Phân Tích Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác [29+ Mẫu Siêu Hay]

Phân Tích Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác ❤️️ 29+ Mẫu ✅ Giới Thiệu Trọn Bộ Bài Văn Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất Được Chọn Lọc, Tuyển Tập Tại SCR.VN.

Dàn Ý Phân Tích Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác

Tham khảo dàn ý phân tích Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác dưới đây sẽ giúp các em học sinh xác định được bố cục và những luận điểm trọng tâm khi làm bài.

1.Mở bài phân tích Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác:

  • Trình bày khái quát những nét chủ yếu nhất về cuộc đời và sự nghiệp Phan Bội Châu: Đôi nét về cuộc đời hoạt động cách mạng và sự nghiệp văn chương…
  • Giới thiệu khái quát nội dung và nhấn mạnh tầm quan trọng của bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác: Bài thơ ấy là tiêu biểu cho phong thái ung dung, kiên cường và khí phách Phan Bội Châu

2.Thân bài phân tích Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác:

a. Hai câu đề:

-“Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu”:

  • Hoàn cảnh nhân vật trữ tình ở tù nhưng cái cốt cách hào kiệt, phong thái phong lưu vẫn còn
  • Từ hán Việt được sử dụng, câu thơ mang ý nghĩa khẳng định tư thế cốt cách đàng của người chiến sĩ

-“Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”:

  • Nhà tù chỉ là nơi nghỉ chân tạm trên chặng đường hoạt động cách mạng
  • Cách nói làm cho câu thơ khỏe khoắn, không hề mang màu sắc đau khổ u buồnĐối với nhân vật trữ tình, “ở tù” còn là nơi tôi luyện, thử thách để bộc lộ bản lĩnh và khí phách anh hùng

b. Hai câu thực:

  • “Khách không nhà trong bốn bể”: thực tế khó khăn, để hoạt động cách mạng, nhân vật trữ tình – tác giả đã từng phải bôn ba khắp nơi
  • “Lại có tội giữa năm châu”: cảnh đế quốc thực dân đã kết tội Phan Bội Châu án tử hình vắng mặt
  • Giọng thơ trầm xuống, mang vẻ cảm khái nhưng vẫn hiện lên khí chất của nhân vật: dẫu trong muôn nghìn gian khó, khí phách trượng phu vẫn hiện lên rõ nét
  • Nghệ thuật đối cân chỉnh giữa hai câu thơ: Đây là hai câu thơ giúp cho người đọc hiểu rõ những chông gai trên con đường cách mạng của Phan Bội Châu.

c. Hai câu luận:

  • “Bủa tay ôm chặt bồ kinh thế”: Ước vọng, lí tưởng không thay đổi, bất chấp mọi hoàn cảnh, đó là chí lớn: sự nghiệp kinh bang tế thế.
  • “Mở miệng cười tan cuộc oán thù”: Tiếng cười cất lên sảng khoái, ngạo nghễ với mong muốn dẹp tan oán thù
  • Biện pháp khoa trương, cách xây dựng hình ảnh thơ theo lối chỉ tỏ lòng, từ ngữ mạnh, ấn tượng ⇒ hai câu thơ đã dựng lên hình ảnh người anh hùng tràn đầy khí phách đang hành đạo để cứu nước

d. Hai câu kết:

  • Khẳng đinh “thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp”: Khí phách anh hùng thể hiện ở niềm tin bất diệt vào sự nghiệp bản thân đang theo đuổi, đó cũng là ý chí theo đuổi đến cùng sự nghiệp
  • Bởi ý chí theo đuổi lí tưởng đến cùng ấy đã khiến Phan Bội Châu: “bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu”: đây là thái độ coi thường hiểm nguy
  • Lời thơ dõng dạc, mạnh mẽ, dứt khoát. Khẳng định ý chí quyết tâm của tác giả

3.Kết bài phân tích Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác:

  • Khái quát những nét tiêu biểu về giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm
  • Trình bày niềm cảm phục ý chí phấn đấu vì lí tưởng của nhà cách mạng yêu nước Phan Bội Châu
  • Rút ra bài học cho bản thân: Phấn đấu theo đuổi niềm mơ ước của mình dẫu gian nan, thử thách

Đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Đập Đá Ở Côn Lôn 🔥 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Phân Tích Bài Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác Hay Nhất – Mẫu 1

Đón đọc bài văn mẫu phân tích bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây để trau dồi cho mình ý văn đặc sắc.

Cuối thế kỷ XIX, khi các phong trào đấu tranh chống Pháp lần lượt bị thất bại, đất nước chìm ngập trong đau thương. Bước sang đầu thế kỷ XX, hưởng ứng luồng gió mới từ phương Tây thổi tới, những con người yêu nước, quyết chí dành tự do cho dân tộc lại náo nức bước vào một cuộc đấu tranh mới, theo khuynh hướng dân chủ tư sản.

Phan Bội Châu xuất thân nho học song lại là người sớm có tinh thần tiên tiến, bắt nhịp với thời đại mới. Cái chí khí “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (giàu sang không thể làm cho mê đắm, nghèo khó không thể làm cho thay lòng đổi dạ, uy vũ không thể làm cho khuất phục) của một nho gia đã biến thành bản lĩnh vững vàng, thành cốt cách anh hùng trước cơn tai biến nguy nan của một chí sĩ cách mạng.

Ngày 19-1-1914, Phan Bội Châu bị bắt giam vào ngục Quảng Đông. Trước đó, thực dân Pháp đã kết án tử hình vắng mặt đối với ông. Bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông nằm trong Ngục trung thư – một huyết tâm thư tuyệt mệnh. Ngay từ đêm đầu tiên vào ngục Phan Bội Châu đã làm hai bài thơ Nôm (Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông là một trong hai bài ấy): “Làm xong hai bài thơ tôi ngân nga lớn tiếng rồi cả cười, vang động cả bốn vành, hầu như không biết thân mình đang bị nhốt trong ngục”.

Xem ra, tù ngục cũng chẳng mảy may khiến bậc trượng phu nao núng. Đây là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu vào bài thể hiện ngay khẩu khí của bậc anh hùng:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”.

Nhân vật trữ tình hiện ra với một phong thái đường hoàng, tự tin đến ngang tàng, ngạo mạn. Giọng đùa vui, tự trào làm tan biến đi cảm giác của một người tù, chỉ thấy một tư thế cao ngạo, xem thường hiểm nguy, cổ nhân nói: Trí hơn vạn người gọi là “anh”, trí hơn nghìn người gọi là “tuấn”, trí hơn trăm người gọi là “hào”, trí hơn mười người gọi là “kiệt”. Kẻ tài trí hơn người, phong thái ung dung, đường hoàng (phong lưu) đang ngân nga tỏ chí.

Hai từ vẫn trong câu thơ đầu mang đậm tính khẩu ngữ. Một sự việc nghiêm trọng (tù) được nói đến bằng một thái độ cười, cợt, xem thường. Bị giam hãm trong tù ngục (lại là tử tù!) mà cứ như khách tài tử tạm dừng chân trên chặng đường dài dặc. Hoàn cảnh dù có đổi thay, tai biến có thể đến bất cứ lúc hào nhưng chí khí thì chẳng khi nào dời đổi.

Hai câu tiếp, giọng thơ chợt chuyển:
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu

Tác giả tự nghiệm về thân thế của mình. Một cuộc đời bôn ba đầy sóng gió. Phan Bội Châu từng phiêu bạt khắp nơi (khi Trung Quốc, khi thì Nhật Bàn, Thái Lan). Trên hành trình lưu lạc ấy ông đã phải trải qua biết bao cay đắng, cực khổ. Chỉ vì hết lòng muốn tìm đường cứu nước, chỉ vì yêu đất nước, dân tộc mình mà người chí sĩ bị xem như một tội nhân, bị truy nã khắp nơi.

Phiêu bạt, lênh đênh, chẳng được yên ổn bao giờ, con người ấy cất tiếng than cho mình cũng là đau cho nỗi đau chung của một đất nước đang mất chủ quyền. Tiếng thở dài ấy là của bậc anh hùng. Cái buồn ấy là cái buồn của một người tù yêu nước, của một nhân cách phi thường. Một phút ngẫm ngợi về mình để rồi lại sang sảng ca lên âm giai lãng mạn:

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Kinh tế – kinh bang tế thế, người chí sĩ chẳng lúc nào thôi ôm ấp hoài bão trị nước cứu đời. Đây là con đường Phan đã chọn, nguyện dấn thân, vẫn là cái khẩu khí hơn người, tiếng “cười” của một người tù sao mà khoáng đạt đến thế. Đến độ ta chỉ còn thấy âm hưởng hào hùng bao trùm tất cả, lấn át tất cả như cánh buồm thênh thênh lướt sóng đại dương. Lối nói khoa trương đã được sử dụng để biểu đạt cái chí lớn lao, khát vọng xoay chuyển càn khôn. Như trong bài thơ Chơi xuân, Phan viết:

Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ,
Nắm địa cầu vừa một tí con con.
Đạp toang hai cánh càn khôn,
Đem xuân vẽ lại trong non nước nhà…

Hai liên giữa câu 3 – 4 và câu 5-6 của bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông đã tuân thủ khuôn mẫu của một bài thơ thất ngôn bát cú luật Đường trong đối ý, đối lời. Sự đăng đối, hài hòa ở những câu thơ này góp phần tạo ra ấn tượng về cái vững vàng. Các cặp từ đối: bốn biển – năm châu, bủa tay – mở miệng, bồ kinh tế – cuộc oán thù khiến cho tầm vóc của người chi sĩ trở nên phi thường phù hợp với âm hưởng chủ đạo của bài thơ.

Bản lĩnh và tư thế khác người của người anh hùng yêu nước được khẳng định dứt khoát trong hai câu thơ kết bài:

Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!

Con người ấy còn sống là còn tranh đấu đến cùng cho lý tưởng chính nghĩa của mình. Hai chữ còn ngắt ra, điệp lại càng tăng thêm sắc thái mạnh mẽ, dứt khoát cho câu thơ. Ý chí thép sẽ chiến thắng hiểm nguy.

Cả bài thơ toát lên một tinh thần bất khuất, một tư thế vững vàng của bậc trượng phu trong cơn sóng gió. Truyền thống yêu nước, chí khí anh dũng của dân tộc đang tiếp tục mạch chảy bất tận trong tâm huyết chí sĩ Phan Bội Châu. Hình ảnh người anh hùng đã tạc vào lịch sử như một minh chứng cho tinh thần yêu nước, xả thân vì lý tưởng chính nghĩa.

