Thuyết Minh Về Món Ăn Mà Em Yêu Thích [28+ Mẫu Hay]

Thuyết Minh Về Món Ăn Mà Em Yêu Thích ❤️️ 28+ Mẫu Hay ✅ Chia Sẻ Tuyển Tập Văn Mẫu Đặc Sắc Giới Thiệu Về Món Văn Và Hướng Dẫn Cách Làm Cụ Thể.

Dàn Ý Thuyết Minh Về Món Ăn Dân Tộc

Việc lập dàn ý thuyết minh về món ăn dân tộc sẽ giúp các em học sinh nắm được bố cục cơ bản và dễ dàng triển khai bài viết của mình.

  1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần thuyết minh – một món ăn dân tộc.

Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách viết mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân mình.

  1. Thân bài:

a. Khái quát chung

  • Giới thiệu về lịch sử ra đời của món ăn dân tộc: Món ăn được bắt nguồn từ đâu, vào khoảng thời gian nào.
  • Nguyên liệu để làm nên món ăn đó gồm những gì? Món ăn được chế biến trong khoảng bao nhiêu lâu?
  • Những giá trị kinh tế và giá trị văn hóa mà món ăn đó mang lại cho địa phương nói riêng cũng như cho nền ẩm thực Việt Nam nói chung là gì?
  • Đánh giá về thực trạng của món ăn dân tộc đó trên thị trường: Hiện nay, món ăn có được ưa chuộng hay phổ biến hay không?

b. Thuyết minh chi tiết

  • Để làm nên món ăn cần chuẩn bị những gì?
  • Thuyết minh chi tiết về quá trình tạo ra món ăn: gồm những bước nào? Đâu là công đoạn quan trọng nhất?
  • Thưởng thức món ăn như thế nào là ngon nhất?
  • Hương vị của món ăn có gì đặc sắc, nổi bật?

c. Ý nghĩa, ưu điểm mà món ăn mang lại

  • Món ăn dân tộc đó có ý nghĩa như thế nào với người dân địa phương và nền ẩm thực?
  • Chúng ta cần phải làm gì để lưu giữ món ăn đó và làm cho mọi người ngày càng biết đến nó nhiều hơn?
  1. Kết bài: Khái quát lại món ăn dân tộc vừa thuyết minh, đồng thời liên hệ đến bản thân và rút ra bài học chung cho mọi người.

Cách Thuyết Minh Về Món Ăn

Để giúp các em học sinh nắm vững cách thuyết minh về món ăn và định hướng làm bài cụ thể, tham khảo những gợi ý sau đây:

– Giới thiệu về món ăn em

– Nguồn gốc lịch sử

+ Món ăn có từ khi nào?

+ Ý nghĩa của món ăn trong đời sống (Món ăn truyền thống của đất nước, vùng miền hay món ăn dân dã của người Việt Nam,…)

– Nguyên liệu

+ Món ăn được làm từ những nguyên liệu gì?

+ Cần sử dụng các loại gia vị nào?

– Cách chế biến:

+ Chế biến món ăn cần trải qua những công đoạn nào?

+ Trong quá trình chế biến cần lưu ý gì?

– Yêu cầu thành phẩm:

+ Hình thức, hương vị

+ Có thể ăn kèm với đồ ăn nào?

– Khẳng định giá trị của món ăn

– Nêu cảm nghĩ về món ăn đó

SCR.VN tặng bạn 💧 Thuyết Minh Về Món Ăn Dân Tộc Truyền Thống 💧 15 Mẫu Hay

Viết Đoạn Văn Thuyết Minh Về Món Ăn Yêu Thích – Mẫu 1

Để viết đoạn văn thuyết minh về món ăn yêu thích, các em học sinh cần đưa vào những thông tin quan trọng và cơ bản nhất để đảm bảo bài làm đầy đủ nội dung. Tham khảo đoạn văn mẫu giới thiệu món canh chua cá lóc như sau:

Đã tự bao giờ, cụm từ canh chua cá lóc đã đi liền với nhau như vậy. Một món ăn đặc trưng của con người vùng sông nước đồng bằng sông cửu long. Bất kỳ ai cũng có thể nấu một nồi canh chua trong bữa cơm. Nhưng để nấu một món canh chua cá lóc ra hồn và đúng điệu, đòi hỏi nhiều công phu và cả tấm lòng của người nộ trợ trong từng hương vị của món ăn đậm chất Nam bộ này.

Muốn nấu nồi canh chua, người nội trợ phải chuẩn bị từ sáng sớm. Cho dù đã có sẵn hay chưa có nguyên liệu, người ta vẫn phải chọn những thứ tươi nhất. Trời vừa tinh mơ, người nội trợ đã xách giỏ ra chợ để mua những cọng rau còn ướt đẫm sương, để cái vị tươi của bạc hà, của cà chua, đậu bắp vẫn còn giữ lại để món canh chua thêm đậm đà. Còn có thêm giá đỗ, rau muống hoặc rau nhúc và khóm. Và khâu quan trọng nhất của việc chọn nguyên liệu chính là con cá lóc.

Canh chua cá lóc là món ăn đặc trưng của người Nam bộ, dù là ở quê nhà hay đi xa, món canh chua cá lóc vẫn là người bạn thân thiết trong mỗi bữa ăn, là chiếc cầu nối giữa những thành viên trong gia đình. Hơi ấm gia đình chính là khi cả nhà quây quần bên tô canh chua nghi ngút khói, gắp cho nhau từng miếng bạc hà, kể cho nhau nghe những câu chuyện tầm phào trong bữa ăn cho đến khi nồi canh cũng không còn gì để châm thêm. Đó là nét đặc trưng của bữa cơm gia đình ở Nam bộ.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Văn Mẫu Thuyết Minh Về 1 Món Ăn Mà Em Yêu Thích – Mẫu 2

Tìm hiểu về món thịt kho tàu truyền thống của dân tộc với bài văn mẫu thuyết minh về 1 món ăn mà em yêu thích sau đây:

Ngày Tết có vô số những món ăn, bánh kẹo trái cây rất ngon. Đối với những món mặn em rất thích thịt kho tàu đậm đà hương vị miền Nam trong những ngày tết nguyên đán.

Tên gọi thịt kho tàu hay còn gọi là thịt kho hột vịt có nguồn gốc từ Trung Quốc thường được nhiều gia đình miền Nam chế biến trong bữa cơm gia đình, ưu điểm là thịt giữ được lâu dùng trong nhiều ngày.

Nguyên liệu chuẩn bị thực hiện món ăn này rất dễ kiếm, đó là thịt ba rọi, phèn chua, trứng gà hoặc vịt, nước dừa, gia vị cơ bản. Chuẩn bị thịt ba rọi rửa sạch bằng nước có pha muối. Thái thịt từng khúc tầm 4cm, đổ thịt vào nước sôi trụng cho thịt chín, trong nước sôi có pha thêm phèn chua giúp thịt săn chắc hơn, sau khi vớt thịt ra nhớ rửa lại nhiều lần với nước sạch để tẩy đi phèn chua nhé.

Sau khi hoàn thành sơ chế thịt hãy ướp thịt với gia vị như muối, đường, tỏi, hành tím, ớt, nước mắm… chờ trong 15 phút để gia vị ngấm đều vào thịt mới ngon. Trứng vịt cho vào nồi nước luộc chín, bỏ vỏ. Chuẩn bị một cái nồi, cho nồi lên bếp, đổ dầu ăn vào làm nóng, thịt cho vào nồi xào nhẹ, thêm một ít nước màu và nước mắm vào giúp tạo độ mặn mà cho món thịt kho tàu, đợi khi nào nước sôi lên hãy cho nước dừa rồi trộn đều. Lúc này để ngọn lửa vừa và quan sát khi thịt mềm cho trứng vịt vào nồi, vặn nhỏ lửa và đợi trong khoảng 1- 2 tiếng thịt sẽ chín hoàn toàn.

Món thịt kho tàu thường có trong mâm cơm ngày Tết của người miền Nam, với món thịt kho tàu dùng kèm cơm với dưa kiệu ăn nhiều mà không có cảm giác ngán. Thịt kho tàu chắc chắn là món ăn ngon ngày Tết của nhiều gia đình Việt.

Tiếp theo, mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Thuyết Minh Về Món Ăn Ngày Tết 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất

Thuyết Minh Về Món Ăn Em Yêu Thích Đạt Điểm Cao – Mẫu 3

Với yêu cầu thuyết minh về món ăn mà em yêu thích, các em học sinh sẽ có nhiều lựa chọn cho mình. Dưới đây là bài văn mẫu thuyết minh về món ăn em yêu thích đạt điểm cao giới thiệu về món bún riêu cua để bạn đọc cùng tham khảo.

Trong kho tàng quý báu về tinh hoa của dân tộc, thì ẩm thực đóng vai trò quan trọng vào việc góp phần thể hiện bản sắc dân tộc và làm cho các món ăn Việt Nam trở nên phong phú và hấp dẫn hơn.

Ông cha ta có câu : “Có thực mới vực được đạo”. Phải chăng câu tục ngữ này cũng nhắc nhở chúng ta cần tôn trọng bữa ăn về cả hình thức lẫn chất lượng.Vì vậy món ăn rất quan trọng cho cuộc sống. Vì có ăn thì mới có sức khoẻ và có sức khoẻ thì mới làm được mọi việc. Và từ xa xưa, con người đã hiểu được điều đó. Họ đã cố gắng tìm tòi, cải tiến để các món ăn vừa đậm đà màu sắc dân tộc,vừa ngon, vừa bổ lại vừa đẹp mắt.

Những món ăn đặc sắc của Việt Nam thì rất nhiều, nhưng món ăn tôi cảm thấy thích.nhất đó là món Bún riêu cua – một món ăn nổi tiếng của Hà Nội. Cứ mỗi lần gặp người bạn cũ, thì chúng ta thường chiêu đãi nhau món Bún riêu cua.

Vào trời se lạnh, tới một quán bún riêu nhỏ của cô hàng gánh, ngồi quanh nồi nước dùng bốc hơi nghi ngút, so đôi đũa lau đi lau lại và ngửi thấy hương vị đặc trứng của ốc và các phụ gia đã thấy ngon rồi. Cô hàng bún nở nụ cười đon đả mời khách. Tay bốc nắm bún trắng tinh từ lớp lá sen xanh lót dưới. Sợi bún trắng,to trông đến vui mắt. Từng thìa cua giã nhuyễn, đun chín được đơm vào bát thật ngon. Mùi cua thơm phi hành làm ai nấy đi qua cũng muốn dừng chân đứng lại dù có bận rộn đến đâu.

Nhìn nồi nước dùng sôi âm ỉ, liên tục, với màu cà chua đỏ thơm ngon. Cô hàng chan từng muôi một làm cho khách hàng chờ đợi, ước ao, chỉ muốn được thưởng thức món ăn. Thêm vào đó mùi bỗng, mùi hành, mùi ớt chưng quyện vào nhau hấp dẫn vô cùng. Khi ăn từng miếng một mới thấy hết sự đậm đà của món ăn.

Ai là người sành ăn, điểm thêm chút ớt chưng đo đỏ, cay cay và thêm ít dấm bỗng chua vào bát thì mới cảm nhận được thế nào là bún riêu Hà Nội. Bên cạnh là bát rau thơm : xà lách, tía tô, mùi,… thì mới là bát riêu cua hoàn chỉnh. Người ăn húp từng thìa nước mà còn thấy cay đến tận trong miệng, ăn bún riêu mà nóng rát lưỡi và cay chảy nước mắt thì mới thấy ngon, mới nhớ lâu.

