Thuyết Minh Về Cách Làm Một Món Ăn Mà Em Yêu Thích ❤️️ 23+ Bài Văn Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Văn Mẫu Giới Thiệu Các Món Ăn Đặc Trưng Của Việt Nam.
Dàn Ý Thuyết Minh Về Cách Làm Một Món Ăn
Dàn ý thuyết minh về cách làm một món ăn chi tiết giới thiệu về món bánh lưng gù đặc sản của mảnh đất Hà Giang sẽ là gợi ý giúp định hướng giúp các em học sinh triển khai bài viết của mình.
I. Mở bài: Giới thiệu về mảnh đất Hà Giang và món bánh chưng gù nổi tiếng của vùng đất này
II. Thân bài:
-Nguồn gốc của chiếc bánh chưng: Bánh chưng có nguồn gốc từ truyền thuyết “Bánh chưng, bánh giày” và do đặc điểm của người dân tộc Tày ở Hà Giang mà họ biến tấu và tạo nên chiếc bánh chưng gù độc đáo.
-Giới thiệu về cách làm món bánh chưng:
- Nguyên liệu: gạo nếp, thịt lợn và đậu xanh kết hợp cùng một số gia vị để làm dậy lên mùi thơm cũng như hương vị đặc trưng của bánh
- Cách gói bánh: từng hạt gạo nếp trắng ngần, bóng bẩy được chọn lựa kĩ lưỡng để bánh có được mùi vị thơm ngon nhất. Gạo được vo kĩ và ngâm qua đêm để khi luộc bánh có độ mềm dẻo, từng hạt gạo kết dính với nhau vừa đủ chặt chẽ để không quá mềm nhão, vừa đủ hòa quyện để bánh có độ dẻo ngon.
- Cách luộc bánh: luộc trong nồi lớn, luộc liên tục trong 8-10 tiếng đồng hồ
-Điểm đặc biệt bánh chưng:
- Bánh chưng Hà Giang “Bánh chưng gù” đặc biệt như chính cái tên gọi hết sức mộc mạc và dân dã của nó. Bánh được gói bằng lá dong rừng, dáng bánh dài hình trụ và hơi khom xuống.
- Tưởng như ngẫu nhiên, nhưng nếu ngắm nhìn kĩ hẳn các bạn cũng nhận ra thấp thoáng đâu đó bóng dáng của những người phụ nữ vùng cao ngày ngày đeo gùi lên rẫy
III. Kết bài: Bày tỏ niềm tự hào về món ăn dân giã mang đậm hương vị vùng miền của hà Giang.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Món Ăn Mà Em Yêu Thích 🍀 17 Mẫu Hay
Bài Văn Thuyết Minh Về Cách Làm Một Món Ăn Truyền Thống – Mẫu 1
Để làm bài văn thuyết minh về cách làm một món ăn truyền thống các em học sinh sẽ có thể lựa chọn chủ đề theo hiểu biết và sở thích của mình. Dưới đây là bài văn mẫu thuyết minh về cách làm một món ăn dân tộc giới thiệu về món bánh chưng để bạn đọc cùng tham khảo:
Truyền thống Việt Nam bao đời vẫn thật đẹp. Nét đẹp văn hóa ấy còn lưu truyền đến ngày nay qua bao thế hệ . Trong đó có bánh chưng- một loại bánh có nguồn gốc rất kì diệu từ một sự tích từ hàng ngàn năm thời vua Hùng.
Theo sử sách Bánh chưng được truyền lại từ thời các Vua Hùng trong truyền thuyết Lang Liêu, một trong những người con của Vua Hùng đã dùng lúa nếp để làm ra bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dày tượng trưng cho trời. Nhờ hai loại bánh này mà Lang Liêu được cha truyền ngôi báu. Có lẽ vì thế mới xuất hiện hai từ “ngọc thực”.
Bánh chưng là một món ăn tinh thần lâu đời của người Việt, nó được gói hình vuông đẹp mắt bằng lá dong rửa sạch với nước suối. Nguyên liệu làm bánh chưng cũng rất đơn giản và quen thuộc gồm : gạo nếp, đỗ xanh, thịt ba chỉ thơm ngon, hành và một số gia vị như hạt tiêu , muối …Tốt nhất là lá dong bánh tẻ, không già, không non thì gói bánh mới đẹp.
Lạt giang chẻ sẵn, mỏng và mềm, màu vàng ngà, rất hợp gói với lá dong xanh. Gạo nếp cái hoa vàng dẻo thơm được ngâm trước từ đêm trước, đem xả rồi xóc cho ráo nước. Đậu xanh đãi sạch vỏ. Thịt lợn xắt miếng to cỡ nửa bàn tay ướp gia vị cho thấm. Lá dong đã được cắt cuống, rửa sạch, lau khô… Tất cả bày sẵn ra chiếc nong, chờ người gói.
Các công đoạn gói bánh chưng tưởng chừng đơn giản mà khá tỉ mỉ. Đầu tiên trải lá ra mâm đong một bát gạo đổ vào, dàn đều rồi đổ nửa bát đỗ, xếp hai miếng thịt, lại thêm nửa bát đỗ, một bát gạo nữa. Ta đãi gạo che kín đỗ và thịt rồi nhẹ nhàng bẻ bốn góc lá cho vuông vức, sau đó xiết chặt từng chiếc lạt, thì ta đã có một chiếc bánh chưng hoàn thiện. Sau đó buộc lại từng cặp xếp vào nồi, đổ nước sôi và luộc với ngọn lửa nhỏ lom rom. Luộc bánh chưng thời gian khá dài từ 8 đến 10 tiếng tùy thuộc vào lượng bánh trong nồi. Tất cả những điều cơ bản được hoàn thành, tà chỉ việc ngồi đợi canh nồi đợi bánh chín thơm lừng.
Bánh chưng đối với người dân Việt Nam là món ăn quen thuộc và là món ăn tinh thần không thế thiếu, bánh chưng luôn có sự hiện diện trong đời sống văn hoá ẩm thực và văn hoá tâm linh của người Việt Nam . Đặc biệt trong những ngày lễ tết, bánh chưng được bày trên mâm cúng ông bà tổ tiên tượng trưng cho lòng thành kính của con cháu đối với ông bà, bề trên.
Bánh chưng được làm từ những hạt ngọc đã nuôi sống con người từ thuở hoang sơ, nuôi dưỡng cả nên văn hóa của nước nhà, khi ta ăn một miếng bánh chưng sau khi cúng lễ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, dư vị thời gian, không gian huyền thoại của lịch sử như cùng quy tụ trong màu xanh của bánh, mùi thơm thảo của hạt nếp tiền nhân để cùng suy ngẫm về một sự tích xa xôi một thời.
Giờ đây, đất nước trên đã phát triển, công nghiệp hóa hiện đại hóa, mọi thứ càng phát triển tiên tiến, những nét truyền thống ngày càng mai một nhưng bánh chưng là món ăn vẫn được người dân Việt chú trọng và gìn giữ. Mặc dù thứ bánh đó đã trở thành món hàng hóa để thu lợi nhuận mỗi khi gần dịp tết, nhưng nó vẫn không bị lãng quên , không bị thay thế bởi những món đồ ăn nhanh của ngước ngoài.
Bánh chưng, một loại bánh gắn liền với lịch sử dân tốc từ thời văn minh lúa nước. Chúng ta những con dân Việt Nam phải cùng nhau giữ gìn nét văn hóa ẩm thực đẹp đẽ ấy và tự hào về nó cũng chính là tự hào về truyền thống dân tộc vẻ vang.
SCR.VN tặng bạn 💧 Thuyết Minh Về Món Ăn Dân Tộc Truyền Thống 💧 15 Mẫu Hay
Văn Mẫu Giới Thiệu Về Cách Làm Một Món Ăn Hay Nhất – Mẫu 2
Đón đọc bài văn mẫu giới thiệu về cách làm một món ăn hay nhất với những thông tin thú vị giới thiệu món thịt kho tàu – một món ăn truyền thống của người Việt.
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.”
Tết đến, Xuân sang cuốn theo bao hi vọng, niềm vui và hạnh phúc. Trong dịp Tết cổ truyền ấy, các món ăn như bánh chưng, bánh dày hay dưa món, củ kiệu,… là những món không thể thiếu. Một trong số những món ăn quen thuộc vào ngày Tết mà hầu như nhà nào cũng có chính là món thịt kho tàu.
Nghe cái tên “thịt kho tàu”, chắc hẳn nhiều người nghĩ rằng món ăn này bắt nguồn từ Trung Quốc, là của người Tàu nhưng sự thật không phải vậy. Vì người Tàu rất ít khi ăn món này, mà nguyên liệu để làm món thịt kho tàu là thịt ba rọi, cái loại thịt có có nạc, có mỡ, có bì, xếp từng lớp khéo léo cứ như người ta cố tình tạo ra nó, thì chắc chắn chỉ có dân Việt Nam.
Theo nhà văn Nam Bộ Bình Nguyên Lộc, chữ “tàu”, ở đây, theo nghĩa của người “miền dưới” là “lạt. Như vậy, thịt kho tàu không phải là thịt kho của người Trung Hoa, mà chỉ đơn giản là món thịt kho lạt và hoàn toàn là của người Việt nghĩ ra. Và giáo sư Trần Văn Khê đã nói: Món thịt kho “tàu” hóa ra lại là “ta” hoàn toàn, món Việt trăm phần trăm. Nguyên liệu để làm món thịt kho tàu rất đơn giản: Chỉ gồm có thịt ba rọi, trứng vịt, hành, tỏi và nước dừa xiêm cùng với các gia vị thông dụng. Nhưng phải biết cách chọn thực phẩm cũng như bí quyết nấu ăn thì mới có thể làm cho món ăn này trở nên ngon miệng, hấp dẫn.
Muốn nấu món thịt kho tàu ngon thì nên lựa thịt ba rọi có 3 phần mỡ, 7 phần nạc và chọn thịt nạc thăng. Còn trứng thì tuyệt đối không mua trứng ung, bị thối, thiu. Không nên chọn trứng có quầng đen ở đáy vì đó là trứng hư, bị lõm. Theo quan niệm, trứng trong món thịt kho tàu phải tròn, hông bị nứt nẻ thì công việc làm ăn mới thuận lợi, gặp nhiều may mắn. Khi đã chuẩn bị đầy đủ nguyên liệu, ta bắt tay vào việc chế biến. Đầu tiên, thịt sau khi mua về thì cạo rửa sạch, để ráo nước. Sau đó cắt khúc, vuông khoảng 4-5cm, nêm nếm gia vị vừa ăn rồi để hai giờ cho thịt thấm đều. Sau đó, Phi hành, tỏi rồi xào thịt cho săn lại.
Trứng vịt đem đi luộc chín. Lưu ý, khi luộc trứng nên cho vào nồi một ít muối ăn vì nó sẽ làm tróc vỏ trứng. Luộc xong để vào nước lạnh, trứng sẽ dễ dàng bóc vỏ và không bị nứt. Khi vừa cho vào nước lạnh, phải bóc vỏ liền, tuyệt đối không để trứng nguội đi rồi mới bóc vỏ. Sau khi bóc vỏ xong, lấy tăm đâm vào trứng rồi đem đi chiên qua dầu để có màu vàng đẹp, thoát hơi tốt. Ngoài ra, ta còn có thể thay thế trứng vịt bằng trứng cút.
Thịt sau khi xào thăn, cho 1/2 thìa cà phê nước màu, 1/2 chén nước mắm. Nấu cho đến khi sôi lên thì đổ nước dừa xiêm vào ngang mặt thịt. Cuối cùng cho trứng vịt đã chiên vàng vào khi nước sôi và nấu cho sôi 2-3 lần. Ngoài ra, ta có thể thay thế nước dừa bằng nước ngọt có gas. Thịt nhanh mềm hơn và vàng óng rất đều, theo đúng màu cánh gián rất đẹp mắt. Món thịt kho tàu sau khi nấu chín thì toàn bộ trứng phải nổi lên mặt nước. Có màu vàng óng như màu mật ong. Trứng có màu đỏ au, trông đẹp mắt. Món ăn vừa miệng, không quá mặn hoặc quá nhạt. Chú ý, nấu lần đầu tiên ta nên nêm nhạt vì khi hâm lại nhiều lần thì vị sẽ đậm đà, mặn mà hơn.
Thưởng thức món thịt kho tàu có nhiều cách khác nhau. Nhưng phổ biến nhất là dùng với cơm. Chỉ cần bới một tô cơm nóng, chan một ít nước thịt, cắt trứng ra, bỏ thịt và trứng vào và dùng chung với dưa giá hoặc củ kiệu thì đã thưởng thức trọn vẹn hương vị của món thịt kho tàu. Cách thứ hai là ăn thịt kho tàu cùng với bánh tráng. Đây vừa là món ăn chơi, nhưng khi kèm với thịt kho tàu, nó trở thành món chính từ lúc nào. Miếng bánh tráng trụng qua nước, gói với rau thơm, đồ chua, kèm thịt và trứng đã cắt nhỏ. Rồi chấm một ít nước thịt thì còn gì ngon bằng.
Đây là món ăn để lưu trữ nhiều ngày trong dịp Tết. Thế nên ta phải bảo quản nó đúng cách để luôn thưởng thức trọn hương vị của món ăn hấp dẫn này. Thường thì khi hết ngày, nhiều người cất nồi thịt vào tủ lạnh nhưng cách này sẽ làm dở nồi thịt. Ta chỉ cần để ở ngoài là được. Đặc biệt khi múc thịt, nên múc một bên và múc xong thì đậy nắp lại ngay tránh hôi gió. Nếu bỏ muỗng vào nồi hay quậy nồi thịt thì nó sẽ mau hư. Mỗi lần hâm lại thịt cần vớt cho sạch bọt. Khi nước cạn, ta cho thêm nước vào rồi nêm nếm lại cho vừa ăn. Như thế, ta đã có thể bảo quản tốt món thịt kho tàu và mỗi lần thưởng thức, hương vị của nó sẽ không hề giảm đi.
Thịt kho Tàu là món ăn thân quen đối với người miền Nam ta. Trứng có hình tròn, thịt có hình vuông như sự hòa quyện giữa trời và đất làm hòa quyện không khí Tết, gắn bó với các thành viên trong gia đình từ bé đến lớn, khiến mọi người dễ dàng cảm nhận không khí hòa thuận, sum vầy. Đó cũng là dấu hiệu của một năm mới thuận lợi, thành công.
Đây là món ăn truyền thống của người Việt Nam trong những ngày Tết. Cái hương vị mặn mặn, ngọt ngọt, vừa bùi vừa béo của thịt kho tàu đã làm xao xuyến biết bao người dân Việt. Nó trở thành một món ăn truyền thống, một nét đẹp văn hóa của dân tộc và đóng góp vào kho tàng ẩm thực phong phú của Việt Nam.
Như các món ăn truyền thống khác, món thịt kho tàu không chỉ là một kiệt tác của những người nấu mà còn là niềm vui tinh thần trong những ngày Tết. Nó giúp gắn kết những mối dây tình cảm ruột thịt, gắn kết gia đình cùng tình làng nghĩa xóm. Không những thế, nó còn là một nét đẹp truyền thống của người dân Việt Nam.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Thuyết Minh Về Cách Làm Một Món Ăn Đơn Giản – Mẫu 3
Tìm hiểu nhiều hơn về món dưa chua dân dã với bài văn thuyết minh về cách làm một món ăn đơn giản dưới đây:
Vào ngày tết, bên cạnh bánh kẹo, mứt dưa, hoa trái thì không thể thiếu những món ăn đậm đà và đặc trưng mang vị dân tộc. Đó là bánh chưng xanh gói lá chuối, là nồi thịt kho tàu thơm ngon và không thể không nhắc đến món dưa chua dân giã, một món ăn đầy hấp dẫn.