Tiếp tục đón đọc 🌳 Phân Tích Muốn Làm Thằng Cuội 🌳 15 Bài Văn Hay Nhất

Phân Tích Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác Ngắn Gọn – Mẫu 2

Tham khảo bài văn phân tích Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác ngắn gọn dưới đây với cách viết súc tích và cô đọng ý văn.

Phan Bội Châu (1867 – 1940) là chiến sĩ cách mạng vĩ đại của dân tộc ta trong ba thập niên đầu thế kỷ XX. Năm 1913, cụ đang hoạt động cách mạng tại Trung Quốc, một ngày cuối năm, tổng đốc Quảng Đông đã bắt giam cụ vào khám tử hình, âm mưu trao trả nhà cách mạng Việt Nam cho thực dân Pháp.

Tại nhà ngục, ngay đêm đầu tiên, cụ viết bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật để an ủi, động viên mình. Nhan đề bài thơ là Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mồi chân thì hãy ở tù.
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

Bài thơ thể hiện khí phách hiên ngang, bất khuất và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ trong cảnh tù đày nguy hiểm.

Câu thơ thứ nhất có hai vế tiểu đối, điệp ngữ vẫn làm cho giọng thơ rắn rỏi, mạnh mẽ, khẳng định một tâm thế hào kiệt và phong lưu:

Vẫn là hào kiệt / vẫn phong lưu.

Hào kiệt là người có tài cao, chí lớn khác thường. Phong lưu có nghĩa là dáng vẻ lịch sự, trang nhã biểu lộ một phong thái ung dung tự tại và thanh cao. Câu thơ thứ hai, tác giả xem nhà ngục quân thù như một bến đậu sau những tháng ngày chạy mỏi chân, hoạt động sôi nổi, trải qua muôn vàn gian truân thử thách:

Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

Sau gần 10 năm bôn ba hải ngoại, tìm đường cứu nước (1905 – 1913), Phan Bội Châu lúc hoạt động ở Nhật, lúc sang Thái Lan, lúc ở Trung Quốc. Bốn tiếng thì hãy ở tù nói lên một thái độ chủ động, bình tĩnh trước tai ương thử thách. Hai câu đề biểu thị một cốt cách kẻ sĩ anh hùng.

Hai câu thực nói lên cảnh ngộ của một chiến sĩ cách mạng trong cảnh nước mất nhà tan, phải sống lưu vong nơi xa lạ (khách không nhà), lại bị tù tội. Đó là bi kịch lịch sử mà Phan Bội Châu và hàng nghìn chiến sĩ cách mạng tiền bối đã trải qua. Hai câu 3, 4 đối nhau làm nổi bật tinh thần hy sinh xả thân vì độc lập tự do cho Tổ quốc, một chí lớn tung hoành trên một không gian địa lý mênh mông: năm châu bốn bể.

Đã khách không nhà trong bốn biển
Lại người có tội giữa năm châu.

Hai mươi bảy năm sau (1940), trước lúc qua đời, ý thơ trên đã được nhắc lại như một nỗi niềm đau đớn:

Những ước anh em đầy bốn bể,
Nào ngờ trăng gió nhốt ba gian.

(Từ giã bạn bè lần cuối cùng)

Hai câu 5, 6 trong phần luận thể hiện niềm tự hào về tài kinh bang tế thế (bồ kinh tế) giúp nước giúp dân, làm nên sự nghiệp lớn. Mối thù đối với lũ thực dân cướp nước và bọn phong kiến tay sai (cuộc oán thù) không bao giờ nguôi, quyết cười tan, rửa sạch:

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù

Các từ ngữ hình ảnh: Bủa tay ôm chặt, mở miệng cười tan nói lên một tư thế hào hùng, một quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển nổi, sẵn sàng xả thân vì một lý tưởng cách mạng cao cả: giúp đời, cứu nước.

Nghệ thuật đối làm cho giọng thơ thêm đĩnh đạc hào hùng. Hình ảnh kỳ vĩ, các động từ gợi tả, (ôm chặt, cười tan) đã dựng nên một trang anh hùng hào kiệt trong cảnh tù đày nguy hiểm vẫn lạc quan, bất khuất.

Hai câu trong phần kết khẳng định một niềm tin mạnh mẽ, biểu lộ một khí phách hiên ngang. Tin mình vẫn tồn tại, hãy còn; sự nghiệp cứu nước, cứu dân là chính nghĩa đang mở rộng ở phía trước. Chứ còn điệp lại hai lần, giọng thơ thêm hùng hồn, niềm tin tưởng lạc quan thêm chói sáng:

Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!.

Đang bị gông cùm trong nhà ngục tử tù, là nguy hiểm. Nay mai phải bước ra pháp trường, là nguy hiểm… Bao nhiêu nguy hiểm máu chảy đầu rơi, thịt nát xương tan, nhưng đối với Phan Bội Châu thì sợ gì đâu. Trước vòng nguy hiểm vẫn hiên ngang thách thức, vẫn bất khuất, kiên cường: Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu! Phan Bội Châu đã thể hiện một tâm thế uy vũ bất khuất của nhà cách mạng chân chính.

Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác đã thể hiện những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ vĩ đại: giàu lòng yêu nước, hiên ngang, bất khuất, lạc quan trong tù đày nguy hiểm. Bài thơ có ngôn từ trang trọng, giọng điệu mạnh mẽ hùng hồn làm hiện lên bức chân dung tinh thần tự họa của bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được 20 triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng như Nguyễn Ái Quốc đã ca ngợi. Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là viên ngọc quý trong thơ văn Phan Bội Châu, một khúc tráng ca anh hùng.

Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Thông Tin Về Ngày Trái Đất Năm 2000 🍀 9 Mẫu Đặc Sắc

Phân Tích Tác Phẩm Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác Chi Tiết – Mẫu 3

Bài văn phân tích tác phẩm Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác chi tiết dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Đầu thế ki XX, khi các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược ở cả ba miền lần lượt thất bại, một bầu không khí đau thương bao trùm trên đất nước ta. Trong văn chương, bên cạnh những bài ca hùng tráng đã xuất hiện những tiếng thở than bi phẫn và bất lực.

Phong trào cần vương do vua Hàm Nghi khởi xướng đã bị dập tắt. Ông vua yêu nước bị chính quyền thực dân bắt đi đày trên một hòn đảo mịt mù giữa đại dương, cách biệt hẳn đất nước và dân tộc. Tuy vậy, chí báo thù phục quốc vẫn âm ỉ nung nấu trong mọi tầng lớp nhân dân.

Bước sang đầu thế ki XX, luồng gió mới của tư tưởng dân chủ tư sản từ Âu châu thổi tới, từ Nhật Bản, Trung Hoa tràn sang đã thúc đẩy những người có tâm huyết với sự nghiệp cứu nước lại náo nức khởi sự một cuộc đấu tranh theo khuynh hướng mới, với mục đích vừa đánh đuổi kẻ thù xâm lược, vừa tấn công vào giai cấp phong kiến tay sai cam tâm bán nước. Chủ trương của họ là khai thông dân khí, mở mang dân trí, chấn hưng công thương nghiệp, để nước nhà phát triển toàn diện, đạt tới mức văn minh, giàu mạnh.

Phương pháp thực hiện có thể khác nhau (có phái chủ trương bạo động, có phái chủ trương ôn hòa) nhưng đều nhằm mục đích cao cả là đem lại độc lập, tự do cho dân tộc. Bởi thế, các khuynh hướng không loại trừ nhau mà hợp nhất thành cao trào đấu tranh cách mạng lan rộng khắp nơi. Thực dân Pháp khủng bố dã man, phong trào tạm lắng, những người lãnh đạo phần lớn phải vào tù hoặc lưu lạc ở nước ngoài.

Một số chí sĩ cách mạng nổi tiếng đầu thế ki XX như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đều xuất thân là nhà Nho nhưng lại tiếp thu rất nhanh những tư tưởng tiến bộ của thời đại. Trong lao tù của bọn thực dân, họ thường làm thơ để bày tỏ chí khí. Đó là những lời gan ruột, tâm huyết của những người anh hùng cứu nước nên có sức mạnh làm rung động lòng người.

Từ năm 1912, thực dân Pháp đã kết án tử hình vắng mặt nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Khi bị bọn quân phiệt tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) bắt giam và biết chúng có ý định trao trả cho Pháp, cụ Phan Bội Châu đã nghĩ rằng mình khó có thể thoát chết. Bởi thế, đầu năm 1914, ngay từ những ngày đầu bị giam vào ngục, cụ đã viết Ngục trung thư; nhằm ghi lại những điều tâm huyết để lại cho đồng bào, đồng chí.

Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác theo lời cụ là làm để tự an ủi mình. Cụ còn kể rằng sau khi làm xong, cụ đã “ngâm nga lớn tiếng rổi cả cười vang động cả bốn vách, hầu như không biết thân mình đang bị nhốt trong ngục”. Nội dung bài thơ như sau:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

Bài thơ mang đậm khẩu khí anh hùng này đã khắc hoạ rõ nét khí phách hiên ngang, bất khuất và hình ảnh tuyệt đẹp của người chiến sĩ cách mạng lúc sa cơ. Thể thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần: đề, thực, luận, kết, mỗi phần chỉ có hai câu ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một nội dung cực kì hàm súc.

Hai câu đề:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

Một tù nhân mà vẫn tự khẳng định mình là bậc hào kiệt, phong lưu, điều đó thể hiện phong thái đường hoàng, tự tin, vừa ung dung, thanh thản, vừa hiên ngang bất khuất, lại vừa tài hoa tài tử. Người chiến sĩ cách mạng chẳng may rơi vào vòng tù ngục thì cứ coi như người đi đường dài chạy mỏi chân thì nghỉ một chút để lấy sức đi tiếp. Thực chất không phải như vậy. Cụ Phan kể rằng trên đường bị áp giải đến nhà lao, bọn lính đã đối xử với cụ rất tàn nhẫn: nào trói tay, nào xiềng chân. Vào ngục, cụ lại bị giam chung một chỗ với bọn tử tù.

Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại. Đúng là như vậy! Bị giam cầm có nghĩa là bị tước đoạt tự do, bị đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần và cận kề cái chết. Ấy vậy mà người anh hùng vẫn ngẩng cao đầu và cảm thấy mình vẫn hoàn toàn tự do về mặt tinh thần. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn ấy nên khi bàn đến sự sống chết, Phan Bội Châu vẫn nói bằng giọng cười cợt như vậy. Đây là lối thơ khẩu khí khá phổ biến trong văn chương dùng để nói lên chí lớn của người xưa.

Hai câu thực:

Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.

Nhà thơ tóm lược về cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Mười năm lưu lạc, khi Nhật Bản, khi Trung Quốc, khi Xiêm La (Thái Lan), xa mái ấm gia đình, chịu trăm ngàn cực khổ về vật chất, cay đắng về tinh thần; thêm vào đó là sự hiểm nguy thường xuyên đe doạ vì cụ Phan là đối tượng truy nã đặc biệt của thực dân Pháp và đã bị chúng kết án tử hình vắng mặt. Phan Bội Châu nói như vậy không phải là để than thân mà chỉ nêu lên bi kịch chung của các chí sĩ yêu nước thời bấy giờ.

Cuộc đời đầy sóng gió của cụ Phan gắn liền với tình cảnh nô lệ của đất nước, đồng bào. Giọng điệu trầm thống của hai câu thơ trên phần nào thể hiện được tâm trạng đau đớn, xót xa của bậc anh hùng cứu nước.

Hai câu luận:

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Đúng là khẩu khí của một bậc đại trượng phu. Cho dù gặp hoàn cảnh bi đát đốn mức độ nào thì lí tưởng kinh bang tế thế, lo đời giúp dân của Phan Bội Châu vẫn không thay đổi. Trước sau cụ vẫn một lòng theo đuổi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách thống trị của giặc ngoại xâm. Lí tưởng và mục đích cao cả ấy đã giúp cụ giữ vững khí tiết cương cường, tư thế hiên ngang, bất khuất trước kẻ thù.

Lối nói khoa trương này thường được dùng nhiều trong thơ ca lãng mạn, nhất là trong anh hùng ca. Nó nâng cao tầm vóc và năng lực của con người lên đến mức siêu nhiên, thần thánh.

Từ thuở thanh niên, Phan Văn San (tên thật của Phan Bội Châu) đã nuôi chí lớn chờ thời cơ cứu nước:

Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ,
Nắm địa cầu vừa một ti con con.
Đạp toang hai cánh càn khôn,
Đem xuân vẽ lại cho non nước nhà…

(Chơi xuân)

Gần như suốt cuộc đời, cụ Phan đã chấp nhận gian khổ, hi sinh để theo đuổi và thực hiện lí tưởng thiêng liệng ấy.

Hai câu kết:

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

Ý chí gang thép và niềm tin to lớn của người anh hùng quả là không gì lay chuyển nổi. Con người ấy còn sống nghĩa là còn tiếp tục chiến đấu, còn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng, vì thế mà bất chấp mọi thử thách gian nan.

Từ còn lặp lại hai lần liền nhau ở giữa câu thơ vừa có tác dụng ngắt nhịp, vừa nhấn mạnh ý thơ. Hai câu kết như một tuyên ngôn dõng dạc, dứt khoát, có sức truyền cảm mạnh mẽ, lớn lao, lay động hồn người.

Phan Bội Châu được nhân dân tôn vinh là một trong những nhà chí sĩ yêu nước và cách mạng nổi tiếng đầu thế ki XX. Tên tuổi và gương sáng của cụ ảnh hưởng rộng rãi tới phong trào giải phóng dân tộc không chi trong thời kì đó mà mãi mãi về sau.

Người chiến sĩ cách mạng lão thành họ Phan dù trải qua bao giông bão cuộc đời vẫn giữ vững khí tiết của một bậc chính nhân quân tử: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. (Giàu sang không thể làm cho mê đắm, nghèo khó không thể làm cho thay lòng đổi dạ, uy vũ không thể làm cho khuất phục). Tuy xuất thân từ cửa Khổng sân Trình nhưng cụ đã vượt khỏi khuôn khổ cứng nhắc của giáo lí thánh hiền để tiếp cận tư tưởng dân chủ, dân quyền mới.

Trước cảnh đồng bào đang chịu cảnh lầm than, nô lệ, cụ đau đớn, xót xa và nuôi khát vọng xoay chuyển càn khôn, đánh đuổi quân thù, đem xuân vẽ lại cho non nước nhà. Với lí tưởng cao đẹp đó, cụ lao vào cuộc đấu tranh, bất chấp mọi gian khổ, hi sinh, thậm chí đối diện với cái chết, cụ cũng không sờn lòng, nản chí. Bởi thế nên đối với cụ, dẫu có sa cơ, rơi vào vòng tù ngục thì chẳng qua cũng chi là dừng bước tạm nghi trên con đường đấu tranh lâu dài và gian khổ.

Ở bài thơ này, các biện pháp nghệ thuật thường thấy trong thơ Đường như nghệ thuật đối: bốn biển – năm châu, bủa tay – mở miệng, bồ kinh tế – cuộc oản thù… được sử dụng hợp lí đã làm cho tầm vóc của nhân vật trữ tình trở nôn lớn lao, kì Vĩ, phù hợp với giọng điệu hào hùng. Cảm xúc chân thành của tác giả đã tạo nên sức sống bất diệt cho bài thơ.

Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Ôn Dịch Thuốc Lá 🌳 8 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Phân Tích Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác Nâng Cao – Mẫu 4

Bài văn phân tích Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác nâng cao dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.

Phan Bội Châu (1867-1940), là nhà hoạt động cách mạng vĩ đại và tiêu biểu nhất trong phong trào cách mạng mạng Việt Nam kiểu mới những năm đầu thế kỷ XX. Tuy con đường và tầm nhìn của Phan Bội Châu trong công cuộc giải phóng dân tộc còn có nhiều hạn chế, tuy nhiên cho đến ngày hôm nay lịch sử Việt Nam vẫn không thể phủ nhận công lao của người đặt những viên gạch đầu tiên cho nền cách mạng hiện đại của dân tộc.

Không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng sôi nổi mà Phan Bội Châu còn là một nhà văn, nhà thơ với số lượng tác phẩm đồ sộ, phong phú với nội dung chính thể hiện tinh thần, ý chí quyết tâm chống giặc cứu nước và lòng yêu nước thương dân sâu sắc.

Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Phan Bội Châu, ra đời vào năm 1914 trong những ngày đầu tác giả chịu cảnh sống trong ngục tù khi bị bọn quân phiệt Quảng Đông (Trung Quốc) bắt giam. Thông qua tác phẩm ta thấy được hình ảnh của một nhà cách mạng với tấm lòng yêu nước sâu nặng, tinh thần lạc quan, vững vàng trước khốn cảnh.

Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là một trong những tác phẩm được viết đầu tiên trong tập Ngục trung thư, tác phẩm vốn được xem như bức thư tuyệt mệnh của Phan Bội Châu thời điểm ấy. Bởi lẽ ngay từ năm 1912, Phan Bội Châu đã bị thực dân Pháp tuyên án tử hình vắng mặt, chính vì thế đến năm 1914 khi bị bọn quân phiệt Quảng Đông bắt giam và có ý định trao trả cho Pháp, ông đã xác định mình khó có thể thoát chết.

Trước hoàn cảnh bế tắc vậy, thế nhưng người chí sĩ yêu nước vẫn mạnh mẽ, với ý nghĩa rằng bản thân không thể làm nên nghiệp lớn, thì cũng muốn để lại cho đời một tác phẩm văn chương có ý nghĩa, cổ vũ tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu của các thế hệ tiếp nối.

Đó chính là mục đích chính của Phan Bội Châu khi viết Ngục trung thư, đặc biệt với Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là một trong những tác phẩm được viết đầu tiên, mà Phan Bội Châu nói rằng “tự an ủi mình”, hình tượng người chí sĩ cách mạng hiện lên với những vẻ đẹp tinh thần phi thường, mạnh mẽ, dường như phá tan cả cái khốn cảnh ngục tù.

“Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”

Ở hai câu thơ đầu tiên ta thấy được một phong thái rất đỗi ngang tàng, tự tin và lạc quan của tác giả, rõ ràng rằng bản thân Phan Bội Châu từng kể rằng bản thân mình khi ấy đã bị áp giải đi một cách thực ghê gớm “nào xiềng tay, nào trói chặt” rồi thì cả việc phải “chung một chỗ với bọn tù xử tử”, thú thực đó là một hoàn cảnh chật vật, bế tắc vô cùng, dễ đem đến cho con người ta những suy nghĩ tiêu cực.

Tuy nhiên Phan Bội Châu lại không như lẽ thường, người ở nơi chốn ngục tù nhưng vẫn nhận mình mang dáng vẻ của “hào kiệt” có tài năng chí khí hơn hẳn người thường, lại vẫn đậm nét “phong lưu”, ở đây ý chỉ lối sống ung dung, đường hoàng, trang nhã, lịch sự. Chung quy lại, dẫu ở tù thế nhưng Phan Bội Châu vẫn một lòng tin tưởng vào thần thái, khí chất con người mình, quyết không để bản thân rơi vào khốn cảnh, hay suy sụp như những kẻ tù khác.

Có thể nói rằng bậc anh hùng, chí sĩ như Phan Bội Châu phong thái thật khác hẳn người thường, dù bị giam cầm nhưng vẫn ung dung, tự tin, đàng hoàng mà sống. Đặc biệt tinh thần, khẩu khí tự tin, ngang tàng của tác giả còn thể hiện rất rõ trong câu “Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”, vậy hóa ra trong tâm tưởng người chiến sĩ cách mạng nhà tù thực chất chỉ là một chỗ nghỉ tạm, sau những ngày bôn ba vất vả hay sao.

Nhưng có lẽ nhìn sâu hơn nữa ta còn thấy được ý chí kiên cường, không chịu khuất phục số phận của Phan Bội Châu, những chắn song sắt, những gông cùm xiềng xích rõ ràng chỉ có thể giam giữ được thể xác con người, chứ không thể nào trói buộc được tinh thần của ông.