Bún riêu cua để lại dư âm cho mọi người ở xa đến thăm Hà Nội và là món quà rất khó quên. Bún riêu có nét riêng của nó, người Hà Nội thích thưởng thức nó trong cái rét ngọt của mùa đông xứ Bắc. Cái thời tiết trái chứng đó hình như càng làm cho bát bún ấm áp, đậm đà hơn. Quả thực, món ăn có cái gì đó làm cho người ta nhớ mãi chẳng phải vì nó là món ăn mà nó còn là sở thích của từng người. Từ ý thích về ăn uống có thể nhận biết được tính cách của từng người. Bún riêu chính là món ăn như vậy.

Mỗi vùng, mỗi miền tự hào về đặc sản riêng của họ. Bánh gai Hải Dương, Bánh dày Quán Gánh, Giò chả Ước Lễ, Dừa Bình Định,… và còn nhiều món ăn khác nữa.Nhưng Bún riêu cua là niềm tự hào của mảnh đất Hà thành.

Bạn có thể không đồng quan điểm như tôi, nhưng bạn cũng nên biết tới Bún riêu Hà Nội. Hãy mời bạn thân của mình cùng thưởng thức món Bún riêu này. Chắc chắn họ sẽ có ấn tượng về nó ngay từ phút đầu.

Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng, Cách Gói, Phương Pháp 🌺 15 Bài Hay

Văn Mẫu Thuyết Minh Về Đồ Ăn Hay Nhất – Mẫu 4

Tham khảo bài văn mẫu thuyết minh về đồ ăn hay nhất giới thiệu về món nem rán với những ý văn đặc sắc và những thông tin thú vị.

Việt Nam được biết đến là đất nước có nền văn hóa ẩm thực khá phong phú. Chúng ta có thể kể tên các món ăn đặc sản của dân tộc như bánh chưng, bánh cốm, phở, bún bò,… và đặc biệt là món nem rán. Đây là món ăn vừa cao quý lại vừa dân dã, bình dị để lại một mùi vị khó phai mờ trong mỗi chúng ta.

Nem rán có nguồn gốc từ Trung Quốc, thuộc nhóm các món Dimsum. Món ăn này đã theo chân những người Hoa khi di cư sang nước ta và được biến đổi thành món ăn phù hợp với khẩu vị người Việt. Nem rán không chỉ phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc mà nó còn góp mặt trong ẩm thực của đất nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Ba Lan và nhiều nước Trung, Nam Mĩ,… với các tên gọi khác nhau như Harumaki, Chungwon, Rouleau de printemps, Sajgonki,…Ở Việt Nam, tùy theo vùng miền mà món ăn này có những tên gọi riêng. Nem rán là cách gọi của người dân miền Bắc, người miền Trung gọi là chả cuốn và chả giò là cách gọi của người dân miền Nam.

Nguyên liệu chế biến món nem rán khá đa dạng nhưng cũng hết sức dễ tìm. Để món ăn đầy đủ các thành phần dinh dưỡng chúng ta cần chuẩn bị thịt băm, trứng gà hoặc trứng vịt, hành tây, hành lá, cà rốt, su hào, giá đỗ, rau mùi, rau thơm, mộc nhĩ, mì hoặc miến,…và một số loại gia vị như mì chính, bột canh, hạt tiêu, nước mắm,…Những gia vị này sẽ giúp món ăn thêm phần đậm đà, hấp dẫn. Một thứ không thể thiếu đó chính là bánh đa nem. Bánh đa nem được làm từ gạo và khi chọn ta cần lựa những lá bánh mềm, dẻo để khi gói không bị vỡ.

Để có được món nem rán thơm phức hoàn hảo, trước hết chúng ta cần sơ chế các nguyên liệu đã chuẩn bị. Chúng ta ngâm nấm và mộc nhĩ cho đến khi chúng nở ra rồi rửa sạch, thái nhỏ. Đồng thời các loại rau củ cũng gọt vỏ, rửa sạch và thái. Mì hoặc miến ngâm nước ấm trong khoảng năm phút rồi cũng cắt thành từng đoạn ngắn. Sau đó, cho tất cả các nguyên liệu vào âu hoặc bát to, đập thêm trứng, nêm thêm gia vị rồi trộn đều.

Số trứng dùng để làm nem không nên quá nhiều vì như thế sẽ khiến nhân nem ướt rất khó cuộn và cũng không nên quá ít vì nem sẽ bị khô. Vì vậy, khi đập trứng ta nên đập lần lượt từng quả để ước lượng lượng trứng phù hợp. Màu cam của những sợi cà rốt, màu trắng của mì, màu xanh của rau, màu vàng của trứng,… tất cả hòa quyện với nhau trông thật hài hòa. Chúng ta sẽ ướp phần nhân nem từ 5 đến 10 phút để các gia vị ngấm đều.

Tiếp theo, chúng ta trải bánh đa nem trên một mặt phẳng rồi cho nhân nem vào cuộn tròn. Bánh đa nem có loại hình tròn, hình vuông, cũng có loại hình chữ nhật, tùy theo sở thích mà mỗi người lại lựa chọn những loại bánh đa nem khác nhau. Nếu muốn bánh đa nem mềm và giòn thì trước khi cuốn nem nên phết lên bánh đa nem một chút nước giấm pha loãng với đường và nước lọc.

Chúng ta nên gấp hai mép bánh đa nem lại để phần nhân nem không bị chảy ra ngoài. Sau đó, đun sôi dầu ăn rồi cho nem vào rán. Khi rán nên để nhỏ lửa và lật qua lật lại để nem được chín vàng đều rồi vớt ra giấy thấm để nó hút bớt dầu mỡ, tránh cảm giác bị ngấy khi thưởng thức.

Nước chấm là thứ không thể thiếu để món nem trở nên đậm đà. Muốn có nước chấm ngon, chúng ta cần chuẩn bị một chút đường, tỏi, giấm, ớt, chanh và nước mắm. Đầu tiên, ta hòa tan đường bằng nước ấm rồi cho thêm tỏi, ớt đã băm nhỏ. Sau đó đổ từ từ giấm và nước mắm vào rồi khuấy đều cho các gia vị ngấm đều. Ta có thể thay giấm bằng chanh hoặc quất. Tùy khẩu vị của mỗi người mà nước chấm có độ mặn ngọt khác nhau.

Cuối cùng, bày nem ra đĩa, trang trí thêm rau sống, cà chua hay dưa chuột thái lát để đĩa nem trông thật đẹp mắt. Những bông hồng được làm từ cà chua, những bông hoa được tỉa từ dưa chuột sẽ khiến món ăn vô cùng hấp dẫn. Nem rán chấm với nước chấm tỏi ớt sẽ mang lại cảm giác rất thú vị. Bánh đa nem vàng giòn cùng nhân nem thơm phức quyện hòa với nhau cùng vị cay cay của ớt, chua chua của giấm, ngòn ngọt của đường sẽ khiến những ai thưởng thức nó không bao giờ có thể quên được mùi vị đặc biệt này.

Nem rán đã trở thành một món ăn phổ biến trên khắp đất nước Việt Nam. Nó không chỉ có mặt trong những bữa cơm bình dị thường nhật mà còn xuất hiện trong mâm cơm thờ cúng tổ tiên. Đây là món ăn mang ý nghĩa trang trọng, cao quý. Ngoài ra nem rán còn dùng để ăn kèm với bún đậu và các món ăn khác. Giữa tiết trời se lạnh như thế này còn gì tuyệt vời hơn khi thưởng thức món em rán nóng hổi. Sự kết hợp các nguyên liệu làm nên nhân nem như mang một ý nghĩa biểu tượng về sự đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của người dân đất Việt.

Nem rán không chỉ là món ăn giàu chất dinh dưỡng mà còn là món ăn góp phần tạo nên nền ẩm thực Việt với những đặc trưng và sự độc đáo riêng biệt. Món ăn này tuy dễ thực hiện nhưng lại đòi hỏi sự kì công và khéo léo nên người chế biến cần có sự tập trung nhất định. Đây còn là một trong những món ăn thu hút khách quốc tế khi đến thăm Việt Nam. Có thể nói, món nem rán nói riêng và ẩm thực Việt nói chung đang ngày càng khẳng định được giá trị trên thế giới.

Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới

Thuyết Minh Về Món Ăn Ngắn Gọn – Mẫu 5

Món bún tôm là đặc sản địa phương của mảnh đất Hải Phòng với vùng biển trù phú. Khám phá về món văn này trong bài văn mẫu thuyết minh về món ăn ngắn gọn dưới đây:

Nhắc tới người Hải Phòng là nhắc tới những món ăn đặc sản của miền biển, những cuộc khám phá đầy ấn tượng trên vùng đất được tạo hóa và con người của nhiều thế hệ vun đắp nên. Đặc biệt nhất là món bún tôm đã trở thành một đặc sản, hấp dẫn thực khách không chỉ bởi hương vị mà còn ở nguyên liệu và bí quyết độc đáo riêng.

Nguyên liệu chính làm nên sức hấp dẫn cho món ăn này chính là những con tôm biển còn tươi nguyên được đưa lên từ Hải Phòng. Sau đó, chúng được bóc bỏ vỏ, xào cùng một chút hành khô cho thật săn. Cùng với tôm là những miếng chả cá vàng ươm, vài miếng chả lá lốt, thêm ít dọc mùng, thì là, rắc thêm một chút hành răm thái nhỏ và mấy lát cà chua.

Bát bún tôm càng thêm đậm đà bởi vị ngọt, ngậy đặc trưng của nước dùng hàng bún, cùng với vị thơm của tôm, của rau và các loại gia vị. Thực khách yêu thích món bún tôm Hải Phòng đã ăn một lần là nhớ mãi đến hương vị ngọt lừ của món ăn độc đáo ấy. Từng sợi bún trắng mềm hòa quyện vào màu đỏ của tôm, cà chua, màu xanh của hành, của dọc mùng và màu vàng của chả cá tạo nên một bức tranh sống động nhiều màu sắc.

Trong khi ăn, thực khách sẽ cảm nhận được vị ngậy của nước dùng, vị thơm của tôm, của chả cá và đặc biệt là mùi hăng hăng không thể thiếu của vài miếng chả lá lốt. Nhưng đặc biệt hơn cả là hương vị của nước me chua thay thế hoàn toàn cho dấm và chanh vốn là những gia vị mà chúng ta đã quen sử dụng. Món bún ăn kèm với một ít rau sống và thêm vào vài miếng ớt khi ăn. Tất cả làm nên một tô bún tôm thật đặc biệt và hấp dẫn.Không biết từ bao giờ, món ăn dân dã, rẻ tiền ấy lại gắn liền với mảnh đất này. Chỉ biết rằng, bất cứ ai đã đến thăm Hải Phòng đều ít nhất một lần nếm thử và bị vị ngon của nó cuốn hút.

Thành phố Hải Phòng với những con đường rợp bóng phượng vĩ, với những hè phố rộng, từ lâu đã trở thành địa điểm kinh doanh lý tưởng của những món ngon đậm chất bình dân. Người dân Hải Phòng đều rất tự hào về đặc sản của đất mình.

Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Bánh Tét, Cách Làm, Phương Pháp 🍀 15 Mẫu Hay Nhất

Thuyết Minh Về Món Ăn Truyền Thống – Mẫu 6

Một trong những món ăn dân tộc không thể không nhắc đến đó là bánh chưng trong mỗi dịp tết đến xuân về. Tham khảo văn mẫu thuyết minh về món ăn truyền thống với những ý văn hay giới thiệu về món bánh chưng.