Không biết được con người sáng tạo ra từ bao giờ nhưng có lẽ là từ rất lâu lắm rồi, món ăn này đã ra đời và trở thành quen thuộc trong các bữa ăn của các gia đình. Đặc biệt là vào những ngày tết cổ truyền, mỗi gia đình thường làm cho mình một hũ dưa món màu sắc không chỉ đẹp về thẩm mỹ mà còn mang lại vị chua ngon, hấp dẫn khi thưởng thức.
Món dưa không quá cầu kỳ trong cách làm, thực phẩm chuẩn bị cũng không quá đắt đỏ. Có khi chỉ có trong tay vài chục đến một trăm ngàn là có thể mua đủ nguyên liệu làm một hũ dưa muối ngon lành. Bởi thế mà vào những ngày cuối cùng của năm, trong mỗi chiếc làn, chiếc giỏ của những người bà, người mẹ khi chợ về không thể không có những củ cà rốt đỏ tươi, những củ hành, củ kiệu trắng và những quả đu đủ ươm vàng.
Nói như vậy để thấy rằng những nguyên liệu món này khi làm cần phải có là cà rốt, củ cải, đu đủ, hành tím, sự hào, ớt đỏ….ngoài ra còn cần các gia vị đi kèm như nước mắm, đường, lạc . Tùy thuộc vào sở thích mà người làm có thể thêm bớt một vài nguyên liệu, song về cơ bản các nguyên liệu kể trên nếu đầy đủ sẽ mang lại một hũ dưa món đủ vị khi ăn.
Khi có sẵn nguyên liệu, người ta bắt tay vào làm dưa món. Khâu đầu tiên là gọt vỏ, rửa sạch tất cả các loại củ cần làm. Đây là bước không thể thiếu để đảm bảo vệ sinh cho thực phẩm. Sau khi làm sạch, dùng dao thái rau củ ra thành các miếng nhỏ, mỗi miếng dày từ 3 đến 5 xăng- ti- mét. Để tạo tính thẩm mĩ cho món ăn, có thể dùng dao cắt tỉa thanh hoa hay những đường vân dài thật đẹp. Những rau củ khi được cắt xong thì cho vào thau, dùng muối bóp trong khoảng 10 phút, rồi từ từ dùng nước lạnh rửa qua một lần nữa, vớt lên cho ráo rồi đem ra phơi nắng. Thời tiết càng nắng thì rau củ càng nhanh héo, món ăn dễ thấm gia vị và ngon hơn rất nhiều.
Trường hợp tết đúng vào đợt gió mùa, mưa rét trời không có nắng có thể dùng lò sưởi, lò sấy để thay thế. Lúc rau củ đang dần héo, người làm sẽ vào bếp chuẩn bị nước muối dưa. Đây là khâu quan trọng vì làm nước càng ngon thì món dưa càng đậm đà hơn. Bắc nồi lên bếp, trộn đường, muối và nước mắm rồi đun sôi trong khoảng từ 5 đến 7 phút. Sau đó tắt bếp, chờ cho đến khi nước nguội hoàn toàn. Khi dưa đã héo, nước đã nguội, lần lượt sắp dưa vào những hũ thủy tinh sáng bóng, đổ nước vào hũ sao cho ngập hết phần rau củ, đậy lại và chờ đợi thành phẩm của mình. Dưa muối trong khoảng hai ngày là có thể đem ra để thưởng thức.
Thành phẩm dưa món thành công là sau khi hoàn thành vẫn giữ được màu sắc đẹp của rau củ. Dưa khi vớt ra ăn phải đảm bảo giòn, không quá mềm, thơm ngon, vừa có vị ngọt, vừa có vị chua hấp dẫn. Món dưa món ăn kèm với bánh chưng, thịt kho, cơm nóng thì còn gì tuyệt vời hơn. Nó không chỉ giúp người ăn đỡ ngán lại vừa đem lại cảm giác thèm ăn bởi vị chua đặc trưng. Dưa món còn là một trong những mồi nhấm nháp cùng chén rượu thơm của các bác, các anh trong ngày đầu họp mặt.
Ngày nay, xã hội càng phát triển, người ta càng chú trọng đến những bữa ăn ngon, những món ăn đắt tiền, sang trọng, nhưng món dưa món vẫn giữ một vị trí quan trọng trong bữa ăn ngày Tết. Nó trở thành một hương vị Tết trong tâm hồn người dân Việt Nam.
Tiếp theo, mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Thuyết Minh Về Món Ăn Ngày Tết 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất
Thuyết Minh Về Cách Làm Một Món Ăn Ngắn Nhất – Mẫu 4
Bài văn thuyết minh về cách làm một món ăn ngắn nhất dưới đây sẽ mang đến cho bạn đọc những thông tin thú vị về món mỳ Quảng – một đặc sản của mảnh đất miền Trung nắng gió.
Mỗi một vùng miền, mỗi một thành phố hay một dân tộc đều sẽ có những đặc sản riêng. Nó là “tiếng nói chung, sở thích chung” mà ông cha đã để lại cho con cháu. Mang tầm nhìn văn hóa đối với vùng đó, dân tộc đó. Cũng vì vậy mà khi đến từng nơi mọi người thường hay thưởng thức đặc sản ở đó và mua về làm quà cho gia đình cho bạn bè.
Đến với vùng văn hóa của miền Trung, ghé thăm Quảng Nam. Chúng ta sẽ biết đến một đặc sản nổi tiếng là mì quảng và gà ta Tam Kỳ. Ở Quảng Nam, chúng ta có thể bắt gặp khá nhiều quán bán mì quảng. Một lần nọ, khi có dịp ghé thăm Quảng Nam, tôi đã có dịp thưởng thức món ăn này. Khi thưởng thức một món ăn ngon, cần phải từ tốn và nhẹ nhàng mới cảm nhận được hết hương vị của nó.
Mì Quảng là món ăn bình dân, mộc mạc, vì thế cách chế biến cũng khá đơn giản nhưng đòi hỏi sự khéo léo và tinh tế. Gạo ngon sau khi đem ngâm, xay thật mịn rồi tráng. Ngày xưa người ta xay bột bằng cối đá, thời nay, với sự hiện đại của khoa học kỹ thuật, cối đá đã thay bằng máy xay có động cơ. Tráng bột lên một màng vải căng trên nồi nước lớn đang sôi. Sau khi tráng một lớp dầu phộng đã khử chín lên lá mì, gấp lại rồi cắt thành từng cọng như cọng phở.
Vậy là xong bước chuẩn bị mì. Phần tiếp theo là chuẩn bị nước dùng và nhân mì. Nước dùng phải được nấu nhiều xương cho ngọt, thêm ri dầu hạt điều để nước dùng có màu tươi. Phần quan trọng thứ hai trong tô mì là “nhân”, gồm có thịt gà, thịt bò, sườn heo non, tôm. Các thứ này được xào cùng với khóm (dứa) cắt nhỏ, tạo thành các loại thịt cùng với vị ngọt hơn chua của khóm. Mì Quảng không sử dụng nước dùng nhiều như hủ tiếu và phở, nên trước khi chế nước dùng vào, sợi mì phải được trụng nước nóng hơi lâu.
Nhân được xếp sao cho đẹp, nhìn phải bắt mắt, vì vậy thịt và tôm phải để trên mặt cho đều rồi mới chế nước dùng, sau cùng rải đậu phộng lên. Già đậu phộng để ăn mì Quảng cũng là một nghệ thuật. Đậu không được đâm nhuyễn, chỉ cà cho vỡ hai ra để người ăn nhai cùng với bánh tráng phát ra âm thanh mới thú vị. Ăn mì Quảng phải kèm bánh tráng gạo miền Trung nướng bằng lửa than mới ngon. Rau ăn với mì Quảng là rau húng cây, húng lùi, xà lách cùng với chuối cây xắt mỏng trộn vào nhau thành một hỗn hợp rau.
Người miền Nam thích ăn giá sống có thể cho vào một ít. Tô mì chẳng giống phở, cũng chẳng giống bún, cái vị đậm đà của nước lèo, lẫn mùi thơm của hành ngò, rồi tiếng húp xì xoạp làm nên nét hấp dẫn của tô mì… Mì ngon là ngon từ lá mì kia, lá mì không được dẻo quá mà cũng không quá tơi, tô mì phải có bố cục đẹp mắt. Khi bạn trộn lên, nếu lá mì bị gãy ra tức là đã mất ngon đi cả chín phần, về nước lèo, nước phải trong nhưng đảm bảo độ béo và ngọt. Nhiều gia vị quá, nước lèo làm cho tô mì loè loẹt và đôi khi át mất hương vị đồng quê.
Gắp một đũa mì cho vào miệng, cắn một miếng ớt thật cay, húp ngụm nước lèo cho phát ra tiếng “soạt”, khi đó mới thấy cái thú, mới thấy cái ngon đầy miệng. Nhìn tô mì đầy đặn, bên những chú tôm đỏ mọng là một lới rau ngò xanh xanh, dăm ba hạt đậu phộng được rải đều, làm cho ta cảm thấy vui mắt và chỉ muốn ăn ngay.
Mì Quảng phải ăn ngay, ăn từ khi còn nóng, để nguội sẽ mất ngon, lá mì sẽ bị tơi ra, rau sống héo đi, cái mùi thơm giòn của rau, đậu sẽ bị tản bớt… Có một điều, ăn mì Quảng mà thiếu bánh tráng thì coi như không đúng cách. Bánh tráng cho ta cái giòn giã và thơm tho, cái béo của dầu mỡ quyện với cái béo của gạo nướng trong bánh tráng càng làm cho người ăn có cảm giác ngon miệng mà không ngán.
Ngày nay, mì Quảng đã được các chủ quán thêm vào một số “biến tấu” trong cách trình bày cũng như thành phần gia vị. Nhưng đây vẫn là một món ăn mang đậm hương vị của Quảng Nam.
Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng, Cách Gói, Phương Pháp 🌺 15 Bài Hay
Thuyết Minh Về Cách Làm Một Món Ăn Mà Em Yêu Thích – Mẫu 5
Tham khảo bài văn mẫu thuyết minh về cách làm một món ăn mà em yêu thích dưới đây giúp bạn đọc tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc và cách nấu món bánh tét truyền thống.
Bánh tét ngày Tết là món ăn không thể thiếu trên mâm cúng ông bà tổ tiên hay trên bàn ăn của người dân đất phương Nam. Một đòn bánh tét tròn trịa, đầy đặn phản ánh khát vọng về một cuộc sống no đủ của người dân Nam Bộ – cư dân của vùng đất mới.
Người dân Nam bộ còn lưu truyền câu ca dao:
“Chim kêu ba tiếng ngoài sông
Mau lo lựa nếp hết đông tết về”
Lo lựa nếp để gói bánh Tét trước cúng ông bà tổ tiên, kế biếu bà con lối xóm, sau cùng để ăn cho ba ngày tết. Do vậy, món bánh Tét ngày Tết là loại bánh không thể thiếu được vào dịp xuân về, là nét văn hóa ẩm thực tiêu biểu của người Việt ở Nam bộ. Vì thế, một số người mới cho rằng cách gói bánh Tét có thể được đọc trại từ bánh tết mà ra.
Cứ đến khoảng 27, 28 tết là mấy bà nội trợ đã lo chuẩn bị nếp. Một ngày trước khi gói bánh, nếp được đem đi ngâm và gút. Hôm sau, họ cắt mấy tàu lá chuối còn nguyên và xanh um ở mé vườn hay sau hè. Lá chuối được rọc nhỏ lại theo kích cỡ đòn bánh, rồi lau sạch và quét lên tí dầu ăn cho láng. Nếp gút lại thật kỹ, sau đó mới bày lên lá với lớp nếp đến lớp nhân. Người gói bánh tiến hành gói phần lá bên ngoài và gói ở 2 đầu bánh, rồi dùng sức buộc dây lạt thật chặt thân bánh, phần dây thừa được gọi là đuôi bánh.
Cách gói phần đầu bánh có hai dạng: Gói theo kiểu hình tròn hay hình tam giác. Người gói bánh cột phần đuôi 2 hay 3,4 đòn bánh lại với nhau thành từng xâu, rồi bỏ vào nồi nước sôi trên lò than, lò củi để luộc chín. Mấy đứa nhỏ ngồi xung quanh nồi bánh Tét chụm lửa. Hồi còn nhỏ, ai đã từng ngồi như thế thì chắc không thể quên được hình ảnh bập bùng của lò than với âm thanh tí tách, cái háo hức mong đợi khi bánh được vớt khỏi nồi nước luộc và cái hơi nóng tỏa ra làm ấm cả gian nhà bếp. Đó là cảm giác của ngày tết sắp về ở từng gia đình.
Độ chừng 3 đến 4 tiếng, người ta vớt bánh ra khỏi nồi nước, treo thành từng xâu trên cái đòn dài của nhà bếp để bánh ráo nước và tránh sự dòm ngó của lũ mèo, chuột. Sáng 30 cúng rước ông bà, họ cắt bánh thành từng khoanh rồi đặt vào đĩa để cúng. Bánh cúng xong thì con cháu mới được ăn. Khi ăn cũng là dịp để thưởng thức sự khéo léo của người nội trợ. Bánh Tét ngon là khi mở ra phần nếp không dính lá, nếp phải dẻo, mịn và trong, phần nhân phải vừa ăn (không quá mặn cũng không quá ngọt) và có mùi thơm.
Muốn được như vậy phải biết kỹ thuật gói bánh. Nếp chọn là loại nếp thượng hạng, nếp rặt, không được pha với thứ khác. Còn lá chuối là loại lá còn nguyên vẹn, không được rách để tránh cho bánh bị “xì” khi nấu. Mặt khác, nếp phải được gút kỹ nhiều lần sao cho thật sạch để khi ăn bánh phần nếp mới dẻo, mịn. Kỹ lưỡng hơn nữa, khi gút người ta cho thêm muối vào cho nếp thêm sạch, dễ gút. Nước ngâm nếp phải được để trong lu vài ngày để lắng tạp chất xuống đáy. Điều này giúp bánh được giữ lâu hơn trong ba ngày tết. Khi gói bánh phải gói thật chặt, không được gói lỏng vì dễ làm hư bánh trong khi luộc. Đậu xanh ngâm kỹ, đãi vỏ thật sạch thì nhân mới ngon.
Nói là bánh Tét ngày tết, nhưng dân Nam bộ chia làm 2 loại: Bánh Tét mặn và bánh Tét ngọt. Bánh Tét mặn là loại bánh Tét có nhân đậu xanh với mỡ, thịt ba rọi, một số nơi còn thêm hột vịt muối. Còn bánh Tét ngọt gồm bánh Tét nước tro, bánh Tét nhân chuối, nhân đậu xanh,…Bánh Tét mặn được làm phổ biến vào dịp tết. Người ta chọn mỡ heo hay thịt ba rọi còn tươi, rửa sạch và để ráo nước. Khi gói bánh thì để thịt, mỡ trên lớp đậu xanh. Nếu gói bằng thịt ba rọi, khi cắt bánh, phần chính giữa vừa trong vừa đục, trông rất bắt mắt. Còn bánh Tét nhân mỡ thì phần mỡ trong vắt mới ngon.
