng liêng nhất, lớn lao nhất nhưng cũng lại gần gũi và thân thiết nhất đối với mỗi chúng ta. Nõ dễ gợi cho ta những suy ngẫm về quá khứ, về lòng tự hào dân tộc. Và bởi thế, nó thức tỉnh ý thức dân tộc và tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với nhân dân trong mỗi chúng ta.

Phần sau của đoạn thơ từ “Những người vợ nhớ chồng” đến hết đoạn trích là phần tập trung làm nổi bật tư tưởng “Đất nước của nhân dân”. Trong phần này, tư tưởng đã quy tụ mọi cách nhìn nhận và đưa đến những phát hiện sâu sắc và mới mẻ của tác giả về địa lí, lịch sử và văn hóa của đất nước.

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.

Quả là những phát hiện rất mới về thiên nhiên đất nước. Những núi Bút, non Nghiên, núi Vọng Phu, hòn Trống Mái… vốn đã rất quen thuộc nay bỗng trở nên thật lạ. Nó không phải là sản phẩm của tạo hóa mà là tâm hồn, là số phận của nhân dân.

Đến đây, thiên nhiên, tạo hóa không phải là cái làm nảy sinh ra những câu chuyện đầy huyền thoại mà chính những câu chuyện về những tâm hồn, những số phận của con người trong quá khứ làm cho những danh thắng kia có tâm hồn, làm cho nó sống mãi. Cái nhìn rất thơ của tác giả đi đến một khái quát đầy thấm thía:

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…

Tiếp nối những câu thơ khám phá độc đáo về thiên nhiên là những câu thơ khám phá vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam, cũng như vai trò, vị trí của con người Việt Nam trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là những con người yêu thương sâu sắc, thủy chung tình nghĩa; là những con người cần cù lao động, anh hùng trong đánh giặc; là những con người “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng chính họ “đã làm ra Đất Nước”. Họ là những người âm thầm làm nên lịch sử, âm thầm gìn giữ những nét văn hóa của dân tộc qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử dân tộc.

Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định:

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.

Đó là một chân lý. Một chân lý đã được nhận thức trong suốt quá trình phát triển dài lâu của lịch sử nhưng chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại, nó mới đạt đến đỉnh cao, mới cất lên thành những tuyên ngôn đầy tự hào và hang động sâu xa.

Thế hệ trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước. Biết bao thế hệ cha anh đã ngã xuống để giành đọc lập dân tộc để Việt Nam có thể hiên ngang sánh vai các cường quốc năm châu như ngày nay. Chính vì vậy thế hệ trẻ ngày nay lại càng phải có trách nhiệm đối với quê hương đất nước.

Trong xã hội hòa bình như ngày nay, trách nhiệm của thế hệ trẻ được thể hiện qua những hành động cụ thể như tiếp nối truyền thống của những người đi trước, chăm chỉ học hành để phát triển bản thân mai này góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Là những người chèo lái con thuyền đất nước cập bến bờ “sánh vai với cường quốc năm châu”.

Tuổi trẻ nên có ý thức học tập, chuẩn bị cho mình 1 hành trang vững chắc. Đồng thời mở rộng tầm nhìn để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Ý thức ấy nằm ở mỗi con tim, khi Tổ quốc cần, chúng ta luôn sẵn sàng.

Bài văn 🌸 Cảm Nhận 9 Câu Đầu Đất Nước 🌸 hay nhất!

Liên Hệ Mở Rộng Đất Nước Ngắn Gọn

Chia sẻ cho các bạn bài văn liên hệ mở rộng bài thơ “Đất nước” ngắn gọn, tham khảo ngay bạn nhé!

Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm.

Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.

Bài thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với những ngày đầu mới khai sinh:

Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ…” thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc.

Đất nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tác giả sử dụng từ “khi” để đánh dấu sự ra đời của khái niệm “đất nước”. Từ khi mỗi chúng ta sinh ra thì đất nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lí giải nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được.

Đất nước còn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt Nam. Tác giả không chỉ dừng lại ở đó, đất nước còn được lý giải chính là thành quả của công cuộc lao động để xây dựng và phát triển:

Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó

Một một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt của con người như “kèo, cột” đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị, rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn. Hình ảnh Đất Nước trong 9 câu thơ đầu Việt Bắc qua sự cảm nhận của tác giả thật mới mẻ nhưng cũng rất gần gũi, thân thương.

Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất nước, đó là chuyện tình yêu lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất nước không chỉ hiển hiện trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con người mà còn hiện lên trong những tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã cắt nghĩa “đất nước” thành hai từ “đất” và “nước” để lí giải cụ thể ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.

Đất nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh “con chim phượng hoàng”, “núi bà Đen, bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. Nhớ về cội nguồn, nhớ về những ngày xưa vất vả chính là đạo lí, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân ta.

Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:

Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Trong sự hình thành và phát triển bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định. Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó.

Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến.

Hơn hết tác giả còn khẳng định:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước

Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của đất nước này.

Đất nước còn được Nguyễn Khoa Điềm tích lũy thành một khái niệm sâu sắc:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta

Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể phủ nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế. Đất nước còn biểu tượng cho lòng thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã xuống vì hòa bình, tự do cho hôm nay:

Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước

Lại thêm một sự lí giải đúng đắn cho định nghĩa “đất nước”, những con người đó họ dù chết nhưng trái tim họ vẫn còn sống mãi trong cuộc sống của những người ở lại. Họ sẵn sàng hi sinh không tiếc đời mình để giữ vững độc lập chủ quyền của đất nước:

Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Tuổi hai mươi làm sao không tiếc?
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc?
(Trường ca “Những người đi tới biển” – Thanh Thảo)

Chính vì sự hy sinh lớn lao đó, dù ở bất cứ thời đại nào, mỗi con người chúng ta nhất là thế hệ thanh niên cũng luôn phải ý thức vai trò trách nhiệm của mình đối với đất nước. Trước tiên thế hệ trẻ phải xác định tư tưởng, tình cảm, lí tưởng sống của mình: yêu quê hương đất nước, tự hào tự tôn dân tộc, có ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của dân tộc; lao động, học tập để khẳng định bản lĩnh, tài năng cá nhân và phục vụ cống hiến cho đất nước, sẵn sàng có mặt khi Tổ Quốc cần.

Thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu là xu thế hội nhập, khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ cao, vậy thế hệ trẻ cần phải học tập tích lũy tri thức để góp phần phát triển đất nước theo kịp thời đại, hội nhập với xu thế phát triển chung của quốc tế.

Bên cạnh đó, phải rèn luyện sức khỏe để có khả năng cống hiến và bảo vệ đất nước. Đồng thời thanh niên cũng cần quan tâm theo dõi đến tình hình chung của đất nước, tỉnh táo trước hành động của mình không bị kẻ xấu lợi dụng.