Tác giả đã mạnh mẽ vượt lên trên tất cả những nghịch cảnh tù đày để cho mình một tâm hồn thanh thản, ung dung đối mặt với những khó khăn phía trước, đồng thời gợi cảm hứng sáng tác cả những tác phẩm văn thơ có giá trị. Đối với một biến cố nghiêm trọng thế nhưng trong đôi mắt và tầm nhìn của người làm việc lớn, chí khí kiên cường như Phan Bội Châu đó lại trở thành thứ để cười cợt, bông đùa, nhẹ tựa lông hồng, quả là điều đáng nể phục ở những con người được hưởng nền giáo dục xưa.

Đã khách không nhà trong bốn biển
Lại người có tội giữa năm châu”

Khác với giọng điệu thảnh thơi, ung dung và có chút bông đùa ở hai cầu đầu, thì đến đâu âm hưởng ở hai câu thơ tiếp đã có sự biến đổi lớn, âm hưởng trầm thống, cố nén những nỗi đau đang ẩn giấu bên trong, mang đến cảm giác nghẹn ngào, cay đắng và có đôi phần chơ vơ lạc lõng, khi Phan Bội Châu dường như đang phát ra những tiếng than thầm kín cho cuộc đời lắm thăng trầm của mình.

Nói về cuộc đời của Phan Bội Châu, quả thực lắm bôn ba vất vả, vốn là người thông minh hiếu học, thông thuộc tứ kinh ngũ thư, là một truyền nhân xuất sắc của nền văn học Nho giáo, Khổng Tử. Tuy nhiên đáng tiếc, đó cũng là lúc nền Hán học ở nước ta suy tàn, Phan Bội Châu hoàn toàn không có đất dụng võ.

Với tinh thần yêu nước sâu sắc và giác ngộ cách mạng sớm, Phan Bội Châu từng ủng hộ tham gia khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương nhưng đáng tiếc vì lực lượng non yếu và tổ chức cũ kỹ, phong trào nhanh chóng bị đàn áp. Lúc này đây với tâm tưởng về món nợ công danh, Phan Bội Châu lại quyết tâm làm lại từ đầu, cứu nước bằng một con đường mới – con đường tư bản chủ nghĩa, từ bỏ tất cả những vốn Hán học mấy chục năm, để tìm kiếm một con đường mới, có vẻ nhiều chông gai.

Năm 1905, Phan Bội Châu lên đường sang Nhật và trong suốt hơn 10 năm sau đó, ông đã vượt trùng dương sang nhiều nước khác nhau với một lòng hăng say cách mạng, mong muốn giải phóng dân tộc với phận “khách không nhà trong bốn bể”.

Tuy nhiên ngay khi sự nghiệp còn dang dở thì ông lại bị bắt, thậm chí bị thực dân Pháp phán án tử vắng mặt, thế nên mới có câu “lại người có tội giữa năm châu”. Thực nghe thập phần chua xót, một lòng vì chính nghĩa nhưng vẫn trở thành kẻ có tội, phải vào chốn ngục tù lao khổ, chịu nhiều mất mát, cay đắng.

Tuy nhiên khi thấu đáo hết cuộc đời, xông pha nhiều sương gió của Phan Bội Châu, ta mới hiểu đó không hoàn toàn là tiếng than cho số phận cá nhân, mà thực tế là nỗi đau xót cho thực cảnh của cả một dân tộc phải trải qua quá nhiều những biến động, nhân dân sống cuộc đời lênh đênh, lạc lõng không biết rồi sẽ về đâu. Đến đây ta mới thấy thật rõ tầm vóc của một con người, một vị lãnh tụ, một người chiến sĩ cách mạng có tấm lòng của bậc anh hùng thời thế.

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù”

Đến hai câu thơ 5, 6 giọng thơ lại một lần nữa thay đổi, thoát khỏi cái không khí trầm buồn, dồn nén đau thương, thì đến đây giọng thơ chuyển sang vẻ hào hùng, với lối nói khoa trương, thường được sử dụng trong bút pháp lãng mạn của văn học thiên hướng anh hùng ca.

Mà ở đây đối với nhân vật trữ tình, từ một con người nhỏ bé giữa vũ trụ bao la nhưng với lối nói “bủa tay ôm chặt bồ kinh tế/mở miệng cười tan cuộc oán thù” đã đẩy tầm vóc của con người lên đến mức thần thánh, vĩ đại, mang tầm vóc lớn lao sánh ngang với thiên nhiên trời đất.

Từ đó bộc lộ rất rõ được khẩu khí, thần thái, ý chí hiên ngang của bậc anh hùng hào kiệt, mà ở trong bất kỳ một nghĩ cảnh nào, thì tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm làm cách mạng vẫn không hề thay đổi, một lòng gắn bó. Đối mặt với những thủ đoạn tàn độc của quân thù, người anh hùng vẫn mạnh mẽ hiên ngang, nở nụ cười tự tin, khinh nhờn, chứ quyết không chịu khuất phục, quỳ gối dẫu rằng phải hy sinh cả tính mạng.

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu”

Hai câu thơ cuối tức là lời tổng kết của tác giả sau những suy nghĩ, tâm trạng về thực cảnh tù đày của mình. Ở đây một lần nữa ta lại nhận thấy được tinh thần lạc quan, kiên cường của Phan Bội Châu, trước hoàn cảnh khốn khó, ông không hề để tâm đến những vất vả, gian lao, những thủ đoạn ghê gớm của giặc và cả cái chết đang gần tới mình. Mà bản thân ông vẫn một lòng tin tưởng rằng, chỉ cần người còn thì sự nghiệp còn, dẫu mất hết những gì đã dày công xây dựng, nhưng chỉ cần có ý chí và còn sống sót được trở ra thì ta lại làm lại từ đầu.

Ông chẳng hề sợ hãi hay nề hà gì trước những hung hiểm đang còn chờ đợi phía trước, có thể nói rằng lý tưởng cứu nước, cứu đời cao đẹp đã mang đến cho người chiến sĩ cách mạng những sức mạnh phi thường, phong thái hiên ngang mạnh mẽ, đứng giữa đời.

Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là một trong những tác phẩm hay và đáng chú ý nhất trong sự nghiệp sáng tác văn chương của Phan Bội Châu. Không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm chống giặc mạnh mẽ, cùng với tinh thần kiên cường, lạc quan của người chiến sĩ cách mạng mà nó còn ghi lại một dấu ấn quan trọng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng lắm gian truân mà cũng nhiều vẻ vang của Phan Bội Châu.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Phân Tích Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác Học Sinh Giỏi – Mẫu 5

Tham khảo bài văn phân tích Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác học sinh giỏi dưới đây để chắt lọc cho mình những ý văn hay.

Bằng dòng cảm xúc mãnh liệt, bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông như một khúc tráng ca vĩ đại và hào hùng, thể hiện rõ phong thái ung dung, đuờng hoàng và khí phách kiên cường, bất khuất vượt lên cảnh tù ngục khốc liệt của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, trong những ngày bị chính quyền quân phiệt Trung Hoa bắt giam.

Nhà ngục – đó là nơi chôn vùi ý chí chiến đấu của con người, là bóng đen mờ mịt với những mưu đồ, cạm bẫy trỗi dậy, rình rập sự sống. Vậy mà đối với Phan Bội Châu, đó chỉ là nơi thử lửa, là một “nhà trọ” cho những bước chân bôn tẩu cách mạng tạm dừng.

Không phải ngẫu nhiên mà đầu đề của bài thơ là Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông. Ra đời giữa chốn lao tù, nơi hiện hình của những bóng ma tội ác ghê tởm, con người dễ dàng bị nuốt chửng vào vòng quay của nó bởi sự bất lực và nỗi sợ hãi tầm thường. Bài thơ bằng chữ Hán vẫn không hề làm vơi đi tinh thần, khí khái làm người “xoay chuyển càn khôn”. Những câu thơ tuôn ra từ chính tấm lòng của nhà thơ, là lời khẳng định chắc nịch cho quan niệm người anh hùng:

Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù

Dẫu rằng là cảnh thân tù, “nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (một ngày ở tù bằng nghìn thu ở ngoài), lời thơ của cụ Phan Bội Châu vẫn giữ được cái điềm tĩnh, thoải mái của một con người luôn tự tin, lạc quan trước mọi hoàn cảnh, đó là tinh thần của bậc đại trượng phu với ý chí “uy vũ bất năng khuất” (uy vũ không thể khuất phục).

Trong tù, con người ấy đã phải chịu mọi nỗi đau thể xác lẫn tinh thần, những đòn tra tấn dã man của kẻ thù, phải hằng ngày đối diện với khổ đau, đói rét và những tiếng rền rĩ , gào thét của biết bao thân tù hãm vang dội trong bốn bức tường khắc khổ, âm u. Vậy mà, câu thơ dường như không có một phút nào nhường chỗ cho con người yếu mềm.

Tất cả đều được lấp đầy bởi bức tranh con người sừng sững đứng giữa đất trời: Ta đã bôn ba giữa năm châu bốn biển, ta vì dân vì nước mà ở tù, ta lên tiếng đòi quyền tự do, quyền làm người chính đáng cho dân tộc ta, cớ sao ta lại phải chịu nhún nhường khuất phục trước bọn phản dân, hại nước kia? Cho nên cái lồng con con ấy, nào có là gì trước tư thế hiên ngang, lẫm liệt của trang “hào kiệt”, tu mi nam tử đầu đội trời chân đạp đất và bậc “phong lưu” có cái lịch lãm, hào hoa.

Câu thơ là sự đối lập hoàn toàn giữa một bên là sự lớn lao, vĩ đại của một bậc anh hùng, hào kiệt và một bên là lũ ô hợp, hèn hạ, tầm thường. Đồng thời, với khẩu khí ngang tàng, cái hất hàm cười cợt, coi thường cái chết, Phan Bội Châu đã giúp ta hình dung ra tư thế của một con người luôn chủ động, luôn làm chủ hoàn cảnh, ngẩng cao đầu ngạo nghễ với lao lung.

Hai câu thực là phút ngoảnh nhìn về những biến cố cuộc đời mà người cách mạng đã trải qua:

Đã khách không nhà trong bốn biển
Lại người có tội giữa năm châu

Trong cái khoảng trời đất bao la, khôn cùng kia, người anh hùng chẳng tìm thấy được một mái ấm, một quê hương. Bởi nhà đã tan, nước đã mất! Còn nỗi đau nào hơn nỗi đau của một người con yêu nước, một nhà cách mạng chưa làm được gì cho dân tộc phải tạm dừng chân ở chốn lao tù. “Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”, giờ đây, tạm nghỉ chốn này, tâm hồn của cụ vẫn đang hướng về mảnh đất tổ tiên đang bị giày xéo bởi kẻ thù thực dân.