Ở Tiền Giang, khi làm bánh Tét nhân mỡ, mấy bà lấy mỡ ướp với tí đường, củ hành tím rồi phơi trong thau nhôm chừng 5 đến 6 tiếng. Mỡ ướp hành tím làm cho nhân không nặng mùi, thơm và dễ ăn, khác với ướp tỏi. Phơi mỡ trong thau nhôm để lấy nhiệt cho mỡ dễ chín, săn chắc. Mấy ngày tết, sợ ăn bánh Tét mặn ngán, bà con còn gói thêm bánh Tét ngọt để ăn thêm, đặc biệt ở một số gia đình ăn chay. Bánh Tét ngày Tết bằng nước tro là loại bánh mà nếp được ngâm với nước tro tàu, phần nhân gồm đậu xanh xào chung dừa nạo. Bánh có mùi thơm lạ, màu hơi đen, ăn rất ngon.
Gọi bánh Tét chuối vì phần nhân được làm bằng chuối. Người ta chọn loại chuối xiêm chín rục làm nhân. Khi cắt bánh, phần nhân có màu đỏ thẫm, vị ngọt tự nhiên. Ở miệt Bến Tre còn có loại bánh Tét không nhân. Bánh được làm toàn bằng nếp trộn chung với đậu đen hay đậu phộng và nước cốt dừa, ăn rất béo và thơm. Còn ở Tiền Giang, cũng bánh loại này, mấy bà còn cho thêm chuối xiêm chín đã bóp nhỏ vào hỗn hợp đậu, nếp, nước cốt dừa, đậu đen rồi mới gói. Khi cắt ra, bánh gồm nhiều màu, rất bắt mắt và có vị ngọt của chuối, vị bùi của đậu, vị béo của nước cốt dừa, vị dẻo của nếp.
Ở Nam bộ, khi ăn, bánh Tét ngày Tết thường được dùng chung với dưa kiệu, dưa muối cho đỡ ngán. Có người thích ngọt, khi ăn họ còn cho thêm đường trên mặt bánh. Người ta còn dùng bánh Tét thay cơm. Họ chan nước thịt kho tàu dầm tí ớt, trộn thêm dưa giá hay dưa kiệu để ăn chung với bánh. Ăn kiểu này thì ngon và hết sẩy! Vị béo, ngọt của bánh cùng vị chua chua của dưa giá, dưa kiệu và vị mặn mặn, cay cay của nước thịt kho tàu tạo nên một hương vị khó tả và nhớ mãi. Mấy bà nội trợ ở Tiền Giang còn làm thêm món củ cải trắng ngâm với nước tương hoặc nước mắm, bỏ trong hũ sành để ăn kèm với bánh Tét.
Bánh Tét ở Nam bộ có một số loại rất ngon, nổi tiếng, ăn thì khỏi chê, biếu rất sang như: Bánh Tét Trà Cuôn (Trà Vinh), Bánh Tét lá cẩm (Cần Thơ) và bánh Tét Tiền Giang. Bánh Tét Trà Cuôn có gốc tích từ xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Phần nếp bánh có màu xanh, nhân đậu xanh, trong cùng là thịt mỡ và hột vịt muối. Phần nếp có màu xanh do được làm từ nước lá chùm ngót giã nhuyễn trộn vào. Đây được cho là cách làm bánh Tét của người Khmer Trà Vinh.
Theo người dân Cần Thơ cho biết bánh Tét lá cẩm có nguồn từ gia tộc họ Huỳnh ở Bình Thủy. Dòng họ này đã làm cho bánh độc đáo hơn bằng cách nấu lá cẩm lấy nước, sau đó cho nước hòa chung với nếp. Do đó,khi cắt bên ngoài,bánh có màu tím than, phần nhân có màu vàng của đậu, màu hồng của thịt, màu trắng của mỡ và màu đỏ của trứng vịt muối, trông rất đẹp và duyên dáng. Còn bánh Tét Tiền Giang có nhân thịt ba rọi, tôm khô và hột vịt. Do nếp được ngâm nước lá dứa, nên khi ăn bánh có mùi thơm nhẹ.
Mặt khác, trứng hột vịt muối- nguyên liệu chế biến thức ăn phổ biến của người Hoa có mặt trong nhân bánh Tét hay sự tiếp thu từ cách làm bánh của người Khmer (bánh Tét Trà Cuôn) đã phản ánh rõ nét sự giao lưu văn hóa ở vùng đất Nam bộ. Sự khác biệt trong cách làm bánh Tét ở một số địa phương như Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh và Cần Thơ thể hiện được tính thống nhất mà đa dạng của văn hóa ẩm thực. Phải chăng đó chính là những nét nghĩa văn hóa của đòn bánh Tét ngày tết ở vùng đất phương Nam ấm áp và yên bình.
Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới
Thuyết Minh Về Cách Làm Một Món Ăn Ngày Tết Bánh Chưng – Mẫu 6
Để hoàn thành tốt bài văn thuyết minh về cách làm một món ăn ngày tết bánh chưng, các em học sinh sẽ cần tìm hiểu những thông tin đa dạng và phong phú về món ăn truyền thống này. Tham khảo bài văn mẫu thuyết minh về cách làm một món ăn bánh chưng dưới đây:
Bánh chưng là biểu tượng không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền. Từ xa xưa đến nay, mỗi dịp Tết đến xuân về, người người nhà nhà lại chuẩn về những nồi bánh chưng rất to để đón Tết. Bởi trong tâm thức của mỗi người thì bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum vầy, ý nghĩa đoàn viên bình dị nhưng ấm áp.
Người xưa vẫn lưu truyền rằng bánh chưng ngày Tết có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại Việt Nam. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng minh chứng cho sự tròn đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật, vội vã. Cho dù là ở miền Bắc, Trung hay Nam thì bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhiều nhất, vì ngày Tết mới đúng là ngày thưởng thức bánh chưng ngon và ấm áp nhất.
Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những thứ rất đơn giản và dễ chuẩn bị; kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chủ yếu là nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kĩ để có thể tạo nên món ăn ngon và đậm đà nhất. Về phần nếp thì người ta chọn những hạt tròn lẳn, không bị mốc để khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp.
Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân. Người ta sẽ chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, trộn với tiêu xay, hành băm nhuyễn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong. Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành để gói. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm sau khi nấu bánh.
Sau khi đã chuẩn bị tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn cúng viếng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần phải có khuôn vuông để gói nhưng nhiều người thì không cần, chỉ cần gấp 4 góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp nếp dày. Chuẩn bị dây để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.
Công đoạn nấu bánh được xem là khâu quan trọng. Thông thường mọi người nấu bánh bằng củi khô, nấu trong một nồi to, đổ đầy nước và nấu trong khoảng từ 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như thế là vì để đảm bảo bánh chín đều và dẻo. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Lúc đó mọi người bắt đầu cảm nhận được không khí Tết đang bao trùm lấy căn nhà.
Bánh chưng sau khi chín được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo sự săn chắc cho chiếc bánh khi cắt ra đĩa và có thể để được lâu hơn.
Đối với mâm cơm ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiết. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người. Trong ngày Tết có rất nhiều gia đình lấy bánh chưng làm quà biếu, và đây chính là món quà ý nghĩa tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.
Mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng bốc lên nghi ngút chính là báo hiệu cho sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng là biểu tượng ngày Tết mà không có bất cứ loại bánh nào có thể thay thế được. Vì đây là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam, cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Bánh Tét, Cách Làm, Phương Pháp 🍀 15 Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Cách Làm Món Phở – Mẫu 7
Khi làm viết văn thuyết minh về cách làm món phở sẽ cần có những thông tin chính xác về nguồn gốc và phương pháp thực hiện món ăn. Dưới đây là bài văn mẫu thuyết minh về cách làm 1 món ăn món phở để bạn đọc cùng tham khảo:
Một trong những nét hấp dẫn của Việt Nam với du khách quốc tế và cũng là nét đặc trưng đáng tự hào trong lòng người dân đất Việt đó là ẩm thực. Ẩm thực Việt Nam thu hút bởi chất đồng nội và hương vị luyến lưu mãi trong lòng người. Trong số những món ăn truyền thống đặc trưng của dân tộc, tôi bị quyến rũ bởi phở Hà Nội.
Gọi là phở Hà Nội đơn giản bởi vì nó làm ra ở Hà Nội. Phở là món ăn được chế biến khắp ba miền, vùng miền nào cũng vậy, bà nội trợ nào cũng vậy, họ đều có thể nấu phở. Tuy nhiên, nếu muốn thưởng thức món phở đặc trưng nhất, xuất sắc nhất thì nhất định phải đến Hà Nội. Dạo quanh một vòng phố cổ Hà Nội, những cửa hàng phở truyền thống có khắp các góc phố, ngõ hẻm. Hương phở đưa dẫn lối bước chân người.
Rất khó để xác định nguồn gốc của bất kì món ăn nào, nhất là khi món đó có tính phổ biến. Theo các chuyên gia ẩm thực, phở xuất hiện vào đầu thế kỉ XX. Nơi xuất hiện của phở vẫn đang gây ra nhiều tranh cãi, đa phần cho rằng phở ra đời ở Nam Định. Tuy nhiên, hầu hết mọi người cũng công nhận rằng, Hà Nội mới chính là nơi khiến cho phở trở nên nổi tiếng, làm sống lại linh hồn món phở dân tộc, đưa nó vươn ra ẩm thực quốc tế.
Theo thời gian, món phở có nhiều biến tấu đa dạng hơn. Ban đầu phở là loại phở bò nấu chín. Sau đó, phở được nấu theo nhiều kiểu khác nhau có thể nấu phở tái, phở cuốn, phở xào… Nguyên liệu của phở có thể là phở bò, phở gà, phở ngan…
Phở được làm từ nhiều nguyên liệu dân dã. Nguyên liệu chính của phở là bánh phở trắng thái sợi. Bánh phở được làm từ gạo, giống như một dạng mỳ nước. Nước dùng nấu phở là nước xương và một vài loại hương liệu như gừng, hành khô, quế… Nước dùng là “linh hồn” của món phở. Phở được cho thêm thịt bò hoặc thịt gà. Phở được ăn trong tô lớn, ăn nóng và có thể kèm vài loại rau thơm.
Phở ở Hà Nội có vài đặc điểm riêng biệt. Người Hà Nội ăn phở chủ yếu vào buổi sáng và thường không ăn kèm với các món ăn khác. Mỗi quán phở ở Hà Nội, các chủ quán đều có bí kíp nấu phở riêng và có phong cách bán phở riêng. Những quán phở Hà Nội đã duy trì hàng chục năm, truyền từ đời này sang đời khác. Đến bất cứ quán phở nào, bạn cũng sẽ có một menu sẵn các loại phở để chọn. Những sợi phở trắng, dai, mềm dịu cùng thứ nước dùng nóng sốt, ngọt thấm vào từng tế bào vị giác. Người ăn phở gần như chẳng kịp dừng mà nói chuyện, chỉ mải mê sùm sụp từng miếng phở, quên hết mọi thứ xung quanh. Cho đến miếng phở cuối cùng vẫn như còn ấm trong miệng.
Món phở Hà Nội trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều người nghệ sĩ. Phở đi vào văn học, được nhắc đến trong nhiều tác phẩm của Thạch Lam (“Hà Nội băm sáu phố phường”), Vũ Bằng (“Miếng ngon Hà Nội”), Nguyễn Tuân…
Thời gian gần đây, rất nhiều người bán tán tới hiện tượng “bún mắng, cháo chửi”. Rất nhiều quán ăn, bao gồm cả quán phở có “phong cách” phục vụ rất tiêu cực. Họ sẵn sàng mắng nhiếc hay đuổi khách hàng bởi họ tự tin về món phở của mình nhất định sẽ luôn hút chân du khách. Tuy rằng về lĩnh vực ẩm thực được khen ngợi nhưng phong cách phục vụ này dường như làm hình ảnh người Việt thân tình, hiếu khách bị xấu đi. Ho vọng rằng mỗi chủ cửa hàng sẽ có cách ứng xử tốt hơn trong tương lai.
Ngày nay, phở được đóng gói trong nhiều loại bao bì tiện dụng nhưng nếu muốn thưởng thức vị phở truyền thống nổi tiếng của dân tộc thì chắc chắn phải đến Phố cổ Hà Nội. Phở chính là “quốc hồn, quốc túy” của dân tộc Việt Nam.
Mời bạn khám phá 💕 Thuyết Minh Về Phở, Món Phở 💕 15 Bài Văn Mẫu Hay
Thuyết Minh Về Bánh Ít Lá Gai – Mẫu 8
Tỉnh Bình Định có một đặc sản nổi tiếng khắp cả nước là món bánh ít lá gai. Đón đọc bài văn thuyết minh về bánh ít lá gai để tìm hiểu cụ thể hơn về món ăn truyền thống này.
Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo.
Từ một câu ca đến những huyền thoại:
“Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi”
(Ca dao)
Chiếc bánh ít lá gai là một đặc trưng của xứ dừa Bình Định. Không chỉ đặc trưng từ hương vị ngọt bùi thơm dẻo kết tinh từ lao động và sáng tạo của người nông dân; không chỉ đặc trưng từ hình dáng tựa những ngôi tháp Chàm cổ kính rêu phong, từ sắc màu đen lục của lá gai và nếp dẻo mà còn đặc trưng bởi cái tên gọi mang đầy chất huyền thoại.
Nguồn gốc của bánh được lý giải bắt nguồn từ theo sự tích xưa, thì sau khi chàng Lang Liêu – con trai của vua Hùng thứ sáu đã thắng cuộc trong hội thi làm các món ăn để cúng trời đất, tổ tiên trong ngày tết đầu năm mới với hai thứ bánh ngon lành và đầy ý nghĩa là bánh chưng và bánh dày.
Một nàng con gái út của vua thường được mọi người gọi trìu mến là nàng Út, vốn rất giỏi giang, khéo léo trong công việc bếp núc, đã nhân dịp đó trổ tài, sáng tạo thêm ra những món bánh mới. Nàng Út muốn có một thứ bánh mới vừa mang hương vị bánh dày, vừa mang hương vị bánh chưng của anh mình. Nàng liền lấy chiếc bánh dày bọc lấy nhân của chiếc bánh chưng. Thứ bánh mới này quả đã đạt được yêu cầu tuy hai mà một của nàng Út.
Có thứ bánh mới, nàng Út lại suy nghĩ rồi quyết định phỏng theo hình dáng của bánh dày và bánh chưng để làm thành hai dáng bánh khác nhau, một thứ dáng tròn không gói lá, giống hệt như bánh dày, một thứ dùng lá gói kín thành dáng vuông giống hệt như bánh chưng để đạt được ý nghĩa “tuy hai mà một”. Nhưng cả hai thứ bánh đó đều làm nho nhỏ xinh xinh để tỏ ý khiêm nhường với thứ bậc nàng Út của mình trước các anh chị.
Sau hội thi, ngoài bánh dày, bánh chưng được coi như những thứ bánh thiêng liêng ra, những cặp bánh mang ý nghĩa “tuy một mà hai, tuy hai mà một” của nàng Út cũng được mọi người khen ngợi không ngớt. Sau này, những thứ bánh ấy được lưu truyền trong dân gian, mọi người làm theo và cứ gọi bánh này là bánh Út Ít. Trải qua nhiều thời đại, bánh nàng Út Ít đã được cải tiến trở thành nhiều hình vẻ hơn và tên bánh được gọi vắn tắt là bánh út ít, rồi thành bánh ít như ngày nay.
