Cảm Nhận 9 Câu Đầu Đất Nước ❤️️ 21+ Bài Văn Hay Nhất ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Bài Viết Đặc Sắc Cảm Thụ Ngắn Gọn Và Chuyên Sâu Đoạn Thơ Ngữ Văn 12.
Dàn Ý Cảm Nhận 9 Câu Đầu Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm
Lập dàn ý cảm nhận 9 câu đầu Đất Nước của nguyễn khoa điềm sẽ giúp các em học sinh nắm được bố cục và những luận điểm trọng tâm cho bài viết. Tham khảo mẫu dàn ý cảm nhận 9 câu thơ đầu Đất Nước chi tiết dưới đây:
1.Mở bài cảm nhận 9 câu đầu Đất Nước:
- Sơ lược về nền văn học 1945-1975, giới thiệu tác phẩm.
- Dẫn dắt giới thiệu đoạn thơ 9 câu đầu đoạn trích Đất nước
2.Thân bài cảm nhận 9 câu đầu Đất Nước:
a. Đất Nước có từ bao giờ?
- Đất Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa.
- Gợi ra những truyền thống tốt đẹp của dân tộc từ những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết.
- Sự tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung, gợi lại những cái phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng.
- Truyền thuyết Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
- Đất Nước có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục.
- “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà, các mẹ thời xưa.
- Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là đại diện cho truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ chồng.
- Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường biết làm nhà, biết trồng lúa,…
b. Đất nước là gì?
-Về không gian địa lý:
- Đất Nước là nơi con người sinh sống, hò hẹn “là nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”,… là không gian gần gũi, thân thiết.
- Đất Nước cũng mang dáng vẻ kỳ vĩ lớn lao như những “núi bạc”’, “biển khơi” là nơi nhân dân tìm về sau những ngày tháng xa quê hương.
-Về thời gian lịch sử:
- Quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông.
- Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống.
- Trong tương lai đó là một Đất Nước với triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc cả Đất Nước.
c. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân:
-Trên phương diện không gian địa lý:
- Cảm nhận Đất Nước qua những địa danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng nhắc tên chúng một cách dày đặc trong từng ý thơ, gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với quê hương, đất nước.
- Gợi nhắc những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Nhấn mạnh việc đất nước chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc một nhà của nhân dân ta.
- Biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình cảm vợ chồng, là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, nhắc lại thuở dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi còn gợi lại cả truyền thống hiếu học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc, con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương.
- Khẳng định một cách mạnh mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là do nhân dân cùng góp công, góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm.
-Phương diện thời gian lịch sử:
- Suốt 4000 năm lịch sử, nhân dân luôn đứng dậy đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ chính là những người làm ra Đất Nước.
- Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần.
-Trên bình diện văn hóa:
- Tác giả đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa tiêu biểu” của dân tộc Việt nói chung.
- “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, nét đẹp say đắm trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở xung quanh mình.
- “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”, từ đó thấy được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất tầm thường.
- “Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao đời nay.
3.Kết bài cảm nhận 9 câu đầu Đất Nước:
- Tổng kết giá trị nội dung nghệ thuật của đoạn thơ
- Nêu cảm nhận của bản thân.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Dàn Ý Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm ☀️ Trọn Bộ Chuẩn Nhất
Sơ Đồ Dàn Ý Cảm Nhận 9 Câu Đầu Bài Đất Nước Ngắn Nhất
Mẫu cảm nhận 9 câu đầu bài Đất Nước dàn ý bằng sơ đồ tư duy là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh. Tham khảo mẫu sơ đồ dàn ý cảm nhận 9 câu đầu bài Đất Nước ngắn nhất dưới đây:
Gửi đến bạn 🍃 Sơ Đồ Tư Duy Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm 🍃 16 Mẫu Hay
Nêu Cảm Nhận Về 9 Câu Đầu Bài Đất Nước – Mẫu 1
Bài văn mẫu nêu cảm nhận về 9 câu đầu bài Đất Nước dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được định hướng làm bài cụ thể.
Cảm hứng về đất nước, về tầm vóc đáng tự hào của nó là một cảm hứng vốn quen thuộc của thơ ca hiện đại giai đoạn từ 1945 đến 1975. Bất cứ ai cũng nhận ra rằng từ sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc, tổ quốc đã thực sự lớn mạnh của Thánh Gióng. Đó chính là hiện thực, là tiền đề thẩm mĩ cất cánh cho những dòng cảm xúc đáng trân trọng về vóc dáng của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam.
Là một nhà thơ trẻ, trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước, nặng tình với non sông, người trí thức Nguyễn Khoa Điềm cũng góp riêng một tiếng nói của mình để khẳng định sự lớn dậy ấy. Với 9 câu thơ mở đầu bài thơ “Đất nước” trích trường ca “Mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa Điềm đã có những cảm nhận mới mẻ về đất nước.
Điểm rất mới của Nguyễn Khoa Điềm là đề cập đến một đề tài rất khái quát, nếu không muốn nói là trừu tượng, đề tài đất nước, nhưng những hình ảnh thơ, chất liệu cụ để dựng nên tầm vóc đó lại rất cụ thể, gần gũi. Để nói lên sự hiện hữu của đất nước này ở chiều sâu của thời gian, chiều rộng của không gian, trong đoạn mở đầu, ông đã tập trung sử dụng rất nhiều hình ảnh hết sức cụ thể, gần gũi đầy thân thương nhưng lại có sức liên tưởng mãnh liệt và tính khái quát cao.
Đặc biệt, ông nối kết để tạo nên mạch thơ nói về sự hiện hữu của đất nước bằng điệp từ có. Điệp từ này đã nối kết những hình ảnh tưởng chẳng liên quan gì với nhau thành một khối không thể tách rời, khẳng định sự hiện hữu vừa có tính truyền thống vừa đầy ân tình sâu nặng của đất nước như một nét riêng không thể hòa lẫn. Ta hãy nghe nhà thơ bộc lộ suy nghĩ của mình.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó…
Đọc đoạn thơ, ta không thể không chú ý đến những hình ảnh thơ đầy sức tưởng tưởng của tác giả về sự hiện hữu của đất nước. Mỗi hình ảnh lại gợi một sự hiện hữu nhằm khẳng định nét riêng không trộn lẫn của đất nước này. “Ngày xửa ngày xưa” một ngôn ngữ mở đầu cho những câu chuyện cổ tích; hình ảnh người bà – nhà thơ muốn nói rằng đất nước này đã tồn tại từ lâu đời, tồn tại từ thuở “Mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”, cái thuở Nam quốc sơn hà.
Từ đó, đất nước lớn lên với những phong tục, cốt cách của một dân tộc đậm tình, đậm nghĩa nhưng cũng sẵn sàng xả thân khi Tổ quốc lâm nguy. Thân thương gần gũi biết bao khi đất nước hiện hữu vừa thật nhỏ nhoi, lại vừa thật tình cảm nơi miếng trầu bây giờ bà ăn. Ở đây, sức liên tưởng thật sáng tạo, đầy ắp những nét đẹp về phong tục, tập quán, bản sắc quê hương:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Ở đó, có những bàn tay, những trái tim, những con người cần cù chịu thương chịu khó, lam lũ cần cù, một nắng hai sương. Đặc biệt ở đó, có sự tồn tụ hiện hữu có khi phải được đánh đổi bằng máu xương, mồ hôi, nước mắt của cả một dân tộc luôn cần phải rũ bùn đứng dậy tự khẳng định mình.
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó…
Cũng trong đoạn thơ này, ngoài hình ảnh là việc sử dụng những từ xưng hô tạo một quan hệ tình cảm đầy máu thịt của cộng đồng người Việt. Dường như với cách gọi này, tất cả như quây quần, hội tụ, đoàn kết, châu tuần chung một dòng máu, một huyết thống Rồng – Tiên. Đó là từ mẹ, từ cha, từ bà, dân mình quá đỗi ngọt ngào trong những cách xưng hô đằm thắm, mang dẩy bản sắc Việt Nam ấy.
Chúng tạo nên một phong vị, một sức gợi đầy thẩm mĩ về Đất Nước, con người Việt Nam, thân ái, thủy chung, giàu truyền thống, giàu tình nghĩa, đạo lí làm người. Ở đoạn hai, tác giả lại ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về những điều đã tạo nên đất nước, hướng người đọc đến những định nghĩa rất riêng rất chung về đất nước.
Có thể khẳng định rằng, sức mạnh của đoạn thơ là do có rất nhiều hình ảnh, phong phú, đa dạng. Tất cả lại được diễn tả với một giọng thơ hết sức tự nhiên, không ồn ào của hình thức thơ – văn xuôi, thơ tự do khiến cho hiệu quả thẩm mĩ càng lớn.
Điều đáng nói là từ những hình ảnh đó, với sức suy tưởng lo lắng của một trí thức trẻ khả năng gợi mở, vang ngân, liên tưởng của thơ càng lớn. Nó đủ sức để khái quát một cách đầy đủ tầm vóc, thế đứng, dáng đứng của một Đất Nước trong chiều hướng ấy thật trầm lắng, đáng tự hào về chiều sâu lịch sử, chiều dài và chiều sâu của thời đại. Đó là một khối thống nhất của quá khứ, hiện tại, tương lai. Một vẻ đẹp nói như Tố Hữu:
Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu.
Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết mấy.
Đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng xứng đáng là một khúc ca sử thi, hoành tráng đầy chất thơ về quê hương, đất nước và con người Việt Nam.
Đón đọc tuyển tập 🌹 Mở Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm 🌹 20 Mẫu Hay
Cảm Nhận 9 Câu Đầu Bài Đất Nước Hay Nhất – Mẫu 2
Đón đọc bài văn mẫu cảm nhận 9 câu đầu bài Đất Nước hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Kho tàng thơ văn của dân tộc Việt Nam ta tựa như một bản hợp xướng du dương với những nốt trầm bổng làm đắm say lòng người… Ta nghe đâu đây lời thơ hùng tráng về một “Nam quốc sơn hà” vừa tự hào lại không kém phần kiêu hãnh; rồi một dấu luyến ngân lên của một thời đại mang đậm nét dân tộc; đột ngột lại giáng một âm dài thâm trầm, đau thương để rồi bản đàn ấy lại thăng lên những âm hào hùng, mang theo khí thế của một dân tộc nồng nàn yêu nước, kiên trung quật cường.