Bánh chưng là biểu tượng không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền. Từ xa xưa đến nay, mỗi dịp Tết đến xuân về, người người nhà nhà lại chuẩn về những nồi bánh chưng rất to để đón Tết. Bởi trong tâm thức của mỗi người thì bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum vầy, ý nghĩa đoàn viên bình dị nhưng ấm áp.

Người xưa vẫn lưu truyền rằng bánh chưng ngày Tết có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại Việt Nam. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng minh chứng cho sự tròn đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật, vội vã.

Cho dù là ở miền Bắc, Trung hay Nam thì bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhiều nhất, vì ngày Tết mới đúng là ngày thưởng thức bánh chưng ngon và ấm áp nhất.

Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những thứ rất đơn giản và dễ chuẩn bị; kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chủ yếu là nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kĩ để có thể tạo nên món ăn ngon và đậm đà nhất. Về phần nếp thì người ta chọn những hạt tròn lẳn, không bị mốc để khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp.

Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân. Người ta sẽ chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, trộn với tiêu xay, hành băm nhuyễn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong.

Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành để gói. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm sau khi nấu bánh..

Sau khi đã chuẩn bị tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn cúng viếng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần phải có khuôn vuông để gói nhưng nhiều người thì không cần, chỉ cần gấp 4 góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp nếp dày. Chuẩn bị dây để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.

Công đoạn nấu bánh được xem là khâu quan trọng. Thông thường mọi người nấu bánh bằng củi khô, nấu trong một nồi to, đổ đầy nước và nấu trong khoảng từ 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như thế là vì để đảm bảo bánh chín đều và dẻo. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Lúc đó mọi người bắt đầu cảm nhận được không khí Tết đang bao trùm lấy căn nhà. Bánh chưng sau khi chín được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo sự săn chắc cho chiếc bánh khi cắt ra đĩa và có thể để được lâu hơn.

Đối với mâm cơm ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiếu. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người. Trong ngày Tết có rất nhiều nhà lấy bánh chưng làm quà biếu, và đây chính là món quà ý nghĩa tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.

Mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng bốc lên nghi ngút chính là báo hiệu cho sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng là biểu tượng ngày Tết mà không có bất cứ loại bánh nào có thể thay thế được. Vì đây là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam, cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Thuyết Minh Về Cách Làm Một Món Ăn 🌟 23 Bài Văn Hay Nhất

Thuyết Minh Về Món Ăn Ngày Tết – Mẫu 7

Đối với người dân vùng Nam Bộ thì món bánh tét đã trở thành biểu tượng cho dịp tết nguyên đán cổ truyền, chia sẻ cùng bạn đọc những thông tin thú vị về món bánh tét với  bài văn thuyết minh về món ăn ngày tết như sau:

Không khí ngày xuân không thể thiếu rượu, bánh mứt, phong bao lì xì đỏ, cây nêu và bánh chưng xanh. Đối với cư dân vùng đồng bằng Nam bộ, bánh Tét lại là món ăn không thể thiếu trên bàn thờ gia tiên như tấm lòng thành kính của con cháu sau một năm làm lụng vất vả. Ngồi bên bếp lửa hồng, nghe hơi ấm giữa lòng đêm se se chợt nghe bao ký ức tìm về.

Nếu ở miền Bắc trong ngày Tết, giỗ kỵ, các lễ hội cổ truyền có bánh dày, bánh chưng để dâng cúng tổ tiên, thì ở Nam Bộ bánh Tét được liệt ngang hàng, coi như bánh Tổ. Hiện diện như một nét văn hóa của miền Nam, bánh Tét gói ghém trong nó cả một nền văn minh nông nghiệp với gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn… quyện vào nhau thật dẻo mềm, bùi béo giữa màu xanh thẫm và láng mượt của lớp lá chuối mang hương vị tự nhiên của trời đất. Thường được gọi là bánh đòn do có hình trụ dài và tròn đều, cứ mỗi hai đòn bánh lại cột thành một cặp có dây quai để xách, vừa tiện vừa đẹp, lại phù hợp với tập quán vì năm mới phải đủ đôi, chẵn cặp mới hạnh phúc, thịnh vượng.

Tương truyền tên gọi “bánh Tét” có xuất xứ từ hành động nắm đầu dây buộc, khoanh tròn đòn bánh đã lột vỏ, “Tét” từng khoanh một đơm lên đĩa. Cũng có thuyết cho rằng bánh Tét là một biến thể của chiếc bánh chưng ngoài Bắc về nguyên liệu, cách nấu, chỉ khác về hình dáng và sử dụng lá chuối để gói thay vì lá dong. Hay có nơi lại hiểu bánh Tét là một trong những sản phẩm của trồng trọt và chăn nuôi Việt Nam, cái đặc sắc, độc đáo của bánh chủ yếu ở nét khác biệt trong hình khối, màu sắc, hương vị so với các loại xôi đỗ và bánh nếp khác nên cứ mỗi năm tết đến người phương Nam lại gói loại bánh này, gọi là “bánh tết”, lâu dần đọc trại ra thành “bánh Tét”.

Được người Kinh và một số dân tộc thiểu số ở miền Nam và Trung chế biến một cách tài tình, lại tuỳ theo địa phương mà thêm thắt gia vị cho hợp khẩu nên đòn bánh Tét phương Nam ngày càng phong phú về chủng loại và hương vị.

Nào là bánh Tét nhân ngọt (không có thịt) nhân đậu xanh có trộn đường; bánh Tét nhân chuối thay cho nhân đậu xanh, đòn nhỏ một trái chuối, còn đòn lớn ba trái chuối xiêm chín có thêm đường để tăng độ ngọt cho nhân, khi chín có màu đỏ tím. Tét khoanh bánh ra trông lạ mắt, màu đỏ tím chính giữa nổi bật bên ngoài màu nếp trắng phau rất đẹp. Nào là bánh Tét thập cẩm với phần nhân cao cấp gồm trứng, tôm khô, lạp xưởng, hạt sen, thịt giò Bắc thảo, đậu phộng, nấm đông cô trộn chung với nhân đậu xanh…

Mỗi lần gói bánh Tét, người ta thường gói chí ít 5 – 7 đòn vừa để dành ăn dần, vừa để biếu hàng xóm láng giềng, bà con thân thích. Hay nhất là cứ sau hăm ba ông Táo chầu Trời cả nhà tự xúm xít lại gói bánh. Trước tiên, xếp lá chuối ngang dọc xen kẽ nhau, sau đó cho gạo nếp, đậu xanh đãi vỏ đã nấu chín lên trên, trải đều ra thành hình chữ nhật, sau đó thêm vào giữa một miếng thịt lợn theo chiều dài đòn bánh. Kế đến cho thêm một lớp đậu xanh và một lớp gạo nếp lên trên cùng rồi bắt đầu lăn cuộn bánh. Gấp một đầu bánh lại và bắt đầu nén gạo cho chặt và buộc dây lạt nữa là hoàn tất.

Để nấu bánh, chọn một cái nồi thật cao để xếp những chiếc bánh vào, cho nước ngập mặt bánh rồi đun trên bếp củi. Cách giờ phải thăm và châm nước thêm. Bánh nấu liên tục trong khoảng từ 10 – 12 tiếng đồng hồ mới chín đều. Vì thời gian nấu lâu nên hạt gạo khi chín sẽ mềm và quyện chặt lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta “đồ”. Lúc này, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới ngon; chỉ thịt nạc, nhân bánh sẽ khô), gạo, đỗ đều chín nhừ, chan hòa, ngấm vào nhau, trở nên thơm ngon độc đáo.

Cùng nhau ngồi quây quần bên nồi bánh Tét đượm ánh lửa hồng, chợt nghe trong lòng lâng lâng bao cảm xúc khó tả về một sự thiêng liêng, sự hòa điệu của thiên nhiên và con người giữa đêm thanh vắng chỉ còn tiếng cười nói, tiếng tí tách của những thanh củi và bao câu chuyện vượt thời gian. Người này canh bánh thì người kia ngủ, trong giấc ngủ mơ màng bạn sẽ được nghe thoang thoảng mùi hương tỏa ra từ những đòn bánh chín đầu tiên của mùa Tết. Tự tay vớt những đòn bánh ra và xếp thành từng dãy trên bể nước, dằn cho bánh được ráo cũng sẽ rất thú vị cho những ai tự nấu bánh Tết cho người thân và gia đình.

Thưởng thức bánh Tét cũng đòi hỏi sự tinh tế và cầu kỳ, tuyệt đối không nên dùng dao để cắt, thay vào đó, người ta bóc vỏ rồi dùng dây buộc bánh để cắt thành từng khoanh mỏng. Bánh được đánh giá là gói khéo khi khoanh bánh tròn đều, buộc chặt, nhân bánh nằm chính giữa. Bên cạnh đó, món bánh Tét chiên giòn cũng ngon tuyệt, không kém phần hấp dẫn với những miếng bánh chiên phồng, vàng ruộm, thơm lừng.

Ngày xưa chỉ đến Tết mới gói bánh, bây giờ bánh Tét, bánh dày, bánh chưng… hiện diện cả năm, cần lúc nào có sẵn ngay lúc đó. Nhưng, dù có mỗi ngày thì đến Tết vẫn cứ phải có bánh Tét. Nam bộ không có hoa, mứt, nồi thịt kho tàu và bánh Tét thì cũng xem như mất đi dư vị Tết. Ấy vậy mới biết, Tết là sự tổng hòa của nhiều yếu tố, văn hóa, ẩm thực, hội hè và chỉ cần có thế thôi không khí Tết đã tồn tài và mang hơi thở ngàn năm đến với mọi người, mọi nhà trong niềm vui sum họp.

Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào

Thuyết Minh Về Một Món Ăn Đặc Sản Của Việt Nam – Mẫu 8

Đón đọc bài văn thuyết minh về một món ăn đặc sản của Việt Nam giới thiệu về món nem chua với hương vị đặc biệt và độc đáo riêng có của vùng đất xứ Thanh.

Nem chua Thanh Hóa là món ăn nổi tiếng, là niềm tự hào của người dân nơi đây. Món này được chế biến hết sức kỳ công, qua nhiều công đoạn kỹ lưỡng, từ khâu chọn nguyên liệu cho tới khi đóng gói sản phẩm…

Thịt để làm nem phải là loại thịt nóng, nghĩa là khi heo vừa mới xẻ thịt thì người thợ làm nem phải thái, xay, chế biến ngay, không để lâu. Bởi nếu thịt nguội, nem sẽ không có độ bóng cũng như sự kết dính trong quá trình lên men.Ngày trước khi chưa có máy xay thịt, người thợ phải giã thịt bằng tay trên những cối đá lớn. Theo kinh nghiệm của những gia đình làm nem truyền thống, thì thịt giã cối đá sẽ có độ giòn, quánh, dính hơn là thịt xay máy.

Bì lợn cũng phải chọn rất kỹ, heo lấy bì phải là heo cạo chín, nghĩa là làm bằng nước sôi. Có như thế lông mới sạch và khi chế biến sẽ đỡ tốn thời gian. Để có những sợi bì trong, ngon, người thợ phải cạo thật sạch tất cả những phần mỡ còn sót lại trên bì, cho tới khi lớp bì mỏng, trắng tinh, trong suốt thì được. Bì càng làm kỹ bao nhiêu thì khi thái chỉ, bì càng giòn và dai bấy nhiêu.