Ngẫm mà thấy đau cho một tấm lòng suốt đời vì sự nghiệp cứu nước lại kết thúc bước chân kiêu bạc tại chốn lao tù, cô độc, bởi phải mang tiếng là có “tội giữa năm châu”. Phép đối trong hai câu thực “Đã – Lại” càng khiến cho những gió cát cuộc đời người anh hùng như dồn dập như khắc nghiệt hơn. Nhưng nếu như nghĩ rằng câu thơ có một chút hơi hướng của sự bi lụy thì thật là sai lầm.

Đặt nỗi đau khổ của nhà cách mạng vào không gian rộng lớn của bốn biển, năm châu, ta nhận ra tầm vóc lớn lao phi thường của người tù yêu nước Phan Bội Châu. Đã dấn thân vào hoạt động cách mạng, trong hoàn cảnh bị bủa vây truy đuổi bởi kẻ thù, nhưng Phan Bội Châu vẫn kiên định không sờn lòng nản chí.

Từ giọng điệu trầm hùng mà thống thiết, mạch cảm xúc của nhà thơ được nâng lên một tầm cao hơn không chỉ là cái tráng chí được hô to gọi lớn, không phải là một sự trấn an cho tinh thần mà là một lời nói tâm huyết với biết bao hoài bão, lý tưởng tốt đẹp:

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù

Không phải hành động”giang tay” mà là cái “bủa tay ôm chặt” mạnh mẽ đã nói lên lý tưởng cao đẹp của một người anh hùng. Dầu đơn độc, cụ vẫn sống vẫn đợi chờ, lạc quan tin tưởng, vẫn ung dung ngạo nghễ trong cốt cách của một trang hào kiệt, một bậc phong lưu. Đó là vì lý tưởng cao đẹp ,là sự nghiệp cứu nước, cứu dân mà suốt đời cụ luôn ấp ủ:

Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”

(Bài ca chúc Tết thanh niên )

Giấc mộng làm trai gắn với những hoài bão tuổi trẻ của Phan Bội Châu từ lâu đã vượt ra khỏi thứ “công danh” tầm thường bó buộc của người trai thời phong kiến. Giờ đây, tư thế của người anh hùng đã vĩ đại, lớn lao, càng trở nên mạnh mẽ, phi thường hơn nữa. Hai câu luận với lối gieo từ đối nhau, từ những hình ảnh, hành động có tính cụ thể hữu hình “bủa tay – mở miệng”, cho đến những mĩ từ vô hình vô hạn “bồ kinh tế”, “cuộc oán thù” đã khái quát phương châm cách mạng hành động dứt khoát của Phan Bội Châu.

Đó là cái tráng chí của con người cách mạng dù rơi vào hoàn cảnh nguy nan vẫn không quên lý tưởng kinh bang tế thế, vẫn mở miệng cười trước những ‘cuộc oán thù”, chủ động trước bất kỳ thử thách nào. Nụ cười ấy chứa đựng niềm tin vào tiền đồ tất thắng của dân tộc, là sự khinh khi những trò hèn hạ truy bức của kẻ thù.

Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu

Chấn song tù giam được thể xác nhưng không giam nổi tâm hồn cụ hướng về đất nước! Bị kìm hãm, bị giam cầm nơi xứ lạ ,tinh thần đấu tranh của cụ Phan Bội Châu đã truyền đạt đến cho những chí sĩ yêu nước, một niềm tin tưởng vào sự nghiệp chiến đấu vì chính nghĩa của chính mình.

Dường như ở câu kết, với điệp từ “còn” dõng dạc dứt khoát trên cùng một câu thơ, người đọc đã thấy trước một tương lai tốt đẹp, một đất nuớc tự do, một cuộc sống đầy đủ an bình. Tinh thần bất khuất, không lùi bước của con người là cơ sở của niềm tin, đồng thời bao quát tư tưởng “anh hùng tạo thời thế” rất quyết liệt, không chờ “thời thế tạo anh hùng”.

Dù sự nghiệp cứu nước không thành, nhưng tinh thần “sợ gì đâu” sẵn sàng thách thức với những hiểm nguy của một nhà cách mạng kiên cường, bất khuất vẫn làm ta cảm phục. Đó là lời của một con người đã đạp bằng hoàn cảnh và là sức mạnh tạo nên tư thế của bậc anh hùng “xem cái chết nhẹ tựa lông hồng”. Mãi về sau, khi trở thành “ông già bến Ngự” hoàn toàn bị kìm kẹp tù hãm, ngọn gió yêu nước từ cụ Phan vẫn còn mạnh mẽ, lay động tâm hồn biết bao thanh niên , bao con người yêu nước:

Đời đã mới, người càng nên đổi mới
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội
Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn.

(Bài ca chúc Tết thanh niên)

Bài thơ kết thúc mà lời thơ chưa kết thúc. Người đọc vẫn còn thấy đâu đây một con người uy phong đứng giữa đất trời, ung dung ngạo nghễ mà kiên định, bất khuất. Trong giây phút tuyệt vọng nhất, người anh hùng Phan Bội Châu vẫn không mất đi cái tráng chí, tinh thần thép của một nhà chí sĩ yêu nước Việt Nam, đã trở thành tấm gương sáng nghìn đời của dân tộc.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Phân Tích Đánh Nhau Với Cối Xay Gió 🌹 9 Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Bài Thơ Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác Ngắn Hay – Mẫu 6

Bài văn phân tích bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác ngắn hay dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết cho các em học sinh khi làm bài.

Trong cuốn Văn thơ Phan Bội Châu, giáo sư Đặng Thai Mai có nhận xét: “Phan Bội Châu là một người can đảm, vui vẻ trong những giờ phút nguy hiểm và hoạn nạn”. Đúng vậy, những ngày bị cầm tù ở Quảng Đông, đối diện với cái chết, Phan vẫn ung dung, lạc quan. Đọc bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác ta sẽ bắt gặp được cái tư thế tuyệt đẹp của nhà chí sĩ cách mạng:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sự thật đâu.

Năm 1912, Phan bị chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương tuyên án tử hình vắng mặt và năm 1913 ông bị bắt ở Quảng Đông. Bọn quân phiệt Quảng Đông hí hửng định dùng tính mạng của nhà chí sĩ cách mạng Việt Nam làm cuộc trao đổi với bọn thực dân Pháp ở Đông Dương để mượn đường xe lửa xuyên Việt. Cuộc mặc cả giữa bọn chúng không thành, Phan bị cầm tù đến năm 1917 mới được trả tự do.

Tuy bị sa cơ thất thế, bị kẻ thù giam hãm nhưng Phan vẫn không xem mình là kẻ thất bại. Ông thản nhiên nói:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

Nhà tù chỉ là nơi tạm dừng chân nghỉ ngơi trên con đường quanh đầy cam go. Một thái độ bình thản, một giọng điệu bông đùa, cười cợt của một người coi khinh tù đày, nguy hiểm. “Có thể nói lạc quan chủ nghĩa đó cũng là một đặc tính của người dân xứ Nghệ” (Đặng Thai Mai). Ba mươi năm sau, trong nhà lao của bọn quân phiệt Tưởng Giới Thạch ta lại bắt đầu gặp một con người của xứ Nghệ cũng có cái cách “pha trò” hóm hỉnh ấy:

Ăn cơm nhà nước ở nhà công,
Lính tráng thay phiên đến hộ tòng;
Non nước dạo chơi tùy sở thích,
Làm trai như thế cũng hào hùng!

(Pha trò – Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh)

Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh, hai nhà thơ yêu nước vĩ đại của dân tộc có những nét tương đồng thật thú vị. Vào tù, sống trong sự kìm kẹp của kẻ thù nhưng Phan vẫn ung dung thanh thản, vẫn giữ cái cối cách của con người có tài cao chí lớn, hơn người, vẫn giữ cái vẻ trang nhã lịch sự.

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu. Câu thơ mở đầu bài thơ bằng điệp từ “Vẫn” để khẳng định một thái độ vững vàng không hề nao núng, ngả lòng trước hoàn cảnh thách thức nghiệt ngã. Phan Bội Châu là con người có chí lớn, tung hoành dọc ngang không ràng buộc bởi cuộc sống gia đình cá nhân chật hẹp. Năm châu, bốn bể với cụ là nhà:

Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.

Con đường cách mạng còn dang dở, sự nghiệp chưa thành, nay làm thân tù tội, cụ tự coi mình là “người có tội giữa năm châu”. Đây là một thái độ “tự phê phán” nghiêm khắc, thẳng thắn và cảm động. Cho đến cuối đời, Phan vẫn canh cánh bên lòng nợ nước chưa báo đền, vẫn mặc cảm về cái “tội” của mình với đất nước non sông.

Phan là người của “bốn bể”, “năm châu”, một chân dung khoáng đạt của một người anh hùng thời đại khác hẳn với bọn người cá chậu, chim lồng nhỏ nhen. Vì vậy, cho dù thân bị tù đày nhưng khí tiết sắt đá của người anh hùng không gì có thể chuyển lay được:

Bùa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Mộng “kinh bang tế thế”, giúp nước, cứu đời vẫn còn đây và quyết chí thực hiện đến cùng. Lí tưởng đó đã được nhen nhóm trong Phan từ khi dấn thân vào con đường cách mạng, ngay từ những ngày đầu trên đường “xuất dương lưu biệt”. Cụ hăm hở:

Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

(Xuất dương lưu biệt)

Con người có hoài bão lớn lao như vậy, cho dù có sa cơ thất thế vẫn ung dung, ngạo nghễ. Tiếng cười sảng khoái cất lên trong hoàn cảnh lao lung đối diện với gian nguy thử thách chính là thái độ thách thức và chiến thắng của tinh thần cách mạng. Bài thơ được kết thúc bằng một niềm tin mãnh liệt:

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sự gì đâu.

Hai từ “còn” đi liền nhau giữa hai nhịp thơ tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ. khẳng định ý chí sắt đá, niềm tin tưởng lạc quan sáng ngời. Bị sa vào tay giặc, có nguy cơ bị trao cho thực dân Pháp ở Đông Dương để thi hành bản án tử hình, nhưng người chiến sĩ cách mạng tuyệt nhiên không một thoáng nao núng bi quan. Toàn bộ bài thơ toát lên một phong thái ung dung tự tại, một niềm tin sáng ngời.