Về vấn đề chủ quyền biển đảo, thanh niên cần hưởng ứng và tích cực các diễn đàn hợp pháp trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên Internet, khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên các diễn đàn, đồng thời kịch liệt lên án và đấu tranh tham gia ngăn chặn các hành vi vi phạm xâm phạm chủ quyền biển, hải đảo thiêng liêng của Tổ Quốc, phải luôn có “trái tim nóng, cái đầu lạnh”. Sở dĩ như vậy bởi vì:

Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.

Thật vậy, nhân dân chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vậy đất nước này phải thuộc về nhân dân. Tư tưởng của tác giả rất tiến bộ, rất đời thường và rất sâu sắc.

Như vậy, Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã khẳng định được vị trí, vai trò vô cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Gấp trang sách lại nhưng những hình ảnh về đất nước vẫn sống mãi trong lòng người đọc.

Xem ngay bài văn 🌸 Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước 🌸 đặc sắc!

Liên Hệ Đất Nước Với Mùa Xuân Nho Nhỏ Ấn Tượng

Gợi ý cho bạn mẫu bài văn liên hệ bài thơ “Đất nước” với “Mùa xuân nho nhỏ” ấn tượng, xem thêm bên dưới:

Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời kỳ chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân thông qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca này.

Tư tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ trữ tình – chính luận. Cái lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị: Không phải ai khác mà chính nhân dân – những người vô danh – đã kiến tạo và bảo vệ, giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống vãn hoá, lịch sử hàng ngàn đời của dân tộc.

Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của cảm hứng của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân.

Tư tưởng đó được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện: trong chiều dài của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện, thống nhất chặt chẽ với nhau trong một “hệ quy chiếu”. Đất nước của nhân dân vốn là linh hồn của cả bài thơ.

Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không khí của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất nước.

Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh động, đầy gợi cảm.

Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kèo, cái cột, qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.

Đất nước không phải là cái gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước

Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn đề dân tộc nói lên như một vân đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước không phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san xẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời.

Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta.

Chiều sâu của lịch sử, truyền thống, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca dao quen thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện truyền thống, vãn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền với quá khứ, hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:

Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ – ngày giỗ Tổ.

Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất Nước.

Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân.

Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.

Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con người vô đanh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người bình dị, vô danh đó:

Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa, tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo:

Đất Nước này là Đất nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao, thần thoại.

Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là chương tiêu biểu và tinh tuý nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế hệ mình về đất nước.

Đồng quan điểm sống với Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ Thanh Hải trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” cũng thể hiện quan điểm như vậy.

Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước

Hình ảnh so sánh tuyệt đẹp “đất nước như vì sao” rực rỡ, luôn đổi mới và phát triển không ngừng, mang ý nghĩa định hướng, thúc đẩy mọi người hăng say cống hiến xây dựng tổ quốc. Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ suy tư về mùa xuân riêng của từng con người và đầy lòng khát khao hiến dâng:

Ta làm con chim hót
Ta làm một canh hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Đoạn mẫu 🌸 Mở Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm 🌸 thu hút!

Liên Hệ Đất Nước Với Sóng Sáng Tạo

Mời các bạn cùng xem bài văn liên hệ bài thơ “Đất nước” với bài thơ “Sóng” một cách sáng tạo nhất!

Vườn thơ dân tộc thêm tươi sáng và tỏa hương thơm ngát chính là nhờ những sự độc đáo và khác lạ như sự khác biệt trong quan điểm về tình yêu khi so sánh sóng và đất nước. Trong khi Nguyễn Khoa Điềm thu hút độc giả bằng định nghĩa tình yêu đất nước là vĩnh cửu, thì nàng thơ Xuân Quỳnh lại thuyết phục ta khi tình yêu đôi lứa là muôn thuở, muôn đời. 

Tình yêu là điều kì diệu nhất của cuộc sống. Nó cho phép ta cảm nhận thế giới này bằng nhiều góc nhìn hơn: màu hồng với những thiếu nữ lứa tuổi đôi mươi, nhưng lại là màu tím thủy chung chờ đợi đối với những người thiếu phụ kia trong những năm đẵng đẵng chờ chồng ra trận. Cũng giống như cuộc sống kia, tình yêu là muôn hình muôn vẻ, và mỗi  người thi sĩ lại khoác lên cho nó một hình ảnh khác nhau. 

Qua hai đoạn trích thơ trong tác phẩm “Đất nước” (Nguyễn Khoa Điềm) và “Sóng” ( Xuân Quỳnh), chúng ta cũng có thể nhìn thấy được rất rõ tình yêu qua  lăng kính của hai nhà thơ này.

Xuân Quỳnh nổi tiếng như nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Hạnh phúc của bà luôn đến từ những điều bình dị nhất, đến từ những khao khát của tiếng yêu. Cái tôi của những thiên tài luôn rất độc đáo: Giàu đức hi sinh, vị tha và vô cùng nữ tính. Bà luôn khao khát tình yêu chân thành, mãnh liệt, nhưng lại gắn chúng với thức cảm lo âu về sự đổ vỡ, bất trắc.

Tác phẩm sóng được xuất bản năm 1967, nhân chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào. Đoạn thơ được nhắc đến là đoạn thứ 5 của bài, chan chứa nỗi nhớ của nhân vật trữ tình “Em”

Không giống như Xuân Quỳnh, Nguyễn Khoa Điềm cuốn hút người đọc bằng cảm xúc trữ tình nồng thắm và chất suy tư sâu lắng.. Lời thơ của ông là lời của một người tri thức yêu nước, luôn gắn mình với trách nhiệm cho tổ quốc, cho nhân dân

Đoạn trích Đất Nước là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng. Tác phẩm này được hoàn thành năm 1971, thể hiện sự thức tỉnh của thế lệ trẻ miền Nam về trách nhiệm thiêng liêng với nhân dân, đất nước.

Khi so sánh đất nước và sóng chắc chắn phải nói đến điểm tương đồng giữa chúng: tình yêu đôi lứa trong nỗi nhớ, niềm thương. Làm gì có ai từng yêu mà chưa trải qua nỗi nhớ chờ mong, khắc khoải? Đây vốn dĩ là điều hiển nhiên trong tình yêu. Nó như thể hiện sự khao khát mong muốn được cạnh bên người trong trái tim mình.

Mượn hình ảnh chiếc khăn- tín vật giao ước kết đôi, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã diễn tả tình yêu như sau:

“ Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Chiếc khăn từ xưa luôn được coi như là sợi chỉ hồng của ông tơ bà nguyệt cho các cặp đôi. Những người đang yêu trao nó cho nhau để thể hiện sự khăng khít, gắn bó mặn nồng, là một tín vật cho điểm giao kết giữa đôi bạn tình. 

“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất…”

Đây là chiếc khăn tín nghĩa. Nó đại diện cho tình cảm trong sáng, đẹp đẽ và nỗi nhớ nhung đầy yêu thương.