Cũng có người giải thích rằng loại bánh này nhiều hình nhiều vẻ: Thứ gói lá; thứ để trần, nặn cao, nặn dẹt; thứ trắng, xanh, đen; thứ nhân dừa, nhân đậu nên khi làm bánh, dù là để ăn hay để bán, người ta cũng thường làm mỗi thứ một ít cho có thứ nọ, thứ kia, đủ vẻ, đủ hình, do đó mà thành “bánh ít”. Có câu ca dao:
“Bánh thật nhiều, sao kêu bánh ít
Trầu có đầy sao gọi trầu không?”
Đó là cách lý giải của người Việt xưa, còn người Bình Định thì lại lý giải bằng cách liên hệ giữa hình dáng bánh ít với tháp Chàm ở Bình Định. Hầu hết các tháp Chàm ở Bình Định đều đứng trên đồi cao, tạo một đỉnh nhọn ở giữa như chiếc bánh ít. Và thực tế, tại Bình Định cũng có hẳn một ngôi tháp mang tên Bánh Ít đi vào ca dao:
“Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di
Vật vô tri cũng thế huống chi tui với bà”
Cách lý giải thứ hai là dựa vào tục lễ hồi dâu của các cặp vợ chồng mới cưới. Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo. Món quà tuy “ít”, nhưng là “của ít lòng nhiều”, ở đó nó còn có cả những giọt mồ hôi, sự nhẫn nại kiên trì, đôi bàn tay khéo léo, và đặc biệt là tấm lòng hiếu để của cô gái xa cha mẹ về làm dâu xứ người.
Dù chỉ trong ba ngày cưới, bận rộn với bao nhiêu niềm hạnh phúc, lo toan, song người con gái vẫn không quên cha mẹ mình, vẫn dành thì giờ để làm những chiếc bánh “ít” thơm thảo chờ ngày hồi dâu mang về làm quà cho bố mẹ. Nghĩa cử ấy thật không có gì bằng! Để làm được chiếc bánh ít, người ta phải trải qua nhiều công đoạn, dụng khá nhiều công sức, sự dẻo dai, bền bỉ và khéo léo. Đầu tiên là phải chọn nếp để xay (nếp dùng làm bánh ít phải là nếp mới, thơm, độ dẻo vừa) rồi vo kỹ, ngâm với nước vài giờ, sau đó mới xay nhuyễn. Nếu xay bằng cối xay thủ công, phải cho ráo nước để được một khối bột dẻo.
Để có màu xanh đen và hương vị thơm chát cho bánh, người ta hái lá gai non (Cây lá gai thường mọc sẵn ở các hàng rào quanh nhà), rửa sạch rồi luộc chín, vắt khô, sau đó trộn với bột dẻo đem đi giã. Đây là công đoạn dụng khá nhiều sức. Vì nếu giã chưa nhuyễn, bánh ăn lợn cợn, tạo cảm giác không ngon.
Tiếp đến là công đoạn làm nhân “nhưng” bánh. Nhưng bánh ít lá gai bao gồm đậu xanh, đường, dừa, có chút quế cho thơm. Đậu xanh đem xay vỡ đôi rồi ngâm và đãi cho sạch vỏ trước khi luộc chín. Cùi dừa được bào ra thành sợi, bỏ vào chảo gang xào chung với đường một lúc cho đến độ chín tới mới trộn tiếp đậu xanh. Xào nhưng trên bếp lửa liu riu cho đến khi nào đường chín tới, nhưng có màu vàng sẫm, dẻo quánh, mùi thơm bốc lên ngào ngạt là vừa.
Làm bánh ít không khó, nhưng đòi hỏi phải tỉ mỉ. Sau khi đã xào nhưng xong, ngắt một miếng bột nếp tẻ thành bánh mỏng hình tròn trên lòng bàn tay, rồi vốc một nhúm nhưng bỏ vào giữa, túm bốn bên lại cho khít mối, sau đó vo tròn trong lòng bàn tay. Lúc này bột nếp đã bọc toàn bộ nhưng bánh thành một khối tròn. Để cho bánh khỏi dính, người ta chấm một chút dầu phộng, xoa đều trên tấm lá chuối xanh, sau đó bọc bánh lại theo hình tháp rồi mang đi hấp. Có nơi, người ta hấp bánh trần, bánh chín mới gói để giữ màu xanh của lá chuối. Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng, đầy vẻ quyến rũ, huyền bí.
Ngoài bánh ít lá gai, có một số nơi làm bánh ít thường bằng bột nếp, màu trắng, có nhưng đậu xanh, nhân dừa đường hoặc nhân tôm, thịt; có loại gói lá chuối, có loại để trần; cũng có loại làm bằng bột khoai mì, bột củ dong… và đều làm chín bằng phương pháp hấp như trên. Xong người An Nhơn, Bình Định thì chỉ làm bánh ít lá gai nhân dừa hoặc nhân đậu xanh gói lá chuối rồi mới đem đi hấp.
Ở hầu hết các làng quê Bình Định, đám giỗ nào cũng có bánh ít lá gai. Bánh cúng xong được dọn lên mâm cỗ làm món quà tráng miệng và làm quà bánh cho người ở nhà. Đây cũng là nét khác biệt trong văn hoá ẩm thực và văn hoá ứng xử của người Bình Định.
Ngày nay, dù có nhiều loại bánh hiện đại, ngon, rẻ và hấp dẫn hơn nhiều, xong người Bình Định vẫn không bỏ nghề làm bánh ít lá gai. Nếu không làm để bán được thì cũng làm để cúng giỗ và làm quà cho lễ hồi dâu. Họ truyền nghề này cho thế hệ con cái, nhất là con gái, như một thứ bảo bối gia truyền, một nét đẹp văn hóa.
Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào
Thuyết Minh Về Bánh Đậu Xanh – Mẫu 9
Bài văn thuyết minh về bánh đậu xanh sẽ mang đến cho bạn đọc những đặc trưng của món bánh đặc sản nổi tiếng ở vùng đất Hải Dương:
Mỗi con người đều mang trong mình tình yêu quê hương tha thiết. Trong tình yêu ấy có cả niềm tự hào về những sản vật nổi tiếng gắn bó lâu đời với truyền thống quê nhà. Mỗi người con Hải Dương khi đi xa chẳng bao giờ quên được hương vị đậm đà của chiếc bánh đậu xanh.
Bánh đậu xanh là đặc sản nổi tiếng của Hải Dương. Du khách đi qua Hải Dương đều không quên mua cho mình vài hộp bánh đậu xanh về làm quà cho gia đình, bạn bồ. Nói đến bánh đậu xanh, người ta thường nhắc đến những thương hiệu nổi tiếng như: Bảo Hiên, Nguyên Hương, Hòa An… Đó là những hãng sản xuất lớn, có lịch sử lâu đời với bí quyết được trân trọng, giữ gìn từ đời này sang đời khác.
Từ những hạt đậu xanh nguyên chất, qua bàn tay khéo léo, công phu của người thợ, những chiếc bánh đậu xanh ra đời như gói trọn trong mình cả tình yêu và hương sắc quê hương. Màu vàng nhạt như nắng, hương thơm dịu dàng, vị bùi của đậu xanh, ngọt ngào của đường kính, béo ngậy của mỡ phần… làm cho bánh đậu xanh quyến rũ người thưởng thức bởi cả sắc, hương, vị. Không chỉ có vậy, các nhà sản xuất còn cho ra đời những mẫu mã, bao bì đẹp, bắt mắt.
Chiếc bánh đậu xanh của quê hương Hải Dương có mặt trên bàn thờ tổ tiên mỗi dịp lễ Tết, trong những bữa tiệc trang trọng hay trên mâm cơm giản đơn hàng ngày. Nó theo chân người ra các tỉnh bạn, vượt trùng dương đến những vùng đất xa xôi. Và ở bất cứ phương trời nào, bắt gặp đâu đó bóng dáng những hộp bánh đậu xanh, mỗi người dân Hải Dương lại trào lên trong lòng mình một nỗi nhớ quê hương da diết.
Hải Dương vốn nổi tiếng là mảnh đất “Địa Linh Nhân Kiệt”. Và bánh đậu xanh còn góp phần hoàn hảo thêm hình ảnh của Hải Dương bằng vẻ đẹp của văn hóa ẩm thực Việt Nam.
Bên cạnh văn mẫu thuyết minh về cách làm một món ăn, giới thiệu 🍀 Thuyết Minh Về Cái Quạt Giấy, Quạt Nan 🍀 15 Bài Văn Hay
Thuyết Minh Về Món Cơm Lam – Mẫu 10
Một trong những món ăn mang đậm bản sắc của các đồng bào miền núi Tây Bắc là món cơm lam, bài văn thuyết minh về món cơm lam dưới đây sẽ đưa bạn đọc khám phá những nét độc đáo của món ăn này.
Nói đến ẩm thực Việt thì có lẽ người Việt Nam nào cũng cảm thấy tự hào bởi chúng ta có quá nhiều những món ăn ngon. Từ ẩm thực đường phố cho tới những nhà hàng, quán ăn sang trọng. Đâu đâu cũng có thể tìm được một món ăn hấp dẫn. Nói đến đặc sản thì mỗi người cũng có thể kể tên được món ăn đặc sản của quê hương mình. Một trong số những món ăn của người miền núi Tây Bắc để lại trong tôi nhiều ấn tượng nhất đó chính là món cơm lam.
Gọi là cơm thì lẽ dĩ nhiên là được làm từ gạo rồi. Thế nhưng đây không phải loại gạo tẻ như chúng ta vẫn ăn thường ngày mà là gạo nếp. Gạo nếp thơm hơn, dẻo hơn khiến cho cơm lam ăn ngon hơn. Và mặc dù cũng là cơm nhưng cơm lam lại không được nấu theo cách thông thường như chúng ta vẫn nấu hàng ngày. Không phải nồi điện cũng chẳng phải nồi gang. Hãy cùng xem cơm lam được nấu như thế nào nhé.
Việc đầu tiên trước khi nấu là phải chọn được gạo ngon đã. Gạo nếp để làm cơm lam phải là loại gạo nếp cái hoa vàng bởi chúng rất thơm, hạt tròn và mẩy. Gạo phải được vo cho sạch sau đó đem ngâm với nước trong khoảng từ 6 đến 8 tiếng. Phải ngâm lâu như vậy là để khi nấu xong cơm được dẻo và ngon. Nếu không ngâm, gạo sẽ không thể nở và ăn sẽ bị khô. Sau đó, vớt gạo ra và để cho ráo nước. Để cho ra được món cơm lam thơm ngon thì chỉ gạo thôi là chưa đủ. Người Thái còn giã nhỏ gừng và muối sau đó đem trộn với gạo đã ngâm nước. Nhờ vậy mà khi ăn cơm ta thấy cơm có vị đặm và có hương thơm của gừng.
Một điểm đặc biệt của cơm lam là món ăn đặc sản này được nấu trong những ống nứa. Những ống nứa được lựa chọn để làm cơm lam là ống nứa tươi, vỏ ngoài của chúng có màu xanh đậm, bên trong rỗng, một đầu là mắt nứa. Ông nứa dài khoảng 30cm là hợp lý.
Tiếp theo, người nấu sẽ từ từ đổ gạo vào ống nứa và đổ nước vào ngập mặt gạo. Nhiều nơi thường đổ nước dừa để khi ăn có hương thơm của dừa. Muốn cơm lam được ngon thì không nên đổ gạo đầy ống mà nên chừa lại một đoạn để đến khi gạo nở lên đầy ống là vừa. Cuối cùng là lấy lá chuối bịt kín miệng ống nứa lại và đem đi nướng trên bếp lửa. Nấu cơm lam cầu kì hơn nấu cơm bình thường ở chỗ chúng ta phải canh bếp liên tục. Khi nướng, phải xoay ống nứa để cơm được chín đều.
Cơm lam sau khi nướng chín, người ta thường dùng dao róc bớt vỏ ngoài đi để chỉ còn một lớp vỏ nứa mỏng ở bên trong. Khi ăn, chỉ cần dùng tay tách lớp vỏ này ra là được. Ăn cơm lam ngon nhất là chấm với muối vừng.
Vốn dĩ món ăn này là để dùng cho những người đi rừng. Mỗi lần đi rừng thì phải vài ngày mới về. Vì vậy mà mang cơm lam đi là nhanh và gọn nhất. Cho tới ngày nay, món ăn này đã trở thành đặc sản và được người dân vô cùng yêu thích. Nếu đi du lịch ở vùng Tây Bắc chẳng hạn như lên Hòa Bình, bạn sẽ không thể nào từ chối được món ăn tuyệt vời này. Cơm lam cũng được dùng để làm quà cho những người thân ở nhà. Nhiều người muốn ăn nóng thì thường tách cả cây cơm ra khỏi ống nước rồi cho lên bếp rán giòn. Đó cũng là một cách ăn thú vị của người miền xuôi.
Ngày nay, bên cạnh những sự du nhập của món âu hay các món ăn đặc sắc đến từ các quốc gia trên thế giới. Thật tuyệt vời là chúng ta vẫn giữ được nét ẩm thực của riêng mình. Nếu như có cơ hội, bạn hãy thưởng thức hết tất cả các món ăn đặc sản của Việt Nam. Mỗi một món ăn lại ẩn chứa một câu chuyện, một ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc đấy.
Gợi ý cho bạn 🌟 Thuyết Minh Về Đồ Dùng Trong Gia Đình 🌟 18 Bài Mẫu Hay
Thuyết Minh Về Một Cách Làm Món Ăn Thịt Kho Hột Vịt – Mẫu 11
Thịt kho tàu hay thịt kho hột vịt là một trong những món ăn đặc trưng của vùng đất Nam Bộ từ xưa cho đến nay. Đón đọc bài văn thuyết minh về một cách làm món ăn thịt kho hột vịt dưới đây:
Thịt kho tàu hay thịt kho hột vịt đã trở thành một trong những món ăn không thể thiếu trong bữa cơm ngày tết của người miền Tây nói riêng và Nam bộ nói chung. Dường như đã thành thông lệ cứ đến gần tết người dân Nam bộ lại rủ nhau làm món thịt kho tàu để ăn tết như một phần tất yếu.
Ngày nay món ăn bát cơm này còn hiện diện ngay trong bữa ăn hàng ngày của người dân việt. Để hiểu thêm về món ăn này, chúng ta hãy cùng sơ lược qua cách kho thịt của các vùng miền để thấy được nét đặc trưng của món thịt kho tàu miền Nam nhé. Miền Bắc lạnh giá thì gọi là thịt đông, nấu không có nước dừa và trứng luộc. Nhưng miền Nam nắng ấm lại nấu bằng nước dừa với vị béo ngậy. Và miếng thịt heo được cắt vuông vắn, lớn gấp 3 lần miếng thịt kho bình thường.
Nghe qua cái tên của món ăn là thịt kho tàu rất nhiều người sẽ nghĩ đây là món ăn được bắt nguồn từ Trung Hoa, tuy nhiên theo nhiều người Nam bộ xưa kể lại thì chữ “tàu”, ở đây, theo nghĩa của người “miền dưới” là “lạt”, như sông Cái Tàu Thượng, sông Cái Tàu Hạ là hai con sông nước lợ. Như vậy thịt kho tàu không phải là thịt kho của người Trung Hoa, mà chỉ đơn giản là món thịt kho lạt. Cũng có một số giả thuyết khác đặt ra về nguồn gốc của món ăn này tuy nhiên đến nay cũng chưa rõ đâu là giả thuyết đúng nhất.