Không có chủ định lập nghiệp bằng con đường văn chương, văn chương với Cụ chỉ là một phương tiện để tuyên truyền, vận động cách mạng. Nhưng những lời viết ra từ tâm huyết của một con người nguyện cả cuộc đời dâng hiến vì sự nghiệp cứu dân, cứu nước lại có sức truyền cảm mạnh mẽ. Văn chương của Cụ đi vào lòng người khơi dậy nhiệt tình yêu nước và niềm tin. Phan Bội Châu không những là một nhà cách mạng lỗi lạc mà còn là nhà thơ lớn của dân tộc.

Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Cô Bé Bán Diêm 🌼 12 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Phân Tích Bài Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác Đơn Giản – Mẫu 7

Tham khảo bài văn phân tích bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác đơn giản dưới đây để nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài viết trên lớp.

Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, đồng bào lầm than cực khổ, Phan Bội Châu rất đau lòng. Tấm lòng yêu nước thương dân thiết tha sâu sắc thôi thúc người thanh niên Phan Bội Châu quyết chí tìm đường cứu nước. Cuộc đời cách mạng đầy gian truân sóng gió, đầy bất trắc hiểm nguy vẫn không làm ông sờn lòng nản chí, mà càng hun đúc thêm cái khí phách anh hùng nơi ông. Và đây, một hình ảnh tuyệt đẹp về người anh hùng đó:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

Hai câu 1, 2 là hai câu đề: Giới thiệu vấn đề cần nói tới:

“Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”.

Cách vào đề rất khéo. Ở đây nhà thơ muốn nói tới hoàn cảnh mình bị bắt giam. Nhưng phong thái rất đường hoàng, tự tin, thật ung dung, thanh thản. Việc bị bắt trở thành sự chủ động dừng chân nghỉ ngơi trên chặng đường dài. Tiếng cười cất lên ngạo nghễ giữa song sắt nhà tù, bất chấp gông cùm xiềng xích, khắc tạc người anh hùng đứng cao hơn mọi sự cùm kẹp, đày đọa của kẻ thù, cảm thấy mình hoàn toàn tự do thanh thản về mặt tinh thần.

Ý của hai câu có thể diễn đạt lại: Vào tù mình vẫn giữ được tài trí và cách sống của mình : là người có tài cao, chí lớn khác thường (hào kiệt), là người luôn giữ dáng vẻ lịch sự, trang nhã (phong lưu). Mình ở tù không phải do bị bắt mà vì chạy mỏi chân (tức hoạt động cách mạng đã nhiều), tạm thời nghỉ ở đây.

Tác giả có nói đến việc bị bắt vào nhà tù nhưng không nhấn mạnh khía cạnh rủi ro, đau khổ hoặc âu lo, khiếp sợ. Ngược lại, nhà thơ coi việc đó chẳng có gì khủng khiếp, đáng buồn, đó chỉ là những giây phút nghỉ ngơi sau những ngày hoạt động sôi nổi. Mặc dầu trong hồi tưởng cụ viết: “Thật từ lúc cha sanh mẹ để đến nay, chưa lúc nào nếm mùi thất bại chua xót như bây giờ”.

Giọng điệu thản nhiên pha chút đùa vui ở hai câu đầu đã được thể hiện ngay từ cách dùng điệp từ “vẫn” đi liền với hai tính từ thể hiện phẩm chất trước sau như một của nhà cách mạng (hào kiệt, phong lưu). Nó trở thành cái cười tủm tỉm khi nhà thơ hạ ở cuối câu thứ hai cụm từ “thì hãy ở tù”, biến sự việc bị động, mất tự do thành việc chủ động do mình muốn thế.

Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.

Hai câu thơ này khác với giọng điệu cười cợt, vui đùa như hai câu đề. Ở đây như lời tâm sự không phải để than thân mà để nói lên nỗi đau đớn lớn lao trong tâm hồn người anh hùng. Tả người tù mà nói “khách không nhà”, “người có tội” với “năm châu” thì thật đúng là cái cười nhạo báng đối với nhà tù của bọn quân phiệt tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Chữ “đã”, chữ “lại” mở đầu hai câu thực càng nhấn mạnh thêm tình cảnh tù đày của người chiến sí cách mạng.

Song gắn “khách không nhà” với “năm châu”, nhà thơ như muốn vẽ chân dung một người tù một phong cách phóng đãng hơn. Nghệ thuật đối (trong hai câu 3, 4 là hai câu luận) không làm cho ý thơ đối chọi. Ngược lại, sự đối lập ấy lại càng tôn hơn lên chân dung khác thường của người tù : một con người của năm châu, bốn biển, của toàn thế giới.

Nỗi đau ấy của Phan Bội Châu trở thành nỗi đau lớn lao của bậc anh hùng, là nỗi đau thương của cả một đất nước.

Đến đây ta mới thấy hết khí phách anh hùng của Phan Bội Châu. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt khách không nhà, người có tội, ông vẫn giữ vững chí khí hào kiệt.

Và người anh hùng hào kiệt ấy còn nguyên vẹn khí phách và chí lớn:

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Ở đây tác giả khẳng định : chí lớn tài cao của người chiến sĩ cách mạng không cảnh tù đày nào có thể đè bẹp. Lối nói khoa trương ở đây thể hiện sự lãng mạn, anh hùng ca, khiến cho con người không còn nhỏ bé nữa mà có tầm vóc lớn lao như thần thánh. Tuy bị bắt nhưng người tù vẫn “dang tay”, “mở miệng” thể hiện thái độ coi thường, coi khinh mọi khó khăn trước mắt.

Nhìn lại cuộc đời Phan Bội Châu, hoài bão cứu nước, cứu đời đã được ông ôm ấp từ khi còn là chàng thanh niên Phan Văn San:

Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ
Nắm địa cầu vừa một tí con con
Đạp toang hai cánh càn khôn,
Đem xuân vẽ lại trên non nước nhà.

Khát vọng ấy, chí lớn ấy không hề suy giảm ngay cả khi ông đã vào trong ngục tù. Cận kề với cái chết nhưng ông vẫn ngạo nghễ cười trước mọi thủ đoạn tàn bạo của kẻ thù.

Tinh thần cách mạng lạc quan đã tạo nên sức mạnh để ông chiến thắng hoàn cảnh, giữ vững ý chí chiến đấu sắt son của mình:

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

Trong bài thơ này, hai câu kết như một lời thề sắt son, như một lời tuyên ngôn của một người đang chịu cảnh lao tù tăm tối. Nhưng dường như chốn ngục tù ấy không thể giam cầm nổi một con người, một tấm lòng trung đối với đất nước. Ông khẳng định rằng chỉ còn mình đang sống thì sự nghiệp cứu đất nước sẽ vần còn đó. Ông sẽ dốc hết sức lực của mình để hoàn thành sự nghiệp đó. Những nguy hiểm, gian lao đối với Phan Bội Châu không là vấn đề gì.

Tinh thần bất khuất, khảng khái, không sợ hiểm nguy ấy của Phan Bội Châu khiến người đọc cảm phục trước một tấm lòng trung cao thượng. Đồng thời khẳng định dứt khoát niềm tin của nhà thơ vào tương lai, thể hiện thái độ coi thường lao tù nguy hiểm. Hai tiếng “còn” đứng cạnh nhau tạo nên âm điệu khẳng định mạnh mẽ ý chí đấu tranh cho sự nghiệp cứu nước.

Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của cụ Phan Bội Châu được làm ngay sau khi cụ bị bắt vào nhà ngục Quảng Đông, đã truyền vào tâm hồn chúng ta một niềm tự hào về truyền thống bất khuất, hiên ngang của các nhà cách mạng tiền bối. Tinh thần của bài thơ thể hiện sự đàng hoàng, hiên ngang, tràn đầy niềm lạc quan cách mạng.

Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Chiếc Lá Cuối Cùng 🌠 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Phân Tích Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác Facebook – Mẫu 8

Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác facebook để các em học sinh cùng tham khảo:

Phan Bội Châu là một nhà yêu nước, nhà cách mạng lớn của dân tộc ta vào những năm đầu của thế kỉ XX. Ông từng xuất ngoại sang nhiều nước lớn như Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan để cứu nước, tìm ra con đường sáng cho cách mạng nhưng không thành.

Năm 1912, ông bị thực dân Pháp tại Việt Nam kết án tử hình vắng mặt. Đến năm 1913, ông bị quân phiệt Quảng Đông bắt và ra điều kiện với thực dân Pháp lấy ông làm con tin để chúng có thể sử dụng đường tàu xuyên Việt nhưng không thành. Ông bị giam trong nhà ngục Quảng Đông tới tận năm 1917 và thời gian đó cũng là lúc ông sáng tác lên bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác”.

Bài thơ được thể hiện bằng thể thơ quen thuộc Thất ngôn bát cú với giọng thơ hào sảng, lôi cuốn rất mạnh mẽ. Nó như lời bày tỏ phong thái đầy ngạo nghễ, ung dung, khí phách kiên cường và tình yêu nước, niềm tin vào sự nghiệp “kinh bang tế thế” của Phan Bội Châu trước hoàn cảnh ngục tù khổ ải.

Bài thơ được chia ra thành bốn cặp câu thơ Đề – Thực – Luận – Kết như vẫn thường thấy của thể thơ Thất ngôn bát cú này. Cặp câu thơ thứ nhất – Để nêu lên hoàn cảnh của người sáng tác. Ở đây, Phan Bội Châu đã thể hiện một thái độ ung dung, bình thản, lạc quan dù đang ở trong nhà lao của kẻ thù. Sang hai câu thơ tiếp theo – Thực là lời trần tình về hoàn cảnh của mình.

Nhà thơ là “khách” giữa thế gian, vậy nên với ông, đâu cũng là “nhà”, dù “là người có tội” thì vẫn hiên ngang sống với khí phách của mình. Tiếp sau là hai câu Luận, ông bày tỏ cái mộng ước cả đời đang theo đuổi “kinh bang tế thế”, giúp nước cứu đời cùng khí phách hiên ngang bất khuất của mình. Cuối cùng, hai câu Kết là lời kết luận đầy lạc quan vào tương lai sự nghiệp của ông, lời khẳng định vững tin vào phía trước dù gian khó, hiểm nguy cũng không từ.