Đâu cần những vẫn giao kết kia, người phụ nữ khao khát sống, khao khát yêu kia của Xuân Quỳnh vẫn có thể diễn tả được tất cả nỗi nhớ điên cuồng mãnh liệt ấy.Bởi tình yêu ấy đã vượt qua mọi chiều kích giới hạn chật hẹp để đến với tình yêu( sâu- rộng), vượt qua mọi bến bờ của vũ trụ, xuyên qua không gian, thời gian ( ngày – đếm) và kết tụ ngay cả khi “thức” lẫn khi “ngủ” của Xuân Quỳnh. 

Tình yêu ấy đã bao trùm mọi thứ: Từ không khí, cảnh vật, nên bà đâu cần tới vật giao ước cho nỗi lòng mình? Cho nên tình yêu ấy với nỗi nhớ ấy càng trở nên da diết, khắc khoải hơn bao giờ hết. Nó không đơn thuần chỉ là nỗi nhớ bình thường vụt đến rồi vụt tan mà nỗi nhớ ấy đã trở thành gánh nặng tâm tư trong lòng người con gái đang yêu mất rồi.

Khi so sánh sóng và đất nước, thật thiếu sót nếu không thể nhận ra điểm tương đồng giữa hai đoạn thơ là tác giả đều rất tài tình khi diễn tả tâm tư, tình cảm của mình bằng hình ảnh, sự vật, hiện tự tự nhiên xung quanh.

Tác giả của Đất nước đã kể đến những sự vật xung quanh ta. Ấy là trường học, là “nơi em tắm”, “nơi chim về” hay “noi rồng ở”. Tất cả đều vô cùng bình dị, thân thương đã trở nên vô cùng quen thuộc với chung

Gắn những hình ảnh ấy với hai từ: Đất Nước, tác giả muốn truyền tả đến người đọc những thông điệp vô cùng ý nghĩa: Đất nước không tồn tại ở đâu xa xôi mà nó hóa thân, hiện hữu xung quanh mỗi chúng ta. Đó chính là mỗi sự vật mà chúng ta nhìn thấy, tất cả những sự vật nhỏ bé ấy đều góp phần làm nên dáng hình, diện mạo Đất nước.

Còn Sóng của Xuân Quỳnh cũng vậy, bà đã mượn hiện tượng tự nhiên của sóng biển để soi vào nhịp lòng mình. Nhịp đập ấy đồng điệu với thiên nhiên, với sóng làm bùng lên khát vọng về tình yêu và nỗi nhớ.

“Con sóng dưới lòng sâu
Con song trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Những đợt sóng dâng trào, sóng tiếp sóng ào ạt lúc thì lăn tăn gối lên nhau trên  mặt nước, lúc lại luôn tiềm ẩn cái dữ dội, ồn ào  lòng sâu dưới đáy bể đại dương bao la thăm thẳm. Tất thảy những đợt sóng đều cuồn cuộn xô đuổi nhau đến tận chân trời, đưa sóng đến gần hơn với bờ. Bởi bờ chính là điểm đến của sóng, là chỗ dựa vững chắc cho điểm về của sự bình yên, phẳng lặng.

Bên cạnh điểm giao thoa, kết sóng thì khi so sánh bài thơ sóng và đất nước, chúng ta còn thấy có điểm khác biệt rõ ràng. Phong cách của mỗi cá nhân trở nên độc đáo, hấp dẫn hơn chính là nhờ điều ấy.

Với Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, tình yêu đôi lứa là sự hóa thân, nảy mầm nên tình yêu cho quê hương, cho Đất nước. Tình yêu giữa đôi lứa có thể góp phần giúp cho diện mạo đất nước tươi đẹp, vui tươi và trù phú hơn.

Còn trong đoạn thơ của bài thơ Sóng,tình yêu này lại đời thường hơn, tuyệt đối hóa riêng tư. Cái chất đời thường trong tình yêu gắn liền với nỗi nhớ ấy đã được Xuân Quỳnh diễn tả thông qua hình tượng “ sóng” với sự phân thân của nhân vật trữ tình “em”: 

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Tình yêu của “cái tôi” kia cuồng nhiệt, say mê, nhấn chìm mọi thứ xung quanh thông qua đầu ngọn bút. Và điều trùng hợp là bài thơ vốn được viết theo thể ngũ ngôn nay đến khổ thơ này đã tự dôi ra hẳn hai câu thơ, dường như đạt được dụng ý của nhà thơ: Một tình yêu dâng trào, vượt qua mọi thứ..

Nguyễn Khoa Điềm miêu tả tình yêu trong Đất nước với thể thơ tự do, hàng hoạt các hình ảnh, sự vật tự nhiên kết hợp với chiết tự từ. Việc này đã diễn tả được tư tưởng của tác giả một cách xuất sắc. Đất nước kia vốn là hóa thân của muôn vàn những điều nhỏ bé hơn: đơn sơ, giản dị và thân thuộc đến lạ thường.

Nỗi nhớ niềm thương và tấm lòng thủy chung son sắt của một tâm hồn đa sầu, đa cảm được kể qua Sóng với thể thơ ngũ ngôn và việc hình tượng hóa sóng biển. Trái tim thổn thức của người phụ nữ đang yêu ấy như hoa làm một với từng đợt sóng trào dâng

Như ta đã biết, Nghệ thuật luôn đòi hỏi tính sáng tạo, mỗi người nghệ sĩ luôn cố gắng tạo cho mình một phong cách nghệ thuật riêng. Vì thế các tác phẩm tạo ra mới không bị nhòe lẫn vào các tác phẩm của nhà thơ khác.

Không nằm ngoài lệ, Nguyễn Khoa Điềm luôn thể hiện một phong cách thơ trữ tình – chính luận. Với sự tự ý thức về vai trò- chức năng của một nghệ sĩ – chiến sĩ thì đối với ông, thơ ca chính là ngọn nguồn cảm hứng viết lên những bản tình ca bất hủ về Đất nước. Cho nên tình yêu đôi lứa dưới con mắt của nhà thơ nó chính là một phần biểu hiện của một tình yêu đất nước muôn đời.

Còn thi sĩ Xuân Quỳnh thì ngược lại, chị tìm cho mình một tiếng nói riêng trong trái tim của một người phụ nữ hồn hậu đa sầu, đa cảm với những khoảnh khắc rung động trong tình yêu đôi lứa. Tình yêu ấy luôn cháy rực ngọn lửa trong các trang thơ của Xuân Quỳnh thật muôn vẻ muôn phần. Vì thế, dưới con mắt của thi sĩ, tình yêu luôn được cụ thể hóa trong một tâm hồn khát khao hướng tới hạnh phúc riêng tư, đời thường.

Dù có những điểm chung trong quan điểm về tình yêu, nhưng sự khác biệt về tư tưởng của họ mới chính là thứ làm nên thương hiệu của một thi sĩ. Trong khi, Nguyễn Khoa Điềm thu hút độc giả bằng định nghĩa tình yêu đất nước là vĩnh cửu, thì nàng thơ Xuân Quỳnh lại thuyết phục ta khi tình yêu đôi lứa là muôn thuở, muôn đời. Vườn thơ dân tộc thêm tươi sáng và tỏa hương thơm ngát chính là nhờ những sự độc đáo và khác lạ như vậy.