Bản hùng ca ấy nên thanh, thành điệu chính là từ ngòi bút và xúc cảm chân thành của rất nhiều thi nhân, mà trong đó, mỗi nhà thơ mang một âm sắc khác nhau. Trong số đó, một trong những nốt hay nhất, dịu dàng và du dương nhất hòa thành hợp âm được viết nên bởi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà điển hình là đoạn thơ mở đầu bài thơ Đất Nước – chín câu thơ lý giải cho hai tiếng “Đất Nước” tưởng như xa xăm mà gần gũi, lớn lao mà mộc mạc – mở đầu cho chương thứ năm của bản trường ca “ Mặt đường khát vọng”:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Trong những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến vì độc lập tự do, nhà thơ trẻ với hai mươi tám mùa xuân Nguyễn Khoa Điềm năm ấy đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho thế hệ thanh niên vào một ngày mai tươi sáng bằng những vần thơ thật đẹp, để rồi giữa những ngày lửa đạn, bom rơi nơi chiến khu Trị -Thiên năm 1971, “Đất Nước” đã ra đời, nhẹ nhàng và dịu êm len lỏi vào sâu trái tim từng người dân con Lạc cháu Hồng, khảm sâu vào trí óc, trường tồn với thời gian…
Bằng giọng thơ thật dịu và thật êm của mình, nhà thơ thủ thỉ những dòng thơ đầu tiên như cất lên tiếng lòng bấy lâu nay dồn nén:
“ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Câu thơ chỉ là một lời trần thuật nhưng lại mang cho người đọc một cảm giác thật đặc biệt, dường như có chút gì đó xưa cũ gợi về trong kí ức còn mơ hồ. Trước mắt người đọc, hai tiếng “Đất Nước” được cẩn thận viết hoa khiến lòng người không khỏi xao xuyến một nỗi niềm khó tả. Ôi… “Đất Nước”… Xưa nay có ai từng viết hoa hai tiếng thiêng liêng ấy ngoài Nguyễn Khoa Điềm? Ta đã từng biết đến một đất nước qua giọng thơ êm nhẹ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả dập dờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”
Thế nhưng “đất nước” của Nguyễn Đình Thi không viết hoa! Còn Nguyễn Khoa Điềm, ông viết hoa hai tiếng “Đất Nước” như một niềm tôn kính, thương yêu bằng tất cả trái tim. Với nhà thơ, đất nước mình không chỉ là đất nước vô giác vô tri, đất nước từ lâu đã mang một linh hồn dân tộc thắm thiết, đậm đà mà từ đây, ông khẳng định rõ hơn về sinh thể thiêng liêng, ruột thịt này…
Chỉ bao nhiêu đó thôi, nhà thơ đã khiến cho biết bao nhiêu tâm hồn lay động, để rồi kết lại bằng ba tiếng “đã có rồi” chậm và nhỏ, nhấn mạnh sức sống lâu đời của đất nước bằng chính sự dịu êm, ngọt ngào sâu sắc: “ Đất Nước đã có tự ngàn xưa, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành, ở bên, yêu thương và chở che cho ta. Ta có thể không rõ Đất Nước khởi nguồn ra sao, thế nhưng Đất Nước thì luôn quan sát và dõi theo bước chân ta đi đến cuối đất cùng trời…”.
Cùng với đại từ phiếm chỉ “ta”, không chỉ rõ ràng, cụ thể một ai, nhà thơ đã tô đậm lên được ngàn năm văn hiến lâu đời của đất nước, khắc sâu bề dày lịch sử mà đất nước đã đi qua.
Và rồi hai chữ “mơ hồ” nhòa nhạt dần đi, nhường chỗ cho Đất Nước của nhà thơ hiện thân, rõ ràng và gần gũi, thân thương đến lạ:
“ Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể…
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
“À… thì ra đất nước lại gần ta đến như thế…”, tôi thốt lên ngỡ ngàng. Giọng thơ êm ái như ru ta về một thời thơ ấu “ngày xửa ngày xưa”, ngày xưa yên bình với cổ tích, với mái nhà tranh bình dị, với bếp lửa ấm áp, bập bùng – nơi có mẹ, có cha, có ông, có bà, có tình thương gia đình không gì sánh nổi.
Ở đó, ta lớn lên trong sự che chở của cha, trong lời ru à ơi dịu dàng của mẹ, trong những câu chuyện cổ xưa thật xưa chẳng rõ ai viết thành và viết năm nào mà chẳng hiểu sao lại in sâu vào trí óc thuở ngây ngô, khờ khạo.Chao ôi! …Dịu dàng và thân thuộc biết mấy bốn tiếng “ngày xửa ngày xưa”, để rồi khi tuổi thơ vụt trôi qua, người ta không khỏi bâng khuâng, bồi hồi xúc động:
“ Tôi yêu truyện cổ nước mình
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần”
(“Truyện cổ nước mình”, Lâm Thị Mỹ Dạ)
Dáng hình của đất nước chính là ẩn trong những điều bình dị và gần gũi ấy, len lỏi vào từng chút một cuộc sống của ta từ thuở nằm nôi, nghe tiếng chõng kẽo cà kẽo kẹt, nghe câu hát ru ngọt ngào ru ta vào giấc ngủ bình an… Đất nước tựa như một sinh thể, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành. Đất nước thì bước qua bao thăng trầm lịch sử, còn ta bước qua lửa đạn chiến tranh để trọn vẹn gìn giữ hai tiếng “đất nước” yêu kính ngàn năm…
Đối với câu hỏi hồn hậu: “ Đất nước có tự bao giờ?”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không hề né tránh. Ông không đứng trên quan điểm của một nhà sử học, cũng chẳng hề sử dụng ngôn từ của một nhà nghiên cứu xã hội, ông đơn giản chỉ dùng trái tim và tâm hồn mình để định nghĩa đất nước mà thôi. Thế nhưng cũng chính vì vậy mà đất nước qua thơ ông trở nên gần gũi và thân thuộc hơn bao giờ hết, bình dị và dịu êm như tình mẹ bao la.
Từ hai tiếng “đất nước” tưởng như khó có thể nói thành lời, nhà thơ đã dùng ngòi bút tài hoa của mình vẽ nên những đường nét mộc mạc và cụ thể, cho ta thấy dáng hình đất nước mến yêu bằng một định nghĩa rất riêng – định nghĩa từ tiếng lòng của một người con hiếu thuận của quê cha đất tổ, của một hồn thơ không những tinh tế mà còn giàu tình cảm và uyên bác.
Bằng cách gắn liền sự ra đời của sinh linh Đất Nước với sự ra đời của miếng trầu bà vẫn thường ăn, nhà thơ đã cho thấy một tâm hồn thấm nhuần tính dân tộc cùng với sự tinh tế của bản thân. Ông không những trả lời và cụ thể hóa cho khởi nguồn của đất nước thân thương này, ông còn gợi nhắc về truyền thống nhuộm răng, ăn trầu của các bà, các mẹ ngày xưa.
Hương trầu thơm tho như phả vào từng con chữ, đưa ta về một miền kí ức nhỏ đầy ắp yêu thương bên người bà kính yêu, nơi có bà miệng nhai trầu móm mém, thơm thật thơm một kí ức sống mãi trong lòng người. Và miếng trầu têm khéo ấy, dẫu thật nhỏ bé, lại chở cả một “Đất Nước” cùng đi…
Cứ thế, thời gian miệt mài chảy trôi, để rồi ta lớn khôn và “Đất Nước” cũng lớn lên cùng với lũy tre làng xanh thật xanh vẫn hiền hòa đong đưa theo làn gió. Tre chẳng biết từ thuở xa xăm nào đã gắn bó sâu sắc với làng quê Việt Nam, đi vào bao câu hát, bài thơ:
“Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”
(Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)
Cũng như đất nước mình vẫn dịu hiền lớn lên, lặng lẽ, âm thầm…
Hai tiếng “dân mình” khi được cất lên cùng “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết biết trồng tre mà đánh giặc” nghe sao mà thân thương quá đỗi, bởi lẽ dâng mình cùng chung một dòng máu Rồng Tiên, cùng một gốc gác, cội nguồn, mang trong mình tương liên huyết mạch, là máu thịt, là anh em…
Nếu như vế đầu câu thơ dâng sóng lòng ta lên bởi những thanh âm trong trẻo tràn đầy tình cảm thì nửa sau câu thơ gợi cho ta nhớ về hình ảnh chàng Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre mà đánh đuổi giặc. Từ chính bờ tre Việt Nam hiền lành, mộc mạc ấy, sức mạnh của cả một dân tộc trên lên, vươn mình khôn lớn như Thánh Gióng khi xưa, trưởng thành từ chính những gian truân, thử thách:
“Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”
(Bài thơ của một người yêu nước mình, Trần Vàng Sao)
Đất nước mình đã lớn lên như thế đó, cũng như một sinh thể sống thực sự, trải qua bao biến cố thăng trầm, bao phen nguy nan, “biết bao đời đã chịu nhiều thương đau” thế nhưng cho đến cuối cùng, đất nước mình vẫn vượt qua tất cả, vẫn sừng sững và tồn tại hiên ngang, bởi đất nước luôn có chúng ta – những người con yêu kính đất mẹ sẵn sàng đánh đổi tất cả, dẫu cho có phải hi sinh cả tính mạng vẫn không nề hà, chùn bước mà chịu thua, bởi lẽ thẳm sâu trong tâm trí mỗi người, chỉ cần còn hơi thở cuối, ta đều nguyện dành trọn cho Tổ quốc thân yêu.
Viết về đề tài đất nước không phải là một chủ đề mới lạ mà trái lại, đây luôn là chủ đề khơi gợi lên nhiều xúc cảm, cũng là nguồn cảm hứng bất tận, chắp bút cho sự ra đời của bao bài thơ. Trong bài thơ “Mũi Cà Mau”, nhà thơ Xuân Diệu từng đặt bút:
“ Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền ta đó – mũi Cà Mau
Những dòng sông rộng hơn ngàn thước
Trùng điệp một màu xanh lá đước”
Hay năm xưa, Nguyễn Trãi từng lưu danh sử sách với tác phẩm bất hủ “Đại cáo bình Ngô”:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Trong khi Xuân Diệu vì Tổ quốc ta như một con tàu, hùng dũng và hiên ngang trên biển khơi, Nguyễn Trãi lại đưa ta bước vào âm vang hào sảng của một đất nước văn hiến ngàn năm, vĩ đại, lớn lao và sừng sững. Hai nhà thơ biểu trưng cho hai thời đại, tuy xa cách nhau bằng khoảng thời gian muôn trùng thế nhưng lại gặp nhau trong giọng thơ đầy mạnh mẽ, tự hào khi nói về đất nước.
Còn đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm của chúng ta, ông không viết về đất nước bằng những chiến tích hiển hách, hào hùng, lại càng không dùng ngôn từ với thật nhiều tráng lệ, hiển hách. “Đất Nước” của ông chỉ đơn thuần và bình dị như thế, dịu êm như thế, “Đất Nước” ở ngay chính nơi này – trong trái tim ta! Viết về đất nước bằng lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm không những không bị những tráng khí đi trước lu mờ, trái lại, ông đã khẳng định được tài năng và chỗ đứng riêng của bản thân trên thi đàn Việt Nam.
Viết tiếp những vần thơ vẽ về đất nước mình, nhà thơ vẫn dịu dàng thủ thỉ những lời dịu êm như ban nãy:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Một lần nữa, hình ảnh mẹ lại hiện lên, gợi lên cảm giác thật ấm áp và yêu thương biết mấy, bởi mẹ chính là hiện thân của hơi ấm và tình thương dạt dào, bao la. Câu thơ cất lên như vẽ ra trước mắt người đọc đoạn phim trắng đen ngắn ngủi bên hiên nhà – nơi có mẹ đang ngồi, búi tóc gọn gàng, chỉn chu.