Bốn cặp câu thơ là bốn lời nói, lời tỏ bày đầy hiên ngang, lẫm liệt của Phan Bội Châu, lời khẳng định vào tương lại với sự nghiệp và lòng yêu nước của mình mặc dù ông đi đến đâu cũng bị săn đuổi như một tên tội phạm.

Bài thơ được khắc họa qua thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật – là một thể thơ cổ với tám câu, mỗi câu bảy chữ. Thể thơ này là một trong những thể thơ có luật bằng trắc nghiêm nhặt nhất, có lẽ vì vậy mà nó đã tạo nên những thanh âm uyển chuyển, nhịp nhàng giữa các câu thơ với nhau. Điều này cũng khiến bài thơ có được nhịp điệu du dương như một bản tình ca.

Với bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác, Phan Bội Châu cũng sử dụng thể thơ này với luật thơ nghiêm ngặt khi gieo vần. Trong thơ Thất ngôn, luật bằng trắc thể hiện nghiêm ngặt theo thứ tự “nhị – tứ – lục phân minh” còn lại có thể tùy biến. Như trong hai câu thơ đầu của bài thơ, Phan Bội Châu, câu thơ thứ nhất được thể hiện là Bằng – Trắc – Bằng (là – kiệt – phong), câu thơ thứ hai được đối lại như sau: Trắc – Bằng – Trắc tức mỏi – thì – ở. Các câu kế tiếp được lặp lại theo đúng thứ tự nêu trên.

Điều này đã khiến cho nhịp thơ của bài thơ trở nên uyển chuyển, nhẹ nhàng, du dương như một bản tình ca. Không chỉ vậy, bài thơ còn được viết theo thể 4/3 với giọng điệu chắc nịch, bộc lộ một ý chí lạc quan, kiên cường và bất khuất của người tù yêu nước. Ngoài ra cách giao hiệp vần ở mỗi câu thơ thứ nhất, hai, bốn, sáu, tám cũng được Phan Bội Châu tuân thủ vô cùng chặt chẽ.

Có thể nói, bài thơ là một trong những bài thất ngôn bát cú tiêu biểu nhất của dòng thơ Trung đại Việt Nam, tuân thủ tất cả những quy định dù là nhỏ nhất của thể thơ Đường. Đồng thời lại bộc lộ chí khí của người anh hùng, bậc chính nhân quân tử với tài năng hơn người.

Về nội dung của bài thơ, Phan Bội Châu đã đặt vào đó một hình ảnh đầy cao ngạo, ung dung của người hùng yêu nước. Với cách viết truyền thống của thể thơ này, tám câu thơ chia ra bốn phần đề, thực, luận, kết đã thể hiện tất cả tư tưởng và tài năng của ông.

Mở đầu bài thơ là hai câu đề, như một lời giới thiệu về hoàn cảnh của người viết, cũng là lời bộc lộ thái độ của Phan Bội Châu với hoàn cảnh ấy. Hai câu thơ là hình ảnh của người chí sĩ cách mạng đang ung dung trước hoàn cảnh tù đày:

Vẫn hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở từ”

Có câu thơ nào giới thiệu cảnh mình bị giam hãm lại ung dung đến như vậy chăng? Phan Bội Châu cho rằng, dù giờ đây ông đang bị bắt giam, tù đày thế nhưng vẫn là kẻ ung dung, đường hoàng. Bước chân vào đây, chẳng qua là do ông muốn, ông muốn tạm nghỉ chân bởi con đường hoạt động cách mạng có một chút mỏi mệt. Vẫn phong thái của một nhà nho nhàn tản, ông bị bắt mà chẳng hề mất đi chút nhuệ khí, tinh thần của một người chiến sĩ. Lời thơ bay bổng, nhẹ nhàng, có chút ngạo nghễ, tự khẳng định bản thân minh.

Lời thơ chẳng còn là một kẻ bị động mà trái lại trở thành kẻ chủ động trong cuộc bắt bớ của kẻ thù. Một phong thái, cốt cách thật trang nhã, hơn người của một nhà trí thức, một tài năng, một con người đức độ. Qua lời bộc bạch đầy chân thành, hiên ngang ấy, người đọc chúng ta phải cảm phục trước Phan Bội Châu – một con người với nhân cách hơn người, với một sự uy nghi, điềm tĩnh, ngạo nghễ trước kẻ thù, trước cuộc đời, trước cả hoàn cảnh tù đày khắc nghiệt nữa.

Tiếp theo dòng thơ là hai câu thực – hai câu thơ trình bày cho người đọc thấy rõ về hoàn cảnh thực tại của người viết. Nó đã được Phan Bội Châu viết như thế này:

“Đã khách không nhà trong bốn bể
Lại người có tội giữa năm châu”

Vẫn là cái phong thái ấy, cái sự ngạo nghễ và cái cười mỉm đầy vui đùa ấy! Ông tự nhận mình là “khách không nhà”, là “người có tội”, thế nhưng ta không thấy toát ra ở đó sự tội lỗi mà lại là một vẻ đẹp khoáng đạt, cao cả trong bốn bể năm châu. Hai câu thơ được đặt vào nghệ thuật đối một có một không toát lên thái độ điềm tĩnh của một con người luôn làm chủ hoàn cảnh của mình.

Phan Bội Châu đã chứng minh rằng dù bị quy kết thành kẻ có tội, rơi vào hoàn cảnh “không nhà” thì ông vẫn là một trang nam nhi hào kiệt, đứng sừng sững giữa thế gian, trong bốn bể lồng lộng của tự do. Vượt lên trên hoàn cảnh tù đày, người tù ấy thật hiên ngang, ung dung quá đỗi.

Không chỉ có thái độ ngạo nghễ, ung dung, coi thường hoàn cảnh tù tội, coi đó như một cuộc nghỉ ngơi với giọng điệu thật bông đùa, Phan Bội Châu dù ở trong ngục tối nhưng vẫn bày tỏ cái khí phách hiên ngang, bất khuất, tung hoành khắp bốn bể của mình:

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù

Hai tay ông ôm mộng “kinh bang tế thế”, cứu nước giúp đời, cái chí lớn ấy luôn theo ông khắp chốn, dù ở đâu, ông cũng luôn coi đó là ước nguyện to lớn nhất cuộc đời mình. Hai câu thơ luận về khí phách của ông thật khí khái, thật oai phong. Dù tù đày có làm bước chân ông chậm lại thì cái ý chí sắt đá kia của Phan Bội Châu vẫn luôn nung nấu trong lòng, chờ ngày làm nên nghiệp lớn.

Phan Bội Châu giờ đây tạm thời bị thất thế, bị bắt giam thế nhưng không vì thế mà ông nản lòng. Ông vẫn tin tưởng vào tương lại, vào nghiệp lớn của mình về một tương lai tươi sáng:

Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm, sợ gì đâu”

Với ông, còn sống là còn khát khao, còn phải chiến đấu, còn phải cống hiến vì sự nghiệp của mình với niềm tin sắt đá và ý chí mạnh mẽ không hề nao núng trước bao hiểm nguy phía trước.

Không chỉ tiêu biểu cho một bài thơ về thể thơ Đường, bài thơ còn phản ánh một ý nghĩa to lớn. Đó là nhiệt tình yêu nước cháy bỏng, mãnh liệt của một nhà chí sĩ cả đời vì sự nghiệp “kinh bang tế thế”. Sự nhiệt thành ấy xuất phát từ lòng yêu nước, từ tình cảm chân thành, ý chí sắt đá của một trái tim yêu nước nồng nàn.

Cùng với đó, chúng ta thấy được một thái độ sống hiên ngang, bất khuất, dù trong hoàn cảnh khó khăn, tăm tối, khốc liệt nhất trong trại giam Quảng Đông. Tinh thần ấy xứng đáng là điều mà thế hệ trẻ chúng ta phải noi theo, phải học tập.

Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác được Phan Bội Châu viết khi bị bắt bớ tại Quảng Đông. Bài thơ được viết bằng giọng điệu hào hùng, thái độ hiên ngang, pha chút ngạo nghễ, có phần cười cợt, bông đùa, nhưng trên hết là phong thái ung dung, điềm tĩnh, khí phách kiên cường vượt lên trên tất cả của người chí sĩ yêu nước thế kỉ XX – Phan Bội Châu.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Tức Nước Vỡ Bờ 🍀 13 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Bài Thơ Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác Đầy Đủ – Mẫu 9

Đón đọc bài văn phân tích bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác đầy đủ dưới đây để tham khảo thêm những gợi ý hay khi làm bài.

Trong dòng văn học yêu nước đầu thế kỷ XX bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là một tác phẩm để lại khá nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Với cảm xúc trữ tình cách mạng, mang âm hưởng lãng mạn hào hùng, bài thơ đã để lại cho đời sau một hình ảnh tuyệt đẹp về tư thế của con người cách mạng lúc sa cơ lỡ bước lâm vào hoàn cảnh tù ngục hiểm nghèo.

Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, hoàn cảnh lao tù nghiệt ngã, gắn với tên tuổi của một bậc chí sĩ cách mạng, một bậc anh hùng hào kiệt là Phan Bội Châu.

Tư tưởng yêu nước thấm đẫm trong tâm hồn Nay ta hát một thiên cứu quốc ! Yêu gì hơn yêu nước nhà ta, đã thôi thúc chàng thanh niên Phan Văn San nuôi chí lớn:

Đúc gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vét nhơ nô lệ

(Bài ca chúc tết thanh niên)

Chí khí đó đã khiến Phan Bội Châu không quản gian lao, hi sinh cứu nước.

Trên hành trình tìm đường cứu nước, cụ Phan chịu không ít gian khổ đắng cay: khi thì bị trục xuất khỏi Nhật, lúc bị truy lùng săn đuổi ở Xiêm la, và nay là cảnh lao tù trong nhà ngục của bọn quân phiệt Quảng Đông.

Đối với cụ Phan, bước chân vào nhà tù đồng nghĩa với việc cận kề cái chết bởi trước đó, chính quyền thực dân Pháp đã kết án tử hình cụ. Tuy nhiên, bài thơ không hề có một chút bi quan tuyệt vọng, mà ngược lại, bao trùm lên đó ià một âm hưởng hào hùng. Âm hưởng ấy được tạo nên bởi cảm xúc trữ tình cách mạng mãnh liệt.