Tham khảo mẫu 🌸 Kết Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm 🌸 một cách ngắn gọn!

Liên Hệ Đất Nước Với Việt Bắc Nâng Cao

Tham khảo bài văn liên hệ bài thơ “Đất nước” với “Việt Bắc” nâng cao dưới đây để biết cách làm dạng đề này nhé!

Đất nước là đề tài quen thuộc trong thơ ca. Nhưng điều đó không có nghĩa là nó trở nên đơn điệu và nhàm chán. Mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi hoàn cảnh khác nhau, cũng như mỗi phong cách của tác giả lại có cách thể hiện diện mạo đất nước khác nhau. Góp phần làm phong phú mảng đề tài này là bài Việt Bắc của Tố Hữu và đoạn trích Đất Nước (bản hùng ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm.

Mở đầu chương thơ của mình, Nguyễn Khoa Điềm viết: “Khi tôi lớn lên, Tổ quốc còn đó”. Chính xác ! Cả thi nhân và chúng ta đều không biết đất nước có từ bao giờ, nhưng qua văn cổ, ta có thể thấy được diện mạo đất nước từ một cảnh thiên nhiên tươi đẹp:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
(Ca dao)

Hay một chợ quê yên bình
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dẳng giỏi cầm ve lầu tịch dương
(Nguyễn Trãi)

Nhưng khi có giặc ngoại xâm, đất nước không chỉ đau đớn. Nhưng đất nước ấy vẫn hừng hực lòng căm thù: “Kẻ thù đã định trời, hận không đội trời chung”. Để rồi lòng căm thù ấy biến thành những trận đánh vang dội:

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ cho bay
(Nguyễn Trãi)

Để đất nước mãi là niềm tự hào của người con Việt Nam

Từ Triệu Dinh Lý Trần bao đời gây nền Độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống Nguyên xưng Đế một phương
Tuy mạnh yếu tưng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
(Nguyễn Trãi)

Hòa trong mạch nguồn chung của văn học dân tộc, Tố Hữu và Nguyễn Khoa Điềm cũng thấy đất nước mình tươi đẹp. Trải qua những cuộc chiến tranh lửa đạn, đất nước đau thương nhưng cũng hào hùng, nhân ái.

Nếu Tố Hữu cảm nhận đất nước qua cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Thiên nhiên Việt Bắc như một chỉnh thể thay đổi từng lúc (đông, xuân, hạ, thu, sáng rừng trắng, trưa nắng vàng tươi, đêm trăng bạc). Thiên nhiên là bông hoa đẹp nhất, thơm nhất, họ là những con người Việt Nam giản dị làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống, họ thắp sáng thiên nhiên thêm rực rỡ.

Rồi Nguyễn Khoa Điềm cũng cảm nhận được đất nước là sông núi, là rừng núi bao la:

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hon núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi.”

Đất nước có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp và kỳ thú như núi Bút Non Nghiên, hòn Trống Mái, núi Vọng Phu, vịnh Hạ Long, sông Cửu Long, sông Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm… vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng còn thấy trong đó lòng trung thành của những con người làm nên diện mạo đất nước.

Và ở đâu trên khắp ruồng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình một ao ước ông cha
Ôi đất nước đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta

Nhưng khi giặc ngoại xâm kéo đến, đất nước phải trải qua những tháng ngày đau thương.

Ở Việt Bắc, Tố Hữu không nói nhiều về nỗi đau mất mát. Bởi bài thơ vừa là tình ca, vừa là khúc ca chiến thắng của một giai đoạn lịch sử. Bởi vậy, quê hương cách mạng trong những ngày “trứng nước” ấy hiện lên với muôn vàn khó khăn, gian khổ: “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”; “Thương nhau củ sắn, bát cơm sẻ nửa chăn” và qua hình ảnh “người mẹ sạm nắng – Địu con ra đồng bẻ từng bắp ngô”…

Nguyễn Khoa Điềm cũng cảm nhận được nỗi đau ấy không phải trong một thời kỳ cụ thể mà trong 4000 năm:

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Trong lịch sử dựng nước của mình, có thời kỳ dân tộc Việt Nam không phải chống giặc ngoại xâm, có những thế hệ không phải trải qua nỗi đau chiến tranh: con mất cha, vợ mất chồng; Những người vợ, người mẹ một mình vất vả nuôi con khôn lớn chờ người thân trở về.

Trước núi đau mà kẻ thù gây ra cho dân tộc, trước sự tồn vong của vận mệnh đất nước, Tố Hữu cảm thấy trời đất chung sức đánh giặc.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời trời ta cả chiến khu một lòng

Hàng loạt từ ghép kết hợp với phép so sánh phóng đại, hình ảnh thơ vừa thực vừa lãng mạn, Tố Hữu không chỉ gợi lên những gì đẹp đẽ, hào hùng, đau thương của cuộc kháng chiến mà còn dựng nên hình ảnh đất nước trong thời chiến bỗng sáng ngời hào hùng

Nhìn vào lịch sử, qua “bốn nghìn năm đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm cũng thấy sức mạnh của dân tộc ở “bốn nghìn lớp người như ta cùng một lúc”.

Họ sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Hai bài thơ, hai phong cách, hai điểm nhìn khác nhau: Một quê hương cách mạng hào hùng. Một Đất Nước của Nhân Dân trong ca dao thần thoại. Nhưng cả hai bài thơ đều thể hiện một cách sinh động cảm hứng về một đất nước giàu đẹp, một đất nước gian khổ, gian khổ nhưng cũng là một đất nước của những con người anh hùng.

Những nét chung và riêng như đã phân tích ở trên làm cho đất nước trong thơ ca trở nên phong phú hơn, muôn màu hơn và vì thế càng hấp dẫn người đọc. Vì nó đã chạm đến phần tình cảm thiêng liêng nhất của mỗi người.

Giới thiệu 🌸 Sơ Đồ Tư Duy Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm 🌸 đầy đủ!

Liên Hệ Đất Nước Với Tây Tiến Học Sinh Giỏi

Dưới đây là mẫu bài văn liên hệ bài thơ “Đất nước” với “Tây Tiến” dành cho học sinh giỏi, xem ngay!

Đối với một người nghệ sĩ, mỗi tác phẩm đều là một miền cảm xúc riêng được họ trải lòng qua câu chữ. Nếu như với Quang Dũng, “Tây Tiến” là nơi trải nỗi nhớ về một Tây Tiến thân thương, thì với Nguyễn Khoa Điềm, ông viết “Đất nước” bằng tất cả lòng tự hào và tình yêu mãnh liệt. Mỗi bài thơ trên đều mang những nội dung, cảm xúc riêng biệt, nhưng chung quy lại, chúng đều gặp nhau ở tư tưởng cùng tinh thần cách mạng cao đẹp.