Khi nguyên liệu chính là thịt và bì đã xong, người thợ sẽ trộn hai hỗn hợp này lại với nhau cùng các loại gia vị muối, bột ngọt, đường, nêm thêm chút nước mắm cho thơm. Sau đó mang hỗn hợp thịt trên ra đóng gói. Mỗi một chiếc nem được người gói cho kèm thêm chút tỏi, lá đinh lăng, ớt, những phụ gia này có tác dụng làm cho hương vị nem trở nên ngon hơn, hấp dẫn hơn và cũng là để cân bằng giữa lạnh (nem chua) với nóng (lá đinh lăng, ớt). Lá chuối gói nem phải là lá chuối ngự vừa xanh vừa dầy, bởi trong quá trình vận chuyển và lưu giữ nem vẫn tiếp tục lên men.

Để bảo quản được dài ngày, người thợ thường bọc giấy bóng thêm bên trong nem. Thông thường nem gói sau 3 ngày là chín, có thể dùng được. Bóc lớp lá chuối màu xanh ở ngoài, đã thấy lộ ra màu hồng của thịt, màu trắng của sợi bì, màu đỏ của ớt.

Khi thưởng thức sẽ gặp vị chua thanh của thịt, dai giòn của sợi bì, cay của ớt, thơm của tỏi, chát ngọt của đinh lăng … một hương vị rất riêng mà không phải nem chua nơi nào cũng có như nem chua xứ Thanh. Nem Thanh có vị lạ rất khác với nem chua Hà Nội hay nem lụi ở Huế, lại càng khác xa với nem rán hay nem tai. Nó vừa chua, vừa cay lại có cả vị mặn mà của gia vị, có vị ngọt của thịt làm ta không thể không ăn tiếp vài cái nữa.

Nem chua Thanh Hoá vừa ngon, vừa rẻ nhưng có điều rất lạ và hay là có thể làm đồ nhắm, cũng có khi ăn với cơm. Tiện hơn cả là ở đâu ta cũng có thể nhấm nháp hương vị hấp dẫn của nó. Nghĩ đến nem chua quê mình đầu lưỡi tôi lại cay cay, ngọt ngọt. Khó mà tả được cảm giác sung sướng khi được ăn một vài miếng nem chua ở quê hương mình trong lúc đang ở nơi xa xôi.

Ai đi qua xứ Thanh cũng phải nếm thử hương vị lạ của những chiếc nem xinh xắn. Người dân xứ Thanh vào Nam ra Bắc, dù bận trăm công nghìn việc, dù mang vác nặng nề cũng cố đem vài chục chiếc để cho người nhà hoặc biếu người thân. Ngày lễ Tết hoặc cưới xin, nem chua trở thành món ngon không thể thiếu. Kèm với những cặp bánh chưng xanh, những chiếc giò ngày Tết là những xâu nem chua làm từ chất liệu quê hương mời khách đến chơi nhà.

Nếu có dịp dừng chân nơi miền đất này, mời bạn hãy thưởng thức nem chua xứ Thanh.Vị chua chua, ngọt ngọt đậm đà gia vị tạo nên hương thơm khó quên của món nem chua Thanh Hóa.Nem chua Thanh Hóa nổi tiếng xưa nay khắp một dải đất dài từ Nam ra Bắc. Người Thanh Hóa tự hào với bạn bè nơi nơi vì có một thứ quà không phải nơi nào cũng cứ học là làm được, mà nó được truyền kinh nghiệm từ đời này sang đời khác qua nhiều năm nay.

Mời bạn khám phá thêm 💕 Thuyết Minh Về Phở, Món Phở 💕 15 Bài Văn Mẫu Hay

Thuyết Minh Về Món Ăn Đặc Sản Học Sinh Giỏi – Mẫu 9

Bài văn thuyết minh về món ăn đặc sản học sinh giỏi sẽ mang đến cho bạn đọc những thông tin thú vị về món bánh cuốn Thanh Trì, một trong những đặc sản của mảnh đất kinh kỳ.

Từ Bắc tới Nam đất nước đâu đâu cũng có lúa gạo, có bánh cuốn, bánh tráng nhưng có lẽ bánh cuốn Thanh Trì của Hà Nội vẫn đặc sắc hơn cả: lá bánh cuốn mỏng tang như một lớp lụa mịn màng. Mỗi lá chỉ cần thoa thêm chút mỡ, rắc chút hành khô phi thơm là nổi vị bát nước chấm thơm vị cà cuống đặc trưng đã làm nên phong vị đặc sắc của bánh cuốn Thanh Trì. Đặc sản của một vùng quê:

“Thanh Trì có bánh cuốn ngon
Cỏ gò Ngũ Nhục có con sông Hồng”

Làng Thanh Trì là một làng vào loại cổ nhất của Thăng Long – Hà Nội. Hàng năm, cứ vào ngày 1 tháng 3 âm lịch, đầu làng Thanh Trì lại mở hội, trong hội có cuộc thi tráng bánh cuốn giữa các thôn trong làng. Trong cuộc thi, mỗi đội phái tráng cả bánh cuốn lá lẫn bánh cuốn nhân.

Ban giám khảo là những cụ cao niên trong làng và đại diện chính quyền địa phương sẽ chấm điểm cho mỗi đội dựa theo quy định: các đội phải làm theo đúng phương pháp cổ truyền, trong một thời gian quy định, đội nào tráng được nhiều bánh, bánh mỏng, dẻo, có sắc trắng mịn cùng nước chấm ngon, trình bày đẹp sẽ đạt giải.

Theo thần tích của địa phương, nhân dân đã tụ họp về đây khai khẩn đất từ thời Hùng Vương, An Quốc, Con trai vua Hùng thứ 18 (là bạn của Sơn Tinh) đã từng dựng dinh thự, dạy dân cày cấy sống giữa vùng ao hồ rộng lớn, hai phần ba dân làng sống bằng nghề làm bánh cuốn. Bánh được làm từ những loại gạo ngon, xay mịn như nước, lá bánh mỏng tang như tờ giấy, được thoa thêm một chút mỡ phi hành cho thơm. Bánh cuốn Thanh Trì bao đời nay đã là niềm tự hào của người dân nơi đây.

“Múc lưng muôi bột dàn đều trên khuôn vai, đậy nắp vung lại. Đợi khi mở nắp vung ra, mặt bánh phồng lên tức là bánh đã chín. Sau lấy que tre sọc ngang, nguyên một tờ gạo mong manh được nhấc ra. Xoa một tý mỡ hành cho bóng bẩy rồi gấp lại…” . Chẳng thế mà những nhà văn như Thạch Lam hay Vũ Bằng đều dành cho bánh cuốn Thanh Trì một sự ưu ái riêng….

Thưởng thức vài lần món bánh cuốn Thanh Trì rồi. anh sẽ thấy nhớ mãi món quà đó và nhớ từ cái dáng người bán hàng đội bánh nhớ đi. nhớ thứ nước chấm, nhớ cái cảm giác bánh trơn trôi nhẹ vào trong cổ…nhớ quá, nhớ khôn nguôi!” (Miếng ngon Hà Nội – Vũ Bằng)

Cho dù ngày hôm nay, các công đoạn làm bánh cuốn đã được cơ hóa thế nhưng trong hội làng, người dân Thanh Trì vẫn phải chế biến theo lối cổ – nghĩa là bội vần được xay từ những chiếc cối đá làm từ đá xanh Thanh Hóa. Và để bánh mỏng tang, trắng mịn thì chậu bột được pha theo một tỷ lệ riêng của mỗi người.

Cũng thật lạ, bánh cuốn Thanh Trì nguyên liệu chẳng có gì cao sang hay pha chế biến cầu kỳ bởi chỉ cỏ bột xay, nhân làm bằng hành hoa tươi chưng với mỡ hay nhân bánh bằng mỡ thăn cùng hành khô chưng lên để có mùi thơm nhưng làm ẩm khách nhớ khôn nguôi khi thưởng thức.

Bánh cuốn Thanh Trì đặc biệt nhất ở chỗ tráng mỏng, hành mỡ thoa vào mướt mặt mà nếm thì thanh nhẹ, sắc trắng của bánh nổi bật lên một cách hiền lành cùng những đốm nhân màu nâu đỏ cua hành phi. Nhìn những thếp bánh mới làm óng ả có thể làm bất cứ ai trông thấy thôi cũng thấy thèm.

Một trong những bí quyết để có được những mẻ bánh ngon là chọn gạo ngon, gạo có ngon thì mặt bánh mới láng mượt, óng ả. Nếu gạo quá dẻo thì bánh nát, còn gạo kém thì bánh sẽ không thơm ngon. Và không thể quên khâu quan trọng là bột. Bột được xay nhuyễn nên mặt bánh cuốn mới được láng bóng, óng ả như cậy. Nếu bột loãng quá bánh sẽ nát, mà đặc quá bánh sẽ dày mình, ăn thô thì đâu được gọi là bánh Thanh Trì.

Thường thì xế chiều, dân Thanh Trì lại nổi lửa tráng bánh. Sở dĩ bánh cuốn tráng từ chiều cho tới đêm bởi bánh tráng xong phải để qua đêm thì mới bay đi mùi nồng của bột. Đến sáng bánh vừa mềm. vừa thơm mát mùi gạo… Người làng Thanh Trì xưa chỉ đội thúng bánh cuốn trên đầu rồi đi rong phố phường. Bây giờ nhiều người làng Thanh Trì vẫn đạp xe đi bán hàng rong Không gì thú vị bằng được thưởng thức đĩa bánh cuốn nóng còn vương sợi trong cái giá lạnh của mùa đông.

Ngắm nhìn bàn tay khéo léo của chị chủ quán đang thoăn thoắt tráng từng chiếc bánh, cuộn nhân lại trong không gian mờ hơi nước từ nồi tráng bánh bay lên giúp những ai đang lạnh giá cũng cảm thấy ấm áp lạ thường. Ở Hà Nội có một cửa hàng nhỏ bán bánh cuốn Thanh Trì mang cả hương vị của riêng của Hà Nội. Dù chỗ ngồi chẳng đủ, người nọ phải đợi người kia nhưng khách hàng đều chấp nhận để được thường thức một suất bánh cuốn đúng như vị Thanh Trì.

Bánh Thanh Trì thơm dịu được chấm với nước chấm được pha rất hài hòa. không quá chua cũng không quá mặn và thêm vài lát chả. Chắc chắn, ai đã thưởng thức một lần thì sẽ không thể quên được mùi vị ngon lành đó. Bánh cuốn nóng nhân thịt được “kế thừa” từ bánh cuốn Thanh Trì mà ra.

Những chiếc bánh cuốn nóng óng mượt vỏ bóng mỏng tang, mỏng như lụa để khoe lớp nhân thịt cùng nấm hương ẩn hiện bên trong. Rồi rau thơm Láng, giò chả Ước Lễ trong một bát nước chấm ngon cũng là để tăng thêm mùi vị cho đĩa bánh cuốn nóng. Ngần đó thức dùng trong món bánh cuốn nóng đã cho ta thấy sự trau chuốt của người bán hàng trong món ăn của mình… Sau đó, bánh được tô điểm thêm bằng hành phi vàng thơm nức và chút ruốc tôm hồng như phấn làm đẹp thêm những chiếc bánh cuốn trắng.

Một đĩa bánh cuốn nóng sẽ có mùi hương của gạo mới, độ dẻo vừa phải cả miếng bánh ăn kèm với lát chả quế ngầy ngậy điểm thêm vài nhánh rau ngò, rau húng thơm. Bánh cuốn ngon không thể thiếu nước chấm, phải pha sao để mà dậy được cái mùi cà cuống lên thì thật là tuyệt vời.