Miếng thịt mềm rục có cả màu đỏ au của thịt nạc, trong trong của mỡ, nâu nâu của bì hầm nhừ, sóng sánh vàng ươm của nước màu chưng đường, kèm vị bùi của nước dừa xiêm, vị mặn của nước mắm đã được làm thanh đi bằng đường, thi thoảng có thêm vị hắc của chút xì dầu, điểm xuyết thêm mấy hột vịt luộc mà nước thịt ngấm đều từ trong lòng đỏ đến lòng trắng. Tất cả đã làm nên hương vị tuyệt vời của món thịt kho tàu.
Có thể nói thịt kho tàu hiện nay đã trở thành món ăn thường xuyên xuất hiện trong bữa ăn của nhiều người Việt Nam trên cả nước bởi sức hấp dẫn mà món ăn này mang lại. Cách chế biến không quá khó, các bạn hoàn toàn có thể thử qua để mang đến bữa ăn ấm áp cho gia đình mình sau một ngày làm việc mệt mỏi. Thịt kho tàu món ngon khó chối từ và dường như nó đã trở thành một phần văn hóa ẩm thực của người Nam bộ khi đi so sánh với các vùng miền khác trong cả nước.
Hy vọng đây sẽ là lựa chọn hàng đầu của các bạn mỗi khi tự tay nấu món ăn cho gia đình trong mỗi bữa tối. Thịt kho tàu món ngon đúng vị không thể chối từ.
SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free
Thuyết Minh Về Món Gà Chiên Nước Mắm – Mẫu 12
Bài văn thuyết minh về món gà chiên nước mắm sẽ mang đến cho bạn đọc một món ăn đơn giản nhưng có hương vị thơm ngon đậm đà cho bữa cơm gia đình.
Tương tự như thịt, cá, thịt gà là một món ăn quen thuộc trong các bữa cơm gia đình và được chế biến thành nhiều món ăn khác nhau. Trong đó, cánh gà chiên nước mắm lại là món ăn được rất nhiều người ưa thích, nhất là các bạn nhỏ. Vị mặn, ngọt vừa phải hòa quyện với hương thơm đặc trưng của tỏi phi và nước mắm bắm đều bên ngoài từng chiếc canh gà chắc chắn sẽ khiến cho bất kỳ ai cũng không thể chối từ với món ngon này.
Để thực hiện món ăn này, đầu tiên lấy cánh gà đem rửa với nước muối pha loãng sao đó rửa sạch, để ráo. Sau đó, đem cánh gà chặt thành những miếng vừa ăn. Tiếp đên, cho cánh gà vào tô ướp với chút gia vị gồm: chút muối, hạt nêm, tiêu xay trộn đều, để khoảng 30 phút cho thịt ngấm gia vị. Tiếp tục, cho thêm ít bột mì hoặc bột chiên giòn vào trộn đều lên cho bột phủ đều thịt gà.
Bắc chảo lên bếp, cho dầu ăn vào đun sôi, khi dầu sôi cho lần lượt từng cánh gà vào chiên vàng, sau đó vớt ra đĩa có lót sẵn giấy thấm dầu. Cuối cùng, bắc chảo lên bếp, đun nóng với ít dầu, khi dầu nóng thì cho hành tỏi băm vào phi thơm với lửa nhỏ, thêm ít nước mắm theo tỉ lệ, cứ 1 thìa nước mắm là 1 thìa đường sau đó cho gà vào dùng đũa đảo đều đến khi hỗn hợp nước mắm sánh lại và bám quanh thịt gà thì nêm nếm lại cho vừa ăn rồi tắt bếp. Món ăn khi hoàn thành, giờ chỉ việc múc thịt ra đĩa dùng nóng với cơm và chấm với muối tiêu chanh sẽ rất ngon.
Những miếng thịt gà thấm đều gia vị với vị mặn ngọt vừa phải và hương thơm nứt tỏi phi thơm lừng sẽ khiến món ăn thêm phần hấp dẫn. Thay vì luộc, rán, rang như đơn thuần, cách làm cánh gà chiên nước mắm để thay đổi khẩu vị và mang đến cho mình những hương vị mới bạn nhé!
Giới thiệu đến bạn 🌟 Thuyết Minh Về Cái Phích Nước 🌟 15 Bài Ngắn Gọn Hay
Thuyết Minh Về Món Gà Rán – Mẫu 13
Bài văn thuyết minh về món gà rán với những thông tin thú vị giúp bạn đọc tham khảo được cách hành văn và diễn đạt hay.
Món gà rán tẩm bột giòn rụm vàng ươm đã quá quen thuộc với chúng ta thông qua hàng loạt thương hiệu fastfood như KFC hoặc Lotteria… Gà rán là món chiên chiếm được rất nhiều cảm tình của mọi người và hầu hết ở mọi lứa tuổi nhờ vào độ giòn tan của lớp vỏ bên ngoài kết hợp với vị thơm ngon, mềm ngọt trong từng thớ thịt gà.
Để thực hiện món ăn này, bạn nên chọn mua những phần thịt gà có lớp da bên ngoài mỏng, màu vàng óng ánh đặc trưng, khi dùng tay sờ vào sẽ cảm nhận được ngay độ mềm mịn, không có cảm giác gồ ghề và có độ đàn hồi tốt. Tránh chọn mua phần thịt gà có màu sắc hơi nhạt hoặc chuyển sang màu xám tối, xuất hiện các vết bầm tím vì đó là những phần thịt của con gà đã chết lâu ngày hoặc bị nhiễm bệnh. Ngoài ra, thịt gà tươi ngon, chất lượng sẽ có phần thịt bên trong mang một màu hồng tự nhiên, thịt có độ săn chắc vừa phải và không bị mềm nhũn.
Gà mua về, để khử toàn bộ mùi hôi tanh bạn ngâm với nước muối loãng trong khoảng 15 phút . Sau đó vớt gà ra, để ráo nước và thái thịt gà thành các miếng nhỏ vừa ăn. Cho thịt gà vào tô, ướp thịt với 1/2 muỗng canh bột ngọt, 1/2 muỗng canh hạt nêm, 1/2 muỗng canh muối, 1/2 muỗng canh nước tương, 1 muỗng canh tương ớt, 1/2 muỗng canh bột mù tạt, 1/2 muỗng canh bột tỏi, 1/2 muỗng canh bột hành, 1/2 muỗng canh bột tiêu, 1/2 muỗng canh bột nở.
Cho vào tô 150gr bột mì đa dụng, 75gr tinh bột bắp, 1/2 muỗng canh hạt nêm, 1/2 muỗng canh muối, 1/2 muỗng canh bột tỏi, 1/2 muỗng canh bột hành, 1/2 muỗng canh bột mù tạt, 1/2 muỗng canh bột tiêu, 1/2 muỗng canh bột nở. Tiếp theo sẽ dùng muỗng trộn đều để cho bột và các loại gia vị hòa quyện và đồng nhất với nhau. Bạn lấy từng miếng thịt lăn với bột cho bột bám thật đều quanh miếng gà và thả vào bát nước lạnh đã pha giấm trắng. Sau đó sẽ để gà ngâm trong bát nước lạnh khoảng 1 phút thì lấy ra lăn lần 2 với bột.
Bạn đặt chảo lên bếp, thêm vào 300ml dầu ăn. Dầu sôi thì hạ lửa vừa thả từng miếng gà vào chiên ngập dầu. Nếu gà chưa ngập hẳn dầu thì bạn chiên vàng đều mặt đầu tiên trong khoảng 3 phút rồi lật mặt thứ 2 chiên khoảng 3 phút nữa thì gắp ra cho ráo dầu và nguội bớt. Tiếp tục cho gà vào chiên lần 2 để gà giòn lâu hơn. Mỗi mặt chiên thêm 1 phút và giữ lửa vừa. Sau khi gà đã chín và vàng giòn thì bạn gắp gà cho ra dĩa đã lót sẵn giấy thấm dầu và có thể thưởng thức.
Gà rán sau khi hoàn thành sẽ có lớp vỏ ngoài giòn rụm, thịt gà bên trong mọng nước ngấm gia vị và không hề bị khô. Đây là một món ăn thú vị mà bạn hoàn toàn có thể thực hiện tại nhà.
Ngoài văn mẫu thuyết minh về cách làm một món ăn, chia sẻ 💧 Thuyết Minh Về Chiếc Nón Lá 💧 15 Bài Văn Về Cái Nón Lá Hay
Thuyết Minh Về Món Đậu Phụ Rán – Mẫu 14
Tham khảo bài văn thuyết minh về món đậu phụ rán – một món ăn đơn giản và thanh đạm cho bữa cơm hằng ngày.
Các món ăn được chế biến từ nguyên liệu tàu hũ non luôn được rất nhiều người yêu thích bởi đây không chỉ là thực phẩm rất tốt cho sức khỏe mà nó còn có hương vị thơm ngon đặc trưng vô cùng hấp dẫn.
Để thực hiện món ăn này, tàu hũ non cần thái miếng vừa ăn rồi luộc sơ qua với nước sôi có pha chút muối, trong quá trình thực hiện bạn cần thao tác nhẹ nhàng để tàu hũ non không bị vỡ ra nhé, vớt tàu hũ non ra đĩa có giấy thấm dầu để tàu hũ non được ráo hẳn trước khi chiên.
Sử dụng một lượng dầu vừa đủ cho vào chảo sao cho khi chiên thì dầu ăn ngập mặt miếng tàu hũ non, đặc biệt phải sử dụng chảo chống dính để đảm bảo cho món tàu hũ non chiên giòn không bị kết dính vào đáy chảo. Vặn lửa to vừa để dầu sôi nóng già, sau đó vặn lửa nhỏ lại, lần lượt lăn từng miếng tàu hũ non qua đĩa bột chiên xù, vẩy nhẹ để bột bám thành một lớp đều, mịn, mỏng, tiếp tục nhúng qua chén trứng đã đánh tan, rồi lăn qua đĩa bột chiên giòn và thả vào chảo dầu đang sôi. Thực hiện lần lượt cho đến hết.
Khi thấy từng miếng tàu hũ chuyển sang màu vàng rộm, dậy mùi thơm hấp dẫn, bạn vớt ra ngay đĩa có giấy thấm dầu, sau đó bày ra đĩa, rắc rau mùi lên trên là bạn đã hoàn thành món ăn. Khi chiên tàu hũ cần phải vặn lửa nhỏ vừa để tàu hũ chín đều, giòn ngon, không bị cháy, dậy mùi thơm đặc trưng. Món đậu phụ chiên giòn này có thể thưởng thức kèm với tương ớt, sốt mayonaise để dùng kèm, hay bạn cũng có thể thay thế gia vị chấm bằng nước mắm chanh tỏi hoặc xì dầu pha ớt đều rất ngon.
Món tàu hũ non chiên giòn bắt mắt, hấp dẫn, màu vàng rộm, có mùi thơm đặc trưng, lớp bên ngoài giòn tan, lớp bên trong chín đều, đậm đà, rất thơm ngon là một sự lựa chọn thú vị để bạn làm mới khẩu vị bữa ăn hàng ngày của gia đình mình.
Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone
Thuyết Minh Cách Làm Canh Chua Cá Lóc – Mẫu 15
Ẩm thực miền Nam Bộ nổi tiếng với những món ăn đậm đà đa dạng hương vị, cùng khám phá về một trong những món ăn đặc sắc nhất của người dân nơi đây qua bài văn thuyết minh cách làm canh chua cá lóc.
Nền văn hóa của dân tộc Việt Nam ta từ lâu đời đã mang tính “thực vật – sông nước”, tính “thực vật – sông nước” được thể hiện trong các mặt của đời sống con người như ăn, ở, mặc, đi lại…Về mặt ẩm thực, ta có thấy các món ăn truyền thống của dân tộc đều gắn với các loài thực vật, hải sản như “canh rau muống”, “cà dầm tương”:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
(Ca dao)
Hay như món “tép kho” cũng là một món ăn đặc trưng của dân tộc ta từ xa xưa, ngày nay tính “thực vật – sông nước” vẫn được thể hiện rõ ràng và món canh chua cá lóc cũng được xếp vào một trong những món ăn ngon của nền ẩm thực Việt thể hiện được tính chất này.
Canh chua cá lóc là một món ăn vốn đã rất quen thuộc với người dân Việt Nam, đặc biệt là ở vùng miền tây Nam Bộ, món canh ngon tuyệt này có thể giúp xua tan đi mọi mệt mỏi trong những ngày hè nắng nóng và đem đến cảm giác ấm lòng vào những ngày mùa đông lạnh giá. Gọi là canh chua nhưng ngoài vị chua đặc trưng ra, món canh này có cả vị ngọt đậm đà nữa.
Có rất nhiều cách để nấu được món canh chua cá lóc tuyệt ngon chỉ cần chuẩn bị đủ nguyên liệu để món canh này ngon đúng vị của nó. Nguyên liệu để nấu món này gồm: nguyên liệu nằm ngay ở tên món ăn và quan trọng nhất đó là cá lóc (1con khoảng 700 – 800g); dứa hay có nơi còn gọi là quả thơm (1 phần 4 quả); đậu bắp hay còn gọi là mướp tây (5 quả); cà chua (2 quả); giá đỗ (100g); dọc mùng (2 nhánh); me chua chín (50g). Rau thơm để nấu canh chua gồm hành lá, rau ngổ. Gia vị của món này gồm hành khô, tỏi, muối, hạt nêm, bột ngọt, đường, bột ớt, hạt tiêu, nước mắm và dầu ăn. Có thể thấy khâu chuẩn bị nguyên liệu cũng khá là cầu kì để có được một món ăn ngon.
Khi đã xong khâu chuẩn bị, ta chuyển sang khâu sơ chế nguyên liệu. Đây là một khâu cũng rất quan trọng, nguyên liệu được sơ chế cẩn thận thì khi nấu mới ngon được. Đầu tiên ta làm sạch và băm nhuyễn hành khô và tỏi. Tiếp đó là cá lóc, ta làm sạch, thái lát, lấy dao khứa nhẹ trên mỗi lát cá để khi ướp với gia vị sẽ dễ thấm. Sau đó ướp cá với một nửa thìa hành tỏi đã được băm nhuyễn, 1 thìa hạt nêm, một nửa thìa nước mắm, nửa thìa bột ngọt, nửa thìa dầu ăn, nửa thìa hạt tiêu rồi để khoảng mười lăm đến hai mươi phút để cá ngấm gia vị.
Với quả dứa và đậu bắp ta làm sạch, cắt thành lát dài. Cà chua rửa sạch bổ thành miếng nhỏ như miếng cau, dọc mùng ta tước vỏ, cắt mỏng, bóp qua với một chút muối sau đó rửa sạch và chần nhẹ qua nước sôi rồi để ráo. Đối với giá đỗ ta rửa sạch và để riêng để tránh lẫn với các nguyên liệu khác. Các loại rau thơm ta nhặt rửa sạch và thái nhỏ. Quả me chua chín ta bỏ hạt rồi ngâm nước ấm.