Mái tóc mẹ đen huyền, óng ả một màu,mượt mà như dòng suối, từng vòng một được cuộn cẩn thận, búi lên đầu thành mái tóc của người mẹ Việt Nam. Những búi tóc ấy có thể không có trâm cài đính ngọc lấp lánh, nhưng có nhiều hơn thế – có tình yêu, có sự tảo tần, hiền dịu mà mẹ dành cho con. Cùng với cha, mẹ tạo nên tổ ấm thân thương gọi là nhà, là gia đình, là chốn về mỗi khi bước chân đã mỏi. Cha mẹ thương và sống với nhau không chỉ bằng tình yêu mà còn vì ân nghĩa sâu nặng, gắn kết bền chặt với thời gian.
Cũng như gừng bao năm gừng vẫn nguyên vẹn vị cay, thậm chí càng già càng cay, càng đậm mùi vị đặc trưng không đổi; hay như vị muối mặn càng không suy suyển, bao năm vẫn mặn mà như xưa. n tình thắm thiết ấy đã đi sâu vào ca dao, như một lời răn dạy về đạo vợ chồng trăm năm như gừng, như muối, dạy con người ta sống có nghĩa có tình, dẫu hết tình thì vẫn còn chữ “nghĩa” một đời không đổi cũng chẳng thay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dẫu có xa nhau cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Vẫn với lời thơ thủ thỉ, tâm tình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gợi lên một truyền thống khi đặt tên cho con của dân tộc ta:
“ Cái kèo cái cột thành tên”
Từ những điều thân thuộc và đời thường, những cái tên âu yếm, yêu thương ấy đã ra đời bằng những “kèo” và những “cột”. Tên dẫu thật lạ nhưng mang đầy ý nghĩa và tình yêu khi ẩn sâu bên trong cái tên mộc mạc ấy chính là truyền thống về đặt tên cho con không đẹp – để bảo vệ con, mong cho con một đời bình an, hạnh phúc – từ lâu đã được truyền lại từ đời này sang đời khác, tiếp nối và lưu giữ trọn vẹn lời dạy cổ xưa.
Không những vậy, “cái kèo cái cột” còn là những từ chứng kiến sự phát triển giàu mạnh thêm của ngôn ngữ nước mình – tiếng nói mà cả dân tộc ta luôn tự hào là trong sáng và giàu đẹp, tiếng nói mà toàn thể dân tộc Việt Nam ta đã “quyết đem hết tinh thần và lực lượng, của cải và tính mạng” ra để bảo vệ và gìn giữ, phát triển cho đến ngày hôm nay.
Cùng với đó, hình ảnh cái kèo, cái cột còn gợi lên cảm giác thật gần gũi và thân thuộc, dường như trong tâm trí chợt hiện lên một mái nhà tranh đơn sơ nhưng lại rất đầm ấm, tuy giản dị nhưng lại có thừa niềm vui và tiếng cười lan tỏa khắp không gian…
Trải khắp bảy câu thơ, nhà thơ đã khéo lồng ghép biết bao truyền thống lâu đời giàu ý nghĩa của dân tộc. Mỗi truyền thống lại gắn với một câu chuyện, mỗi tập tục lại mang đến một cảm xúc riêng. Nguyễn Khoa Điềm đã đi từ những tiếng “ngày xửa ngày xưa”, đến miếng trầu têm thật khéo thật thơm, vòng qua lũy tre làng xanh rì rào để về đến nhà nhìn thấy bóng dáng và mái tóc mẹ, lắng tai nghe những cái tên trìu mến, yêu thương và còn ý nhị nhắc về nghĩa tình sâu nặng tựa như gừng và muối của cha và mẹ…
Thế nên không có lí do gì mà nhà thơ lại “bỏ quên” mất một truyền thống đã đi cùng cha ông ta từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước, đã bồi đắp nên lớp nền vững chãi cho ta cắm lên ngọn cờ dân tộc phấp phới tung bay:
“ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Câu thơ như nét vẽ giản dị họa lên truyền thống trồng lúa nước cũng như đức tính cần lao, chịu khó, vốn “một nắng hai sương” biết bao đời tiếp nối và giữ gìn của toàn dân tộc. Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến hình ảnh đồng lúa bát ngát, mênh mông, nơi cò thẳng cánh bay cao, nơi sáo diều vi vu yên bình chao lượn. Nhắc đến bông lúa trổ đòng đòng, thơm thật ngọt mùi hương lúa chín là nhắc đến những giọt mồ hôi mặn đã rơi xuống để đổi lấy tinh túy của đất trời.
Những hạt ngọc trời ấy đã được làm ra từ đôi tay chai sạn vì nắng, vì gió, vì đồng áng, ruộng nương của những người nông dân Việt Nam chất phác, thật thà. Từ lúc cấy mạ đến ngày trổ bông, lúa gặt về còn phải “xay, giã, giần, sàng”, công phu lắm mới làm nên được một bát cơm thơm dẻo. Chính vì vậy, lúa gạo vốn quý lại càng quý hơn và ta càng thêm thương những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn. Họ không những cho ta bữa ăn ngọt lành, học còn tiếp nối ngọn lửa truyền thống của ông cha để lại. Vậy nên:
“ Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.
Câu thơ không chỉ dừng lại ở việc nêu lên truyền thống dân tộc mà còn là lời răn dạy dịu dàng, nhắc người ta nhớ đến công lao của người nông dân. Từ đó nhắn nhủ người ta biết yêu, biết quý hạt gạo, bởi mỗi hạt chứa đựng cả lịch sử và truyền thống hàng ngàn năm qua…
Vậy là,
“ Đất Nước có từ ngày đó…”
Đất Nước đã khởi nguồn từ “đó”, nghe như thanh âm từ những ngày xa xôi vọng về. Hai tiếng “ngày đó” gợi lên cảm nhận về khoảng thời gian lâu thật lâu và xưa thật xưa, cùng với dấu ba chấm “…”, câu thơ như được ngân dài hơn, tha thiết và sâu lắng hơn. Dường như mỗi khi “Đất Nước” được cất thành lời, đến câu “Đất Nước có từ ngày đó…”, người đọc đều nhỏ giọng hơn, nhẹ nhàng hơn, để cho thanh âm như nhỏ dần, nhạt dần, hòa dần vào trong không gian và dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi.
Khép lại chín câu thơ đầu của chương V, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hoàn thiện xong bức họa đất nước bằng cách vẽ của riêng mình. Đất nước trong ông đã hiện lên ngay trước mắt người đọc, bằng cả thị giác và cảm xúc cảm bồi hồi, khó tả đang trào dâng.
Thơ ông vốn không vần, cũng chẳng đi theo một niêm luật nào cụ thể, tưởng như sẽ rất nhàm chán và khô khan. Thế nhưng không… “Đất Nước” không những không bị cuốn trôi theo dòng thời gian hay bị lu mờ bởi những tác phẩm cùng đề tài, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã tỏa sáng từ chính những câu thơ không vần chẳng luật ấy. Chính bởi thơ không vần nên ý thơ mặc sức mà lan tỏa.
Chính bởi ngôn từ bình dị, mộc mạc không phô trương, bề thế mà “Đất Nước” dịu êm như bản tình ca khắc ghi sâu vào lòng mỗi người – bản tình ca giữa “ta” và “Đất Nước – thắm thiết, đậm đà và nặng sâu. Cùng với kiến thức phong phú, uyên bác về truyền thống dân tộc mình, nhà thơ đã đưa cả bốn nghìn năm lịch sử vào từng câu, từng chữ, để mỗi khi đọc lên, dải đất uốn lượn hình chữ S cong cong ấy hiện lên trong tâm trí mỗi người dân đất Việt thật trọn vẹn, thật đẹp và thật sáng tươi.
Đúng như trong “Học văn đọc văn”, Giáo sư Trần Đình Sử từng nhận định: “ Một Đất Nước như thế không thể có được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà thơ phải dùng hình thức suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí tưởng tượng của họ, vào kí ức của họ, nhìn Đất Nước trong chính tâm hồn họ”.
Đọc “Đất Nước”, người ta không chỉ thấy được một đất nước gần gũi và dịu hiền trong tâm hồn mình, người ta còn thấy cả một tấm lòng yêu nước dịu dàng, tinh tế cùng với tài hoa cầm bút của người nghệ sĩ đã viết nên bài thơ.
Nhìn chung, văn học Việt Nam thời kì những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ chứng kiến sự ra đời của nhiều tuyệt tác, thực sự là một giai đoạn mà thơ văn nở rộ như một vườn hoa rực rỡ sắc màu, đặc biệt là đối với văn học miền Nam. “Đất Nước” đã góp phần hương sắc dìu dịu mà len lỏi in sâu vào trí óc thế hệ thanh niên trẻ miền Nam lúc bấy giờ, cũng như toàn thể người dân Việt Nam, thức tỉnh họ sớm bước đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, bảo vệ độc lập và tự do của một dân tộc anh hùng.
Và dẫu ra đời trong hoàn cảnh bão lửa mưa bom, “Đất Nước” vẫn luôn nhẹ nhàng và dịu êm như người mẹ dịu hiền vỗ về lòng ta bởi từng lời thơ du dương ấy, để rồi bốn mươi tám năm qua, như đứng ngoài quy luật của thời gian, “Đất Nước” vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị tinh thần mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hướng đến.
Mặc cho bước chân thời gian vẫn chảy trôi không ngừng,thơ văn vẫn ở đó và vẫn tỏa sáng, bởi lẽ “Thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trở thành bất tử” ( Shelly), nên chúng cũng trường tồn mãi với tháng năm. Bài thơ “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã ngân lên một khúc dạo du dương, dịu dàng, khắc sâu vào từng trái tim, từng tâm hồn, gợi lên một niềm yêu thương, tự hào khó tả về mảnh đất quê hương thân thương, nơi ta thuộc từng đường đi lối về, từng hàng cây ngọn cỏ.
Dù đi đâu, đi đến tận cuối đất cùng trời, ta vẫn tự hào mang trong mình dòng máu Lạc Hồng hào hùng, hiên ngang. Dù ta là ai, chỉ cần ta sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, trái tim sẽ mãi luôn nhớ: “ Dù đi đâu… Đến phương trời nào, cũng chẳng đẹp hơn nước non Việt Nam”…
Mời bạn khám phá thêm 💕 Kết Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm 💕 20 Mẫu Đặc Sắc
Cảm Nhận 9 Câu Đầu Bài Đất Nước Ngắn Gọn – Mẫu 3
Bài văn mẫu cảm nhận 9 câu đầu bài Đất Nước ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo những ý văn súc tích và cô đọng nội dung.
Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là những trang thơ đậm chất suy luận, nhưng lại thấm đẫm, nồng nàn trong cảm xúc. Bởi thế mà dẫu viết về một đề tài đã cũ, đã quen, nhưng cách khai thác chất liệu mới mẻ, sáng tạo đã giúp nhà thơ tạo được dấu ấn riêng trong lòng người đọc. Đặc biệt, 9 câu thơ mở đầu Đất Nước, trong mạch cảm xúc trăn trở, tìm về cội nguồn lịch sử của dân tộc, đã thể hiện rất rõ điều đó.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”
Đất Nước đã lớn lên, và được hình thành dựng xây từ khi ta còn chập chững những tiếng khóc đầu tiên, từ trong mạch nguồn văn hóa thẳm sâu, mà trước hết ở đây, nó hiện diện trong lời kể của mẹ. Mẹ kể cho ta nghe về những câu chuyện cổ tích thuở xưa, và nhuần thấm trong những câu chuyện dân gian bay bổng, lãng mạn chất chứa mơ ước hi vọng của người dân lao động nghèo, là hình ảnh đất nước một nắng hai sương có từ ngày đó.
Nghĩa là, Đất Nước đã gắn liền với mỗi người từ thuở ấu thơ, từ những gì thân thương bình dị nhất, chính vì thế mà đất nước hiện lên không phải là hình ảnh quá đỗi lớn lao, vĩ đại của non kỳ thủy tú, giang sơn gấm vóc tươi đẹp trong thơ ca trước đó ta từng thấy, mà nó đẹp trong nét mộc mạc, gần gũi, giản dị của chính nó.
Để rồi, tiếp tục mạch chảy của các chất liệu dân gian, hình ảnh đất nước hiện lên như được bồi đắp, tạo xây vẻ đẹp lịch sử, sâu xa của mình từ những phong tục tập quán của người Việt cổ, trong những truyền thuyết lịch sử hào hùng:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên”
Hình ảnh miếng trầu có lẽ đã trở nên rất đỗi quen thuộc trong các bài ca dao, dân ca, trong cả những câu hát giao duyên của tình yêu đôi lứa: trầu này trầu tính trầu tình, ăn vào cho đỏ môi mình môi ta. Mượn chất liệu dân gian gắn liền vẻ đẹp của phong tục văn hóa để trả lời cho câu hỏi về mạch nguồn lịch sử đất nước, đã giúp cho câu văn của Nguyễn Khoa Điềm không triết lý khô khan, mà nhuần thấm những phong vị xưa, mềm mại, bay bổng.
Rồi cả sự tích Thánh Gióng đánh giặc cũng được liệt kê một cách khéo léo vào mạch thơ, từ đó làm nên sự hài hòa của các chất liệu dân gian. Tục bởi tó, đặt tên mộc mạc, chất phác của người Việt xưa, kết hợp những yếu tố ấy lại với nhau, phải chăng Nguyễn Khoa Điềm muốn khẳng định, Đất Nước không chỉ có trong ký ức tuổi thơ, mà còn hòa mình đằm thắm vào mạch nguồn văn hóa, tạo nên nét đẹp gần gũi, bình dị và thân thương đến lạ với người đọc khi cảm nhận tác phẩm.
Không chỉ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi về sự hình thành đất nước, nhà thơ còn gián tiếp qua đó gợi hình ảnh tần tảo của người dân lao động cần lao, đồng thời khắc họa nét đẹp tâm hồn của con người dân tộc.
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Bằng cách sử dụng sáng tạo các chất liệu dân gian, 9 khổ thơ đầu đã giúp Nguyễn Khoa Điềm không chỉ trả lời cho câu hỏi về cội nguồn, lịch sử hình thành Đất Nước, mà còn như gợi lại trong thẳm sâu tâm hồn người đọc những vẻ đẹp văn hóa phong tục đã được đắp bồi dưỡng nuôi trong hàng ngàn thế hệ, cũng từ đó, như một cánh cửa, đưa ta ngược dòng về với vẻ đẹp bình dị, xưa cũ của dân tộc.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Cảm Nhận Về 9 Câu Đầu Của Đất Nước Chi Tiết – Mẫu 4
Bài văn cảm nhận về 9 câu đầu của Đất Nước chi tiết dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im…”. Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng tôi xốn xao da diết. Nhớ những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ chả hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm! Thời gian trôi qua nhanh, mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa.
Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Trong những vần thơ mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, tác phẩm “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là nổi bật hơn cả.., bằng trải nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức được đào tạo bài bản từ mái trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng Đất Nước, hoà mạch thơ chính luận – trữ tình.
Đất nước – hai tiếng ấy thật thiêng liêng, tự hào. Nó trở thành đề tài muôn thuở trong thơ ca chỉ có điều các nhà thơ nhà văn hay dùng những hình ảnh mang tính biểu tượng để viết về đất nước hay tự tạo ra một khoảng cách để chiêm ngưỡng. Còn trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng mà rất gần gũi đối với mỗi người.
Trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước là gì? Đất Nước từ đâu ra?”, mỗi người đều có cách cảm nhận, lí giải riêng của mình. Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước được cảm nhận ở các phương diện lịch sử, địa lý văn hoá …nên tác giả tự hào mà nói rằng “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”.
Nhà thơ đã bắt đầu bằng những kí ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của Đất Nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của con người. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình, thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc. Cái hay của phần mở đầu chương “Đất Nước” chính là sự xuất hiện của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…”
Giọng thơ thủ thỉ, chân thành mà sâu lắng ấy đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về Nhân Dân – Đất Nước. Đất Nước đã có từ lâu, rất lâu rồi. Khi ta oa oa cất tiếng khóc chào đời, lớn lên và trưởng thành thì đất nước đã có rồi. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ những huyền thoại: “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể” giờ còn đọng lại trong tiềm thức với cô Tấm ngoan hiền, với sự tích bánh chưng bánh dày, bà tiên nhân hậu hay mụ dì ghẻ độc ác, …
Hình ảnh Đất Nước vừa hiện lên vừa giản dị gần gũi, vừa thiêng liêng sâu lắng bởi nó gắn với thế giới tâm hồn con người, được nuôi dưỡng từ thuở thơ bé và truyền lại cho muôn đời sau “ngày xưa” chỉ với hai từ mà bao kỉ niệm tuổi ấu thơ lại ùa về.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Trong kho tàng văn học dân gian, nhà thơ đã chọn ra hai câu chuyện để khắc hoạ hình ảnh đất nước bằng chính những cảm nhận sâu sắc của mình. “Đất Nước bắt đầu” một câu thơ lí giải sự hình thành đất nước gắn liền với câu chuyện cổ tích cầu cau. Đó là câu chuyện cổ tích ngợi ca nghĩa anh em và tình vợ chồng gắn bó keo sơn. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu có nghĩa là Đất Nước được hình thành trong lối sống tình nghĩa.
“Miếng trầu bây giờ bà ăn” bắt nguồn từ thuở xa xưa – đó là truyền thống tốt đẹp – “Miếng trầu bắt đầu câu chuyện”. Đất Nước được sinh ra và nuôi dưỡng trong truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc đó là lối sống nghĩa tình. Đất Nước được hình thành trong tình yêu nhưng lại lớn mạnh và trưởng thành nhờ những cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc.
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Câu thơ gợi nhắc truyền thuyết “Thánh Gióng” làm ta nhớ đến một cậu bé lớn nhanh như thổi để lên đường đánh giặc Ân cứu nước. Một câu chuyện ngợi ca sức mạnh của tình yêu dân tộc và hình ảnh kì vĩ Thánh Gióng. Và đất nước ta cũng trưởng thành khi mọi người cùng nhau đồng lòng chống giặc ngoại xâm, mở mang bờ cõi.
Với Nguyễn Khoa Điềm, ông đã nhìn thấy sự trưởng thành của Đất Nước trong đau thương, thử thách nhờ công cuộc đấu tranh và lòng yêu nước của dân tộc. Qua lịch sử, truyền thống ấy đã trở thành truyền thống yêu nước thiêng liêng.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Trong muôn vàn truyền thống đẹp, nhà thơ chọn ra một hình ảnh thật giản dị nhưng rất tinh tế đặc sắc: hình ảnh người phụ nữ Việt với mái tóc bới sau đầu – hình ảnh thật gần gũi, thân quen in sâu trong nếp nghĩ, gợi suy ngẫm về con người trong cuộc sống lam lũ vất vơ nhưng vẫn duyên dáng, tần tảo, đảm đang. Hình ảnh ấy qua bao năm tháng vẫn không thay đổi, vẫn gợi suy ngẫm về cái đẹp giản dị mà thiêng liêng. Và hình ảnh Đất Nước hiện lên qua chính mỹ tục ấy.
Đất Nước còn hiện lên trong sự gắn liền với một lối sống đẹp “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Câu thơ gợi từ một câu ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau”. Ý thơ giản dị mà ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Tình yêu được sinh ra và nuôi dưỡng từ trong khó nghèo, từ trong những hoàn cảnh đầy thử thách thật đáng trân trọng, đáng quý. Đó là lối sống trọn nghĩa, trọn tình, thuỷ chung đã trở thành một truyền thống thiêng liêng được lưu truyền qua bao đời.
Và sự sinh thành, phát triển của Đất Nước song hành cùng với sự lưu truyền và phát triển của truyền thống tốt đẹp ấy. “Cái kèo, cái cột thành tên” Đất Nước được gắn liền với những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc “cái kèo, cái cột” nhưng chính những thứ đơn sơ, mộc mạc ấy đã tạo nên một mái ấm gia đình, làng xóm, quê hương, đất nước. Nói cách khác, nó chính là tế bào của đất nước.
Đất Nước hiện lên qua cuộc sống lao động sinh hoạt: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Sự hình thành và phát triển của Đất Nước là một quá trình lâu dài, nhờ bàn tay lao động xây dựng của con người từ thuở sơ khai, khi con người tạo dựng những cái đơn giản nhất với nỗ lực một nắng hai sương. Con người lao động đã biết “xay, giã, giần, sàng” để tạo nên hạt gạo, tạo nên những giá trị vật chất để xây dựng Đất Nước no ấm.
Cách sử dụng từ ngữ “một nắng hai sương” và chọn lọc hình ảnh “xay, giã, giần, sàng” cùng nhịp điệu lan toả gợi sự suy ngẫm liên tưởng, hình ảnh Đất Nước hiện dần nhờ bàn tay lao động cần cù, sáng tạo của con người, hình ảnh ấy hiện dần trong nhịp điệu gạo rơi trên sân, trong tiếng chày, trong máy xay với cuộc sống lao động bền bỉ dù vất vả, lam lũ. Qua đó ta nhận ra nét đặc trưng riêng của nền văn học Việt – văn hoá lúa nước. Hình ảnh Đất Nước hiện lên trong cuộc sống sinh hoạt là một Đất Nước cần cù, sáng tạo trong lao động.
Cũng chính trong cuộc sống lao động sinh hoạt, nhà thơ còn khám ra sự hình thành, phát triển ngôn ngữ dân tộc gắn liền với nguồn gốc hình thành và phát triển của Đất Nước: Khi con người biết lao động tạo dựng cuộc sống chính là khi họ biết đặt tên cho những sự vật hình tượng gần gũi nhất “cái kèo, cái cột”.