Dù là bánh cuốn nguội Thanh Trì hay bánh cuốn nóng thì cần phải có nước chấm vừa miệng. Pha nước chấm thế nào là bí quyết riêng của mỗi cửa hàng mà họ luôn giữ kín công thức. Chỉ biết rằng, khách tới những cửa hàng bánh cuốn ngon đều mê mẩn thứ nước màu hổ phách thơm dịu đó.

Theo những người bán hàng thì nước chấm bánh cuốn không thiên về vị chua mà cần cân bằng giữa vị mặn của nước mắm và vị ngọt của đường. Chén nước mắm nhỏ xíu xinh xắn, không mặn quá, không chua quá, mà cũng không cay quá. Có lẽ vì bánh cuốn vốn mềm mại, thanh mát nên nước chấm đi cùng cũng dìu dịu như vậy để hài hòa.

Trước đây, người Hà Nội thường ăn bánh cuốn với đậu làng Mơ rán giòn, nhưng giờ đây bánh cuốn thường được ăn với giò chả của vùng Ước Lễ – Hà Tây. Chả quế Ước Lễ vừa ngon, ngọt, thơm mùi quế đặc trưng rất hấp dẫn. Chả quế thơm hương vị quế rừng, hương vị thịt nướng thuở hoang sơ, giò lụa thoáng hương chuối quê đồng nội. Ăn miếng chả quế dậy mùi thơm thịt nướng, hương vị cay hấp dẫn của quế chi, ngọt của mật ong, phảng phất mùi thơm quý phái.

Những chiếc bánh cuốn ngon đặc biệt ở độ nóng, giòn và dai của bánh, ở vị thơm của hành phi, vị mặn – ngọt của nước chấm, và với một chút rau thơm, rau mùi, vài ba miếng chả cùng 1-2 giọt tinh dầu cà cuống vừa thơm vừa cay. Không cao sang, cầu kỳ, bánh cuốn là một món ăn bình dị, thân quen đối với mọi đối tượng thực khách, từ sang trọng cho đến tầng lớp bình dân.

Có thể vì thế mà những người Hà Nội đi xa hay những người từ xa tới với Hà Nội đều có chung một nhận xét rằng: Hà Nội có rất nhiều món ăn ngon và một trong những, món ăn để lại niềm thương, nỗi nhớ đó là bánh cuốn.

Tham khảo văn mẫu 💕 Thuyết Minh Về Món Bánh Xèo, Cách Làm Bánh Xèo 💕 những bài văn hay nhất

Thuyết Minh Về Một Món Ăn Trong Bữa Cơm Gia Đình – Mẫu 10

Bài văn thuyết minh về một món ăn trong bữa cơm gia đình sẽ giới thiệu đến bạn đọc một món ăn đơn giản để làm phong phú cho mâm cơm hằng ngày. Tham khảo bài văn giới thiệu món cơm rang thập cẩm dưới đây:

Có rất nhiều món ăn phong phú để người nội trợ làm phong phú cho bữa ăn trong mỗi gia đình. Nhờ vậy, ta có thể thấy các món ăn chính hay phụ tuỳ theo sở thích và khẩu vị mỗi người. Trong đó, cơm rang thập cẩm là một món ăn quen thuộc với mỗi người, giúp ta thay đổi khẩu vị cơm trắng thông thường mà vẫn có đủ thành phần dinh dưỡng cần thiết cho bữa ăn.

Nguyên liệu làm món ăn này rất phong phú, đa dạng, có thể tùy theo sở thích, khẩu vị và khả năng của mỗi người để chọn ra nguyên liệu phù hợp. Các nguyên liệu chủ yếu bao gồm : gạo nấu cơm (500 gam), giò lụa (80 gam), chả quế (80 gam), đậu Hà Lan, một củ khoai tây, nửa củ cà rốt, hai quả trứng gà, một ít dưa chua, nước mắm, dầu ăn. Cần chuẩn bị sao cho lượng nguyên liệu phù hợp với số người ăn, không thừa hay thiếu. Ngoài ra ta có thể chọn thêm một ít rau thơm, một quả cà chua nhỏ, một quả dưa chuột để trang trí cho món ăn thêm phần hấp dẫn.

Cách làm món ăn này không khó nhưng người đầu bếp cần biết điều tiết thời gian làm các bước cho hợp lí. Trước tiên, ta rửa sạch khoai tây, cà rốt và rau, rồi để cho ráo nước. Sau đó, cắt đều khoai tây, cà rốt, giò chả thành những miếng nhỏ,hình hạt lựu. Đặt chảo lên bếp, vặn lửa vừa phải và đổ dầu ăn vào chảo. Đợi mộ tchút cho dầu nóng già thì đổ cơm vào đảo đều. Đảo một lúc cho hạt cơm săn lại thì đập trứng vào.

Tiếp tục đảo đều cho cơm thấm đều trứng. Cho lần lượt khoai tây, cà rốt, giò chả, đậu Hà Lan, dưa chua vào chảo. Tuỳ theo khẩu vị có thể tra thêm nước mắm, mì chính cho vừa miệng. Chú ý cần đảo đều, liên tục để các nguyên liệu phân bố đều. Khi cơm chín, vàng đều, bắc chảo ra, tắt bếp rồi cho cơm ra một đĩa lớn. Trình bày quanh đĩa mấy lát dưa chuột, cà chua và một ít rau thơm để thêm đẹp mắt và ngon miệng cho bữa ăn.

Tuy cách chế biến món ăn này không khó nhưng cần đạt được các yêu cầu thành phẩm sau đây: về màu sắc, khi chín, cơm phải vàng đều và có màu đặc trưng của các nguyên liệu. Về mùi vị, độ mặn vừa ăn, có mùi thơm của trứng và các nguyên liệu khác.

Cơm rang thập cẩm không khó làm và không tốn quá nhiều thời gian chế biến. Chỉ cần có một chút cẩn thận trong khâu nguyên liệu là có thể tạo nên cho bữa ăn gia đình với một hương vị mới. Nó còn giúp người nội trợ tiết’ kiệm được các nguyên liệu thừa để làm phong phú thêm cho món ăn. Hi vọng, món ăn này sỗ góp phần làm cho bữa ăn gia đình mọi người thêm phần bổ dưỡng và ấm cúng.

SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free

Thuyết Minh Về Món Ăn Dân Tộc Bánh Chưng – Mẫu 11

Bánh chưng là một trong những món ăn lâu đời không thể thiếu trong ẩm thực truyền thống của người Việt. Dưới đây là bài văn thuyết minh về món ăn dân tộc bánh chưng để bạn đọc khám phá nhiều hơn về món ăn cổ truyền này.

Trong những ngày xuân đến rộn ràng, lòng người náo nức mừng dịp Tết Nguyên Đán, chúng ta lại nghĩ đến những món ăn đậm đà bản sắc dân tộc. Và bánh chưng là một món ăn không thể thiếu trong số đó.

Bánh chưng từ lâu đã là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Tương truyền rằng vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, nhà vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu xuân, vua Hùng họp các hoàng tử lại và yêu cầu các hoàng tử đêm dâng lên vua cha thứ mà họ cho là quí nhất để cúng lên bàn thờ tổ tiên nhân ngày đầu xuân. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hi vọng mình được vua cha truyền ngôi.

Trong khi đó, người con trai thứ mười tám của Hùng Vương là Lang Liêu có tính tình hiền hậu, sống gần gũi với người nông dân lao động nghèo khổ nên ông lo lắng không có gì quí giá để dâng lên vua cha. Một hôm, Lang Liêu nằm mộng thấy có vị thần đến chì bảo cho cách làm một loại bánh từ lúa gạo và những thức có sẵn gần gũi với đời sống hàng ngày. Tỉnh dậy, ông vô cùng mừng rỡ làm theo cách chỉ dạy của thần.

Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ, đủ cả sơn hào hải vị, nem công chả phượng. Hoàng tử Lang Liêu thì chỉ có hai loại bánh được làm theo lời mộng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ bèn hỏi, thì được Lang Liêu đem chuyện thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của bánh. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn đạt tên cho bánh là bánh chưng và bánh dày rồi truyền ngôi vua lại cho Lang Liêu.

Cách thức làm bánh rất đơn giản. Cũng theo truyền thuyết kể lại thì cách làm bánh ngày nay không khác so với lời báo mộng của thần cho Lang Liêu cũng như cách làm bánh của vị lang nặng tình với nhân dân là mấy. Nguyên liệu làm bánh bao gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong. Những nguyên liệu ấy vừa dễ kiếm lại vừa giàu ý nghĩa: vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Gạo nếp thường dùng là gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này có hạt to, tròn, đều và thơm dẻo hơn các vụ khác. Cầu kì hơn còn có gia đình phải chọn bằng được nếp cái hoa vàng hay nếp nương.

Đỗ xanh thường được lựa chọn công phu. Sau thu hoạch đỗ cần phơi nắng đều thật khô, sàng sẩy hết rác, bụi, hạt lép, phân loại hạt rồi đóng vào hũ, lọ bằng sành là tốt nhất. Thịt lợn nên chọn lợn ỉn được nuôi hoàn toàn bằng phương pháp thủ công (nuôi chuồng hoặc nuôi thả, thức ăn bằng cám rau tự nhiên không dùng thuốc tăng trọng hoặc thức ăn gia súc).

Khi chọn thịt thì lấy thịt ba chỉ (ba dọi) vừa có mỡ vừa có nạc khiến nhân bánh có vị béo đậm đà, không khô bã. Ngoài ra còn cần các gia vị như hạt tiêu, hành củ dùng để ướp thịt làm nhân; muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Đặc biệt thịt ướp không nên dùng nước mắm vì bánh sẽ chóng bị ôi, thiu.

Lá để gói bánh thường là lá cây dong tươi. Lá dong chọn lá dong rừng bánh tẻ, to bản, đều nhau, không bị rách, màu xanh mướt. Tuy nhiên, tùy theo địa phương, dân tộc, điều kiện và hoàn cảnh, lá gói bánh có thể là lá chít hoặc vừa là lá dong vừa là lá chít. Lạt buộc bánh chưng thường dùng lạt giang được làm từ ống cây giang. Lạt có thể được ngâm nước muối hay hấp cho mềm trước khi gói.

Trước khi làm bánh cần có sự chuẩn bị sơ chế nguyên liệu kĩ lưỡng. Lá dong phải rửa từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Tiếp đó dùng dao bài cắt lột bỏ bớt cuộng dọc sống lưng lá để lá bớt cứng. Gạo nếp nhặt loại bỏ hết những hạt gạo khác lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo ngập trong nước cùng 0,3% muối trong thời gian khoảng 12-14 giờ tùy loại gạo và tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì ngâm nước muối.

Đỗ xanh làm dập vỡ thành các mảnh nhỏ, ngâm nước ấm 40° trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo. Thịt lợn đem rủa để ráo, cắt thịt thành từng miếng cỡ từ 2.5 cm đến 3 cm sau đó ướp với hành tím xắt mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt để khoảng hai giờ cho thịt ngấm. Khi làm bánh, trước hết phải xếp lạt giang một cách hợp lí rồi trải lá dong, lá chít trước. Sau đó mới trải một lớp gạo rồi đến một lớp đỗ, đặt thịt vào giữa làm nhân rồi lại trải tiếp một lớp đỗ, một lớp gạo. Sau khi quấn lá chặt lại thì dùng lạt giang buộc chắc chắn.