Trước hết chúng ta hãy cùng nhau đọc lại bài thơ để cảm nhận được cái hào khí của một bậc anh hùng hào kiệt:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

Tám câu thất ngôn bát cú Đường luật giản dị, tự nhiên mà hàm chứa thật nhiều ý nghĩa.

Bài thơ mở đầu bằng hai câu với khẩu khí rất ngang tàng, ngạo nghễ:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

Chạy mỏi chân thì hãy ờ tù, ta nghe trong câu thơ dường như có tiếng cười của một con người coi thường mọi gông cùm xiềng xích, coi nhà tù của bọn đế quốc chỉ là nơi tạm nghỉ, tạm dừng chân trên chặng đường cách mạng dài dặc của mình. Với tư thế của một con người không bị trói buộc bởi gông cùm xiềng xích, ở cụ Phan toát lên một phong thái ung dung, thanh thản, đường hoàng tự tin.

Phong thái ấy chỉ có thể cổ được ở những con người biết làm chủ hoàn cảnh. Con người ấy có quyền ngẩng cao đầu kiêu hãnh tự khẳng định mình: vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu.

Từ giọng ngang tàng, ngạo nghễ ở hai câu đề, bài thơ chuyển sang giọng trầm thống ở hai câu thực. Mạch cảm xúc trữ tình có pha chút chua xót, cay đắng;

Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người cố tội giữa năm châu.

Hai câu thơ giúp ta hình dung ra cuộc đời bôn ba chiến đấu đầy sóng gió, hiểm nguy mà cụ Phan từng nếm trải. Nhưng tại sao lại là Khách không nhà trong bốn biển? Mười năm trời lênh đênh lưu lạc khi Nhật Bản, lúc Trung Quốc, khi Xiêm La, hỏi làm gì có nhà. Vả lại nước đã mất thì nhà tan. Từ thế kỷ XIII, Trần Quốc Tuấn đã từng cảm nhận thấm thía điều này. Và với những bậc chí sĩ cách mạng thời nay Non sông đã mất sống thêm nhục thì khách không nhà là điều cũng dễ hiểu. Nhưng còn người có tội giữa năm châu?

Câu thơ nghe thật đau xót! Một người yêu nước sâu sắc và manh mẽ như cụ Phan, thương xót đồng bào hơn cả bản thân mà bỗng trở thành người có tội, bị săn đuổi, truy lùng và bị kết án tử hình! Đối với bọn đế quốc thực dân, phàm những ai yêu nước, muốn cứu nước, cứu dân tộc đều bị coi là có tội. Cái tội đó chúng không chỉ gán cho riêng cụ Phan. Nhà cách mạng Hồ Chí Minh cũng đã từng phải chua xót thốt lên:

Phạm tội gì đây ta tự hỏi
Tội trung với nước, với dân à?

(Nhật ký trong tù)

Như vậy, đằng sau bi kịch riêng của những chí sĩ cách mạng là bi kịch của cả một dân tộc, là tình cảnh thương tâm của cả một đất nước. Nỗi đau của cụ Phan không còn là nỗi đau riêng mà trở thành nỗi đau lớn lao của cả dân tộc. Chính nỗi đau ấy đã nâng tầm vóc người tù yêu nước trở nên phi thường.

Đối với bậc anh hùng, đau thương nhưng không bi lụy. Người tù chỉ để lòng mình lắng lại một chút với cảm xúc đau thương, rồi lại quay trở lại với khí phách ngang tàng ban đầu:

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Hai câu luận đã bày tỏ được khát vọng mãnh liệt mà cụ Phan từng ôm ấp: Khát vọng kinh bang tế thế (lo nước cứu đời). Hình ảnh thơ có tính chất lãng mạn kiểu anh hùng ca khiến nhân vật trữ tình dường như không còn là con người thật, con người nhỏ bé bình thường trong vũ trụ nữa mà vụt lớn lên, từ tầm vóc đến năng lực đều trở nên hết sức lớn lao, thần thánh.

Nếu trước đây người đời đã từng ngưỡng mộ hoài bão và khí phách của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu, thì lúc này đây, họ càng thêm cảm phục bản lĩnh của cụ Người anh hùng ấy, dù trong cảnh tù đầy vẫn Dang tay ôm chặt bồ kinh tế và Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Bài thơ khép lại bằng hai câu thơ khẳng định ý chí sắt son bất khuất:

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

Một lần nữa ta cảm nhận được tư thế hiên ngang của con người đứng cao hơn cái chết. Lời thơ dõng dạc, dứt khoát như chính ý chí gang thép của người tù cách mạng. Kẻ thù có thể giam cầm, đầy đọa, thậm chí sát hại những người yêu nước, những người cách mạng, nhưng niềm tin sắt son của họ, ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất của họ thì chúng làm sao có thể khuất phục. Đối với những người cách mạng như Phan Bội Châu, còn sống là còn chiến đấu.

Bài thơ khép lại mà âm hưởng hào hùng của nó như còn ngân vang mãi trong lòng độc giả. Càng đọc bài thơ, ta càng xúc động bởi nguồn cảm xúc trữ tình mãnh liệt của tác giả đã truyền sang ta. Chính nguồn cảm xúc này đã tạo nên vẻ đẹp kì diệu cho hình tượng thơ và tạo nên phong cách trữ tình cách mạng Phan Bội Châu. Và cũng chính nguồn cảm xúc này đã tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn không gì cưỡng lại được của thơ ca Phan Bội Châu.

Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Trong Lòng Mẹ 🔥 16 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Bài Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác Lớp 8 – Mẫu 10

Bài văn phân tích bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác lớp 8 dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những ý tưởng làm bài đặc sắc.

Phan Bội Châu không chỉ là một nhà cách mạng mà còn là một tác giả tiêu biểu trong văn học Việt Nam, đặc biệt là trong thơ ca cách mạng. Ông đã để lại cho lớp lớp thế hệ sau nhiều tác phẩm có giá trị sâu sắc và có thể nói bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là một trong số những tác phẩm xuất sắc của ông. Đọc bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác người đọc sẽ không thể nào quên hình ảnh nhà cách mạng yêu nước được tác giả khắc họa chân thực và sâu sắc.

Ra đời trong những ngày bị bắt giam nơi chốn ngục tù, bài thơ đã xây dựng thành công hình ảnh người cách mạng yêu nước với tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường và tư thế hiên ngang.

Mở đầu bài thơ, hai câu đề đã vẽ nên cho chúng ta hình ảnh một người cách mạng với phong thái ung dung, lạc quan:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù

Câu thơ mở đầu bài thơ với việc sử dụng điệp ngữ “vẫn” lặp lại hai lần cùng các từ ngữ Hán Việt “hào kiệt”, “phong lưu” không chỉ nêu lên hoàn cảnh của người cách mạng mà hơn thế nó như một lời khẳng định phong cách sống ung dung, đàng hoàng, đĩnh đạc của người cách mạng dẫu trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Câu thơ “Chạy mỏi chân thì hãy ở tù” là một cách nói khỏe khoắn, toát lên tinh thần lạc quan của nhà cách mạng. Dường như, họ không cảm thấy buồn bã, chán nản khi bị bắt giam mà với họ, nhà tù chỉ là nói nghỉ chân trên con đường dài hoạt động cách mạng của mình. Như vậy, hai câu thơ mở đầu đã làm toát lên phong thái ung dung, tinh thần hào sảng, lạc quan của nhà cách mạng yêu nước.

Nếu hai câu đề dựng lên trong chúng ta hình ảnh người cách mạng với phong thái ung dung, tinh thần lạc quan thì trong hai câu thực, hình ảnh người cách mạng hiện lên với tâm thế vững vàng, hiên ngang.

Đã khách không nhà trong bốn bể
Lại người có tội giữa năm châu.

Hai câu thơ với việc sử dụng thành công thủ pháp đối lập thường thấy đã làm nổi bật hình ảnh người cách mạng với phong thái ung dung. Người cách mạng tự xem mình là “khách không nhà”, điều đó vừa cho chúng ta thấy hoàn cảnh khó khăn, vất vả trên con đường hoạt động cách mạng, nhưng hơn hết, ẩn sau từng câu chữ đó chính là nét đẹp tinh thần, tâm hồn của họ.

Đó chính là tâm thế tự do, là tinh thần ung dung ngay trong chính hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm thiếu thốn. Thêm vào đó, với việc sử dụng từ “lại” như một lời nhấn mạnh, tác giả đã thể hiện rõ thái độ mỉa mai của mình trước hành động khủng bố những người yêu nước, những nhà cách mạng của thực dân Pháp.

Thêm vào đó, hai câu thực của bài thơ làm bật nổi lên trước mắt chúng ta hình ảnh nhà yêu nước với khẩu khí ngang tàn và luôn ôm ấp trong mình hoài bão, ý chí lớn lao.

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù

Câu thơ “Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế” như một lời khẳng định đầy đanh thép về hoài bão kinh bang tế thế. Dẫu trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa thì dường như khát vọng, hoài bão kinh bang tế thế vẫn luôn thường trực và hiện hữu trong tác giả. Đặc biệt, khẩu khí ấy càng được làm nổi bật rõ nét qua tiếng cười. Với cách nói phóng đại “cười tan cuộc oán thù” dường như đã khẳng định sức mạnh, niềm tin của những cách mạng họ có thể chiến thắng, có thể đánh tan mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù.

Hai câu thơ khép lại bài thơ như một lời khẳng định hùng hồn, đanh thép về ý chí, tinh thần và phong thái của những nhà cách mạng yêu nước bấy giờ. Với biện pháp điệp ngữ được sử dụng thành công đã cho chúng ta thấy rõ những phẩm chất tốt đẹp của những con người cách mạng. Họ là những con người quyết đấu tranh đến tận cùng vì dân tộc, vì sự nghiệp cứu nước và sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn, nguy hiểm, thiếu thốn và gian khổ để hoàn thành sự nghiệp, sứ mệnh của mình.

Thân ấy vẫn còn còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu

Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác với việc sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú và nhiều từ ngữ Hán Việt đã dựng nên cho chúng ta hình ảnh của nhà yêu nước cách mạng với ý chí, khí phách kiên cường, tinh thần bất khuất và hiên ngang.

Giới thiệu tuyển tập ☀️ Phân Tích Tôi Đi Học ☀️ 15 Bài Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất

Viết một bình luận