Khi đã sơ chế xong, ta thực hiện nấu món canh chua này. Trước hết, người nấu lấy một thìa hành tỏi đã băm nhuyễn phi thơm với dầu ăn và cho thêm nửa thìa bột ớt để tạo màu cho món ăn. Cho cá lóc đã được ướp gia vị vào đảo nhẹ sau đó cho nước vào để nấu canh, cho thêm nước me chua và dứa vào. Đợi đến khi nước sôi, ta dùng lấy thìa vớt hết bọt phía trên để nước canh được trong.
Khi cá sắp chín tới, ta cho cà chua, đậu bắp, dọc mùng và giá đỗ vào, cho thêm một phần tư thìa muối, nửa thìa đường, nửa thìa hạt nêm, nửa thìa bột ngọt tùy thuộc vào khẩu vị mặn, nhạt của người ăn. Đợi đến khi cá chín, tắt bếp cho rau thơm và hạt tiêu vào, như vậy là đã hoàn thành xong món canh chua cá lóc thơm ngon rồi mà lại cực kì đơn giản, dễ làm, không yêu cầu tay nghề cao mà vẫn có thể làm được một món ăn tuyệt ngon cho gia đình.
Món canh chua ngon có vị ngọt đậm đà, cá vừa chín tới không bị chín quá và cũng không có mùi tanh. Màu sắc của món canh hấp dẫn và có mùi thơm đặc trưng. Đây là một món ăn rất bổ dưỡng làm phong phú thêm bữa ăn của gia đình lại vừa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt.
Một số người đã nhầm giữa “cá nóc” và “cá lóc” vì thế cho rằng loài cá này gây độc nhưng theo nghiên cứu của y học thì cá lóc là một loại cá không có độc tính, cá lóc có vị ngọt, thịt ít mỡ, giàu khoáng chất và vitamin được xem là thức ăn bổ dưỡng rất tốt cho sức khỏe có tác dụng thanh nhiệt, giải độc có tác dụng bổ khí huyết và hỗ trợ chữa được nhiều chứng bệnh khác. Ngoài món canh chua cá lóc thì ta có thể chế biến được nhiều món khác từ loại cá này vừa là món ăn ngon vừa chữa được các bệnh như: mồ hôi trộm, sốt cao, viêm gan, vàng da…
Món canh chua cá lóc là một trong những món ăn ngon của dân tộc, mang đậm dấu ấn của quê hương. Món ăn như chất chứa tình cảm của người nấu dành riêng cho những ai yêu hương vị đặc trưng của quê hương mình, món ăn như một sợi dây níu giữ những ai xa quê về với quê hương đất Việt mình.
Tham khảo văn mẫu 🌹 Thuyết Minh Về Một Loài Cây Cối Em Yêu 🌹 15 Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Món Canh Cua – Mẫu 16
Bài văn thuyết minh về món canh cua sẽ mang đến cho bạn đọc một gợi ý thú vị về món canh thanh mát, bổ dưỡng mà có cách nấu đơn giản, không quá cầu kỳ.
Từ lâu, món canh cua nấu rau đay đã trở thành món ăn dân dã rất quen thuộc với nhiều gia đình người Việt. Canh cua ra đay ngọt mát, bổ dưỡng, hội tụ vị ngon ngọt của nước thịt cua nấu cùng các loại rau mùa hè như mướp, mồng tơi, rau đay… khiến mọi người ai cũng yêu thích. Cách nấu canh cua rau đay đơn giản, không cầu kì, bất kì ai cũng có thể trổ tài nấu món ăn bổ dưỡng này tại nhà cho người thân cùng thưởng thức.
Theo y học cổ truyền, rau đay là loại rau có vị ngọt, tính hàn, có tác dụng tẩm bổ, giải nhiệt, lợi tiêu hóa, nhuận tràng, lợi tiểu, kháng viêm, cầm máu, lợi sữa và an thai. Đây là thực phẩm rất tốt dành cho bà bầu. Trong khi đó, thịt cua đồng chứa nhiều sắt và canxi, nên cua đồng nấu cùng rau đay sẽ tạo thành món ăn không chỉ thơm ngon, ngọt mát mà còn rất bổ dưỡng. Những ngày hè nóng nực mà cả nhà cùng quây quần giải nhiệt bên bát canh cua rau đay thì còn gì tuyệt vời hơn
Cua đồng mua về ngâm nước khoảng 1 giờ đồng hồ cho ra sạch hết đất, cát bám theo. Chắt sạch nước ngâm, rồi xóc rửa cua với nước thật kĩ từ 3-4 lần cho đến khi cua sạch hết cát bẩn. Sơ chế cua: tách riêng phần mai cua và thân ra, bỏ yếm cua. Phần mai cua có gạch, dùng tăm khều gạch đó để riêng ra 1 cái bát con. Phần thân cho vào cối giã hoặc bỏ vào máy xay nhuyễn. Càng giã nhỏ, xay càng nhuyễn thì nước canh càng ngon.
Sau khi xay nhuyễn, bạn cho phần thịt cua đã xay vào 1 chiếc tô, chế nước, dùng tay bóp nát và khuấy cho đến khi thịt cua tan hết ra nước. Đổ hỗn hợp qua rây để lọc lấy nước cua. Lặp lại thao tác vài lần. Rau đay, mùng tơi rửa sạch, thái nhỏ. Mướp bỏ vỏ, thái miếng chéo dày 1cm. Khi có nước thịt cua đã lọc, bạn cho phần gạch đã khều vào, thêm chút muối vào cho hỗn hợp có vị đậm đà.
Bắc nồi nước cua lên bếp đun, để lửa liu riu. Khi nước cua sôi, dùng đũa hoặc thìa gạt khẽ phần gạch nổi lên sang 1 bên và cho mướp vào trước. Đợi khi nước sôi trở lại cho rau đay và mồng tơi vào. Đợi nước canh sôi trở lại trong 1 phút rồi tắt bếp. Thêm mì chính và nước mắm vào món canh sao cho vừa khẩu vị của gia đình.
Món canh cua rau đay phù hợp với nhiều mùa trong năm, đặc biệt là đầu mùa mưa, khi mà cua đồng phát triển mạnh mẽ. Trong bữa ăn, một bát canh cua ăn cùng cà muối và khịt kho thì còn gì thú vị bằng. Để nấu một món canh thì rất đơn giản, còn có ngon hay không là do cách bạn chế biến. Tùy mỗi vùng miền và sở thích của mỗi người mà ta có cách tăng giảm nguyên liệu khác nhau sao cho phù hợp.
Tiếp theo văn mẫu thuyết minh về cách làm một món ăn, đón đọc 🍃 Thuyết Minh Về Loài Hoa Ngày Tết 🍃 15 Bài Hay Nhất
Thuyết Minh Về Canh Khổ Qua – Mẫu 17
Đón đọc bài văn thuyết minh về canh khổ qua – một món ăn không thể thiếu trong mâm cơm ngày tết của người dân Nam Bộ:
Hồi tôi còn nhỏ, Tết năm nào má cũng kho một nồi thịt và hầm một nồi hũ qua thiệt lớn để ăn dần. Hũ qua, hay khổ qua, mướp đắng, là cách chơi chữ, hàm ý năm mới ăn món này thì mọi khó khăn sẽ qua hết
Người miền Nam Tết đến thường chuộng món ăn theo tên gọi hoặc hình ảnh gợi lên sự sung túc, ví dụ như chưng mâm trái cây thì phải là “cầu dừa đủ xoài”; kho nồi thịt thì nhất định miếng thịt phải xắt vuông lớn, kho chung với hột vịt tròn để có được sự toàn vẹn; trái dưa hấu cắt ra phải đỏ ngon thì cả năm mới may mắn…
Má tôi cũng vậy, Tết đến dù mâm cỗ cúng ông bà đơn giản đến mấy cũng phải có tô canh khổ qua dồn thịt. Người miền Nam chọn trái khổ qua vì tên đúng của nó là khổ qua, nghĩa là niềm hy vọng về mọi khó khăn, vất vả sẽ qua hết để năm mới suôn sẻ, may mắn. Loại trái này chẳng phải quý hiếm, bất cứ bà nội trợ nào cũng có thể mua ăn quanh năm, nhưng Tết đến sẽ mang một ý nghĩa khác biệt. Có tô canh khổ qua trên mâm cỗ tự nhiên thấy an tâm lạ, như thể mọi khổ nhọc rồi sẽ qua, bước sang năm mới là mọi việc sẽ khác.
Để có nồi khổ qua dồn thịt ngon, việc chọn trái khổ qua cũng rất quan trọng. Năm nào cỡ ngày 27 Tết là má tôi cũng đi chợ sớm, lựa từng trái hũ qua, phải là trái xanh đậm, suôn dài, gai nở to. Hồi đó chưa có mấy vụ bơm hóa chất vào thực phẩm, nên vẻ ngoài của rau trái sao thì bên trong sẽ vậy, không đánh lừa bà nội trợ.
Khổ qua mua về má tôi xẻ dọc (không đứt trái), moi bỏ hết ruột, rửa sạch rồi trụng qua nước sôi, ngâm vào nước đá, khi dồn thịt thì vớt ra. “Trụng sơ, ngâm lạnh để giữ màu xanh sau khi hầm”, má tôi giải thích khi tôi hỏi vì sao đã nấu rất lâu mà còn phải trụng”. Nhân khổ qua, có nhà thì thích dồn cá thác lác, loại cá này cũng hợp với hũ qua lắm, nhưng cá thác lác thì mắc, nhà tôi lúc đó còn nghèo nên chỉ dồn thịt bằm. Chọn loại thịt nạc dăm, rửa sạch, bằm hoặc xay nhuyễn, ướp với ít muối, bột ngọt.
Trong lúc chờ thịt thấm, má sẽ ngâm nấm mèo, bún tàu cho nở, rửa sạch lại, để ráo rồi băm nhuyễn. Hành lá má cũng cắt riêng phần đầu băm nhuyễn, phần lá xắt nhỏ cùng với ngò rí. Khi mọi thứ đã xong, má trộn thịt với nấm mèo, bún tàu, tiêu, đầu hành, quết lại cho dẻo, lần lượt dồn vào từng trái khổ qua.
Ngày thường, má sẽ dùng lá hành trụng sơ để buộc hũ qua, nhưng ngày Tết, sẵn có dây lạt gói bánh tét, má dùng dây lạt. Cái dây này hay lắm, ông bà ta nói “lạt mềm buộc chặt” quả không sai, nhà tôi năm nào đến Tết, má cũng mua một mớ dây lạt về để gói bánh, buộc thịt, vừa chắc chắn vừa an toàn. Trái khổ qua dồn thịt vị đã đậm đà, nên bình thường chỉ cần nấu nước sôi, dằn ít muối là đã có thể thả khổ qua vô, nêm nếm lại là xong nồi canh.
Nhưng ngày Tết thì má cầu kỳ hơn, mua xương ống về hầm lấy nước dùng. Xương trước khi nấu phải rửa sạch, trụng nước sôi, xả lại, khi nấu canh vớt bọt liên tục để nước trong. Nấu xong để riêng xương, lược lại nước hầm. Nấu sôi lại nước hầm, thả khổ qua dồn thịt vào, canh sao cho nước phải ngập trái, để lửa lớn không đậy nắp. Khi hũ qua mềm, nêm nước mắm, muối, bột ngọt lại cho vừa ăn sau đó tắt bếp, rắc hành ngò vào.
Không chỉ là món ăn lấy may, khổ qua hầm còn rất mát và bổ. Vị đắng trong trái khổ qua chính là bài thuốc thanh nhiệt, giải độc, trị rôm sảy mụn nhọt rất hiệu quả. Nên dẫu là món ăn truyền thống nhưng khổ qua hầm không bao giờ “lỗi thời” trong mâm cỗ Tết hiện đại. Ngày Tết, khi thịt cá đã quá ê hề, một tô khổ qua hầm đăng đắng sẽ giúp trung hòa khẩu vị, mát ruột mát gan. Ăn xong lại thấy lòng phơi phới, dường như đã gạt bỏ được những muộn phiền của năm cũ.
Chia sẻ 🌼 Thuyết Minh Về Cây Cau 🌼 15 Bài Thuyết Minh Hay Nhất
Thuyết Minh Về Món Bún Cá – Mẫu 18
Đến với tỉnh miền Tây An Giang không thể bỏ qua món bún cá Long Xuyên. Khám phá nhiều hơn về món ăn đặc biệt này với bài văn thuyết minh về món bún cá dưới đây:
Rất nhiều du khách thắc mắc không biết đến An Giang sẽ ăn món gì, du lịch An Giang nên chọn đặc sản nào hoặc du lịch An Giang mua gì làm quà cho người thân, bạn bè, v… đó là mắm Châu Đốc, đường thốt nốt, bò cạp Bảy Núi, bò bảy món núi Sam… Trong đó phải kể đến có món bún cá Long Xuyên, một món ăn dân dã nhưng khi du khách một lần nếm thử qua sẽ nhớ mãi không quên mùi vị.
Bún cá không phải là món ăn của người Việt Nam mà du nhập từ đất nước láng giềng Campuchia. Trải qua thời gian cũng như sự biến tấu trong thành phần, hương vị, ngày nay bún cá trở thành món ăn thân quen của người miền Tây. Có thể kể ra rất nhiều thương hiệu như bún cá Sóc Trăng, bún cá Kiên Giang, bún cá Long Xuyên, bún cá Châu Đốc… Trong những thương hiệu kể trên thì bún cá Long Xuyên nổi tiếng hơn cả bởi cách nấu và hương vị đặc biệt, hấp dẫn nhiều thực khách.
Bún cá Long Xuyên được xem là một trong những đặc sản An Giang nổi tiếng. Nguyên liệu để làm nên món này rất đơn giản với cá lóc, nước lèo, bún tươi và một số loại rau. Trong đó, thành phần chính không thể không nhắc đến của món bún cá là cá lóc đồng. Đây là loài cá có thân tròn dài, phần đuôi dẹp bên, đỉnh đầu rộng, dẹp bằng, miệng rất lớn, xuất hiện nhiều ở các tỉnh miền Tây.
Trong các khâu làm món bún cá thì chọn cá là bước quan trọng nhất, phải chọn đúng loại cá lóc đồng, thịt cá ngọt và dai chứ không bị bở và tanh như cá lóc nuôi. Sau khi chọn được cá thì làm sạch rồi bỏ vào nồi nước lèo (nước dùng để ăn với bún) luộc chín. Khi luộc nhớ cho thêm một ít sả và củ nghệ đập dập để nước lèo có màu vàng đẹp mắt và không có mùi tanh của cá. Cá luộc chín thì vớt ra, gỡ phần thịt và phần xương tách riêng ra. Lấy phần thịt cá ướp chung với một ít gia vị rồi cho lên chảo xào sơ qua với nghệ để thịt cá vừa săn lại vừa có mùi thơm cùng màu vàng bắt mắt.
Nấu nước lèo để ăn bún cá cũng không kém phần quan trọng vì nước lèo ngọt, ngon mới cho ra món bún cá theo đúng vị. Để nấu nước lèo, người dân Long Xuyên thường sử dụng xương ống để ninh, vừa ninh vừa vớt bọt để nước lèo trong và có vị ngọt. Khi thưởng thức bún cá chỉ cần lấy bún tươi được chần qua nước sôi rồi cho vào bát, bên trên là vài lát cá vàng ươm, nước lèo chan ngập bún, cho thêm ít rau thơm. Ngoài ra, để có món bún cá ngon cũng không thể thiếu các loại rau.