Theo quan niệm phổ biến hiện nay, cùng với bánh giầy, bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa: bánh chưng màu xanh lá cây, hình vuông tượng trưng cho Đất, bánh dầy tượng trưng cho trời. Tuy nhiên, theo một số học giả nổi tiếng, bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tét, đồng thời bánh chưng và bánh giầy tương trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam. Bánh tét, thay thế vị trí của bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng đồng người Việt ở miền nam Việt Nam, cũng theo những học giả trên là dạng nguyên thủy của bánh chưng.

Bánh thường được làm vào các dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 Âm lịch. Thiếu bánh chưng, bánh dầy ắt không thành cái Tết hoàn chỉnh: “Thịt mỡ bánh chưng xanh, dưa hành câu đối đỏ”. Hơn thế, gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt mỗi dịp tết đến xuân về.

Là loại bánh có lịch sử lâu đời nhất trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người Việt. Sự ra đời và tục lệ làm bánh chưng ngày Tết, ngày giỗ Tổ muốn nhắc nhở con cháu về truyền thống của dân tộc đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước. Theo thời gian, nền văn minh công nghiệp đang dần được hình thành song ý nghĩa và vai trò của bánh chưng thì vẫn còn nguyên vẹn.

Gợi ý cho bạn 🌹 Thuyết Minh Về Món Trứng Rán, Trứng Chiên 🌹 15 Bài Văn Mẫu Đặc Sắc

Thuyết Minh Về Món Ăn Bún Bò Huế – Mẫu 12

Vùng đất cố đô Huế nổi tiếng với văn hoá ẩm thực cung đình đậm đà dư vị. Tham khảo bài văn thuyết minh về món ăn bún bò Huế – một trong những đặc sản nổi bật của người Huế xưa và nay.

Bún bò Huế được yêu thích bởi hình thức bắt mắt và hương vị đậm đà khó quên. Bởi vậy, xứ Huế thu hút du khách không chỉ ở vẻ đẹp của sông Hương, núi Ngự,… mà còn ở món bún bò đặc sản đất cố đô.

Điểm tạo nên sự khác biệt của bún bò Huế chính là sợi bún to, lát thịt bò mỏng mà to bản, nước lèo có màu đỏ cam với vị cay nồng hấp dẫn. Để nấu món đặc sản đất Huế này, người đứng bếp cần thực sự tỉ mỉ từ khâu chọn nguyên liệu tới các bước chế biến.

Bún bò Huế xưa ra đời từ thời chúa Nguyễn Hoàng (khoảng thế kỷ thứ 16). Tương truyền, xưa có cô Bún xinh đẹp, giỏi giang, thạo nghề làm bún. Tại làng Vân Cù (nay thuộc thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế), cô Bún đã sáng tạo ra cách chế biến một món ăn mới: Lấy thịt bò nấu thành nước dùng cho món bún. Từ đó, món bún bò ra đời, được lưu giữ và phát triển qua nhiều thế hệ. Đến nay, bún bò Huế đã được cải biên với sự có mặt của nhiều nguyên liệu khác như giò heo, tiết lợn, chả cua,…

Bún bò Huế có nhiều điểm khác biệt so với món bún bò của những địa phương khác. Món ăn này nổi tiếng đến mức gần như ai đã đi du lịch Huế cũng phải thưởng thức ít nhất một lần. Bún bò Huế có những gì? Một tô bún bò chuẩn vị Huế sẽ gồm sợi bún, thịt bò, tiết heo, chả cua và nước dùng. Nguyên liệu làm bún là bột gạo pha với bột lọc theo tỷ lệ chuẩn để sợi bún có độ dai vừa phải. Thịt bò được chọn là phần bắp chân trước, nạm bò hoặc bắp hoa màu đỏ tươi, mỡ bò màu vàng nhạt. Chả cua màu vàng cam bắt mắt được làm từ gạch và thịt cua xay nhuyễn với vị béo, bùi tự nhiên.

“Linh hồn” của món bún bò xứ Huế chính là nước dùng. Nước dùng được ninh từ xương ống bò nên có vị ngọt đậm đà. Ngoài ra, người ta còn thêm vào nước dùng chút mắm ruốc và sả để dậy mùi thơm nồng hấp dẫn.

Một tô bún bò Huế ngon, chuẩn vị đất cố đô phải có hương thơm hấp dẫn. Tô bún có sắc cam của dầu điều, sắc nâu của thịt bò, tiết lợn và sắc xanh của hành, mùi, thêm chút giá đỗ thanh mát. Món bún với đủ vị cay, ngọt, bùi đã thực sự làm “xiêu lòng” thực khách.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Thuyết Minh Về Đồ Dùng Trong Gia Đình 🌟 18 Bài Mẫu Hay

Thuyết Minh Về Món Ăn Bánh Xèo – Mẫu 13

Bài văn thuyết minh về món ăn bánh xèo sẽ giúp bạn đọc khám phá thêm một món ăn dân dã phổ biến ở nhiều vùng quê.

Trong các món bánh mặn của Nam bộ, bánh xèo là món phổ biến, được người ăn ưa thích nhất.

Ăn bánh xèo có đông người mới vui vì khi làm bánh phải qua nhiều công đoạn nên cần nhiều người. Người ta phân công nhau bằng những câu vè vui vẻ như: “Người nào xấu xấu xay bột, lật hành. Người nào lanh lanh băm nhân, dò bánh…”

Muốn cho bánh ngon phải chịu khó, chịu cực một chút. Bột bánh là phần quan trọng nhất, bánh có ngon hay không là ở khâu này. Dân nông thôn không chịu loại bột gạo bịch sẵn, bày bán ở chợ vì đó là gạo dơ ngâm nước cho bã ra nhiều nước rồi gạn lấy bột nên chất bột bị chua và lạt, không còn bổ dưỡng, thơm ngon.

Muốn cho bột bánh xèo ngon phải là loại gạo thơm, gạo mới, ngâm trong một buổi hoặc một đêm rồi đem xay nhuyễn. Ngày nay có bột bánh xèo pha chế sẵn cũng tiện dụng nhưng phải trộn thêm theo công thức, một bịch bột bánh xèo pha thêm một bịch bột chiên giòn hoặc bột bắp và nước cốt dừa thì bánh mới béo giòn.

Dùng bột gạo tươi thì sau khi lược bột xong, pha thêm một bịch bột chiên giòn, nước cốt dừa, đường, muối sao cho độ béo ngọt theo khẩu vị người ăn, bỏ thêm hành lá xắt nhỏ, bột nghệ, trứng gà đánh nhuyễn. Người Nam bộ rất thích nước cốt dừa nên pha đậm đặc càng ngon (mà vị béo của nước cốt dừa không có vị béo nào sánh kịp), bánh khi chín có nước cốt dừa rất dễ lấy ra.

Nhân bánh muốn ngon phải có nấm rơm, nấm hương, nấm kim chi hay nấm đông cô, tôm hoặc tép, thịt gà hay thịt vịt băm nhuyễn, giá sống và củ sắn, có người còn bỏ cá cơm dừa xắt sợi, hoặc đậu xanh nấu chín, nhưng hai loại này làm cho dễ ngán không ăn được nhiều. Nấm làm nhân bánh có thể thay đổi theo từng mùa. Mùa nấm rơm thì làm nấm rơm, không có nấm rơm thì hải nấm mèo trên các cây so đũa hoặc mùa mưa thì có bông điên điển…

Rau sống và nước mắm là những thành phần quan trọng làm cho bánh thêm ngon. Rau sống phải có đủ họ tộc như: diếp cá, xà lách, tần ô, húng cây, húng lủi, quế không được thiếu lá cách và cải bẹ xanh (loại cải thân nhỏ). Chén nước mắm nêm nếm cho đủ độ mặn, ngọt, chua, cỏ màu đỏ của ớt, màu vàng của nước mắm, màu xanh của xoài sống bằm nhuyễn và màu đỏ trắng của dưa của cải.

Khi tất cả vật liệu đã sẵn sàng thì người đổ bánh mới bắt đầu nổi lửa. Nếu lượng người ăn đông phải đổ hai chảo mới kịp đãi khách, ở miền quê, các bà nội trợ đổ bánh bằng chảo gang hay chảo bằng vỏ trái bom cắt ra, ở thành phố có loại chảo không dính tương đối tiện lợi. Khi chảo thật nóng thì đổ thử một vài cái xem mùi vị và độ đặc lỏng của bột vừa hay chưa, sau đó mới đổ thật sự.

Lấy miếng mỡ heo cắt hình vuông khoảng 3 cm đảo qua chảo một lượt, bỏ tép hoặc tôm và thịt ba rọi xắt sợi nhỏ vào cháo, đảo cho đỏ lên hồng lên, tiếp đó đổ một vá hột lên chảo nghe xèo xèo rồi tráng đều cho tròn cái bánh mới khéo, lần lượt bỏ nấm, thịt gà, giá, củ sắn và đậy nắp lại. Hai phút sau, giở nắp ra, tiếp tục “dần trên lửa “ Bánh chín có màu vàng như mặt trăng rằm. Trên đó, màu đỏ của tôm, màu xanh của hành, màu nâu hoặc trắng của nấm. mùi thơm dậy của nước dừa và hột gà khiến cho chiếc bánh hấp dẫn đặc biệt. Bánh được xếp lại theo hình rẻ quạt, nóng hôi hổi trên chiếc mâm lót lá chuối hay trên chiếc đĩa sứ trắng ngà.

Ăn bánh xèo nên dùng tay, không cần đũa nĩa gì cả. Dùng tay để cuốn bánh cho gọn và cảm nhận được độ nóng ấm của bánh mới thấy ngon miệng. Ăn bánh nên uống với nước trà nóng hoặc với bia, rượu mới tiêu được mỡ dầu. Vừa ăn vừa đàm đạo chuyện trò, lúc đói bụng có người dám ăn cả chục bánh, có người ăn trừ cơm cả ngày.

Ở Huế cũng có loại bánh tương tự nhưng bánh nhỏ hơn, độ giòn và vị béo kém hơn, có lẽ họ không thích nước cốt dừa như người Nam bộ. Thành phố Hồ Chí Minh có những con đường bày bán bánh xèo sát ngay đại lộ. Một vài địa điểm có tiếng như bánh xèo A Phủ, Đinh Công Tráng với giá từ hai chục ngàn đồng đến ba, bốn chục ngàn đồng một bánh nhưng bánh của các nơi này dùng quá nhiều thịt, mỡ nên ăn không được nhiều.

Màu sắc đẹp, mùi vị hấp dẫn, chất dinh dưỡng cao, bánh xèo là món bánh độc đáo, đậm đà hương vị Nam bộ.

Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone

Thuyết Minh Về Món Ăn Thịt Kho Tàu – Mẫu 14

Đón đọc bài văn thuyết minh về món ăn thịt kho tàu mang đến cho bạn đọc những thông tin và kiến thức thú vị về ăn hoá ẩm thực truyền thống của dân tộc ta.

Thịt kho tàu đã trở thành một trong những món ăn không thể thiếu trong bữa cơm ngày tết của người miền Tây nói riêng và Nam bộ nói chung. Dường như đã thành thông lệ cứ đến gần tết người dân Nam bộ lại rủ nhau làm món thịt kho tàu để ăn tết như một phần tất yếu.

Ngày nay món ăn bát cơm này còn hiện diện ngay trong bữa ăn hàng ngày của người dân việt. Để hiểu thêm về món ăn này, chúng ta hãy cùng sơ lược qua cách kho thịt của các vùng miền để thấy được nét đặc trưng của món thịt kho tàu miền Nam nhé. Miền Bắc lạnh giá thì gọi là thịt đông, nấu không có nước dừa và trứng luộc. Nhưng miền Nam nắng ấm lại nấu bằng nước dừa với vị béo ngậy. Và miếng thịt heo được cắt vuông vắn, lớn gấp 3 lần miếng thịt kho bình thường.