Quang Dũng là một nhà thơ, một nhà soạn nhạc tài ba và cũng đồng thời là một người lính đứng trong hàng ngũ chiến đấu nơi đầu tuyến. Ông đã cùng binh đoàn Tây Tiến trải qua những mọi gian nan, khó khăn mà vẻ vang của Cách mạng Việt Nam. Vào năm 1948, sau khi nhận được lệnh chuyển sang đơn vị khác, Quang Dũng đã viết nên Tây Tiến để ghi lại những cảm xúc thiêng liêng cùng những kỉ niệm gắn bó sâu sắc với đồng đối, với nhân dân và núi rừng Tây Bắc.

Bước sang giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, người đọc sẽ được tiếp cận với “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút ưu tú trong hàng ngũ nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ. 

Với xuất thân từ một gia đình trí thức yêu nước ở Huế, ông đã gia nhập vào phong trào đấu tranh sinh viên ngay khi còn ngồi ở ghế nhà trường. Có lẽ vì thế mà thơ của ông đã sớm giàu chất suy tư cùng muôn cảm xúc dồn nén của một người trí thức mang tình cảm sâu đậm với đất nước. 

Cụ thể, “Đất nước” là phần đầu của chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng. Tác phẩm được viết vào năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên. Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ đang ở giai đoạn căng thẳng, khốc liệt.

Ra đời trong không khí hào hùng của cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc, cả hai nhà thơ Quang Dũng cùng Nguyễn Khoa Điềm đều thổi vào tác phẩm của mình linh hồn non nước cùng lý tưởng cách mạng tươi đẹp: sẵn sàng dấn thân, cống hiến tuổi trẻ cho sự nghiệp chung của Tổ quốc.

Trong Tây Tiến, cảm hứng chủ đạo của bài thơ đến từ nỗi nhớ nhung đồng đội, nhớ nhung vùng đất in dấu chân hào hùng mà cả đoàn binh Tây Tiến đã đi qua. Trong cái mảnh đất có địa hình khắc nghiệt đó, binh đoàn Tây Tiến phải ngày đêm hành quân, mặc cho con đường có gập ghềnh, mặc cho bất kỳ lúc nào cũng có thể mất đi tính mạng, họ vẫn miệt mài không mỏi: 

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Liệu đoàn binh ấy có vì chặng đường gian khổ ấy mà chùn bước? Không đời nào! Họ vẫn cứ bước, vẫn không ngừng nỗ lực, vẫn cống hiến của những tháng ngày tươi đẹp của tuổi xuân vì độc lập, tự do của đất nước. Ý chí chiến đấu đó vẫn luôn được nung nấu và bùng cháy mãnh liệt, để rồi nó vượt lên cả những thử thách, bệnh tật hiểm nguy. 

Trên cả những điều đó là tư tưởng cao đẹp của những chàng thanh niên trẻ. Đó là tư tưởng hiến dâng sức mình, hy sinh thân mình vì lý tưởng của Đảng, lý tưởng của Cách mạng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Đoạn thơ cuối của tác phẩm này luôn khiến người đọc phải trầm lặng vì những gì mà người lính trẻ phải đánh đổi. Với việc sử dụng nhiều từ Hán Việt nhằm đẩy cao sắc thái trân trọng, tác giả đã thành công thể hiện được không khí trang nghiêm cùng lòng thành kính, trân trọng trước sự hi sinh của người lính. Đồng thời, câu thơ như đưa người đọc đến với chiến trường năm nào. 

Những chiến binh trong đoàn Tây Tiến đều chỉ là những chàng trai trẻ, họ rời xa giảng đường, rời xa mọi hoài bão của tuổi trẻ để khăn gói lên đường đi cứu nước. Họ là người ý thức sâu sắc nhất con đường họ vừa lựa chọn là một con đường vô cùng chông gai, chẳng biết được ai còn ai mất. 

Nhưng rồi, họ vẫn kiên quyết ra đi, bỏ mọi thứ lại phía sau, để tiến lên hàng ngũ đầu chiến tuyến. Và có lẽ, đã không ít người đã bỏ mạng nơi xứ người lạnh lẽo. Họ nằm xuống giữa mảnh đất lạ lẫm, không được cất liệm cũng chẳng có an táng. Thứ cuối cùng theo họ khi hi sinh chỉ có một manh chiếu cuốn vội của những người đồng đội đồng cam cộng khổ. Manh chiếu nhỏ chính là lời từ biệt đau thương nhất, cũng là lời cảm ơn và tri ân sâu sắc nhất. 

Với việc sử dụng cụm từ “Anh về đất”, tác giả đã khiến cho cái chết của người lính trở nên thật giản dị và thân quen. Họ không hề chết, họ chỉ đang quay về với đất mẹ mà thôi. Cuộc đời họ đã đủ bi tráng và hào hùng rồi, họ đã chiến đấu quá kiên cường rồi, và họ mệt rồi, nên lại về với vòng tay của đất mẹ, để được nghỉ ngơi, để được che chở. 

Đoạn thơ kết lại nhưng vẫn vang mãi âm hưởng hào hùng. Linh hồn người tử sĩ đã hòa vào đất, dường như con sông Mã đang tấu lên khúc nhạc hùng tráng để tiễn đưa người lính về với cõi linh thiêng, vĩnh hằng. Tại nơi đó, người lính vẫn sống cùng đất mẹ, sống cùng nước non thân thương, sống trong tiềm thức và sự tri ân của trái tim hàng triệu nhân dân Việt Nam.

 Với cùng tư tưởng cao đẹp, Nguyễn Khoa Điềm đã viết nên “Đất nước” từ những vần thơ giản dị nhưng lại giàu giá trị biểu đạt. Khi đang miệt mài tìm về nguồn cội của đất nước, ta như cảm nhận được nỗi băn khoăn của thi sĩ:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Tình yêu nước của Nguyễn Khoa Điềm phải chăng gắn liền với sự hiểu biết và gắn bó sâu nặng với đất nước. Ông tìm về từ cổ tích, từ những trang sử sách và đưa ra cái nhìn trân trọng, nâng niu bề dày văn hóa của một dân tộc hào hùng. Ông không chỉ hiểu về mảnh đất mình yêu, mà còn coi nó là một phần trong xương máu của mình: 

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Một cuộc trò chuyện lứa đôi đầy thân mật được tác giả dựng nên đã tạo nên cho lời thơ chất trữ tình rất nhẹ nhàng và mềm mại. Tình yêu nam nữ ấy hòa cùng nhịp thở với tình yêu tổ quốc, để rồi nó làm nên vị ngọt ngào, đằm thắm của men tình.

Chính lúc này, cái tôi cá nhân đã hòa vào với cái ta chung, và tạo thành một thể thống nhất, trọn vẹn. “Đất nước là máu xương của mình” – một khái niệm mới được tác giả sáng tạo nên đã thể hiện sự gắn bó, thân thiết không thể tách rời giữa đất nước với con người nơi đây.