Thông thường, người ta ăn bún cá chung với rau muống, giá hoặc rau răm. Một số địa phương miền Tây có thể thêm đậu đũa và bông điên điển. Bát bún cá bưng ra nóng hổi, có màu vàng ươm của nước lèo và của cá, màu xanh của rau, điểm tô thêm màu trắng của giá, trông rất đẹp mắt. Bún ăn nóng thơm ngon, húp miếng nước lèo ngọt thanh, gắp miếng cá lóc chấm nước mắm ớt, dư vị nồng trên đầu lưỡi, ngon không gì bằng.
Bún cá Long Xuyên với vị ngọt của nước lèo, vị béo béo của cá, vị the hơi cay của sả cùng một chút đắng của rau khiến cho món ăn này ngon “khó cưỡng”. Không chỉ hấp dẫn với người dân địa phương, bún cá Long Xuyên còn thu hút nhiều du khách từ trong và ngoài nước tìm về thưởng thức. Quý khách có thể tìm đến các quán dọc theo đường Lê Lợi (phường Mỹ Bình, Tp. Long Xuyên, tỉnh An Giang) để thưởng thức món bún cá đặc trưng.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Thuyết Minh Về Hoa Sen 🌹 15 Bài Giới Thiệu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Bún Chả – Mẫu 19
Vùng đất thủ đô văn hiến có nhiều đặc sản nổi tiếng, trong đó không thể không nhắc đến bún chả Hà Nội. Đón đọc bài văn thuyết minh về bún chả mang đến cho bạn đọc những trải nghiệm thú vị.
Nếu như trước đây nhắc đến món ăn đặc trưng Việt Nam, người ta sẽ nghĩ ngay đến món phở thơm nồng. Thì ngày nay, bổ sung vào danh sách những món ngon “gây nghiện” cho thực khách quốc tế chính là món Bún Chả Hà Nội trứ danh. Bún chả là món ăn thân thuộc với người Việt, đặc biệt là người Hà Thành. Sự kết hợp nhiều loại gia vị tạo nên một tổng thể rất hài hòa, vừa vặn lại thơm ngon.
Chỉ đơn giản là bún, là chả, là rau sống ăn kèm nhưng món ăn dân dã này lại có khả năng “gây thương nhớ”. Không nói ngoa khi bảo rằng những ai đã một lần đến Hà Nội mà không thử qua món ăn này thì xem như chưa từng đặt chân đến đây. Nhìn tổng quan, bún chả có vẻ như không có gì đặc biệt, thế nhưng, nhờ sự kỹ lưỡng từ mùi vị đến từng cái gắp đũa, bún chả đã được nâng tầm thành tinh hoa ẩm thực. Để có được một bữa bún chả ngon đúng điệu không hề đơn giản chút nào.
Tối 23/5/2016 trong chuyến công du của mình, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã tới quán bún chả trên phố Lê Văn Hưu (Hoàn Kiếm, Hà Nội) để thưởng thức món ăn truyền thống của Việt Nam. Đây là lần đầu tiên, món bún chả bình dị, thân thuộc trở nên hot hơn bao giờ hết. Sự công nhận của bạn bè quốc tế chứng tỏ rằng: Bún chả thu hút người ta bằng những chi tiết giản dị nhất. Món bún này cũng chứng minh cho việc, cái nhỏ, cái đơn giản chưa chắc đã là cái tầm thường.
Mới đây, trong một chương trình truyền hình phát sóng tại Hàn Quốc, các ngôi sao xứ sở Kim Chi cũng đã bàn luận rôm rã về cách thưởng thức món bún chả Việt Nam. Mặc dù chưa quen với cách ăn món Việt nhưng các sao Hàn vẫn thưởng thức món bún chả rất vui vẻ và đều tấm tắc khen ngợi hương vị thơm ngon hòa quyện của món ăn dân dã này.
Bạn thấy đấy, chẳng cần phải đi đâu xa. Ngay tại chính quê hương mình đã luôn “cất giữ” những món ăn khiến triệu người say đắm.
Không chỉ có văn mẫu thuyết minh về cách làm một món ăn, đón đọc 💕 Thuyết Minh Về Cây Mai 💕 15 Bài Hay Nhất
Thuyết Minh Về Bún Đậu Mắm Tôm – Mẫu 20
Bài văn thuyết minh về bún đậu mắm tôm sẽ giới thiệu đến bạn đọc một trong những món ngon nổi tiếng của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Nhắc đến Bún đậu mắm tôm, du khách sẽ thấy trong mọi ngõ ngách của Hà Nôi, bún đậu mắm tôm trở thành món ăn vỉa hè dân dã thu hút du khách trong nước và quốc tế. Cũng vì thế mà món ăn này trở nên hấp dẫn và là gợi ý đầu tiên trong danh sách những món ăn ngon nên thử ở Hà Nội.
Bún đậu mắm tôm – ngay từ cái tên đã dễ dàng cho du khách biết được sự kết hợp hài hòa giữa bún đậu và mắm tôm, những món ăn nghe tên đã thấy giản dị, gần gũi với cuộc sống của người dân Hà Nội. Du khách sẽ thấy một “mẹt” bún đậu mắm tôm bao gồm rất nhiều những thức ăn kèm: Đậu phụ rán vàng, thịt chân giò, nem rán, dồi, lòng lợn và đặc sản “Chả Cốm” của Hà Nội nữa. Chỉ cần thưởng thức một suất bún đậu như vậy thôi, du khách đã cảm thấy mình sẽ có một bữa ăn ngon, rẻ và no nê rồi.
Để có được những miếng đậu phụ cắt ra mà vẫn giòn, nóng hổi và không bị cháy là cả một sự khéo léo, cẩn thận của đầu bếp chính. Từng miếng đậu dài được xếp đều san sát nhau ngập chảo dầu đang sôi sùng sục mờ chín vàng. Từng miếng đậu phụ phải được chọn trắng, mềm rất cẩn thận, rán làm sao cho bên trong và bên ngoài đều có độ chín vàng, mềm, giòn tan và có mùi thơm lừng của đậu tương. Món ăn nhìn đơn giản vậy thôi, du khách chỉ cần ăn thử một miếng thôi, chắc chắn rồi lại muốn ăn thêm nhiều hơn nữa.
Cùng với đó là những miếng thịt chân giò đã được cuộn chỉ thật chắc sôi sùng sục trong nước luộc thịt thơm mùi gừng tươi và đậm đà gia vị từ sáng sớm nên khi thái từng miếng thịt nhỏ ra đĩa sẽ thấy được vị mềm, giòn và thơm mùi thịt heo. Từng miếng thịt nóng hổi được xếp ra đĩa ăn trông thật hấp dẫn làm sao.
Sự hoàn hảo của món này không phải nằm ở những miếng đậu phụ rán hay những sợi bún dai, mềm và trắng mà nằm ngay ở sự kết hợp hài hòa của bát nước chấm “mắm tôm”. Thật ra không phải ai cũng ăn được mắm tôm, nhất là những du khách quốc tế khi thưởng thức món ăn này ban đầu lại rất khó chịu với mùi vị này nhưng một khi du khách đã ăn rồi thì chỉ có thể là “nghiện”.
Để làm được mắm tôm ngon thì mắm tôm chính hiệu phải được đặt từ những lò làm mắm cổ truyền lâu đời ở Thanh Hóa. Mắm tôm khi nhìn sẽ thấy có màu ửng hồng, dậy mùi thơm chứ không bị nồng nặc mùi. Để pha được mắm tôm ngon cũng nhờ vào sự khéo léo, vị giác tốt của người đầu bếp. Múc ra chén cho thêm chút đường, bột ngọt và tưới thêm một lớp mỡ vàng ngậy lên trên bát mắm tôm trông thật sóng sánh, hấp dẫn thị giác của du khách vô cùng.
Du khách sẽ cảm nhận được đủ vị chua, cay, mặn, ngọt của nước chấm mắm tôm: Vị chua của chanh, vị cay của một chút ướt tươi xắt nhỏ, vị mặn của mắm tôm và vị ngọt của một chút đường. Tất cả hòa quyện với nhau khiến cho du khách chỉ cần chấm ăn kèm với món ăn khác cùng với bún thôi sẽ thấy vừa lạ miệng lại vừa thấy ngon không thể cưỡng lại thêm được nữa. Sẽ tuyệt vời hơn nếu du khách ăn kèm với rau sống: Rau húng quế, dưa chuột, rau kinh giới hay rau tía tô, chắc chắn sẽ khiến du khách không hề thất vọng.
Hấp dẫn không chỉ bởi những món ăn dân dã, gần gũi với đời sống con người hàng ngày mà bún đậu mắm tôm còn hấp dẫn du khách bởi cách trình bày đơn giản, nhìn thích mắt. Những lá bún ép cắt thành từng miếng xếp đều lên trên một cái mẹt được lót bằng lá chuối xanh. Kết hợp với đậu rán giòn, vàng đều và một chút lòng lợn, dồi và thịt heo kèm với ít rau sống. Và tất nhiên không thể thiếu bát mắm tôm điểm chút chanh và ớt cay thơm lừng thật khiến du khách khó cưỡng lại được.
Chính vì sức hút ấy mà khó có món ăn nào có thể sánh bằng. Từ đó mà du khách đến Hà Nội đều không quên ghé vào quán ăn để thưởng thức món Bún đậu Mắm Tôm – đặc sản của Hà Nội.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Thuyết Minh Về Hoa Đào 🌟 15 Bài Về Cây Đào Hay Nhất
Thuyết Minh Về Cách Làm Một Món Ăn Bánh Xèo – Mẫu 21
Một trong những món ăn quen thuộc ở khắp các miền quê chính là món bánh xèo dân dã. Tìm hiểu những thông tin thú vị về món ăn này với bài văn thuyết minh về cách làm một món ăn bánh xèo sau đây:
Bánh xèo có từ rất lâu, không biết nó xuất xứ từ đâu, nhưng bánh xèo hiện nay có mặc ở rất nhiều nơi trên đất nước và ở thế giới nữa. Bánh xèo là một món ăn dân dã, bình dị nhưng bánh xèo nó mang một cái gì đó rất riêng cho dân tộc ta.
Bánh xèo thường hay được mọi người làm bán vào mùa mưa, có lẽ nó ăn rất ấm bụng nên mọi ngoài rất thích. Bánh xèo có nhiều vùng làm khác nhau. Ở miền tây thì bánh xèo được làm rất to, miền trung thì vừa và miền bắc thì hơi nhỏ một tí. Mỗi nơi chọn nguyên liệu giống nhau đều là bột gạo nhưng nhân và gia vị thì khác nhau. Gia vị nó tượng trưng cho mỗi vùng miền. Nhưng có vùng thì làm bằng tôm thịt bò, thịt heo nạc… có vùng thì làm nấm và giá công với một tí thịt rất ngon.
Ở mỗi vùng với mỗi gia vị nó tượng trưng tính vùng miền và thể hiện được những nét đặc sắc văn hóa của họ. Phải chăng đó là cái sở thích của mỗi vùng không phải mà nó chính là nền văn hóa lịch sử của họ.
Để làm được một chiếc bánh xèo không phải đơn giản tí nào, đó là cả một nghệ thuật. Cách gia bột, trộn bột rất quan trọng nó có thể làm bánh ngon hay dở thế nào đều phụ thuộc vào nó. Ta có thể dùng thêm các nguyên liệu khác như nước cốt dừa để lấy khuấy bột. Nước dừa này dùng để pha bột nhằm làm tăng độ béo cho bánh. Ta cho khoảng 1 lít nước ấm vào 0,5 kg dừa khô đã nạo, nhào trộn và vắt, lược lấy phần nước cốt để riêng, sau đó cho thêm nước vào phần xác dừa, tiếp tục vắt lấy nước nhì và nước ba.
Bước tiếp theo ta khuấy đều bột gạo với một ít nước ấm và tất cả nước dừa ở trên, cho thêm hành lá cắt nhuyễn và bột nghệ để tạo màu vàng đặc trưng cho bánh. Bổ sung thêm gia vị như muối, đường, bột ngọt. Cũng có thể cho thêm trứng gà đã đánh nhuyễn vào bột để bánh giòn và nở hơn hay bổ sung bột mì để tăng độ giòn của bánh. Nhưng tùy theo sở thích của mỗi người. tôm bóc vỏ để ráo, thịt thái mỏng và ướt gia vị. Sau đó ta sào sơ qua cho thịt và tôm săn lại, vừa chín tới. bên cạnh đó ta có thể cho thêm giá, nấm rửa để ráo. Tí khi làm bánh, ta cho cho vào lên trên bột.
Ăn kèm với bánh gồm có rau sống và nước chấm. Hai món ăn kèm này cũng phải chuẩn bị chu đáo qua việc sơ chế nó. Nước chấm thì ta cho tỏi tươi và ớt được bằm thật nhuyễn, cho vào nước ấm. Thêm đường, nước chanh (hay giấm) và khuấy đều, sau đó cho từ từ nước mắm vào, nêm nếm vừa ăn.
Nước chấm ngon cho bánh xèo phải có vị mặn vừa phải của nước mắm hài hòa với vị chua của chanh và vị ngọt của đường. Rau sống gồm có nhiều loại và tùy sở thích của từng người, mà ta nên chọn các loại rau sau: xà lách, rau thơm, diếp cá, cải xanh, lá lốt, đọt bằng lăng, đọt xoài, sôi nhái. Rau phải được rửa sạch, để ráo và xếp ra mâm. Rau nên ngâm trong nước có muối với nồng độ loãng và ngâm trong thời gian ngắn khoảng 3-5 phút để hạn chế các nguy cơ vi sinh vật.
Cách đổ cũng không khó. Ta chỉ cần bắt chảo nóng, cho dầu vào sôi lên ta cho bột vào vào cho nhân cộng với ít giá và nấm vào úp vung lại để khoảng 2 3 phút ta lấy ra và làm tiếp cá khác. Nếu muốn bánh giòn hơn thì ta để khoảng 5 phút và lấy ra. Cái quan trọng để có chiếc bánh xèo ngon đó là nguyên liệu và cách pha bột. Một cái bánh xèo cung cấp năng lượng trung bình khoảng 300-350 kcal với sự có mặt đầy đủ các thành phần dinh dưỡng khác nhau từ nguyên liệu chế biến (tinh bột, đạm, chất béo).
Bánh xèo rất hấp dẫn thực khách bởi cách ăn của nó. Ăn bánh xèo đúng điệu phải là phải dùng tay để gói. Trải những chiếc lá non lên bàn tay, bỏ vào một chút bánh kèm nhân, cuộn lại chấm nước mắm chanh, tỏi, ớt… cứ nhẩn nha nhai mà tận hưởng cái mùi vị của cây trái vườn nhà. Bánh xèo Nam bộ được ăn với gần 20 loại rau khác nhau. Nhìn chung các loại rau ăn với bánh xèo tương đối giàu carotene, vitamin C, muối khoáng, có loại rau còn chứa một số vị thuốc tốt cho cơ thể. Ăn bữa bánh xèo thơm ngon không những được thưởng thức hương vị ngon, tươi của các loại rau, mà còn tạo điều kiện cho cơ thể tiếp nhận các chất dinh dưỡng qua các loại rau đó.