Nghe qua cái tên của món ăn là thịt kho tàu rất nhiều người sẽ nghĩ đây là món ăn được bắt nguồn từ Trung Hoa, tuy nhiên theo nhiều người Nam bộ xưa kể lại thì chữ “tàu”, ở đây, theo nghĩa của người “miền dưới” là “lạt”, như sông Cái Tàu Thượng, sông Cái Tàu Hạ là hai con sông nước lợ. Như vậy thịt kho tàu không phải là thịt kho của người Trung Hoa, mà chỉ đơn giản là món thịt kho lạt. Cũng có một số giả thuyết khác đặt ra về nguồn gốc của món ăn này tuy nhiên đến nay cũng chưa rõ đâu là giả thuyết đúng nhất.

Miếng thịt mềm rục có cả màu đỏ au của thịt nạc, trong trong của mỡ, nâu nâu của bì hầm nhừ, sóng sánh vàng ươm của nước màu chưng đường, kèm vị bùi của nước dừa xiêm, vị mặn của nước mắm đã được làm thanh đi bằng đường, thi thoảng có thêm vị hắc của chút xì dầu, điểm xuyết thêm mấy hột vịt luộc mà nước thịt ngấm đều từ trong lòng đỏ đến lòng trắng. Tất cả đã làm nên hương vị tuyệt vời của món thịt kho tàu.

Có thể nói thịt kho tàu hiện nay đã trở thành món ăn thường xuyên xuất hiện trong bữa ăn của nhiều người Việt Nam trên cả nước bởi sức hấp dẫn mà món ăn này mang lại. Cách chế biến không quá khó, các bạn hoàn toàn có thể thử qua để mang đến bữa ăn ấm áp cho gia đình mình sau một ngày làm việc mệt mỏi. Thịt kho tàu món ngon khó chối từ và dường như nó đã trở thành một phần văn hóa ẩm thực của người Nam bộ khi đi so sánh với các vùng miền khác trong cả nước.

Hy vọng đây sẽ là lựa chọn hàng đầu của các bạn mỗi khi tự tay nấu món ăn cho gia đình trong mỗi bữa tối. Thịt kho tàu món ngon đúng vị không thể chối từ.

Chia sẻ cùng bạn 🌹 Thuyết Minh Về Một Loài Cây Cối Em Yêu 🌹 15 Mẫu Hay Nhất

Thuyết Minh Về Món Canh Cua – Mẫu 15

Trong bữa cơm của người Việt bao giờ cũng cần có ít nhất một món canh. Tham khảo bài văn thuyết minh về món canh cua với hương vị thanh mát trong nội dung dưới đây:

Từ lâu, món canh cua nấu rau đay đã trở thành món ăn dân dã rất quen thuộc với nhiều gia đình người Việt. Canh cua ra đay ngọt mát, bổ dưỡng, hội tụ vị ngon ngọt của nước thịt cua nấu cùng các loại rau mùa hè như mướp, mồng tơi, rau đay… khiến mọi người ai cũng yêu thích. Cách nấu canh cua rau đay đơn giản, không cầu kì, bất kì ai cũng có thể trổ tài nấu món ăn bổ dưỡng này tại nhà cho người thân cùng thưởng thức.

Theo y học cổ truyền, rau đay là loại rau có vị ngọt, tính hàn, có tác dụng tẩm bổ, giải nhiệt, lợi tiêu hóa, nhuận tràng, lợi tiểu, kháng viêm, cầm máu, lợi sữa và an thai. Đây là thực phẩm rất tốt dành cho bà bầu. Trong khi đó, thịt cua đồng chứa nhiều sắt và canxi, nên cua đồng nấu cùng rau đay sẽ tạo thành món ăn không chỉ thơm ngon, ngọt mát mà còn rất bổ dưỡng. Những ngày hè nóng nực mà cả nhà cùng quây quần giải nhiệt bên bát canh cua rau đay thì còn gì tuyệt vời hơn

Cua đồng mua về ngâm nước khoảng 1 giờ đồng hồ cho ra sạch hết đất, cát bám theo. Chắt sạch nước ngâm, rồi xóc rửa cua với nước thật kĩ từ 3-4 lần cho đến khi cua sạch hết cát bẩn. Sơ chế cua: tách riêng phần mai cua và thân ra, bỏ yếm cua. Phần mai cua có gạch, dùng tăm khều gạch đó để riêng ra 1 cái bát con. Phần thân cho vào cối giã hoặc bỏ vào máy xay nhuyễn. Càng giã nhỏ, xay càng nhuyễn thì nước canh càng ngon.

Sau khi xay nhuyễn, bạn cho phần thịt cua đã xay vào 1 chiếc tô, chế nước, dùng tay bóp nát và khuấy cho đến khi thịt cua tan hết ra nước. Đổ hỗn hợp qua rây để lọc lấy nước cua. Lặp lại thao tác vài lần. Rau đay, mùng tơi rửa sạch, thái nhỏ. Mướp bỏ vỏ, thái miếng chéo dày 1cm. Khi có nước thịt cua đã lọc, bạn cho phần gạch đã khều vào, thêm chút muối vào cho hỗn hợp có vị đậm đà.

Bắc nồi nước cua lên bếp đun, để lửa liu riu. Khi nước cua sôi, dùng đũa hoặc thìa gạt khẽ phần gạch nổi lên sang 1 bên và cho mướp vào trước. Đợi khi nước sôi trở lại cho rau đay và mồng tơi vào. Đợi nước canh sôi trở lại trong 1 phút rồi tắt bếp. Thêm mì chính và nước mắm vào món canh sao cho vừa khẩu vị của gia đình.

Món canh cua rau đay phù hợp với nhiều mùa trong năm, đặc biệt là đầu mùa mưa, khi mà cua đồng phát triển mạnh mẽ. Trong bữa ăn, một bát canh cua ăn cùng cà muối và khịt kho thì còn gì thú vị bằng. Để nấu một món canh thì rất đơn giản, còn có ngon hay không là do cách bạn chế biến. Tùy mỗi vùng miền và sở thích của mỗi người mà ta có cách tăng giảm nguyên liệu khác nhau sao cho phù hợp.

Gửi đến bạn 🍃 Thuyết Minh Về Loài Hoa Ngày Tết 🍃 15 Bài Thuyết Minh Hay Nhất

Thuyết Minh Về Món Trứng Chiên – Mẫu 16

Món trứng chiên đơn giản nhưng ngon miệng và cung cấp nhiều dinh dưỡng đã rất quen thuộc với nhiều gia đình. Dưới đây là bài văn thuyết minh về món trứng chiên để bạn đọc tham khảo:

Bên cạnh cuộc sống tất bật của con người trong xã hội hiện đại, những món ăn ngon và bổ không thể thiếu để tăng cường và bồi bổ sức khoẻ. Đó cũng chính là điều thiết yếu với mỗi con người. Việc biết cách làm một món ăn ngon cũng là một việc vô cùng quan trọng trong đời sống hằng ngày. Và sau đây là cách chế biến một món ăn rất đơn giản, quen thuộc nhưng rất thơm ngon : Trứng rán với thịt mà nhiều người còn gọi là Trứng đúc thịt.

Đây là một món ăn chế biến rất nhanh và hơn nữa là rất dề thưởng thức. Vì vậy,những người có ít thời gian, bận rộn nên chú ý đến món ăn này để đảm bảo đủ dinh dưỡng trong bữa ăn cùng với cách làm đơn giản, giá cả phải chăng.

Để chế biến món ăn này, trước tiên phải có đủ nguyên liệu : trứng gà hoặc vịt (số lượng tương ứng với số người ăn) ; thịt sống băm nhỏ (băm càng nhổ càng tốt, để dễ dàng trộn đều vào trứng, lượng thịt bằng nửa số trứng (chẳng hạn như ba quả trứng,một lạng rưỡi thịt), hành, nước mắm, dầu ăn, nấm hương, mộc nhĩ, hạt tiêu bột. Tất nhiên là cũng phải có những công cụ cần thiết như : chảo rán, bếp ga (hoặc một loại bếp khác), bát to, đĩa để trứng, đũa, chiếc lật để lật trứng.

Thịt băm nhỏ, cho vào bát to, trứng đập vào bát riêng. Hành khô, bóc vỏ, rửa sạch, thái nhỏ.Hành tươi rửa xong thái khúc vừa phải.
Nấm, mộc nhĩ ngâm nước cho nở đều,rửa sạch, xắt nhỏ. Dùng đũa (hoặc có dụng cụ riêng để đánh trứng thì càng tốt) đánh trứng: khoắng trong bát theo vòng tròn, đũa đặt ngang với bát, đánh đều tay và nhanh tay. Đổ thịt vào đánh cùng. Tốt hơn là nên đánh thật kĩ để các nguyên liệu hoà quyện đều, tránh việc trứng và thịt phân bố không đều, mặn nhạt thất thường. Đến khi trứng thật tơi và có cảm giác bông xốp thì có thể dừng lại. Sau đó, đổ hành lá đã rửa sạch, xắt nhỏ cùng mộc nhĩ, nấm hương vào đánh đều.

Đặt chảo lên bếp, lửa bật to. Đổ vàomột ít dầu ăn (mỡ) vào chảo. Đợi 1-2 phút cho dầu sôi (nghĩa là khi cónhững bong bóng nhổ xuất hiện, nổ nhỏ, nhẹ), láng dầu đều khắp mặt chảo. Khi ấy, đổ bát trứng từ từ vào chảo,láng cho trứng thịt rải đều trên mặt chảo theo hình tròn (nên đậy nắp chảo). Đến khi trứng thành hình, kết lại sau khoảng 3-4 phút, dùng lật nhẹ nhàng lật trứng. Đây là bước khá khó, cần khéo tay, nhẹ nhàng lật trứng sao cho trứng trong quá trình lật không vỡ và nát, mất khuôn hình của trứng.

Đợi 3-4 phút nữa để trứng chín cả hai mặt rồi lấy trứng ra đĩa (cố gắng không được để trứng cháy hay sống, trứng phảiđủ chín). Có thể rắc ít lá mùi thơm lên trên. Lúc đó có thể coi như món ăn đã hoàn thành và nên dùng ngay từ khi còn nóng, trứng sẽ rất ngon. Món này thường ăn cùng cơm và một số món phụ khác (nên là luộc hoặc xào).

Quả thực đây là một món ăn không chỉ làm nhanh gọn, tiện lợi mà còn ngon lành và bổ dưỡng. Với những ưu điểm đó, chúng ta tin rằng món ăn này sẽ mãi được mọi người ưa thích.

Giới thiệu tuyển tập 🌼 Thuyết Minh Về Cây Cau 🌼 15 Bài Thuyết Minh Hay Nhất

Bài Văn Thuyết Minh Về Món Ăn Dân Tộc Thái – Mẫu 17

Pà mẳm là một trong số những món ăn đặc sản của người đồng bào Thái, cùng tìm hiểu cụ thể hơn về món ăn này với bài văn thuyết minh về món ăn dân tộc Thái sau đây:

Trong rất nhiều món ăn của đồng bào Thái ở Yên Bái thì Pà Mẳm được coi là một trong những món ăn đặc sản mà đến nay còn rất ít người biết làm và chỉ được dùng trong những dịp gia đình có việc trọng đại hoặc như thiết đãi khách quý.