Từ cái hành trình đi tìm về nguồn cội của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã lồng ghép một lời nhắc nhở sâu sắc đến thế hệ trẻ tương lai về lòng tự tôn dân tộc. 

“Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”

Là người con của đất nước, thế hệ trẻ phải luôn “gắn bó, san sẻ” và “hóa thân cho hình dáng đất nước”. Thế hệ trẻ chính là người sẽ thắp lên ngọn lửa yêu nước cho chính mình, từ đó giục giã lời ca cống hiến sức trẻ cho dân tộc, cho đất nước. Đó là lý tưởng cao đẹp được Đảng coi đường chỉ lối, đưa dân tộc ta đến với bến bờ hạnh phúc, tự do.

Khi so sánh Tây Tiến và Đất nước, ta thấy dù hai tác giả với hai tác phẩm, ở hai thời điểm khác nhau nhưng gặp nhau ở tư tưởng chung: tư tưởng yêu nước và sẵn sàng cống hiến cho đất nước. Tuy nhiên, bên trong cái chung ấy là cái “tôi: độc đáo của mỗi thi sĩ. 

Nếu như Tây Tiến được Quang Dũng viết bằng thể thơ thất ngôn, kết hợp sử dụng từ Hán Việt để tăng sự trang trọng, kính trọng cùng giọng thơ hùng hồn, mạnh mẽ, dứt khoát nhằm tạo nên một âm hưởng hào hùng tô đậm cho hiện thực khốc liệt của chiến tranh, từ đó khẳng định sự bất tử của người lính bi tráng. 

Thì Đất nước lại được Nguyễn Khoa Điềm khai thác bằng thể thơ tự do với giọng điệu tâm tình, từ ngữ giản dị nhằm khẳng định vai trò của toàn thể nhân dân đang sống trên đất nước này. 

Nếu như ở Tây Tiến, cảm hứng đất nước được tác giả gợi nên từ nỗi nhớ của người lính với chiến khu gắn bó trong những tháng năm đầu của cuộc chiến chống Pháp. Thì ở Đất nước, tác giả bộc lộ suy nghĩ về đất nước qua cái nhìn tổng quát, từ đó đưa ra những khái niệm mới mẻ về đất nước sau khi hoàn thành cuộc kháng chiến chống Mĩ tại Trị Thiên. 

 Hai bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm dẫu được ra đời trong những hoàn cảnh riêng, được tạo nên từ những tâm hồn mang cá tính riêng. Nhưng nó lại gặp nhau ở tư tưởng cao đẹp hướng về tình yêu nước mãnh liệt. 

Chính vì thế, mỗi tác phẩm đều mang trong mình sức sống bền lâu trong lòng mỗi người đọc qua từng thế hệ. Và cũng từ đó, tình yêu nước và ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với quê hương, đất nước cũng được khơi dậy một cách rất đẹp, rất giản dị và tự nhiên.

Dành cho học sinh giỏi 🌸 Bình Giảng Đất Nước 🌸 nâng cao!

Liên Hệ Đất Nước Với Bình Ngô Đại Cáo Xuất Sắc

Mẫu bài văn liên hệ bài thơ “Đất nước” với ‘Bình ngô đại cáo” xuất sắc nhất đã được trình bày ở bên dưới, cùng xem ngay nhé!

Đất nước là một đề tài lớn thường gợi lên những cảm hứng mãnh liệt đối với thi nhân, nhất là vào thời điểm nền độc lập dân tộc đứng trước những thử thách lớn lao. Đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm cũng ra đời trong một hoàn cảnh tương tự như vậy. Đó là những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước sôi sục, cuộc sống của mỗi cá nhân luôn luôn gắn liền với vận mệnh của đất nước.

Viết trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm muốn góp một tiếng nói nhằm thức tỉnh thế hệ trẻ ở vùng tạm chiếm miền Nam. Đoạn trích Đất Nước thuộc chương V của trường ca, đây cũng là phần hay nhất của bản trường ca này, có thể hiện sự nhận thức sâu sắc của một thế hệ thanh niên Việt Nam về đất nước. Chính nhận thức ấy đã trở thành một điểm tựa để mỗi người tự suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với đất nước.

Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ chính luận thể hiện cảm nhận “Đất Nước của Nhân dân”. Sở dĩ gọi là chính luận bởi trong bài thơ này nhà thơ muốn bàn luận về đất nước, về nhân dân. Đó là những khái niệm về đất nước vừa quen thuộc vừa mới mẻ nhưng tác giả không dừng lại ở chỗ lí giải đất nước là gì, nhân dân là gì mà ông còn muốn bày tỏ những tình cảm sâu nặng của mình đối với đất nước, đối với nhân dân.

Toàn bộ đoạn trích được chia thành những khổ và những đoạn nhỏ để trả lời cho mỗi câu hỏi và giữa các câu hỏi ấy được liên kết với nhau khá chặt chẽ. Khởi đầu là những câu hỏi về thời gian, tác giả muốn đưa bạn đọc trở về quá khứ để tìm trong lịch sử cái thời điểm mà đất nước ra đời:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên…

Trong một đoạn thơ ngắn mà xuất hiện một loạt các trạng từ chỉ thời gian: “ngày xửa, ngày xưa”, “bây giờ”, “từ ngày đó”. Gắn liền với những trạng từ đó là những miếng trầu bà vẫn thường ăn hàng ngày, nghĩa là đất nước có từ rất lâu đời, từ thuở xa xưa trong văn hóa dân gian, trong phong tục tập quán, trong tình yêu của mỗi gia đình, trong từng hạt gạo.

Ở đoạn thơ tiếp theo, nhà thơ liên tiếp đưa ra những nhận định của mình:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Đất nước thật giản dị và cũng thật độc đáo, thật trữ tình và có sức hấp dẫn, lôi cuốn bạn đọc một cách mạnh mẽ. Định nghĩa Đất Nước được kéo dài nhưng lại kiến giải rất đơn giản, rất có lí và đầy thuyết phục. Đó là những kiến giải trên hai trục không gian và thời gian, “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”, giữa cái thời gian và không gian ấy hiện ra một đất nước với dáng vẻ hùng vĩ với hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc – con cá như ông móng nước biển khơi”.

Đó là một không gian trữ tình hùng vĩ của đất nước. Ở đây tác giả trở về với truyền thuyết và dùng truyền thuyết để cắt nghĩa đất nước là gì.

Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở.

Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào trong bọc trăm trứng, đất nước tạo ra mọi người, tất cả mọi thế hệ, những người đang sống, những người đã khuất. Nhưng ở nơi nào thì mọi người dân ở đất nước này cũng cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

Đất nước vừa linh thiêng rộng lớn nhưng cũng vừa gần gũi thân thuộc. Đất nước có trong anh, trong em và trong tất cả mọi người, trong thế hệ đã khuất, trong thế hệ hôm nay và trong thế hệ mai sau. Bao giờ cũng có một đất nước vẹn tròn tình nghĩa. Vẫn là giọng chính luận khúc chiết mà lời thơ đằm thắm chứa chan bao tìm cảm:

Em ơi đất nước là máu xương của mình
….
Làm nên đất nước muôn đời…

Đọc những câu thơ này của Nguyễn Khoa Điềm, ta chợt nhớ đến một câu thơ của Chế Lan Viên, một người cũng rất hay đưa những khái quát trong thơ khi nghĩ về đất nước. Nguyễn Khoa Điềm viết “Đất Nước là máu xương của mình”, vì thế mà phải “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở” thì Chế Lan Viên viết:

Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt

Sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Khoa Điềm khi nói về đất nước chính là sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận và chất chữ tình từ những hình ảnh chi tiết cụ thể mà nâng dần lên tầm khái quát.

Ở phần thứ hai của bài thơ xuất hiện một loạt những hình ảnh, những chi tiết cụ thể khi nói về đất nước, một phát hiện độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm khi nhà thơ chỉ ra những yếu tố để góp thành đất nước. Ở đây có một loạt tên hùng vĩ, một đất nước bao la, một đất nước với truyền thống ngàn năm trong lịch sử không phải là một cái gì đó lớn lao, to tát mà là những thứ gần gũi, quen thuộc đối với mọi người. Những cái tên gọi bình thường của những người dân Việt Nam như “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” làm nên những địa danh nổi tiếng của đất nước.

Từ những phát hiện rất mới mẻ và độc đáo này, tác giả đã đi đến một khái quát sâu sắc và xúc động:

Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

Tác giả không dừng lại ở đây coi như một sự kết thúc cho những cảm nhận và suy ngẫm về đất nước, cảm xúc và những suy ngẫm trải dài bởi dường như động tới bất kì cái gì cũng là nói về đất nước, từ những người con trai ra trận, con gái ở nhà nuôi cái cùng con. Trong số họ đã có những người trở thành anh hùng.

Tuy nhiên, đất nước không chỉ được làm nên bởi bốn nghìn lớp người ‘họ đã sống và chết – giản dị và bình tâm – không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ đã làm nên Đất Nước”. Tác giả muốn bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc đối với những con người vô danh, với những việc làm thầm lặng, giản dị và quen thuộc nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Chính họ đã truyền lại cho ta hạt lúa ta trồng, đã cho ta ngọn lửa, cho con ta tiếng nói…

Sau những suy ngẫm, nhà thơ đi đến kết luận: Đất nước này là đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại, đất nước của tất cả mọi người, trong đó có cả những anh hùng và cả những người vô danh. Họ không để lại một dòng tên trong lịch sử, không một tượng đài, một tấm bia lưu danh nhưng lại cho đất nước một cuộc đời bình dị và chính những sự bình dị ấy đã làm nên một đất nước lớn lao mạnh mẽ, làm nên một đất nước trường tồn với thời gian và hùng vĩ trong một không gian bao la, rộng lớn.

Đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm khi nói về đất nước chính là ở chỗ nhà thơ đã huy động toàn bộ vốn hiểu biết phong phú của mình trong những năm còn ngồi trên ghế nhà trường ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa và những trải nghiệm của chính nhà thơ trong những ngày tham gia phong trào học sinh sinh viên chống Mĩ ngụy ở thành phố Huế và cả những năm tháng bị tù đày trong nhà tù của Mĩ ngụy.

Sự kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất chính luận của Nguyễn Khoa Điềm đã được Nguyễn Trãi thể hiện trong “Bình ngô đại cáo” – một áng văn lưu danh thiên cổ. Đây được mệnh danh là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Bài cáo là tình yêu nước sâu sắc cùng lòng căm thù ngoại xâm tột độ mà đoạn trích “Nước Đại Việt ta” là đỉnh cao của tinh thần yêu nước.

Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nguyễn Trãi đã chỉ ra yếu tố đầu tiên của lòng yêu nước đó là nhân nghĩa. Yêu nước tức là yêu tổ quốc, thương đồng bào và yêu cái truyền thống quý báu mà cha ông để lại. Truyền thống ấy ở đây chính là nhân nghĩa, là lòng nhân trong cách đối xử giữa người với người. Mà theo Nguyễn Trãi thì cốt lõi của lòng mọi việc nhân nghĩa trên đời ấy chính là “yên dân” làm sao cho dân ấm no, yên ổn. Mà trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng thì muốn yên dân cần điếu phạt, trước hết là trừ đi quân bạo tàn hà hiếp nhân dân. Tức là lấy dân làm gốc.

Nguyễn Trãi đã từng quan niệm “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân“. Nhân dân chính là lực lượng quyết định cốt lõi trong vận mệnh quốc gia dân tộc, có nhân dân chính là có nguồn sức mạnh to lớn, quốc gia có mất thì cũng sẽ lấy lại được, tức là không mất gì hết nhưng mất đi nhân dân, quốc gia còn thì cũng chỉ là mảnh đất vô hồn, vô chủ. Việc Nguyễn Trãi nói hai câu này ngay đầu bài cáo Bình Ngô chính là để khẳng định một tư tưởng về việc nhân nghĩa vững bền, đó là cơ sở cho tình yêu nước.

Tiếp theo sau đó, những chứng cớ về một quốc gia có độc lập chủ quyền lần lượt được đưa ra hết sức có cơ sở:

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Không còn là sự khẳng định mông lung về bờ cõi trong “thiên thư” như cách nói của Lý Thường Kiệt nữa mà dẫn chứng được đưa ra rõ ràng để khẳng định nước ta là một nước có nền độc lập tự chủ từ lâu đời. Nước ta có tên “Đại Việt” có nền văn hóa, văn hiến lâu đời, có phong tục, tập quán, có lịch sử các thời đại có thể sánh ngang hàng với những thời đại lớn trong lịch sử Trung Hoa đồng thời còn có nhân tài.

Một vùng lãnh thổ có đầy đủ những yếu tố như vậy thì hoàn toàn xứng đáng là một quốc gia có độc lập chủ quyền và là một quốc gia có quyền tự hào về độc lập chủ quyền của dân tộc mình. Tình yêu nước thể hiện ở đoạn này chính là những chứng cớ rõ ràng về lòng tư tôn dân tộc, chính vì lòng tự tôn ấy, ông chỉ ra hệ quả tất yếu của những tên xâm lược:

Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.

Chứng cớ về những thất bại nhiều lần của tướng giặc cho thấy chúng đã phạm sai lầm khi cố tình giày xéo dân ta dưới gót giày bạo tàn, chúng đã phải trả giá cho những điều ấy bởi tinh thần yêu nước, sự đoàn kết của nhân dân cả nước cùng sự tài ba chính nghĩa của những vị anh hùng nước Nam.