Vượt ra khỏi biên giới quốc gia, bánh xèo đã được mang đi giới thiệu ở rất nhiều nơi trên thế giới và đã được ưa thích. Trong các buổi tổ chức giới thiệu văn hóa Việt Nam ở Mỹ và các quốc gia khác trên thế giới, bánh xèo Nam bộ là một trong những món ăn gây nhiều ấn tượng với thực khách. Bánh xèo Nam bộ được chế biến từ bột gạo, nước cốt dừa, tôm, thịt… đặc biệt hấp dẫn thực khách bằng cách thêm giá, củ sắn, bông điên điển, bông thiên lý hay bông so đũa… làm nhân bánh.
Ăn bữa bánh xèo thơm ngon không những bạn được thưởng thức hương vị ngon, tươi của các loại rau, mà còn tạo điều kiện cho cơ thể có khả năng tiếp nhận các vị thuốc tốt qua các loại rau đó. Kim thất thì thơm như tía tô, có nhiều tinh dầu, bổ máu; cát lồi giúp những người suy thận phục hồi chức năng; đọt vông giúp an thần, dễ ngủ…
Có mặt trong các loại rau ăn với bánh xèo còn có lá lốt có tác dụng giảm đau, đầy hơi, khó tiêu, trị nôn mửa… Rau diếp cá lại có tác dụng kháng khuẩn, điều trị mụn nhọt và thông đường tiểu tiện hoặc dùng cho phụ nữ kinh nguyệt không đều. Nghệ là thuốc thông mật, điều trị viêm gan, giảm viêm khớp và còn dùng để sản xuất thuốc làm hạ tỷ lệ cholesterol trong máu, điều trị viêm loét dạ dày…
Giá đậu xanh trong nhân bánh có nhiều chất dinh dưỡng như vitamin C và E, lượng calo thấp, dùng tốt cho người bị viêm thanh quản mất tiếng, mỏi cơ, người béo phì…. Hành tây cắt thành khoanh mỏng vừa tăng hương vị thơm ngon cho nhân bánh, vừa có tác dụng kích thích tiêu hóa, điều trị nhu động ruột kém, hoặc còn có tác dụng điều trị xơ mỡ động mạch và viêm họng…
Vượt ra khỏi biên giới quốc gia, bánh xèo đã được mang đi giới thiệu ở rất nhiều nơi trên thế giới và đã được rất nhiều người ưa thích không chỉ ở mùi vị đặc trưng của bánh mà còn giá trị dinh dưỡng cao ở những cái bánh xèo nóng hổi.
Cùng với văn mẫu thuyết minh về cách làm một món ăn, tham khảo 💕 Thuyết Minh Về Món Bánh Xèo 💕 những bài văn hay nhất
Thuyết Minh Về Cách Làm Một Món Ăn Trứng Rán – Mẫu 22
Trong những bữa ăn hằng ngày thì những món ăn được chế biến từ trứng là đơn giản và dễ thực hiện hơn cả. Tham khảo bài văn thuyết minh về cách làm một món ăn trứng rán dưới đây:
Trong bữa cơm của mỗi gia đình Việt Nam, ta vẫn thường thấy có đủ ba loại món ăn là: canh, mặn, xào. Người Việt Nam chú trọng bữa cơm của gia đình mình và luôn chăm chút cho từng bữa ăn dinh dưỡng. Một trong những món ăn phổ biến nhất trong mọi căn bếp của gia đình Việt đó là món trứng rán. Đây là một món vừa dễ làm, vừa dinh dưỡng và vẫn ngon miệng nữa.
Để làm món trứng rán, nguyên liệu cần có tùy theo khẩu phần ăn gồm: trứng gà, hành lá, mùi tây, hành khô, dầu ăn, muối, hạt nêm. Vật liệu để làm được món trứng rán cần có: chảo, có bát. Cách làm khá đơn giản. Đầu tiên, ta sẽ đập trứng vào thành bát, cho trứng sống vào bát và bỏ phần vỏ vào thùng rác. Sau khi đã đập đủ số lượng quả trứng cần ăn rồi, ta sẽ cho muối, hạt nêm, hành lá, mùi tây vào trứng và đánh tan bằng đũa cho đến khi được hỗn hợp đồng nhất.
Tùy theo khẩu vị mà lượng muối, hạt nêm, hành lá, mùi tây có những định lượng khác nhau. Trong lúc đó, ta bắc chảo lên bếp, chảo nóng thì cho chút dầu ăn vào, phi một vài nhánh hành khô đã bóc sẵn cho thơm. Sau khi hành phi vàng, thì cho hỗn hợp trong bát vào. Ta đợi cho đến khi mặt trứng chín (1-2 phút) thì chúng ta lật mặt để chiên trứng. Đợi khoảng 1 phút nữa là xong, gắp ra đĩa, trang trí cùng hành ngò nếu thích và thưởng thức. Trứng chiên thường được ăn kèm với cơm trắng.
Tóm lại, món trứng rán là một những món ăn dễ làm, dinh dưỡng và tiện lợi nhất. Nó góp phần làm nên bữa cơm ấm cúng, sum vầy của gia đình Việt Nam.
Tặng bạn 🌹 Thuyết Minh Về Món Trứng Rán, Trứng Chiên 🌹 15 Bài Văn Mẫu Đặc Sắc
Thuyết Minh Về Cách Làm Một Món Ăn Lớp 8 Món Bánh Cuốn – Mẫu 23
Bài văn thuyết minh về cách làm một món ăn lớp 8 món bánh cuốn sẽ mang đến cho các em học sinh những ý tưởng hay để bắt đầu bài viết của mình.
Từ Bắc tới Nam đất nước đâu đâu cũng có lúa gạo, có bánh cuốn, bánh tráng nhưng có lẽ bánh cuốn Thanh Trì của Hà Nội vẫn đặc sắc hơn cả: lá bánh cuốn mỏng tang như một lớp lụa mịn màng. Mỗi lá chỉ cần thoa thêm chút mỡ, rắc chút hành khô phi thơm là nổi vị bát nước chấm thơm vị cà cuống đặc trưng đã làm nên phong vị đặc sắc của bánh cuốn Thanh Trì. Đặc sản của một vùng quê:
“Thanh Trì có bánh cuốn ngon
Cỏ gò Ngũ Nhục có con sông Hồng”
Làng Thanh Trì là một làng vào loại cổ nhất của Thăng Long – Hà Nội. Hàng năm, cứ vào ngày 1 tháng 3 âm lịch, đầu làng Thanh Trì lại mở hội, trong hội có cuộc thi tráng bánh cuốn giữa các thôn trong làng. Trong cuộc thi, mỗi đội phái tráng cả bánh cuốn lá lẫn bánh cuốn nhân.
Ban giám khảo là những cụ cao niên trong làng và đại diện chính quyền địa phương sẽ chấm điểm cho mỗi đội dựa theo quy định: các đội phải làm theo đúng phương pháp cổ truyền, trong một thời gian quy định, đội nào tráng được nhiều bánh, bánh mỏng, dẻo, có sắc trắng mịn cùng nước chấm ngon, trình bày đẹp sẽ đạt giải.
Theo thần tích của địa phương, nhân dân đã tụ họp về đây khai khẩn đất từ thời Hùng Vương, An Quốc, Con trai vua Hùng thứ 18 (là bạn của Sơn Tinh) đã từng dựng dinh thự, dạy dân cày cấy sống giữa vùng ao hồ rộng lớn, hai phần ba dân làng sống bằng nghề làm bánh cuốn. Bánh được làm từ những loại gạo ngon, xay mịn như nước, lá bánh mỏng tang như tờ giấy, được thoa thêm một chút mỡ phi hành cho thơm. Bánh cuốn Thanh Trì bao đời nay đã là niềm tự hào của người dân nơi đây.
“Múc lưng muôi bột dàn đều trên khuôn vai, đậy nắp vung lại. Đợi khi mở nắp vung ra, mặt bánh phồng lên tức là bánh đã chín. Sau lấy que tre sọc ngang, nguyên một tờ gạo mong manh được nhấc ra. Xoa một tý mỡ hành cho bóng bẩy rồi gấp lại…” . Chẳng thế mà những nhà văn như Thạch Lam hay Vũ Bằng đều dành cho bánh cuốn Thanh Trì một sự ưu ái riêng….
Thưởng thức vài lần món bánh cuốn Thanh Trì rồi. anh sẽ thấy nhớ mãi món quà đó và nhớ từ cái dáng người bán hàng đội bánh nhớ đi. nhớ thứ nước chấm, nhớ cái cảm giác bánh trơn trôi nhẹ vào trong cổ…nhớ quá, nhớ khôn nguôi!” (Miếng ngon Hà Nội – Vũ Bằng)
Cho dù ngày hôm nay, các công đoạn làm bánh cuốn đã được cơ hóa thế nhưng trong hội làng, người dân Thanh Trì vẫn phải chế biến theo lối cổ – nghĩa là bội vần được xay từ những chiếc cối đá làm từ đá xanh Thanh Hóa. Và để bánh mỏng tang, trắng mịn thì chậu bột được pha theo một tỷ lệ riêng của mỗi người.
Cũng thật lạ, bánh cuốn Thanh Trì nguyên liệu chẳng có gì cao sang hay pha chế biến cầu kỳ bởi chỉ cỏ bột xay, nhân làm bằng hành hoa tươi chưng với mỡ hay nhân bánh bằng mỡ thăn cùng hành khô chưng lên để có mùi thơm nhưng làm ẩm khách nhớ khôn nguôi khi thưởng thức.
Bánh cuốn Thanh Trì đặc biệt nhất ở chỗ tráng mỏng, hành mỡ thoa vào mướt mặt mà nếm thì thanh nhẹ, sắc trắng của bánh nổi bật lên một cách hiền lành cùng những đốm nhân màu nâu đỏ cua hành phi. Nhìn những thếp bánh mới làm óng ả có thể làm bất cứ ai trông thấy thôi cũng thấy thèm.
Một trong những bí quyết để có được những mẻ bánh ngon là chọn gạo ngon, gạo có ngon thì mặt bánh mới láng mượt, óng ả. Nếu gạo quá dẻo thì bánh nát, còn gạo kém thì bánh sẽ không thơm ngon. Và không thể quên khâu quan trọng là bột. Bột được xay nhuyễn nên mặt bánh cuốn mới được láng bóng, óng ả như cậy. Nếu bột loãng quá bánh sẽ nát, mà đặc quá bánh sẽ dày mình, ăn thô thì đâu được gọi là bánh Thanh Trì.
Thường thì xế chiều, dân Thanh Trì lại nổi lửa tráng bánh. Sở dĩ bánh cuốn tráng từ chiều cho tới đêm bởi bánh tráng xong phải để qua đêm thì mới bay đi mùi nồng của bột. Đến sáng bánh vừa mềm. vừa thơm mát mùi gạo… Người làng Thanh Trì xưa chỉ đội thúng bánh cuốn trên đầu rồi đi rong phố phường. Bây giờ nhiều người làng Thanh Trì vẫn đạp xe đi bán hàng rong Không gì thú vị bằng được thưởng thức đĩa bánh cuốn nóng còn vương sợi trong cái giá lạnh của mùa đông.
Ngắm nhìn bàn tay khéo léo của chị chủ quán đang thoăn thoắt tráng từng chiếc bánh, cuộn nhân lại trong không gian mờ hơi nước từ nồi tráng bánh bay lên giúp những ai đang lạnh giá cũng cảm thấy ấm áp lạ thường. Ở Hà Nội có một cửa hàng nhỏ bán bánh cuốn Thanh Trì mang cả hương vị của riêng của Hà Nội. Dù chỗ ngồi chẳng đủ, người nọ phải đợi người kia nhưng khách hàng đều chấp nhận để được thường thức một suất bánh cuốn đúng như vị Thanh Trì.
Bánh Thanh Trì thơm dịu được chấm với nước chấm được pha rất hài hòa. không quá chua cũng không quá mặn và thêm vài lát chả. Chắc chắn, ai đã thưởng thức một lần thì sẽ không thể quên được mùi vị ngon lành đó. Bánh cuốn nóng nhân thịt được “kế thừa” từ bánh cuốn Thanh Trì mà ra.
Những chiếc bánh cuốn nóng óng mượt vỏ bóng mỏng tang, mỏng như lụa để khoe lớp nhân thịt cùng nấm hương ẩn hiện bên trong. Rồi rau thơm Láng, giò chả Ước Lễ trong một bát nước chấm ngon cũng là để tăng thêm mùi vị cho đĩa bánh cuốn nóng. Ngần đó thức dùng trong món bánh cuốn nóng đã cho ta thấy sự trau chuốt của người bán hàng trong món ăn của mình… Sau đó, bánh được tô điểm thêm bằng hành phi vàng thơm nức và chút ruốc tôm hồng như phấn làm đẹp thêm những chiếc bánh cuốn trắng.
Một đĩa bánh cuốn nóng sẽ có mùi hương của gạo mới, độ dẻo vừa phải cả miếng bánh ăn kèm với lát chả quế ngầy ngậy điểm thêm vài nhánh rau ngò, rau húng thơm. Bánh cuốn ngon không thể thiếu nước chấm, phải pha sao để mà dậy được cái mùi cà cuống lên thì thật là tuyệt vời.
Dù là bánh cuốn nguội Thanh Trì hay bánh cuốn nóng thì cần phải có nước chấm vừa miệng. Pha nước chấm thế nào là bí quyết riêng của mỗi cửa hàng mà họ luôn giữ kín công thức. Chỉ biết rằng, khách tới những cửa hàng bánh cuốn ngon đều mê mẩn thứ nước màu hổ phách thơm dịu đó.
Theo những người bán hàng thì nước chấm bánh cuốn không thiên về vị chua mà cần cân bằng giữa vị mặn của nước mắm và vị ngọt của đường. Chén nước mắm nhỏ xíu xinh xắn, không mặn quá, không chua quá, mà cũng không cay quá. Có lẽ vì bánh cuốn vốn mềm mại, thanh mát nên nước chấm đi cùng cũng dìu dịu như vậy để hài hòa.
Trước đây, người Hà Nội thường ăn bánh cuốn với đậu làng Mơ rán giòn, nhưng giờ đây bánh cuốn thường được ăn với giò chả của vùng Ước Lễ – Hà Tây. Chả quế Ước Lễ vừa ngon, ngọt, thơm mùi quế đặc trưng rất hấp dẫn. Chả quế thơm hương vị quế rừng, hương vị thịt nướng thuở hoang sơ, giò lụa thoáng hương chuối quê đồng nội. Ăn miếng chả quế dậy mùi thơm thịt nướng, hương vị cay hấp dẫn của quế chi, ngọt của mật ong, phảng phất mùi thơm quý phái.
Những chiếc bánh cuốn ngon đặc biệt ở độ nóng, giòn và dai của bánh, ở vị thơm của hành phi, vị mặn – ngọt của nước chấm, và với một chút rau thơm, rau mùi, vài ba miếng chả cùng 1-2 giọt tinh dầu cà cuống vừa thơm vừa cay. Không cao sang, cầu kỳ, bánh cuốn là một món ăn bình dị, thân quen đối với mọi đối tượng thực khách, từ sang trọng cho đến tầng lớp bình dân.
Có thể vì thế mà những người Hà Nội đi xa hay những người từ xa tới với Hà Nội đều có chung một nhận xét rằng: Hà Nội có rất nhiều món ăn ngon và một trong những, món ăn để lại niềm thương, nỗi nhớ đó là bánh cuốn.
Ngoài văn mẫu thuyết minh về cách làm một món ăn, tặng bạn 💧 Thuyết Minh Về Đồ Vật, Đồ Dùng Sinh Hoạt 💧