Pà mẳm gọi theo tiếng của dân tộc Thái có nghĩa là mắm cá. Pà mẳm có nhiều loại nhưng ngon và quý phải kể đến Pà mẳm cá chép. Món ăn này tuy không cầu kỳ nhưng yêu cầu phải đảm bảo những nguyên tắc chế biến riêng.

Cá chép dùng để làm Pà mẳm nhất thiết phải là cá chép ruộng hay cá chép ao. Cá bắt về được thả trong bể từ 3 đến 4 ngày cho nhả hết bùn đất, rồi vớt ra chậu khô đổ rượu ngon cùng muối đã rang chín vào và đậy chặt lại. Quá trình giẫy, một lượng muối, rượu sẽ được đưa vào bụng cá, cứ như thể cho đến khi cá chết. Cá được ớp trong vại với rất nhiều gia vị như: thính gạo nếp, hạt sẻn, ớt tươi băm nhỏ, xả, riềng, quế chi… Tất cả các gia vị này đều phải được xào thơm trước khi đem ướp.

Qua một ngày, người ta chắt nước trong vại ra đun sôi để nguội rồi lại đổ vào vại cá. Công đoạn này được lặp lại hai lần trong các ngày kế tiếp. Sau ba lần như vậy, người ta bịt kín miệng vại, rồi đem chôn sâu ở nơi khô thoáng. Không giống như nhiều loại Pà mẳm khác, sau 3 năm Pà mẳm cá chép mới được đem dùng.

Pà mẳm ngon và được xem là đạt yêu cầu là khi mở ra phải có mùi thơm của thính nếp, gia vị và cá được ướp chín bằng rượu, muối và các gia vị cay nóng nên không còn mùi tanh. Cá phải đảm bảo còn nguyên con, thịt màu hồng tươi và dai như cá mực. Pà mẳm có thể được nướng chín hay dùng sống tuỳ thuộc vào sở thích của từng người, nhưng Pa mẳm được đồng bào ưa dùng sống cùng với các loại rau thơm và gia vị của rừng. Trước đây, đồng bào Thái làm Pà mẳm như một cách dự trữ thức ăn qua năm, nhưng cùng với thời gian món ăn này đã trở thành đặc sản mà người Thái chỉ dùng thiết đãi khách quý và bạn bè thân thích những khi nhà có việc lớn, việc vui.

Hiện nay những người làm được Pà mẳm ngon và đúng cách không còn nhiều. Hương vị đậm đà, thơm ngon của món pà mẳm cá chép không chỉ phụ thuộc vào thời gian một năm hay ba năm hạ thổ mà nó phụ thuộc nhiều vào những bí quyết chế biến rất riêng của đồng bào. Mỗi loại pà mẳm lại được chế biến và sử dụng theo những cách khác nhau. Chẳng hạn như Pà mẳm cá tép lại chỉ dùng để chấm rau, chấm thịt và thời gian cũng không yêu cầu lâu, có thể là một tháng, hai tháng hoặc nhanh là một, hai tuần là dùng được. Ngoài cá chép thì một số loại cá ruộng khác như cá rô phi, cá riếc cũng được đồng bào dùng làm Pà mẳm.

Hiểu được giá trị của món ăn này, hiện nay nhiều gia đình người Thái đang truyền dạy lại cho con cháu. Và nếu đến với bất kỳ một gia đình người Thái nào mà bạn được mời ăn món ăn này thì có nghĩa là bạn đã trở thành khách quý của đồng bào. Đây là cử chỉ đẹp trong văn hoá giao tiếp của Vùng Tây bắc nói chung và người Thái nói riêng.

Khám phá thêm 🌟 Thuyết Minh Về Hoa Đào 🌟 15 Bài Về Cây Đào Hay

Thuyết Minh Về Một Món Ăn Lớp 9 – Mẫu 18

Một trong những món ăn đã làm nên thương hiệu ẩm thực của dải đất miền Trung phải kể đến mỳ Quảng. Đây sẽ là một trong những ý tưởng thú vị để các em học sinh thực hiện bài viết thuyết minh về một món ăn lớp 9.

“Anh về nơi xứ Quảng thăm người em phố Hội.
Sông Thu Bồn con nước lững lờ trôi.
Đường chùa Cầu mưa buồn giăng ngập lối.
Rừng thông xanh mưa thấm ướt bờ môi”

Nhắc đến miền đất Quảng Nam, người ta không chỉ nhớ đến mảnh đất từng một thời anh hùng trong chiến đấu, mảnh đất của bạt ngàn những rừng keo xanh mướt, nhớ đến một Hội An cổ kính rực rỡ đèn lồng, là chỗ dừng chân lý thú của nhiều du khách trong và nước. Mà người ta còn nhớ lắm Quảng Nam với một nền ẩm thực đặc sắc và đậm đà tình cảm giống hệt những con người nơi đây. Nếu như Hà Nội có phở, có cốm, Huế có cơm hến, bún bò, thì Quảng Nam cũng không thua kém với bánh tráng cuốn thịt heo và mì quảng. Trong đó tôi vẫn ấn tượng nhất với vùng đất Đà Nẵng – Quảng Nam ở món mì Quảng này, sợi gần như phở, nhưng hương vị thì quả thực khác xa.

Có thể nói rằng mì Quảng chính là linh hồn của ẩm thực xứ Quảng, người ta đến với vùng đất này thì khó có thể bỏ qua một món ăn có nhiều thanh sắc vị, lại rất bình dân thân thiện này được. Không ai biết được rằng mì Quảng đã bắt đầu trở thành một món ăn hấp dẫn và bầu bạn với những người con miền Trung từ thuở nào, chỉ có một số tài liệu còn chép lại thì có mì Quảng bắt nguồn từ sự giao thoa văn hóa Việt – Trung.

Trung Quốc vốn là một đất nước có nền ẩm thực phong phú, đặc biệt là với các nguyên liệu từ lúa gạo người ta có thể biến tấu ra hàng trăm món khác nhau, mà các món mì lại càng chiếm ưu thế. Khi người Trung Quốc vào thành phố Hội An bởi các công việc giao thương, họ đã mang sang cả một chút ẩm thực dân tộc, mà người Việt ta thì chẳng bao giờ thôi không sáng tạo. Từ món mì truyền thống của họ ta cũng làm món mì của ta, nhưng hương sắc vị thì lại khác hẳn, ngon và hợp khẩu vị của dân tộc mình và sau nhiều đời thêm bớt, phát triển, ngày nay ta đã có một món ăn thật đặc sắc và đáng để nghiên cứu thưởng thức.

Tôi đã ăn mì Quảng nhiều lần, dường như nó đã từng một thời trở thành bữa ăn sáng nề nếp. Cái hương vị nồng nàn ấy cho dù đến sau này tôi hiếm còn có dịp ăn lại nữa thì vẫn khó mà có thể quên được. Một bát mì Quảng ngon, cũng giống như một bát phở ngon vậy, hai thứ quan trọng là nước lèo và sợi mì thì nhất thiết phải chỉn chu và kỹ lưỡng. Nước lèo phải có màu vàng nâu, óng ánh mỡ, vị hòa quyện của tôm, thịt ba chỉ và trứng cút nấu chung, nếm vào phải thấy hơi mặn, độ ngọt vừa phải, thêm một chút cay cay của ớt đỏ là ổn.

Còn sợi mì bắt buộc phải trắng ngần, mỡ màng và sáng, không bị đứt gãy nhiều hay nát và cũng không dính chặt vào nhau. Bên cạnh hai thứ chính như vậy thì mì Quảng cổ truyền nhất thiết phải có thịt heo và trứng cút làm chủ, thêm vào đó là các gia vị phụ liệu mà tương truyền phải có đủ chín vị thì mới ngon bao gồm: Húng quế, xà lách tươi, rau cải non, giá đỗ, ngò rí, rau răm, hành hoa thái nhỏ, bụp chuối lát mỏng. Ngoài ra người nấu còn bày sẵn ớt, chanh và nước mắm để thực khách có thể thêm vào nếu thích.

Ngày nay mì Quảng đã có nhiều biến thể để phục vụ nhu cầu của khách tứ xứ, mà thứ thay đổi chủ yếu chính là phần thịt trong mì Quảng, người ta có thể đổi thịt heo thành thịt gà, thịt ếch, tôm, cá lóc và thậm chí là cả thịt bò cho thêm phần phong phú. Đồng thời bớt đi một số món rau ăn kèm. Không giống như phở Hà Nội cái sự “cải lương” này của mì Quảng lại dễ khiến người dân nơi đây thích ứng và chào đón nhiệt liệt, hệt như cái cách mà họ đón khách từ tứ xứ tới làm ăn vậy.

Về cách làm thú thực mì Quảng là một món khá dễ chế biến, không quá cầu kỳ như khi nấu phở, nấu bún nhưng để có được một tô mì Quảng ngon lành thì người nấu ắt phải lành nghề và có nhiều kinh nghiệm nêm nếm nước lèo. Muốn nấu ngon thì công đoạn chọn nguyên liệu phải thật kỹ càng, sườn non chọn loại ngon, sụn không quá cứng hoặc quá mềm, chặt nhỏ, đem ướp bằng các gia vị như hành tím băm nhỏ, muối, ớt, tiêu, mì chính, nước mắm ngon, nước màu trong vòng 20 phút.

Tôm chọn loại cỡ vừa sơ chế, rút chỉ đất ở lưng rồi ướp tương tự như sườn non. Sau khi ướp cho lên bếp xào cho thịt thăn lại, rồi chế thêm một ít nước, nấu sôi, sao cho sườn vừa chín tới, nước lèo đậm đà là được. Tôm được xào sau, khi vừa chín thì đổ chung với nồi thịt và trộn đều. Ngoài ra người ta còn luộc trứng cút, bóc vỏ sẵn sau đó khi nồi thịt tôm gần được thì cho vào, để món mì Quảng thêm đậm đà. Với sợi mì Quảng, thường các hàng quán sẽ đặt làm số lượng lớn ở các cơ sở chuyên sản xuất. Sợi mì được làm bằng bột gạo tẻ, khi tráng bánh và cắt sợi người ta còn thêm một ít dầu vừng, dầu lạc để sợi mì được mượt và đỡ dính lại thơm.

Khi thực khách gọi món, người bán sẽ nhanh chóng xếp rau sống vào một cái bát to, sau đó xếp mì quảng lên trên, múc vào một ít thịt, tôm tùy thích, rồi chan nước lèo chồng lên. Lưu ý rằng mì Quảng không phải là các món bún phở thông thường lúc nào cũng phải xăm xắp nước, mà mì Quảng chỉ cần một chút nước lót đáy cho thêm đậm đà. Sau khi chan nước lèo, người bán thêm chút đậu phộng rang giòn cho dậy mùi, một chút bánh phồng tôm hoặc bánh đa, để làm cho món ăn thêm phong phú, dồi dào hơn.

Có thể nói rằng mì Quảng không hẳn gọi là cao lương mĩ vị, cũng không phải món cần người sành ăn thưởng thức, mà nó thực sự là một món ăn dân dã và gần gũi với cộng đồng vô cùng. Ai cũng có thể ăn được nó như thế dần dà nó đã đi vào nếp sống của người dân miền trung như một người bạn đậm đà và thân mến. Trở thành một nét văn hóa đặc sắc trong ẩm thực Đà Nẵng – Quảng Nam. Nói là mì Quảng nhưng thực tế đến Đà Nẵng ta thậm chí còn ăn được nhiều món mì Quảng ngon tuyệt vời hơn cả quê hương của nó nữa.

Gửi tặng bạn 💕 Thuyết Minh Về Cây Mai 💕 15 Mẫu Về Hoa Mai Hay Nhất

Viết một bình luận