Và trong quá trình lao động, trong sự tìm tòi khám phá, sáng tạo nên những giá trị vật chất như hạt gạo, họ đã sáng tạo nên những ngôn từ ghi lại quá trình lao động ấy “xay, giã, giần, sàng”. Đây là kết tinh tinh tuý linh hồn của dân tộc. Đất Nước hình thành và phát triển cùng với sự hình thành tiếng mẹ thiêng liêng ấy.
Khám phá Đất Nước ở phương diện văn hóa sinh hoạt, Nguyễn Khoa Điềm đã phát biểu nhận thức của mình như lối định nghĩa độc đáo, một cách lí giải không hề mang tính áp đặt mà đầy sức gợi, sức thuyết phục bằng những câu chuyện, chọn lọc chi tiết giàu ý nghĩa giúp ta nhận ra Đất Nước bắt nguồn từ những điều giản dị nhất, gần gũi nhất, nhưng bền vững đến muôn đời.
Trong đoạn thơ trên tác giả sử dụng nhiều các yếu tố ca dao dân ca tục ngữ truyền thuyết cổ tích không chỉ đem đến sự gần gũi mà còn biểu hiện ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Từ “Đất Nước” được viết hoa và lặp lại 5 lần thể hiện sự thành kính.
Với chín dòng thơ 85 chữ, không hề có một từ hán việt, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên những vần thơ tự do dạt dào cảm xúc, kết hợp với chất giọng thủ thỉ tâm tình như một điệu ru dễ đi vào lòng người. Nhưng chuyển tải mạch cảm xúc ấy là một lối lập luận chặt chẽ: tổng -phân – hợp. Chính sự kết hợp hài hoà giữa trí tuệ và cảm xúc bay bổng đã làm sáng lên lối thơ trữ tình chính luận – phong cách độc đáo riêng của Nguyễn Khoa Điềm.
Qua những dòng thơ trăn trở và suy tư về một khái niệm tưởng chừng như đã ăn sâu vào máu thịt mỗi người dân Việt, qua chiều sâu văn hóa, sinh hoạt Nguyễn Khoa Điềm đã có một phát hiện, một cảm nhận vô cùng sâu sắc: Đất Nước hiện lên trong thế giới tinh thần của cộng đồng người Việt, trong cuộc sống sinh hoạt từ bao đời.
Đất Nước hiện lên gắn liền với những phong tục tập quán với lối sống, nếp nghĩ, qua kho tàng văn học dân gian, qua bản sắc văn hoá… Đó là một Đất Nước không trừu tượng mà cụ thể, chứa đựng mơ ước, khát vọng, quan niệm về vẻ đẹp phẩm chất của tâm hồn dân tộc. Gương mặt Đất Nước hiện lên thật sống động, lung linh: trong cuộc sống, trong lao động và trong chiến đấu.
Đọc nhiều hơn 🌻 Phân Tích Bài Thơ Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm 🌻 Hay Nhất
Cảm Nhận Của Em Về 9 Câu Đầu Đất Nước Nâng Cao – Mẫu 5
Tham khảo bài văn cảm nhận của em về 9 câu đầu Đất Nước nâng cao dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm tháng trường kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn đọc giả bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người Việt Nam.
Nổi lên cho phong cách sáng tác của ông là “Trường ca Mặt đường khát vọng”, được ông sáng tác ở chiến khu Trị-Thiên năm 1971, in xuất bản lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về trách nhiệm với non sông đất nước và sứ mệnh thế hệ mình , hơn cả là hòa mình với cuộc đấu tranh chống Mĩ xâm lược. Đoạn trích bài thơ “Đất nước” nằm ở phần đầu chương V của tường ca. 9 câu thơ mở đầu của đoạn trích là 9 câu thơ nói lên quan điểm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.
Với 9 câu thơ đầu tác giả đã thể hiện quan điểm mới mẻ của mình về cội nguồn đất nước.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Mở đầu trong đoạn trích, tác giả đã muốn khẳng định “khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Chẳng biết là đất nước hình thành và có từ bao giờ, chỉ biết là khi ta lớn lên thì đất nước đã có ở đây rồi. Đó chính là lời khẳng định chắc chắn về sự trường tồn của đất nước.
Sau khẳng định chắc nịch về sự tồn tại của đất nước, tác giả dần dần vén màn cho ta thấy rõ hơn về nguồn gốc của đất nước:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Dòng thơ “ngày xửa ngày xưa” là mở đầu cho từng một câu chuyện cổ tích mà các bà, các mẹ hay kể chuyện cho các con cháu nghe.Cũng chẳng biết từ khi nào, chỉ biết là từ “ngày xửa ngày xưa” hình thành đất nước đã có rồi. Những câu chuyện cổ tích truyền thuyết ra đời là từ đất nước.
Đất Nước hiện diện lên trong truyện cổ. Đó là hình ảnh Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại và truyền thuyết. Với nhà thơ, hai từ “đất nước” còn bắt đầu với miếng trầu bà ăn. Người xưa thường xuyên nói “miếng trầu là đầu câu chuyện”, đó hẳn là bởi vì tục ăn trầu là một trong những phong tục lâu đời của Việt Nam ta.
Hình ảnh của “miếng trầu” cũng như là hình ảnh của sự khởi đầu. Đất Nước đã có từ khi dân mình có tục ăn trầu và tục ăn trầu của nhân dân cũng là khởi đầu cho một đất nước, khởi đầu cho một nền văn hiến.
Bắt đầu của một sự sống và những bước trưởng thành của sự sống đó. Sau sự bắt đầu của một Đất Nước chính là sự trưởng thành của cả một dân tộc:
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Từ những năm tháng trước công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần đầu tiên nước ta mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm. Từ những câu chuyện truyền thuyết Thánh Gióng với hình ảnh nhổ cả luỹ tre dơ cao đánh đuổi giặc.
Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất. Từ hình những ảnh thực tế, cho đến đời sống tinh thần, đó là từng bước đi lên trưởng thành của một dân tộc, của một đất nước con người . Ý thức được về đất nước, về sự tồn tại của đất nước và ý thức về việc phải có trách nghiệm bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ bờ cõi đất nước.
Tiếp theo đó là những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mỹ tục giản dị của con người Việt Nam :
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đầu tiên đó chính là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp của một người bà, người mẹ, người chị, của một người con gái mộc mạc Việt Nam, tuy giản dị nhưng lại nữ tình, thuần hậu rất riêng. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” đã vận dụng một cách hết sức tự nhiên nhưng cũng là hết sức đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình con người , gợi lên sự thuỷ chung ở trong con người như câu nói “gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa sẽ đong đầy”.
Rồi đến câu thơ “Cái kèo cái cột thành tên”, gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt ngày xưa . Nhà được làm bằng cách sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà thêm vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống phát triển đất nước.
Và cả truyền thống cần cù lao động động , chịu thương chịu khó miệt mài của dân tộc ta nữa “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”.Câu thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong cần cù và lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu.
Đó chính là truyền thống lao động cần cù, miệt mài chịu thương chịu khó. Các động từ như “Xay – giã – dần – sang” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra được hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã và giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân vất vả nắng mưa.
Và sau tất cả, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại “Đất Nước có từ ngày đó … “. “Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn hoá. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt Nam.
Bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi lệ tóc, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống làm nông nghiệp và các câu ca dao, tục ngữ cùng các thành ngữ… Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí thơ ca.
Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại rất nhiều lần cũng như việc nhà thơ luôn luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thành kính vô cùng thiêng liêng… Tất cả đã làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Qua đoạn thơ trên nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, của phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của con người của nhân dân.
Tiếp tục đón đọc 🌳 Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước 🌳 Bài Văn Mẫu Hay
Cảm Nhận 9 Câu Đầu Đất Nước Học Sinh Giỏi – Mẫu 6
Đón đọc bài văn mẫu cảm nhận 9 câu đầu Đất Nước học sinh giỏi dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.
Đất Nước- hai từ thôi mà sao nó thân thương đến thế! Và đó cũng là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ sẽ chọn cho mình một góc nhìn riêng để nói về Đất Nước, nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ hay cảm hứng về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, bình dị để miêu tả về Đất Nước.
Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã gợi cho người đọc những nét đẹp về văn hóa, truyền thống, phong tục đẹp vô ngần, sinh động lạ thường, mang đậm dấu ấn con người Việt. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ đồng thời cũng là nhà chính trị Việt Nam. Ông là một người con của xứ Huế, chính những nét đặc trưng của Huế đã tạo nên hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trữ tình mà sâu lắng, hài hòa giữa trí tuệ và cảm xúc. Sau khi tốt nghiệp khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội, Nguyễn Khoa Điềm trở về quê hương hòa mình vào cuộc chiến đấu dữ dội tại chiến trường Bình Trị Thiên.
Tiếp xúc trực tiếp với chiến tranh, tận mắt chứng kiến tội ác của kẻ thù, cuộc chiến đấu gian khổ của đồng bào ta…những điều đó đã khơi nguồn cảm hứng mãnh liệt cho hoạt động sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm.
Từ những đêm không ngủ, những ngày xuống đường, Nguyễn Khoa Điềm đã tích lũy cho mình vốn sống và sự trải nghiệm để cảm hứng ấy trào lên thành trường ca Mặt đường khát vọng, được viết năm 1917 gồm 9 chương. Thành công nhất là chương Đất Nước, nó đã trở thành một bài thơ có sức sống độc lập, thể hiện trọn vẹn tài năng phong cách Nguyễn Khoa Điềm.
Ngay từ những câu thơ đầu đoạn trích, Nguyễn Khoa Điềm đã trầm ngâm, suy tư về cội nguồn, quá hình thành của Đất Nước bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể chuyện cổ tích:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Mở đầu đoạn thơ như một lời khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra vì khi lớn lên nó đã có rồi. Đó cũng là một lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” chỉ thời gian huyền hồ, hư ảo là nhịp thời gian cổ xưa xa thẳm để mở đầu những câu chuyện cổ. Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước có từ rất xa xưa, trong sâu thẳm thời gian, trong kí ức tuổi thơ hồn nhiên trong sáng của mỗi cuộc đời. Câu chuyện của Nguyễn Khoa Điềm đã đánh thức trong người đọc những hoài niệm đẹp đẽ của một thời đại. Đó cũng chính là đất nước được cảm nhận trong chiều sâu tâm hồn nhân dân, văn hóa và lịch sử:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Đó là miếng trầu gợi lên sự tích vào loại cổ nhất người Việt “Sự tích trầu cau” từ đời vua Hùng dựng nước xa xưa, ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, anh em đằm thắm, sắt son đồng thời đánh thức dậy hình ảnh miếng trầu đã trở thành biểu tượng của tình yêu, lòng thủy chung, miếng trầu là đầu câu chuyện. Đó còn là truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đuổi giặc Ân, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất. Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam.
Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Hình ảnh tre như những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, thuỷ chung, yêu hoà bình, kiên cường bất khuất trong những cuộc chiến tranh. Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi chúng ta, trong đời sống tâm hồn của người dân từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tác giả còn nhắc đến thuần phong mỹ tục của người Việt, câu ca dao “Tay bưng chén muối đĩa gừng/Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” như đã nhập hồn vào câu thơ Nguyễn Khoa Điềm:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Đất Nước còn là phong tục búi tóc thành cuộn sau gáy rất quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay. Đó là vẻ đẹp giản dị nhưng mang một nét đẹp riêng biệt không thể lẫn lộn với những nền văn hóa khác. Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu.
Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Người ta vẫn thường hay nói gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn nghĩa là con người sống với nhau càng lâu thì tình nghĩa càng đong đầy.
Đất nước gắn bó, thân thiết như người ruột thịt và bao công việc lao động khác:
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Cha ông ta xưa gắn liền với những miền quê thuần phác của nền nông nghiệp thóc gạo với mái lá nhà tranh nên thường coi việc đặt tên cho con cũng chỉ bằng cái tên nôm na, dân dã, có khi lấy những bộ phận của ngôi nhà tre gỗ chính mình đang ở “cái kèo”, “cái cột”. Với người Việt Nam vốn gắn bó lâu đời với nền văn minh lúa nước, hạt gạo trở thành gia bảo vô cùng cần thiết cho cuộc sống.
Cho nên ngay khi còn là đứa trẻ mới lớn, cảm nhận về vật chất đầu tiên phải là hạt gạo trải qua một quá trình lam lũ, kết tinh từ mồ hôi nước mắt của người lao động, “một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” phải suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời, dầm mưa dãi nắng nhân dân ta mới làm ra được hạt ngọc quý giá ấy. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là vị mặn mồ hôi nhọc nhằn của người nông dân. Chính vì thế khi ăn hạt cơm dẻo, thơm phải nhớ đến người làm ra nó.
Câu cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có từ ngày đó…” “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước.
Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ “Đất Nước đã có”, “Đất Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên”, “Đất Nước có từ” đã giúp cho ta hình dung được cả quá trình hình thành và phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử nằm sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua bao thế hệ.
Nguyễn Khoa Điềm lặng lẽ quan sát Đất Nước ở muôn mặt đời thường và trong quan hệ ruột rà, thân thuộc. Đất Nước là những gì bình dị nhất, gần gũi và thân quen nhất trong đời sống hằng ngày của mỗi con người việt nam ta: câu chuyện cổ tích bà kể, miếng trầu bà ăn, gừng cay, muối mặn, hạt gạo…
Gợi ý cho bạn 🌹 Bình Giảng Đất Nước 🌹 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Cảm Nhận Hình Tượng Đất Nước Trong 9 Câu Đầu – Mẫu 7
Chia sẻ dưới đây bài văn cảm nhận hình tượng Đất Nước trong 9 câu đầu để các em học sinh cùng tham khảo:
Trên diễn đàn văn học Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là gương mặt thơ tiêu biểu trong thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ với phong cách thơ mang đậm tính chính luận và trữ tình. Sự quyện hòa đó đã được thể hiện rõ nét qua trích đoạn “Đất Nước” (trích trường ca “Mặt đường và khát vọng”). Thông qua chín câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng về cội nguồn của Đất Nước trong cách cảm nhận độc đáo của tác giả:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay, muối mặn
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Cái kèo, cái cột thành tên
Đất Nước có từ ngày đó”
Tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước có từ khi nào” thông qua việc dẫn dắt người đọc vào một thế giới hình ảnh thơ quen thuộc và mang đậm nét văn hóa dân gian. Những lý giải về cội nguồn của Đất Nước mang tính triết luận đã được thể hiện qua những câu thơ giàu cảm xúc, tha thiết, trữ tình mà vẫn suy tư sâu lắng. Trước hết, hình tượng Đất Nước được gợi ra từ những gì thân thuộc nhất gắn với không gian tuổi thơ của mỗi một con người: “Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể”.
Câu thơ gợi lên sự êm dịu, bình yên, ngọt ngào của tình mẫu tử qua khung cảnh người mẹ đưa nôi cùng những lời ru ầu ơ và câu chuyện cổ tích diệu kì tắm mát, nuôi dưỡng tâm hồn mỗi một con người. Thế giới đó còn được khắc họa rõ nét hơn nữa qua “miếng trầu bà ăn”.
Chất liệu văn hóa dân gian đã được tác giả sử dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo gợi lên câu chuyện “Trầu Cau” quen thuộc cùng thói quen sử dụng miếng trầu là “đầu câu chuyện”. Suy tư sâu sắc về Đất Nước đã gắn liền và quyện hòa cùng niềm tự hào về không gian truyền thống văn hóa theo chiều đồng đại và bề dày, độ dài lịch sử theo chiều lịch đại.
Sự chiêm nghiệm mang tính triết lí còn được gợi ra từ truyền thống chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất của dân tộc: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Hình ảnh cậu bé Phù Đổng Thiên Vương nhổ bụi tre bên đường làm vũ khí đánh tan giặc n qua câu chuyện “Thánh Gióng” một lần nữa khẳng định những suy tư về cội nguồn của Đất Nước vừa mang đậm tính triết lí vừa nồng nàn cảm xúc.
Đất Nước còn được tái hiện qua không gian văn hóa quen thuộc cùng những thói quen, phong tục tập quán: “Tóc mẹ thì bới sau đầu / Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Hình ảnh người mẹ một lần nữa xuất hiện để tô đậm những truyền thống lịch sử đậm đà bản sắc dân tộc cùng lối sống tình nghĩa thủy chung, trước sau như một của con người Việt Nam. Đất Nước còn được tái hiện thông qua niềm tự hào về nền văn minh lúa nước của dân tộc:
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” qua quá trình lao động cần mẫn, đôi tay tỉ mỉ của người nông dân. Cuối cùng, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát lên một chân lí “Đất Nước có từ ngày đó”. Lý giải mang tính suy tư, chiêm nghiệm triết lý về “ngày đó” – ngày Đất Nước được hình thành đã được tác giả thể hiện bằng cảm xúc nồng nàn, sâu lắng qua những truyền thống, phong tập đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc cũng như chiều sâu lịch sử.
Khái niệm về sự hình thành, cội nguồn Đất Nước đã được kiến giải qua những biểu hiện cụ thể, sinh động về phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa, lịch sử. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt các biện pháp nghệ thuật, đặc biệt là sự sáng tạo trong việc sử dụng chất liệu văn hóa dân gian cùng nhịp thơ linh hoạt qua thể thơ tự do để khiến những suy tư, kiến giải về cội nguồn Đất Nước – một vấn đề vốn mang tính triết luận hiện lên với cảm xúc trữ tình nồng nàn, sâu lắng.
Như vậy, trong chín câu thơ đầu tiên của trích đoạn “Đất Nước”, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã dẫn dắt người đọc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ. Qua những hình ảnh thơ giàu cảm xúc và suy tư sâu lắng, chúng ta có thể thấy rõ đặc trưng của thơ ông. Đó là sự quyện hòa và kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chính luận.
Tham khảo trọn bộ ☔ Phân Tích 9 Câu Đầu Đất Nước ☔ Dàn Ý, 10 Bài Cảm Nhận Hay Nhất
Bài Văn Cảm Nhận Về 9 Câu Đầu Đất Nước Đơn Giản Nhất – Mẫu 8
Tham khảo bài văn cảm nhận về 9 câu đầu Đất Nước đơn giản nhất dưới đây với những luận điểm ngắn gọn và cơ bản nhất.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
…Đất Nước có từ ngày đó”.
Đoạn thơ đã nói lên một cách dung dị mà thấm thía về cội nguồn sâu xa của Đất Nước. Giọng điệu thủ thỉ tâm tình, nhà thơ gợi lên một không khí trầm lắng như kể chuyện cổ tích, như dẫn hồn ta ngược thời gian trở về cội nguồn Đất Nước và dân tộc. Bốn chữ “ngày xửa ngày xưa” dùng rất khéo:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.
Chữ “có” trong “đã có rồi”, “Đất Nước có trong những cái…”. Đã làm cho ý thơ khẳng định, tỏa sáng niềm tin. Tục ăn trầu, truyện cổ tích Trầu – Cau gợi lên hình ảnh Đất Nước xa xưa, “Đất Nước bắt đầu”… Truyền thuyết Thánh Gióng cho biết sự vươn mình của dân tộc, đánh dấu sức mạnh quật khởi “Đất Nước lớn lên”. Câu thơ mở rộng đến 12, 13 chữ, với cách gieo vần lưng (đầu – trầu, ăn – dân) nên vẫn thanh thoát, giàu âm điệu:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình trồng tre mà đánh giặc”.
Hai chữ “lớn lên” liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Gióng lên ba vươn vai thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược.
Rồi nhà thơ nói đến phong tục và đạo lí tốt đẹp lâu đời của nhân dân ta. Phong tục “bới tóc” của người Lạc Việt. Câu ca dao nói về đạo vợ chồng. “Tay bưng chén muối đĩa gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng quên đã nhập hồn vào câu thơ Nguyễn Khoa Điềm:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Chuyện “ngày xửa ngày xưa” nhưng vẫn hiện diện trên “tóc mẹ” trong tình thương của “cha mẹ” bây giờ. “Đất Nước đã có rồi”, “Đất Nước có…”, “Đất Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên” và Đất Nước đang hiện diện quanh ta, gần gũi ta.
Tiếp theo, nhà thơ lấy sự hình thành và phát triển ngôn ngữ dân tộc để nói về nguồn gốc lâu đời của Đất Nước. Mỗi vật dụng đều có một cái tẽn riêng: “Cái cột, cái kèo thành tên”. Nhân Dân ta có nghề trồng lúa nước lâu đời. Khi hạt gạo được sáng tạo nên bằng công sức “một nắng hai sương”, thì ngôn từ “xay, giã, giần, sàng” cũng xuất hiện.
Cách nói của Nguyễn Khoa Điềm thật ý vị:
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó”.
Lấp lánh trong đoạn thơ là hình ảnh Đất Nước thân yêu. Quá khứ của Đất Nước “ngày xửa ngày xưa” đồng hiện trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Có Đất Nước anh hùng “biết trồng tre mà đánh giặc”. Có Đất Nước cần cù trong lao động sản xuất: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”.
Đoạn thơ 9 câu, 85 chữ mà không hề có một từ Hán Việt nào. Ngôn từ bình dị, cách nói biểu cảm thân mật. Hiện diện trong đoạn thơ là: ta, dân mình, bà, cha, mẹ. Có miếng trầu, cây tre, tóc mẹ, … Có “gừng cay muối mặn” cái kèo, cái cột, hạt gạo, v.v…
Thật là thân thuộc và gần gũi, sâu xa và thấm thía, rung động. Tưởng tượng thì phong phủ, liên tưởng thì bao la. Đoạn thơ đã “nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp” để ta yêu thêm Đất Nước và tự hào về Đất Nước.
Cấu trúc đoạn thơ: “tổng – phân – hợp”; mở đầu là câu “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, khép lại đoạn thơ là câu “Đất Nước có từ ngày đó”. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ kết hợp hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo nói về cội nguồn Đất Nước thân yêu.
Đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Đất Nước Đoạn 1 2 🔥 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Cảm Nhận 9 Câu Đầu Đoạn Trích Đất Nước Lớp 12 – Mẫu 9
Bài văn cảm nhận 9 câu đầu đoạn trích Đất Nước lớp 12 dưới đây sẽ là tư liệu hay dành cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
“Đất Nước tôi thon thả giọt đàn bầu
Nghe dịu nỗi đau của mẹ”
(Đất nước tôi – Tạ Hữu Yên)
Đất Nước và mẹ là những điều thiêng liêng làm nên nguồn cội, từ lâu đã trở thành cảm hứng sáng tác của nền văn học lấy tinh thần yêu Tổ quốc mình đặt lên vai. Ở mỗi tác giả, chúng ta bắt gặp những cảm hứng khác nhau để từ đó hình tượng Đất Nước chưa bao giờ lặp lại mình qua lăng kính cá nhân của những người làm nghệ thuật.
Đến với Nguyễn Khoa Điềm, hình tượng Đất Nước được cảm nhận một cách mới mẻ, độc đáo qua lối thơ giàu chất trữ tình, giọng thơ suy tưởng, mang nhiều triết lý. Nhà thơ trí tuệ này đã dành cả chương 5 – Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng để luận giải về sự ra đời của Đất Nước thông qua nhiều phương diện lịch sử, địa lý, văn hoá dân gian để đi đến khẳng định Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân. Trong dòng suy tưởng ấy, cội nguồn của Đất Nước hiện ra ở 9 câu thơ đầu tiên.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
…
Đất Nước có từ ngày đó..”
Những năm đầu của thập niên bảy mươi thế kỷ trước, khi mà đế quốc Mỹ đang dồn sức đẩy cuộc chiến tranh ở miền Nam lên cao trào và không ngừng bắn phá miền Bắc, trong tình thế cam go ấy, cần lắm những con người nhiệt huyết, sẵn sàng xông pha vào tuyến lửa, sẵn sàng đi đầu, xuống đường đấu tranh giành lại hoà bình.
Nguyễn Khoa Điềm đã hăng hái viết bản trường ca Mặt đường khát vọng với mong muốn thức tỉnh, thôi thúc thế hệ trẻ hòa mình vào cuộc đấu tranh dữ dội của quần chúng nhân dân. Bằng tấm lòng tha thiết với Tổ quốc, bằng cảm xúc dạt dào của ngòi bút không ngại gian khổ, Nguyễn Khoa Điềm đã bất chấp tiếng bom rơi ngoài hầm trú ẩn, không nao núng trước tiếng gào thét của động cơ phản lực, từng câu thơ như mạch sống cuộn trào.
Trong đoạn trích, Đất Nước được viết hoa và cũng là chủ đề bao trùm cả chương. Đất Nước, tiếng gọi thiêng liêng gợi chiều sâu cảm xúc. Đất Nước cũng là tình yêu sâu nặng của nhân dân dành cho những điều giản dị, đời thường. Đất Nước còn gợi chiều dài xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại và tiếp tục ở tương lai.
Nguyễn Khoa Điềm đã dùng cả nhận thức của trí tuệ và sự rung cảm của tâm hồn để khám phá vẻ đẹp mang tên Đất Nước thông qua cuộc trò chuyện tâm tình giữa hai nhân vật “anh” và “em”. Đây là sự hoá thân của tác giả đưa vào mạch thơ cảm xúc tự nhiên, để từ cảm nhận của “anh” và “em” Đất Nước hiện lên trong mọi mặt đời sống nhân dân.
Để lý giải về cội nguồn của Đất Nước, nhà thơ đã phục dựng hình tượng đẹp đẽ này từ quá khứ hiện lên qua cái nhìn hiện tại.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Cái hay của nhà thơ không chỉ là nói những cái mới, cái lạ mà từ cái tưởng chừng đã quen, thông qua chất trí tuệ của một nhà thơ giàu suy tưởng, lại trở thành cái những liên tưởng thú vị. Đất Nước có từ rất lâu rồi, điều mà chúng ta không thể phủ nhận. Tuy nhiên vai trò nhận thức Đất Nước không phải của riêng ai mà là “ta”, bao gồm cả tác giả và mỗi con người trên xứ sở này. Thông thường, chúng ta hay dùng cách nói quen thuộc để chỉ thời gian dài như “khi ta sinh ra” hoặc “khi ta lớn lên”.
Xét về nghĩa, “khi ta sinh ra” chỉ thời gian sớm hơn “khi ta lớn lên”. Vậy mà nhà thơ lại sử dụng cách nói “lớn lên”. Phải chăng nhà thơ muốn nói rằng chỉ khi ta “lớn lên” có nghĩa là khi ta đã hình thành nhận thức, đã hoàn thiện về tâm hồn, trí tuệ thì Đất Nước mới thực sự hiện lên đầy đủ, hoàn chỉnh. Cũng khi ấy chúng ta mới biết xúc động, biết yêu quý và tự hào về Đất Nước mình.
Đất Nước được sinh ra từ những câu chuyện cổ, những nét văn hoá dân gian mà mỗi con người đều thấm đẫm câu “ngày xửa ngày xưa”
“Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa…mẹ thường hay kể”
Cũng như cánh cò trong bài hát ru đi vào tiềm thức mỗi đứa trẻ, những câu chuyện cổ bắt đầu từ “ngày xửa ngày xưa”, tuổi ấu thơ ngây dại nhiều mơ mộng cũng bắt đầu từ đấy. Chất giọng ấm áp của mẹ, trầm trầm của bà khi hóa thân vào nàng tiên, cô Tấm, như ngọt ngào hương Thị, say nồng hương cau. Mỗi câu chuyện là hình hài dân tộc, là lời dạy bảo, khuyên răn để qua những cái “ngày xửa ngày xưa” con cháu mai sau nhớ về nguồn cội
“Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình”
(Truyện cổ nước mình – Lâm Thị Mỹ Dạ)
Đất Nước xuất hiện trong truyền thống văn hoá, qua những nếp sống đời thường trở thành nét đẹp trong phong tục.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Miếng trầu cũng từ cổ tích, dáng bà dáng mẹ cũng từ thuở nào bước vào cuộc đời. Sợi dây kết nối giữa văn hoá và thói quen cũng từ đấy mà hình thành. Những thói quen như ăn trầu theo thời gian dần trở thành phong tục. Nét đẹp của phong tục làm nên văn hoá. Còn văn hoá thì trở thành máu thịt của chúng ta. Miếng trầu từ trong cổ tích đi vào cuộc đời, từ trong câu chuyện về nghĩa tình anh em, sự son sắt vợ chồng trở thành món sính lễ không thể thiếu trong ngày cưới của người Việt.
Miếng trầu còn nhắc nhỏ cho con cháu bài học về sự chân thành, cởi mở, tấm lòng hiếu khách, lịch sự của nhân dân mình “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Mượn chất liệu dân gian, Nguyễn Khoa Điềm vẫn khéo léo đan cài cách nói ẩn ý của mình. “Miếng trầu bây giờ bà ăn” mà không phải là “miếng trầu ngày xưa bà ăn”.
Đấy là ý đồ phục dựng lại quá khứ một cách tròn đầy ở hiện tại. Miếng trầu đâu chỉ có mặt trong quá khứ, trong tâm tưởng mà còn hiện diện ở thời điểm “bây giờ”. Miếng trầu là tượng trưng cho văn hoá, cho bốn nghìn năm lịch sử, cũng là cho vẻ đẹp ý vị dân gian. Vẻ đẹp ấy có linh hồn, có sức sống bất diệt muôn đời. Câu thơ như sự khẳng định chắc nịch trong hiện tại vẫn có quá khứ, trong cuộc sống hôm nay vẫn hiện hữu bóng dáng hôm qua.
Câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã khái quát quá trình phát triển của Đất Nước thông qua hình tượng loài cây quen thuộc.
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Không cần mượn những câu chuyện xa xôi, không cần tìm những hình ảnh lớn lao, tầm vóc như thơ xưa, Nguyễn Khoa Điềm dùng chất liệu dung dị của đời sống nhưng cũng đậm đà chất suy tưởng. Tre bao đời nay gắn với đời sống nông dân Việt Nam. “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” (Thép Mới).
Tre lao động, tre anh hùng, tre của những ký ức tuổi thơ không gì thay thế. Và tre xuất hiện trong huyền thoại Tứ bất tử về người anh hùng Thánh Gióng đánh giặc Ân. Sự liên tưởng này nhà thơ đã khẳng định quá trình lớn lên của Đất Nước chính là quá trình nhân dân ta đấu tranh bảo vệ từng tấc đất mà vũ khí bắt đầu từ cây tre.
Câu chuyện về Đất Nước đâu chỉ dừng lại ở văn hoá dân gian, ở truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, Đất Nước mình còn được viết bằng đời sống sinh hoạt thường ngày, bằng những thói quen hình thành từ lao động.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Bới tóc là một nét đẹp trong văn hoá cổ xưa. Ngoài dấu hiệu cho thấy người phụ nữ bới tóc là người đã lập gia đình thì bới tóc sau đầu còn xuất phát từ đặc thù công việc đồng áng và khí hậu nóng nực của ta. Những người phụ nữ để tóc dài, búi lên sau gáy đã trở thành nét đẹp giản dị, tự nhiên không cầu kỳ mà vẫn toát lên vẻ thanh thoát vốn có.
Chính những cái đẹp bình dị không tên lại là nhịp cầu nối hai bờ thương yêu để từ đấy nghĩa tình vợ chồng sâu nặng qua hình ảnh “gừng cay muối mặn”. Cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là chắt lọc từ thành ngữ dân gian sự tinh túy trong mối quan hệ hôn nhân đó chính là lòng chung thuỷ.
“Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
(Ca dao)
Tấm lòng son sắt, thuỷ chung trong tình chồng nghĩa vợ qua gian lao, thử thách, qua những tháng ngày cơ hàn có nhau càng thêm nồng đượm, bền chặt. Và cũng chính từ thái độ sống nghĩa tình ấy đã trở thành động lực để ông bà, cha mẹ ta vượt qua tháng ngày gian khổ, dựng xây hạnh phúc gia đình trên cái túng thiếu, khó khăn. Cũng từ đấy thế hệ con cháu ra đời trong niềm vui giản dị.“Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi nhớ đến thói quen đặt tên con cháu của ông bà ta ngày xưa.
Chẳng cầu kỳ bóng bẩy, chẳng vay mượn đâu xa, cứ lấy những vật quanh mình, những điều mộc mạc trong đời sống như “cái kèo, cái cột” để gọi tên. Chất bình dân gắn với cuộc đời mỗi con người từ đấy. Nghe tên đã thấy thương làm sao khi sự thiếu thốn vật chất trong đời sống thường ngày không thể khỏa lấp được tình cảm gắn bó máu thịt của nhân dân với từng vật dụng lao động, từng hình ảnh hiện diện xuyên suốt trong đời sống.