Đoạn trích “Nước Đại Việt ta” hay bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm đều cho ta nhiều suy nghĩ về tình yêu nước mà quan trọng nhất đó là yêu tổ quốc chính là yêu đồng bào, yêu dân, làm sao lo cho dân được yên ổn, no ấm.

Gợi ý bài văn 🌸 Phân Tích 9 Câu Đầu Đất Nước 🌸 ấn tượng!

Liên Hệ Đất Nước Trong Anh Và Em Hôm Nay Chọn Lọc

Nếu bạn đang tìm kiếm bài văn liên hệ khổ thơ “Đất nước trong anh và em hôm nay” thì nên tham khảo mẫu mà chúng tôi gợi ý sau đây:

Mặt đường khát vọng là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời trong chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ, tại chiến trường Trị – Thiên – một điểm nóng – trên chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã truyền đến người đọc bao xúc động, tự hào về Đất Nước và nhân dân. Trong bài Có một thời đại mới trong thi ca, Trần Mạnh Hảo viết:

“Vào đêm giao thừa Tết âm lịch 1973 – 1974, dưới rừng Phước Long, chúng tôi xúc động nghe trích đoạn Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm phát trên Đài phát thanh. Những suy nghĩ về đất nước, về dân tộc đã được nhà thơ hiện dại hóa bằng chất suy tư lắng đọng và cảm xúc mãnh liệt”.

Đất Nước – là chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng dài 110 câu thơ (trong Ngữ Văn 12 chi trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) là cảm nhận của nhà thơ trẻ về Đất Nước trong cội nguồn sâu xa văn hóa – lịch sử, và trong sự gắn bó thân thiết với đời sống hằng ngày của mỗi con người Việt Nam. Phần thứ hai (47 câu), cảm hứng chủ đạo về Đất Nước là sự ngợi ca, khẳng định tư tưởng Đất Nước trên bình diện về địa lí, lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống, tinh thần dân tộc – nền văn hiến Việt Nam.

Vẻ đẹp độc đáo của chương V Đất nước là tác giả vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hóa dân gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục…, cùng với cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc.

12 câu thơ dưới đây trích trong phần đầu chương Đất Nước thế hiện cảm nhận: Đất Nước gắn bó thân thiết với mỗi con người Việt Nam:

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
(..)
Làm nên Đất Nước muôn đời…

Trong chương V trường ca Mặt đường khát vọng, hai từ Đất Nước và Nhân dân đều được viết hoa, trở thành “mĩ tự” gợi lên không khí cao cả, thiêng liêng và biểu lộ cao độ cảm xúc yêu mến, tự hào về Đất Nước và Nhân dân. Chủ thể trữ tình là “anh và em”, giọng diệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha, ngọt ngào. Cấu trúc đoạn thơ 13 câu thơ là cấu trúc tổng – phân – hợp mà ta cảm nhận được tính chất chính luận của ngòi bút thơ Nguyễn Khoa Điềm.

Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lí về cội nguồn, về truyền thống, về lịch sử,… Đất nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và em”, với mọi người:

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước.

Chỉ “một phần” nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào. Từ khái niệm, ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của đất nước” được diễn đạt một cách “miền hóa” qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của “anh và em”.

Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người’ từ “hôm nay” đến “mai sau”.

Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm.

Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất là nơi anh đến trường – Nước là nơi em tắm – Đất Nước là nơi ta hò hẹn – Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tố ấm gia đình đã xây dựng. Gia đình là “một phần” của Đất Nước. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm” với tình yêu quê hương Đất Nước. Đó là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới. Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ thơ sâu và đằm về nỗi “nhớ”:

Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…

Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước, mới có thể có tình nghĩa sâu nặng “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”, mới tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của anh, của em của bao lứa đôi khác.

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nấm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
(Giang Nam)

Nói về cội nguồn của dòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại sự tích trăm trứng: “Đất là nơi Chim về – Nước là nơi Rồng ở – Lạc Long Quân  và Âu Cơ – Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng – Những ai đã khuất những ai bây giờ” từ huyền thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ này:

Khi chứng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn.

Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên là yêu thương. “Khi chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào. Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có thể có hình ảnh “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hòa, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước.

Đất được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào “Ba cây chụm  lại nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, ”Người trong một nước phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liẻng “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.

Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi hai đứa cầm tay”… “Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”… “Đất Nước vẹn tròn, to lởn”. Cách diễn đạt uyển chuyển, sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc.

Đất Nước “nguồn thiêng ông cha”, Đất Nước “Trong anh và em hôm nay”. Đất Nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kì vọng sáng ngời niềm tin:

Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng

Những Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam… đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Ngay Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải cũng có một giọng điệu “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng “mai này” là cách nói của bà con xứ Huế.

Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước ông cha “Gánh vác phần người đi trước để lại” xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “To đẹp hơn, đàng hoàng hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh. Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực “mai này” gần.

Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp.

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…

“Em ơi em” — một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: “Đất Nước là máu xương của mình”. Đất Nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, là mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha, là của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất Nước là máu xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:

Nuôi lớn người tù ngày mở đất,
Bốn ngàn năm năm gai nếm mật
Một tấc lòng củng đẩy hồn Thánh Gióng.
(Bài thơ của một người yêu nước mình 19/12/1967)

Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biêu hiện của tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn bó và san sẻ… Phải biết hóa thân…” thì mới có thể “Làm nên Đất Nước muôn dời”.

Có biết trường ca Mặt đường khát vọng ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời chiến tranh chống Mĩ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là tiếng nói tâm huyết “mang sức manh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ”  như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.

Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được tô đậm bằng nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú. Cảm hứng về đất nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo, mang phong cách sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ. Chất trữ tình thấm đậm dư ba. Đất nước trong máu lửa mới mang cảm xúc sâu nặng thế. Đây là tiếng nói ở hai đầu đất nước:

Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi! Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông
(Chế Lan Viên)

Trở lại đoạn thơ trên đây cùa Nguyễn Khoa Điềm. Tứ thơ rất đẹp. Đất nước thân thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất Nước muôn đời”. Đoạn thơ đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai Đất Nước và tiền đồ tươi sáng cùa dân tộc. Đoạn thơ mang tính chính luận, chất trữ tình in đậm tính công dân của thời đại mới. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cám xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh, thể hiện một hồn thơ giàu tính suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tòi.

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình…” – một tứ thơ rất đẹp! Một tứ thơ lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hòa bình phải biết đem “trí lực” để xây dựng Đất Nước, “Làm nên Đất Nước muôn đời”, Đất Nước “to đẹp hơn đàng hoàng hơn”. Lúc có chiến tranh phải đem xương máu để bảo toàn Sông núi “Gắn bó, san sẻ, hóa thân” cho Đất Nước, ấy là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng ấy là tình yêu Đất Nước của “anh và em” hôm nay, của thế hệ Việt Nam mai này con ta lớn lên…”.

Đọc thêm bài 🌸 Liên Hệ Mở Rộng Chuyện Người Con Gái Nam Xương 🌸 chọn lọc!

Viết một bình luận