Nhắc đến lao động, đến cuộc sống vất vả của người nông dân phải nhắc đến câu lúa và quá trình làm nên hạt gạo. Cây lúa đến với người nông dân Việt Nam như sự đặc ân của đất mẹ dành cho giọt mồ hôi bao đời mặn. Ngày cây lúa đơm bông là ngày giấc mơ cuộc đời ấm no, hạnh phúc đến gần hơn. Nhìn ở góc độ văn hoá, cây lúa là biểu tượng cho người nông dân Việt Nam. Nhà thơ nhắc về hạt gạo để tái hiện tập quán trồng lúa nước của nhân dân ta bao đời nay.
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Không gian lao động hiện ra trong phép liệt kê “xay, giã, giần, sàng”. Từng công đoạn làm ra hạt gạo từ hạt thóc giống ban đầu đâu phải dễ dàng. Chưa kể đến những ngày “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” trên đồng sâu ruộng cạn để cày, cuốc, bừa, trục. Chưa tính những giọt mồ hôi nhỏ xuống để từ một cây mạ non xanh trưởng thành cây lúa chín vàng đồng. Ngay lúc hạt thóc đã thu hoạch về phơi ngoài sân trước muốn trở thành hạt gạo trắng ngần cũng lại là cả một câu chuyện dài. “Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo cơm một hạt đắng cay muôn phần”
(Ca Dao)
Thế nên khi liệt kê quá trình ấy, nhà thơ như cố tạo những khoảng trống và sức nặng trên từng chữ để truyền tải cái sức nặng của cả công đoạn gian lao mà người nông dân phải trải qua. Nặng nhọc với chiếc cối xay trong tay, với chày giã gạo nện đều mỗi đêm và còn nặng lòng khi hạt gạo hôm nay là ước mơ ngày mai tươi sáng.
Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ sự khắc nghiệt trong thời tiết, đặt trước công đoạn làm ra hạt gạo để nhấn mạnh bất cứ thành quả nào cũng phải có cái giá của nó. Niềm vui có trong tay hạt gạo thơm phải đổi lấy bao gian nan, khổ cực. Nhắc đến lao động, nhà thơ còn khéo léo gợi về tình nghĩa của nhân dân hình thành trong nỗi gian truân, cực nhọc. Nhờ sự gắn kết, san sẻ, yêu thương mà công việc dù có khó khăn đến đâu cũng cùng nhau hoàn thành.
Cuối cùng để khẳng định sự ra đời của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng mốc thời gian vô hình để nói cái hữu hình có trong mỗi con người chúng ta.
“Đất Nước có từ ngày đó”. “Ngày đó” là phép thế cho các mốc thời gian đã nói đến phần trước. Ngày mà bắt đầu từ câu chuyện cổ, hiện hữu trong miếng trầu cau, ngày mà mẹ bới tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau quả ngọt bùi, cay đắng, cũng là ngày con cháu ra đời bằng cái tên dân dã để tiếp bước ông cha nâng niu hạt lúa vàng. “Ngày đó” dù không xác định rõ mốc thời gian nhưng trong tâm thức con người Việt ai cũng rõ đó là ngày chúng ta biết thương nhau, biết trân trọng cuộc sống và biết vì nhau mà sống.
Câu chuyện lịch sử hình thành một quốc gia, dân tộc đã có các ngành khoa học đảm đương, nhưng câu chuyện về cội nguồn khai sinh mảnh đất quê hương cần ngân vang trong trái tim mỗi con người qua từng câu thơ, tiếng hát. Ở góc độ này, 9 câu thơ đầu trong đoạn trích Đất Nước đã có cái nhìn thú vị về các yếu tố hợp thành Đất Nước.
Cũng ngần ấy câu thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất chính luận kết hợp trữ tình đặc sắc để hình tượng Đất Nước mang chiều sâu tư tưởng. Đồng thời sự góp mặt của các chất liệu văn học dân gian đã khiến cho khái niệm trở nên thi vị, gần gũi, mộc mạc như chính đời sống thường nhật của nhân dân lao động.
Đoạn thơ cho chúng ta có cái nhìn tổng quát về nguồn gốc hình thành Đất Nước theo sự chiêm nghiệm mang tính nhân dân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Để trong chúng ta, thế hệ trẻ hôm nay nhận ra Đất Nước có trong mỗi tâm hồn, hiện hữu trong đời sống văn hoá, phong tục, tập quán của nhân dân. Đất Nước còn là hiện thân của đời sống đấu tranh và lao động. Không chỉ thế, Đất Nước sẽ là tiếng hát đầu tiên ca ngợi lối sống nghĩa tình, đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
SCR.VN chia sẻ 🔥 Bình Giảng Tây Tiến 🔥 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Cảm Nhận 9 Câu Đầu Đất Nước Facebook – Mẫu 10
Chia sẻ dưới đây bài văn cảm nhận 9 câu đầu Đất Nước facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
Văn học kháng chiến 1945-1975 trong mạch chảy ngầm dạt dào mãnh liệt của cuộc sống không chỉ ghi lại được âm vang náo nức của thời đại mà còn khắc tạc tượng đài nghệ thuật Đất nước thật nên thơ cao đẹp. Đó là một Đất nước hoá thân trong một mảnh hồn quê Kinh Bắc đậm đà màu sắc văn hóa dân gian tình tứ dịu dàng mà quằn quại dưới gót giày xâm lược trong thơ Hoàng Cầm.
Một Đất nước tươi đẹp mà đau thương với sức luôn khỏe khoắn “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” sống động hiện hình trong những thơ của Nguyễn Đình Thi. Khi bước vào trang thơ của Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước hiện lên một cách trọn vẹn nhất, Đất nước mà chính nhân dân muôn đời đã làm nên, Đất nước của nhân dân. Chín câu thơ đầu tiên của bài thơ Đất nước đã để lại dấu ấn khó phai trong lòng bao thế hệ bạn đọc.
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mỹ. thơ ông lịch sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình và chính luận cảm xúc và trí tuệ thăng hoa thành thơ. Đó không chỉ là trái ngọt của một trí tuệ giàu có một tư duy sắc sảo mà đó còn là kết quả của một tấm lòng, một trái tim có sức lay động đến tận sâu tâm hồn bạn đọc.
Chín câu thơ đầu trong trích đoạn Đất nước đã tô đậm dấu vân tay trong cá tính sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm qua nghệ thuật chất lọc tinh tế văn hóa và văn học dân gian:
“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất nước có từ ngày đó…”
Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm Đất nước đã có từ rất lâu đời từ thuở xa xưa có trong những câu chuyện cổ tích mẹ thường hay kể Đất nước bắt đầu cùng với sự ra đời của những phong tục tốt đẹp của nhân dân ta trong suốt mấy ngàn năm qua.
Đất nước lớn lên từ những ngày đầu rất mình biết trồng tre đánh giặc, biết giữ nước như cậu bé làng Gióng của nào. hàng loạt các hình ảnh đậm sắc màu văn học dân gian kết hợp với các động từ xuất hiện tăng tiến đem đến cảm nhận Đất nước như một sinh thể từ quá trình hoài thai trưởng thành lớn lên từ trong tình người ấm áp và từ những gian khổ mất mát hy sinh.
Trong trang thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, khởi nguồn của Đất nước không phải là những trang sử hào hùng những chiến tích của thuở hồng hoang vĩ đại mà là những huyền thoại, những truyền thuyết, những phong tục tập quán riêng biệt đã có từ ngàn đời. Đây chính là điểm mới trong cách tìm về nguồn cội Đất nước của nhà thơ.
Một đoạn thơ ngắn nhưng gọi dậy biết bao nét đẹp văn hóa văn học dân gian quen thuộc. đó là tục ăn trầu mời trầu trong giao tiếp nét đẹp trong văn hóa ứng xử:
“Trầu này trầu tính trầu tình
Trầu loan trầu phượng trầu mình lấy ta”
Hay:
“Gặp nhau ăn một miếng trầu
Không ăn cầm lấy cho nhau vừa lòng”
Đó còn là tập tục búi tóc sau gáy quen thuộc của những người phụ nữ Việt Nam xưa
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để khi dài bối rối lòng anh”
Không chỉ thế, một nét văn hóa xưa – đặt tên con bằng các vật dụng thông thường trong cuộc sống hàng ngày – cũng như sống lại trong từng câu thơ “Cái kèo cái cột thành tên”. Đó còn là kho truyện cổ tích của người Việt mà mỗi khi 4 tiếng ngày xửa ngày xưa cất lên ai cũng nhớ về một thế giới cổ tích truyền thuyết về sống dậy trong tâm trí.
Ấy là truyện cổ tích trầu cau thấm đượm tình nghĩa anh em keo sơn gắn bó, tình vợ chồng đằm thắm thủy chung, ấy là truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc ngoại xâm như một khúc anh hùng ca tráng lệ để tự hào biểu tượng cho sức mạnh thần kỳ về truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân Việt Nam ta từ buổi bình minh dựng nước và giữ nước.
Đất nước có được làm nên từ nghĩa tình sắt son chung thủy “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Muối, gừng là một cặp biểu tượng luôn gắn liền với nhau, cùng nhau đi về trong biết bao câu ca dao tình nghĩa, là minh chứng cho tình yêu vững bền:
“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng vẫn còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau thì ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Hơi thơ trải dài trầm lắng ngân nga như tiếng lòng Đất nước dội về từ mấy ngàn năm trước, gọi dậy quá trình sinh thành tồn tại và phát triển của Đất nước với bao thử thách gian lao
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng”
Những động từ đặc tả và phép liệt kê như đã khắc họa được nỗi vất vả của những người nông dân chân lấm tay bùn nuôi dưỡng Đất nước quê hương em ngày một đẹp tươi. Chỉ một hạt gạo nhỏ thôi vậy mà để làm ra được nó là mồ hôi nước mắt, là bao mất mát hy sinh phải đánh đổi.
Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo những chất liệu dân gian quen thuộc. Nhà thơ không trích dẫn lại nguyên văn những câu ca dao những truyện cổ tích,…mà chỉ gợi nhắc những hình ảnh những nét đẹp cổ truyền đã từng tồn tại trong văn hóa của người Việt. điều đó đã khẳng định trong tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm Đất nước chính là một tay nhân dân làm nên, gợi dậy trong tâm thức của bạn đọc cả một bề dài và chiều sâu văn hóa nhìn đời của dân tộc với những vẻ đẹp đặc trưng rất đáng tự hào.
Quả thật Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm giống như một tùy bút thơ với cảm xúc sâu lắng và nồng nàn, tư duy sắc sảo trong những triết lý mềm mại ngọt ngào yêu thương tình nghĩa vốn văn hóa và tình yêu tha thiết đối với Đất nước trải qua theo thời gian trong chiều rộng của không gian và chiều sâu văn hóa dân tộc. Ở đó tư tưởng Đất nước của nhân dân là nốt nhạc chủ đạo ngân vang từ những câu thơ đầu và xuyên suốt bản đàn, để hát mãi về một tình yêu:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ô Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”
(Chế Lan Viên).
Tiếp tục tham khảo 🌳 Sơ Đồ Tư Duy Tây Tiến 🌳 16 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay