Phân Tích Phú Sông Bạch Đằng Đoạn 3, 4 ❤️️ 22+ Bài Hay Nhất ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Đặc Sắc Phân Tích Chuyên Sâu Đoạn Trích Với Những Nội Dung Hay.
Dàn Ý Phân Tích Phú Sông Bạch Đằng Đoạn 3, 4
Tham khảo chi tiết dàn ý phân tích Phú sông Bạch Đằng đoạn 3, 4 dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được bố cục và hệ thống luận điểm cơ bản của bài viết.
I. Mở bài phân tích đoạn 3, 4 Phú sông Bạch Đằng:
- Giới thiệu về tác giả Trương Hán Siêu
- Giới thiệu bài thơ Bạch Đằng Giang phú
- Dẫn dắt vào nội dung cần phân tích – đoạn 3, 4 bài Phú sông Bạch Đằng
II. Thân bài phân tích đoạn 3, 4 Phú sông Bạch Đằng:
-Lời suy ngẫm, bình luận của các bô lão về những chiến công:
- Nguyên nhân thắng lợi: đất trời cho nơi hiểm trở, nhân tài giữ được cuộc điện an, đại vương coi thế giặc nhàn.
- Nhấn mạnh ba yếu tố làm nên thắng lợi thiên thời – địa lợi – nhân hòa, trong đó nhấn mạnh vai trò của con người.
- Gợi lên hình ảnh Trần Quốc Tuấn và so sánh với những người xưa
- Khẳng định sức mạnh, tài năng của con người nhất là người lãnh đạo. Thể hiện giá trị nhân văn của tác phẩm.
-Suy ngẫm về hưng vong của đất nước:
+Lời của các bô lão.
- Hình tượng sông Bạch Đằng: mênh mông, rộng lớn, hùng vĩ, hiểm trở
- Tình yêu, niềm tự hào về cảnh sắc quê hương, về dòng sông lịch sử.
- Mượn quy luật của tự nhiên để khái quát quy luật của con người: Mọi dòng sông đều dồn về biển cả, những kẻ bất nghĩa sẽ tiêu vong, anh hùng lưu danh muôn đời.
+Lời của khách:
- Ca ngợi sông Bạch Đằng dòng sông lịch sử, dòng sông anh hùng.
- Ca ngợi đức độ, tài năng hai vị thánh quân Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông.
- Ca ngợi cuộc sống thanh bình của dân tộc.
-Nghệ thuật:
- Bố cục chặt chẽ, cách kể tả sinh động
- Xây dựng các hình tượng nhân vật sinh động, đặc sắc mang ý nghĩa triết lí.
- Ngôn ngữ cô đọng, trong sáng, hào hùng.
III. Kết bài phân tích đoạn 3, 4 Phú sông Bạch Đằng:
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
- Nêu cảm nhận của bản thân.
Tiếp theo phân tích Phú sông Bạch Đằng đoạn 3, 4, xem nhiều hơn 🌹 Tóm Tắt Phú Sông Bạch Đằng 🌹 12 Bài Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Phú Sông Bạch Đằng Đoạn 3 Hay Nhất – Mẫu 1
Nội dung phân tích đoạn 3 trong bài Phú sông Bạch Đằng sẽ là lời bình luận của nhân vật bô lão về những chiến thắng trên dòng sông lịch sử. Tham khảo bài văn mẫu phân tích Phú sông Bạch Đằng đoạn 3 hay nhất dưới đây:
Trương Hán Siêu tự là Thăng Phủ, quê ở làng Phúc Am, phủ Yên Khánh, nay thuộc phường Phúc Thành, thị xã Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Ông làm quan suốt bốn đời vua Trần, từ triều đại Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông đến triều đại Trần Dụ Tông. Vì tính tình cương trực và có học vấn uyên thâm nên Trương Hán Siêu được các vua Trần tin cậy và nhân dân kính trọng. Sau khi qua đời, ông được thờ ở Văn Miếu, Hà Nội.
Vào thời kì nhà Trần suy yếu, các vua đời hậu Trần mải mê với chiến thắng của cha ông, chỉ lo ăn chơi, hưởng thụ mà lãng quên trách nhiệm chấn hưng đất nước.
Trong một dịp du ngoạn Bạch Đằng, một nhánh sông Kinh Thầy đổ ra biển nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, di tích lịch sử lừng danh, nơi quân ta đã hai lần đánh tan quân xâm lược Mông – Nguyên, Trương Hán Siêu vừa nhớ tiếc các bậc anh hùng xưa, vừa cảm khái, tự hào mà viết nên bài Phú sông Bạch Đằng bằng chữ Hán. Tác phẩm này được đánh giá là hay vào bậc nhất trong văn chương thời trung đại.
Nội dung bài Phú sông Bạch Đằng thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của tác giả trước những chiến thắng lẫy lừng của quân dân nhà Trần trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam. Thông qua việc đề cao vai trò và vị trí của con người trong lịch sử, đề cao đạo lí chính nghĩa, tác phẩm chứa đựng tư tưởng nhân văn sâu sắc. Bài phú vừa chứa chan niềm tự hào dân tộc, vừa thấm thía nỗi niềm hoài cổ, vừa thể hiện triết lí về sự biến thiên và xoay vần của Tạo hoá.
Bài phú là loại phú cổ thể mà đặc điểm giống như một bài ca dài, tản văn và vận văn đan xen với nhau. Nhân vật khách độc thoại và đối thoại với các vị bô lão bên sông. Hai đoạn thơ lục bát đóng vai trò kết thúc bài phú.
Mở đầu bài phú là cảm xúc của nhân vật khách trước khung cảnh hùng vĩ của sông Bạch Đằng. Đó là cảm xúc dạt dào cảm hứng lịch sử của một con người có tâm hồn phóng khoáng, tự do. Nhân vật khách chính là tác giả đã được khách thể hoá trong vai một nghệ sĩ thích ngao du, yêu mến cảnh sắc thiên nhiên, đồng thời cũng say mê tìm hiểu lịch sử oai hùng của dân tộc.
Sau lời kể về trận chiến là lời bình luận của các bô lão về chiến thắng trên sông Bạch Đằng, chỉ rõ nguyên nhân ta thắng, địch thua:
Tuy nhiên:
Từ có vũ trụ, đã có giang san.
Quả là:
Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ:
Nhân tài giữ cuộc điện an.
Đoạn thơ này nhắc lại ý thức về chủ quyền độc lập của đất nước đã được đặt ra và khẳng định trong bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt. Một cõi sông núi nước Nam tồn tại độc lập bên cạnh các quốc gia phương Bắc, điều ấy đã được phân định rõ ràng trong sách Trời (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư).
Quan niệm về mối quan hệ giữa Thiên – Địa – Nhân (Trời – Đất – Người) cũng tiếp tục được khẳng định. Trong đó, trời đất hiểm trở giữ vai trò quan trọng, nhưng chính con người mới là chủ thể trong sự nghiệp giữ nước: Nhân tài giữ cuộc điện an. Con người làm nên chiến thắng ở đây là những tấm gương trung nghĩa, những tài năng lỗi lạc:
Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ: như quốc sĩ họ Hàn.
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.
Việc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mở hội nghị tướng sĩ, vương hầu ở bến Bình Than cũng giống như vương sư Lã Vọng, người đời Ân, đã giúp vua Vũ hội quân các nước chư hầu ở Mạnh Tân và diệt được vua Trụ tàn ác; tựa như bậc quốc sĩ Hàn Tín, người đời Hán, đã giúp Lưu Bang đánh tan quân Tề ở Duy Thuỷ.
Nguồn cội của chiến thắng to lớn ở Bạch Đằng chính là do tài trí sáng suốt của người lãnh đạo. Sự thật là sau hai lần thất bại, năm 1287 giặc Nguyên lại kéo sang xâm lược nước ta. Vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn: “Giặc đến làm thế nào?”. Hưng Đạo Đại Vương tâu: “Năm nay đánh giặc nhàn”.
Cách nhìn nhận thế giặc dễ đánh không phải là thái độ chủ quan mà dựa trên tài thao lược và niềm tin vào sức mạnh toàn dân cùng kinh nghiệm trải qua hai cuộc kháng chiến trước đây. Đó là một câu nói, một chi tiết của hiện thực đã đi vào văn chương muôn đời, thể hiện được tinh thần, hào khí Đông A và tầm vóc của một dân tộc anh hùng.
Tính chất hoành tráng của bài phú thể hiện ở cảm hứng lịch sử dạt dào âm vang chiến thắng oanh liệt, ở những chứng tích gắn liền với dòng sông nổi tiếng. Có thể coi bài Phú sông Bạch Đằng là tác phẩm tiêu biểu của văn học thời Lí – Trần. Bài phú đã thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống đạo lí nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam.
Đừng bỏ qua 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Phú Sông Bạch Đằng 🔥 8 Mẫu Ngắn Hay
Phân Tích Phú Sông Bạch Đằng Đoạn 3 Ngắn Gọn – Mẫu 2
Bài văn phân tích Phú sông Bạch Đằng đoạn 3 ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập để chuẩn bị cho bài viết trên lớp.
Trương Hán Siêu là một người có học vấn uyên bác, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình và có nhiều đóng góp lớn cho hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Những tác phẩm của ông thường bộc lộ tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc. “Phú sông Bạch Đằng” là một tác phẩm như thế.
Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Phú thường đạm chất trữ tình. Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu viết bằng chữ Hán, theo lời phú có thể, có vần và đăng đối theo cặp câu thơ tạo nên tính quy phạm rất rõ trong thể phú. Bài ca ngợi con sông lịch sử: sông Bạch Đằng.
Ở đoạn 3 của tác phẩm, nhà thơ có những chiêm nghiệm, bài học quý giá. Những chiến thắng lẫy lừng vẻ vang đó một phần có được là do địa thế, mấu chốt quan trọng là nhờ những con người tài năng đã cống hiến, hy sinh mình để bảo vệ độc lập dân tộc:
“Quả là trời đất cho nơi hiểm trở
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an”.
Trương Hán Siêu đồng thời ngợi ca Hưng Đạo Vương, người anh hùng vĩ đại thuở “bình Nguyên” oanh liệt:
“Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng
Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn”.
Kết thúc bài phú, ông ca ngợi hai vị vua Trần đã có công giữ gìn và bảo vệ đất nước:
“Anh minh hai vị thánh quân
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh”
Hai vị “Thánh quân” được nhắc đến ở đây là Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ 2 và lần thứ 3 đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Họ là những vị vua sáng suốt, anh minh, yêu nước thương dân đã khơi dậy sự đoàn kết, sức mạnh dân tộc để đem lại bài học giữ nước cho muôn đời sau.
Qua bài “Bạch Đằng giang phú”, Trương Hán Siêu mượn hình ảnh con sông Bạch Đằng lưu dấu bao vết tích lịch sử oai hùng để thể hiện tình yêu quê hương đất nước của mình. Từ đó, ông bày tỏ niềm tự hào dân tộc, đồng thời như một lời nhắc nhở những thế hệ mai sau phải biết tiếp nối truyền thống cha anh để lại.
Cùng với bài phân tích Phú sông Bạch Đằng đoạn 3, 4, đón đọc 🌹 Thuyết Minh Phú Sông Bạch Đằng 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Phú Sông Bạch Đằng Đoạn 3 Học Sinh Giỏi – Mẫu 3
Tham khảo bài văn mẫu phân tích Phú sông Bạch Đằng đoạn 3 học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Trương Hán Siêu là một danh sĩ đời Trần, sau lúc qua đời được vua Trần truy phong là Thiếu Bảo. Ông còn để lại bốn bài thơ và ba bài văn “Dục Thuý sơn khắc thạch”, “Linh Tế Tháp ký”, “Khai Nghiêm tự bi”, “Bạch Đằng giang phú”,… Trong thơ văn cổ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng nhưng “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu được xếp vào hạng kiệt tác.
Chưa rõ Trương Hán Siêu viết “Bạch Đằng giang phú” vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá – Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể đoán định được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất, tức là vào khoảng 1301 – 1354.
“Bạch Đằng giang phú” được viết bằng chữ Hán. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Văn Nguyên… đã dịch khá thành công áng văn này. Bài cảm nhận về “Bạch Đằng giang phú” dựa trên văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.
Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Chất trữ tình và yếu tố khoa trương đậm đặc trong phú. Có phú cổ thể và phú Đường luật. Phú cổ thể như một bài văn xuôi dài, có vần mà không nhất thiết có đối, còn gọi là phú lưu thuỷ. Phú Đường luật được đặt ra từ đời Đường, có vần, có đối, có luật bằng trắc chặt chữ, có những kiểu câu được quy phạm rõ ràng. “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu viết theo lối phú cổ thể, có vần sử dụng phép đối rất sáng tạo:
“Tiếng thơm đồn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt
Nhớ người xưa chừ lệ chan …”
Qua bài phú này, Trương Hán Siêu ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ, dòng sông lịch sử đã gắn liền với tên tuổi bao anh hùng, với bao chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng. Nhà thơ khẳng định: Núi sông hiểm trở, nhiều nhân tài hào kiệt đã tạo nên truyền thống anh hùng của dân tộc, sự bền vững của Tổ quốc muôn đời. Lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc là cảm hứng chủ đạo của “Bạch Đằng giang phú”.
Nhà thơ từ miêu tả, tự sự đến suy ngẫm về vinh, nhục, về thắng, bại trong lịch sử. Tổ quốc mãi mãi vững bền và nhờ có hai nhân tố quan trọng: đất hiểm và nhân tài. Tính tư tưởng của áng văn này rất sâu sắc. Tác giả đã nêu lên bài học lịch sử vô giá:
“Quả là trời đất cho nơi hiểm trở
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an”.
Bạch Đằng, Chi Lăng… là đất hiểm trở. Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung… là nhân tài. “Cuộc điện an” là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hòa bình, yên vui cho đất nước. Bằng lối so sánh, Trương Hán Siêu nhắc lại vai trò to lớn của Lã Vọng, Hàn Tín bên Trung Quốc đã để lại võ công lừng lẫy một thời, qua đó tác giả tự hào ngợi ca Hưng Đạo Vương, người anh hùng vĩ đại thuở “bình Nguyên” oanh liệt”:
“Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng
Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn”.
“Thế giặc nhàn” là thế giặc dễ đánh thắng. Quả đúng như vậy lần thứ 3 giặc Nguyên – Mông sang xâm lược nước ta đã bị đại bại. Con người anh hùng “coi thế giặc nhàn”, tên tuổi sống mãi với Bạch Đằng giang, với đất nước Đại Việt: “Tiếng thơm đồn mãi – Bia miệng không mòn”.
Đoạn văn miêu tả dòng sông, đoạn kể lại trận thủy chiến là đặc sắc nhất. Màu sắc tráng lệ. Hình ảnh kỳ vĩ. Phép đối được vận dụng rất tài tình để biểu lộ niềm tự hào dân tộc và sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Trương Hán Siêu đã bày tỏ một quan niệm về đất hiểm và nhân tài về vinh và nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng… trong cuộc đời và trong lịch sử. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả một cách tráng lệ, nên thơ, tạo nên vẻ đẹp văn chương của “Bạch Đằng giang phú”.
“Cốt minh đức cao” .Phần cuối bài phú là bài ca của lão về dòng sông, về đất nước và con người Việt Nam. Sông Bạch Đằng hùng vĩ “một dải dài ghê” là mồ chôn lũ xâm lăng. “Sóng hồng cuồn cuộn trôi về biển Đông”. Máu giặc như mãi mãi nhuộm đỏ dòng sông. Một cách nói hào hùng. Giặc bất nghĩa nhất định bị tiêu vong. Các anh hùng để lại tiếng thơm muôn đời, lưu danh sử sách. Nhà thơ dành cho hai vua Trần những lời đẹp đẽ nhất:
“Anh minh hai vị thánh quân
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh”
“Thánh quân” là Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ 2 và lần thứ 3 đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Nhờ những nhân tài mà đất nước được “điện an”; nhờ những ông vua tài giỏi, sáng suốt, anh minh mà Đại Việt được “thanh bình muôn thuở”. Một lần nữa tác giả lại khẳng định bài học lịch sử giữ nước: “bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”.
Đức cao là lòng yêu nước thương dân, là tinh thần đại đoàn kết dân tộc, là tinh thần cảnh giác trước hiểm họa ngoại xâm. Một nét đặc sắc trong thơ văn đời Trần là ngoài “hào khí Đông A” còn nêu cao bài học xây dựng bảo vệ đất nước: “Thái bình nên gắng sức – Non nước ấy ngàn thu” (Trần Quang Khải). “Đức cao” là nguyên nhân thắng lợi, như Trần Quốc Tuấn đã nói: “Vua tôi đồng long, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” – đó là nguồn sức mạnh Việt Nam.
Tóm lại, “Bạch Đằng giang phú” là một bài ca yêu nước tự hào dân tộc. Tên tuổi Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn trường tồn với dòng sông lịch sử. Lời văn hoa lệ, tư tưởng tình cảm sâu sắc, tiến bộ. Chất trữ tình sâu lắng. Âm điệu anh hùng ca, không khí trang trọng cổ kính. Tài hoa trong miêu tả, hùng hồn trong tự sự, u hoài trong cảm xúc, sáng suốt lúc bình luận… là những thành công của Trương Hán Siêu.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Phú Sông Bạch Đằng Đoạn 3 Nâng Cao – Mẫu 4
Với bài văn phân tích Phú sông Bạch Đằng đoạn 3 nâng cao dưới đây, các em học sinh có thể trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.
Trương Hán Siêu là người gốc Thái Bình, Tự là Thăng Phủ. Ông là người từng giữ rất nhiều chức vụ quan trọng dưới triều đại nhà Trần, với học vấn cao uyên thâm nên ông được rất nhiều học trò và nhân dân kính trọng, đặc biệt đến các nhà vua thời Trần còn phải nể phục. Thời đó ông được ban tặng tước vị Thái Bảo, Thái Phó khi mất đi ông được thờ ở Văn Miếu quốc tử giám.
Ông tham gia vào việc viết lách thơ văn nhưng để lại không nhiều tác phẩm, nhưng trong số tác phẩm ông sáng tác có bài “ Phú sông Bạch Đằng”. Tác phẩm còn được người đời đánh giá là phú xuất sắc nhất của văn học trung đại.
Bài phú có thể được chia làm 4 đoạn: đoạn 1 là cảm xúc rất lịch sự của nhà thơ đối với sông Bạch Đằng; đoạn 2 là lời của các bộ lão kể lại cho tác giả về lịch sử trên sông; đoạn 3 là suy ngẫm của nhà thơ về những lời kể của các lão bộ; đoạn 4 là sự ca ngợi về con sông và cả con người.
Ở đoạn 3, hình ảnh các bô lão có lẽ là sự phân thân của chính tác giả, chính sự phân thân ấy lại giúp ta hình dung rõ được thái độ của từng nhân vật. Các bô lão kể cho khách nghe từ không khí cho đến diễn biến trận đánh trên chiến trường nhằm khẳng định tình yêu và lòng tự hào đối với dân tộc. Khi được nghe chính các bô lão kể lại cho nghe tất tật về trận chiến đấu như thể trận đấu đang hiện hữu ngay trước mắt nhân vật “khách”. Các bô lão hăng say bình luận, kể cho bị ‘khách” đặc biệt những chiến công lừng lẫy.
Tuy nhiên:
Từ có vũ trụ,
Đã có giang sơn
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thủy, có quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ử mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Có thể nói nguyên nhân thắng lợi qua lời kể của các bô lão là từ đất trời cho địa thế hiểm trở, nhân tài giữ cuộc điện an và không thể thiếu đó là đại vương. Dù cho các lão bô cũng ý chỉ nguyên nhân thắng lợi là nhờ sự thuận lợi trời cho nhưng vẫn nhấn mạnh yếu tố chủ chốt đó là con người. Hình ảnh các bô lão cho con người là yếu tố quan trọng nhất làm ta gợi nhớ đến người anh hùng Trần Quốc Tuấn trong những vị anh hùng từ xưa.
Lấy con người làm trung tâm của vũ trụ là hình ảnh khẳng định một sức mạnh lớn lao của những con người tài cao nhất là vị lãnh đạo của toàn quân. Ở đó không chỉ nêu cao vai trò của con người mà con mang một giá trị nhân văn cao cho cả tác phẩm. Âm thanh, màu sắc cùng với tưởng tượng phong phú của tác giác tạo cảm giác mọi thứ đang được tô đậm thêm tất cả tạo nên một sự cộng hưởng.
Qua tác phẩm Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu đã cho ta đây là một kiệt tác tiêu biểu cho dòng văn học yêu nước và là niềm tự hào cho dân tộc, tự hào truyền thống đạo lý, nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam. Đồng thời thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc để cập vai trò và vị trí của con người.
Lời văn linh hoạt hàm súc đan xen yếu tố tự sự biểu cảm. Vì thế tác phẩm được coi là đỉnh cao của thể phú trong kho tảng văn học trung đại Việt Nam. Hơn thế nữa, bài phú còn gửi gắm nhiều quan niệm nhân sinh và triết lí tích cực rất cần thiết trong cuộc sống con người. Quả là áng văn hay sang mãi đến muôn đời!
Đón đọc tuyển tập 🌹 Phân Tích Bạch Đằng Giang Phú 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Phú Sông Bạch Đằng Đoạn 3 Facebook – Mẫu 5
Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích Phú sông Bạch Đằng đoạn 3 Facebook được các em học sinh quan tâm tìm kiếm với những ý văn hàm súc, sinh động.
Không biết tự bao giờ, sông Bạch Đằng đã đi vào thi ca như một nguồn cảm hứng vô tận. Trong bài “Bạch Đằng giang”, Nguyễn Sưởng có viết:
“Mồ thù như núi, cỏ cây tươi
Sóng biển gầm vang, đá ngất trời.
Sự nghiệp Trùng Hưng ai dễ biết
Nửa do sông núi lửa do người.”
Bài thơ tuy ngắn nhưng thật cường tráng hào hùng, khắc họa một dòng sông son ghi dấu biết bao chiến công của lịch sử nước Việt. Cũng cùng nội dung đó nhưng Trương Hán Siêu lại sử dụng thể phú cổ thể rất độc đáo trong tác phẩm mang tên “Phú sông Bạch Đằng”. Bài phú được coi là một áng văn mẫu mực của văn học trung đại, thể hiện rõ nét hào khí Đông A.
Sau lời kể về trận chiến là lời bình luận và suy ngẫm của các bô lão về chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Trong cuộc đối thoại, nhân vật “khách” đóng vai trò là người lắng nghe câu chuyện, đồng thời là người nói lời cuối cùng, kết lại lời kể và bình luận của các bô lão:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thăng bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.
Có thể nói tư tưởng nhân văn của Trương Hán Siêu được thể hiện đậm nét trong những câu ca này và chính “khách” là người phát ngôn thay cho tác giả. Lời ca của “khách” khẳng định vai trò, vị trí quyết định của yếu tố con người trong công cuộc trùng hưng đất nước.
Theo Trương Hán Siêu, thắng giặc không cốt ở đất hiểm mà chủ yếu là đức lớn, là sức mạnh của con người. Không có con người thì những yếu tố “thiên thời, địa lợi” cũng không giúp con người chiến thắng. Lời ca của nhân vật “khách”, thể hiện rõ sự tôn kính đối với hai vị vua triều Trần (Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông). Ngợi ca công lao nghìn năm tiết rỡ của con người là cách Trương Hán Siêu thể hiện cảm hứng mang giá trị nhân văn có tầm triết lí sâu sắc.
Như vậy, nhân vật “khách” xuất hiện trong tác phẩm cùng với những ý nghĩa quan trọng. Đây chính là hình ảnh trữ tình của nhà văn Trương Hán Siêu. “Khách”vừa là hình tượng nhân vật trong bài phú, vừa thể hiện lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc cũng như tinh thần nhân văn cao cả. Từ nhân vật này, ta có thể hình dung một cách rõ ràng về nội dung tư tưởng của sáng tác và tấm lòng yêu nước của Trương Hán Siêu.
Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Mở Bài Phú Sông Bạch Đằng 🌺 20 Đoạn Văn Hay Nhất
Phân Tích Bài Phú Sông Bạch Đằng Đoạn 4 – Mẫu 6
Để viết phân tích bài Phú sông Bạch Đằng đoạn 4, bên cạnh việc nắm vững nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, các em học sinh có thể tham khảo bài văn mẫu phân tích Phú sông Bạch Đằng đoạn 4 dưới đây:
Trương Hán Siêu là một tác giả lớn của thời đại nhà Trần. Tên tuổi của ông là Thăng Phủ, ông từng làm quan qua 4 đời vua và giữ nhiều chức vụ quan trọng như Hàn lâm học sĩ hay Thượng thư. Ông là một nhà chính trị tài ba lỗi lạc, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình và được nhà vua rất coi trọng, khi qua đời ông được vua truy tặng chức Thái bảo, Thái phó. Trương Hán Siêu là một danh sĩ nổi tiếng của nền văn học Trung đại Việt Nam, bài Phú sông Bạch Đằng ra đời trở thành một tác phẩm tiêu biểu, gắn liền với tên tuổi của ông.
Trương Hán Siêu vốn có tính tình cương trực, thẳng thắn và giàu lòng yêu nước, có nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên. Ông cũng là người có học vấn uyên thâm và sâu rộng. Để lại nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng như Cúc hoa bách vịnh, Hoá Châu tác, Dục Thuý sơn.
Trương Hán Siêu từng soạn bài ký tháp Linh Tế. Ông được coi là nhà văn hóa lớn của thời đại. Các tác phẩm của Trương Hán Siêu đều thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào về lịch sử tryền thống hào hùng của đân tộc Việt Nam hay tình yêu thiên nhiên. Ngôn ngữ trong thơ ông tinh tế, giàu cảm xúc lắng đọng, hình ảnh giàu sức gợi và tính thuyết phục cao.
Phú sông Bạch Đằng được xem là một tuyệt tác của Trương Hán Siêu, một đỉnh cao của văn học Việt Nam. Bài thơ viết theo thể phú viết xen lẫn văn vần và văn xuôi, được viết bằng chữ Hán. Bài phú sáng tác sau kháng chiến Mông Nguyên thắng lợi, đã thể hiện được tình yêu đất nước và sự tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc. Có ý nghĩa lớn trong việc đúc kết lại những chiến thắng Bạch Đằng lúc bấy giờ.
Hai bài ca ở đoạn cuối là niềm tự hào về non sông hùng vĩ gắn với các chiến công lịch sử và thể hiện quan niệm của tác giả về yếu tố quyết định trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước chính là con người.
Bài ca đầu là lời bình luận của các bô lão mang ý nghĩa tổng kết, có giá trị như một tuyên ngôn về chân lí: những kẻ bất nghĩa như Lưu Cung thì tiêu vong, còn những người anh hùng như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo thì lưu danh thiên cổ:
Sông Đằng một dải dài ghê,
Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
Ở bài ca thứ hai, tác giả ca ngợi tài năng kiệt xuất của các vua nhà Trần đã sáng suốt chỉ đạo tướng sĩ làm nên chiến công oanh liệt trong lịch sử giữ nước của dân tộc và một lần nữa khẳng định vai trò to lớn và quyết định của con người trong chiến tranh:
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thăng bình.
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học Việt Nam thời trung đại: cấu tứ đơn giản mà hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động mang đậm tính chất triết lí. Ngôn từ vừa trang trọng, hào sảng, vừa lắng đọng, gợi cảm.
Chia sẻ 🌼 Kết Bài Phú Sông Bạch Đằng 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Hay
Phân Tích Đoạn 4 Phú Sông Bạch Đằng Học Sinh Giỏi – Mẫu 7
Phân tích đoạn 4 bài Phú sông Bạch Đằng sẽ đi sâu vào những suy ngẫm về hưng vong của đất nước. Tham khảo bài văn mẫu phân tích đoạn 4 Phú sông Bạch Đằng học sinh giỏi như sau:
Văn học mỗi thời kỳ đều để lại cho dân tộc những tác phẩm có giá trị lịch sử. Nhớ về thời Trần nhiều chiến công hiển hách, người ta không chỉ nhớ tới “Nam quốc sơn hà” mà còn nhớ tới một tác phẩm văn học nổi tiếng khác. Đó là bài thơ Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu. Bài Phú vừa là tác phẩm văn học xuất sắc vừa là tác phẩm thể hiện niềm tự hào dân tộc, gửi gắm tư tưởng triết lí sâu xa đáng suy ngẫm.
Cảm hứng sáng tác của Phú Sông Bạch Đằng là sự hào hùng, bi tráng. Trương Hán Siêu viết lên tác phẩm này trong hoàn cảnh bản thân ông là một trọng thần của Vương triều nhà Trần, khi đó đang có biểu hiện suy thoái, có nguy cơ sụp đổ. Trong một lần dạo chơi, tình cờ nhớ lại quá khứ hào hùng đã qua của dân tộc. Bởi vậy, Phú Sông Bạch Đằng vừa mang cảm hứng lịch sử, vừa mang cảm hứng thời thế, vừa có những triết lí được đúc rút thành bài học.
Về hình thức, Phú Sông Bạch Đằng được viết bằng chữ Hán, theo thể loại Phú (cổ thể), mượn hình thức đối đáp “chủ – khách” để thể hiện nội dung. Hệ thống câu từ của cả bài được Trương Hán Siêu xây dựng theo lối kể chuyện độc đáo.
Theo như lối kết cấu thông thường ở thể phú, bài phú có thể chia thành ba phần. Phần mở đầu (từ đầu cho đến … dấu vết luống còn lưu), giới thiệu nhân vật và lý do sáng tác. Phần thứ hai (từ Bên sông các bô lão… cho đến Nhớ người xưa chừ lệ chan) là nội dung đối đáp của nhân vật “khách” và các bô lão hai bên bờ sông. Phần kết thúc còn lại là lời ngợi ca của của nhân vật “khách”.
“Khách” xuất hiện trong tác phẩm có thể là tác giả, cũng có thể là một nhân vật trữ tình vô danh không rõ ràng. Nội dung bài phú là hành trình vị “khách” giong thuyền chơi sông, đi qua rất nhiều cảnh đẹp. Đến sông Bạch Đằng, vị “khách” tình cờ được nghe các bô lão địa phương kể về chiến công ngày trước. Hết lời kể đến lời ca, “khách” nghe và nối lời ca tiếp. Từ đó giãi bày tâm trạng, tình cảm và suy ngẫm của mình về sông Bạch Đằng và lịch sử hào hùng, bi tráng.
Xuôi theo dòng lịch sử, “khách” và bô lão tương ngộ. Nhân vật “Bô lão” là hình ảnh tập thể, xuất hiện trong hành trình giống như sự ủng hộ với vị khách bên trên. Họ đồng thời cũng là chứng nhân của lịch sử. Sự xuất hiện của họ tạo ra không khí đối đáp tự nhiên, từ đó giúp “khách” sống lại với những trận thuỷ chiến lẫy lừng từng diễn ra ở nơi đây. Luận bàn về nguyên nhân thắng lợi, khách và các bô lão cho rằng:
“Quả là:Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.”
Họ đánh giá chiến thắng hiển hách của dân tộc không chỉ nhờ vào địa thế hiểm trở mà còn nhờ vào nhân tài đất nước. Một trong những nhân tài kiệt xuất thời đại ấy là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Sông Bạch Đằng mênh mông sóng nước tự hào chính là chứng nhân, chứng kiến tất cả chiến công và sự anh minh của những danh tướng kiệt xuất ấy.
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.”
Người đọc có thể nhận ra triết lý sâu xa được gửi gắm trong lời ngợi ca. Đó là lời khẳng định kẻ bất nghĩa tất bị diệt vong còn người anh hùng sẽ được lưu danh muôn thuở.
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thăng bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.”
“Hai vị thánh quân” được nhắc đến trong câu thơ là vua Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ 2 và lần thứ 3 giành thắng lợi. Trương Hán Siêu ca ngợi sự anh minh của 2 vị vua có tài có đức, luôn đặt quyền lợi của quốc gia lên trên quyền lợi của cá nhân. Nhờ những bậc nhân tài như thế, đất nước được “điện an”; Đại Việt được “thanh bình muôn thuở”.
Lời ca của bô lão đan xen lời ca của “khách”. Lời ca của các bô lão khẳng định sự tồn tại vĩnh hằng của dòng sông lịch sử và những chiến công hiển hách nơi đây. Đồng thời cũng khẳng định sự tồn tại vĩnh hằng của chân lí: bất nghĩa tất yếu sẽ tiêu vong, chỉ có anh hùng là lưu danh thiên cổ. Lời ca của “Khách” tiếp nối niềm tự hào ấy đồng thời thể hiện quan niệm vững chắc vào vai trò của con người trong việc “giữ cuộc điện an” – một quan niệm tiến bộ và hết sức nhân văn.
Với cảm hứng hào hùng và hoài niệm về quá khứ hiển hách của dân tộc, “Phú Sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, ngợi ca truyền thống anh hùng và truyền thống đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, tác phẩm còn chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp, đề cao vai trò của con người trong lịch sử. Đây là tư tưởng vô cùng mới lạ, đáng trân trọng.
Không những là bài phú có nội dung sâu sắc, “Phú Sông Bạch Đằng” còn được đánh giá là tác phẩm đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam. Trương Hán Siêu đã khéo léo sử dụng cấu tứ đơn giản mà hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, những chi tiết chọn lọc đích đáng, súc tích, liền mạch cuồn cuộn cảm hứng. Đặc biệt là sự kết hợp tự sự và trữ tình một cách nhuần nhuyễn để miêu tả cảnh sông Bạch Đằng sinh động, giàu chất trữ tình.
Sự xuất hiện của nhiều điển tích, điển cố chọn lọc, vừa tăng sức gợi vừa làm nổi bật chất sử thi hoành tráng của bài phú. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng thành công những câu văn ngắn dài, đan xen thêm câu thơ tạo nên âm điệu hào hùng cho tác phẩm. Tác giả đã đưa “Bạch Đằng giang phú” trở thành khúc tráng ca bất hủ của dân tộc.
Dù bao năm tháng đã trôi qua, song với những giá trị to lớn của mình, “Phú Sông Bạch Đằng” vẫn sống mãi trong lòng con người Việt Nam, gắn liền với tên tuổi Trương Hán Siêu và niềm tự hào dân tộc từ đời này qua đời khác.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Bài Thơ Phú Sông Bạch Đằng 🌼 10 Bài Hay Nhất
Phân Tích Đoạn 4 Phú Sông Bạch Đằng Điểm 10 – Mẫu 8
Để viết bài phân tích đoạn 4 của bài Phú sông Bạch Đằng đạt kết quả cao, các em học sinh cần trau dồi cho mình những gợi ý hay khi làm bài. Tham khảo bài văn mẫu phân tích đoạn 4 Phú sông Bạch Đằng điểm 10 được chia sẻ sau đây:
Trong lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam, nhiều địa danh của đất nước đã trở thành những đề tài hấp dẫn, vì ghi dấu những chiến công vĩ đại như Hàm Tử, Chi Lăng, Đống Đa, sông Lô.v.v… Nhưng gợi nhiều cảm hứng nhất có lẽ phải kể đến sông Bạch Đằng lịch sử – nơi đã từng diễn ra những trận đánh quyết liệt chống quân xâm lược phương Bắc. Tại đây, Ngô Quyền thắng quân Nam Hán; Lê Hoàn quét sạch quân nhà Tống; Trần Hưng Đạo nhấn chìm đại quân Nguyên Mông.
Bởi thế, chỉ nói riêng trong lịch sử văn học thời trung đại đã nhiều cây bút tên tuổi như Trần Minh Tông, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Nguyên Mộng Tuấn;., đều viết về nó. Nhưng thành công hơn cả là Trương Hán Siêu với Bài phủ sông Bạch Đằng. Tác phẩm này từ lâu đã được đánh giá là bài phú nổi tiếng nhất ở đời Trần và cũng là một trong số ít bài phú xuất sắc nhất của văn học trung đại.
Đây là một bài phú cổ thể (hoặc còn gọi là phú lưu thuỷ), không tuân theo niêm luật chặt chẽ của Đường phú (hay còn gọi là phú Đường luật). Vẫn luật của bài phú loại này tương đối phóng khoáng, giàu nhạc điệu và dễ truyền tụng.
Bài phú sông Bạch Đằng có thể chia làm ba đoạn: 1 Niềm vui thích du ngoạn nhất là du ngoạn trên sông Bạch Đằng; 2 Thuật lại chiến công trên sông Bạch Đằng của cha ông xưa; 3 Bài học rút ra từ chiến công trên con sông này.
Trong một bài phú, thông thường tác giả hay hư cấu thêm một số nhân vật để đối đáp, tranh luận với mình. Điều đó góp phần làm cho bài phú sinh động hấp dẫn hơn, nhờ có sự đan xen của những câu đối thoại, những cầu bàn bạc: Khi thì bổ sung, khi thì bác bỏ ý kiến ban đầu. ở Bài phú sông Bạch Đằng có những nhân vật ., như: khách, ta, bô lão. Thực chất, đấy chính là sự phân thân của chính tác giả, trong một thủ pháp nghệ thuật của bài phú.
Tầm vóc của chiến thắng Bạch Đằng trong sự nghiệp bảo vệ giang sơn gấm vóc của quân dân đời Trần là vô cùng to lớn. Ở đoạn 4 của “Phú sông Bạch Đằng”, lời các bô lão có ý nghĩa sâu sắc:
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
Lời bình này trở thành chân lí của muôn đời, sống mãi cùng Bạch Đằng giang hùng vĩ. ở đây cũng như phần đầu, thời gian và không gian được tác giả thể hiện đan xen với nhau. Xưa và nay, không gian và thời gian dường như cũng được tái hiện làm cho câu chuyện tránh được sự tẻ nhạt, đơn điệu; và luôn sinh động hấp dẫn người đọc, Ngày nay, người ta thường gọi cách thể hiện này là nghệ thuật đồng hiện.
Tiếp theo lời các bô lão, khách cũng vui vẻ nối tiếp lời ca kết thúc bài phú. Lời của khách chính là phần tổng kết có chức năng bổ sung, đính chính những nhận định mà các bô lão đã trình bày ở trên (về nguyên nhân của chiến thắng), Với tâm trạng hân hoan, khách vừa đề cao công lao to lớn của các vị anh hùng đời Trần, vừa bày tỏ niềm tin vào sức sống mãnh liệt và tương lai tươi sáng của đất nước, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh tới yếu tố “đức cao” của dân tộc.
Sự nhìn nhận của khách về chiến thắng có chiều sâu triết lí. Sức mạnh của non sông đất nước không phải ở địa thế hiểm trở mà trước hết ở con người (“Giặc tan muôn thuở thanh bình – Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”).
Đây là một bài phú có bố cục chặt chẽ, nhịp điệu thay đổi linh hoạt phóng khoáng, lời văn cô đọng, dồi dào cảm xúc, khi thì xót thương nhớ tiếc, khi thì vui sướng tự hào. Tác giả lại rất giỏi phân thân thành những nhân vật khác nhau để vừa kể vừa phụ hoạ thêm… làm cho bài phú giàu chất thơ khiến người đọc xúc động tự hào về non sông đất nước hùng vĩ, về chiến công lừng lẫy và đường lối giữ nước tài tình của quân dân nhà Trần mà cũng là của dân tộc ta 7 thế kỉ trước.
Tặng bạn 🌹 Cảm Nhận Về Nhân Vật Khách Trong Bài Phú Sông Bạch Đằng 🌹 Văn Mẫu Đặc Sắc
Phân Tích Đoạn Cuối Phú Sông Bạch Đằng Ngắn Nhất – Mẫu 9
Với bài văn phân tích đoạn cuối Phú sông Bạch Đằng ngắn nhất dưới đây, các em học sinh có thể nhanh tham khảo và luyện tập cách hành văn súc tích.
Sông Bạch Đằng đã là một địa danh quen thuộc, là chứng nhân lịch sử đã viết lên nhiều mốc son chói lọi trong những trang sử vẻ vang của dân tộc, chính vì thế sông Bạch Đằng đã khơi gợi nhiều cảm hứng cho nhiều thi nhân văn sĩ, cho ra đời những tác phẩm khá nổi tiếng.
Một số tác phẩm ví như Bạch Đằng giang của Trần Minh Tông, Bạch Đằng giang phú của Nguyễn Mộng Tuân hay Bạch Đằng giang của Nguyễn Xưởng,… Trong đó phải kể đến một tác phẩm thuộc thể loại phú rất nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam ấy là bài Phú sông Bạch Đằng của tác giả Trương Hán Siêu.
“Bạch Đằng Giang phú” là một kiệt tác trong văn chương cổ Việt Nam. Về mặt nghệ thuật, đây là tác phẩm thể hiện đỉnh cao của tài hoa viết phú. Về nội dung tư tưởng, Bạch Đằng Giang phú là áng văn tràn đầy lòng yêu nước, tráng chí chất ngất, cùng tinh thần tự hào dân tộc và hàm chứa một triết lý lịch sử sâu sắc khi nhìn nhận nguyên nhân thành công của dân tộc trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước.
Ở đoạn cuối tác phẩm là lời ca khẳng định tài đức của con người:
“Rồi vừa đi vừa ca rằng:
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”
Khách cũng nối tiếp mà ca:
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.“
Tất cả tình yêu và niềm tự hào về dân tộc về cảnh vật thiên nhiên quê hương đều đã hiện hữu qua những hình tượng sông mênh mông, rộng lớn,..sóng dồn về biển Đông vốn là một quy luật của tự nhiên vậy mà nhà thơ lại lấy nó là một điều mới mẻ để khái quát quy luật của con người.
Để tiếp ca của các lão bô vị khách cũng không ngại gì ca vài câu để tạo thành một bản phú đặc sắc, cũng vẫn là những lời ca ngợi về con sông Bạch Đằng, về tài năng của vị anh hùng tài năng và mới hơn chính là cuộc sống thanh bình của dân tộc ta sau khi giặc tan. Chỉ qua một đoạn đối ca cùng nhau cũng chạm được một điều chung ý trí chung nội tâm của cả vị khách và các lão bô. Cả hai đều ca ngợi, tự hào về non sông hùng vĩ của dân tộc đều mang âm hưởng thi ca đều mong muốn cuộc sống thanh bình cho quê hương, dân tộc.
Tác phẩm đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc sâu sắc trước những chiến công trên sông Bạch Đằng lịch sử. Đồng thời tác phẩm cũng ngợi ca truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lí nhân nghĩa của dân tộc ta. Qua đó còn thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp, đề cao giá trị con người.
Tham khảo trọn bộ 🌹 Phân Tích Nhân Vật Khách Trong Phú Sông Bạch Đằng 🌹 15 Mẫu Đặc Sắc
Phân Tích Đoạn Cuối Phú Sông Bạch Đằng Facebook – Mẫu 10
Chia sẻ bài văn mẫu phân tích đoạn cuối Phú sông Bạch Đằng Facebook dưới đây giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
Phú sông Bạch Đằng là cảm nhận sâu sắc hào hùng của tác giả về lịch sử dân tộc và cảnh sắc nơi đây. Trong một lần dạo chơi, Trương Hán Siêu đã có cảm hứng viết bài phú về dòng sông này: Vừa tự hào, vừa hoài niệm, vừa thương tiếc anh hùng xưa.
Đoạn kết là tuyên ngôn về chân lý của các bô lão, những người bất nghĩa nhất định sẽ bị diệt vong, những người anh hùng, nhân nghĩa thì mãi được lưu danh thiên cổ. Đó là chân lí có tính chất vĩnh hằng như sông bạch đằng ngày đêm chảy siết, đổ về bể lớn, đó là một quy luật tự nhiên, bất biến, nghìn năm không thay đổi.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”
Hình tượng các bô lão trong tác phẩm có thể là các nhân vật có thật, họ có thể là những người dân địa phương ven sông Bạch Đằng mà tác giả gặp hay có thể là nhân vật hư cấu từ tâm tư của chính tác giả về các trận chiến trên sông Bạch Đằng trở nên khách quan. Họ là những người chứng kiến chiến tích lịch sử, là người kể lại tất cả các chiến tích hào hùng đó cho khách nghe. Người dân nơi đây, đại diện là các bô lão, họ luôn nhiệt tình tiếp khách và tôn kính khách.
Các bô lão kể lại các chiến tích bằng chất giọng hào hùng đó là sự tự hào mang nguồn cảm hứng của người trong cuộc. Nguyên nhân làm nên thắng lợi đó là thời thế thuận lợi, địa thế sông núi hỗ trợ, Con người – người tài, có đức lớn giữ vai trò quyết định quan trọng nhất đến thắng lợi của dân tộc. Tác giả gợi lại hình ảnh của Trần Quốc Tuấn và những hình ảnh so sánh để khẳng định sức mạnh và tài năng của con người nhân tố quyết định thắng lợi.
Ca ngợi chiến tích trên sông Bạch Đằng để khẳng định chân lý, khẳng định sức mạnh của con người góp phần quan trọng trong công cuộc gìn giữ non sông. Xuất phát từ lòng biết ơn, sự tự hào về những thắng lợi của lịch sử dân tộc và sự hùng vĩ của non sông.
Với bố cục chặt chẽ, câu từ đơn giản nhưng hấp dẫn, xây dựng các hình tượng nghệ thuật sinh động vừa gợi sắc trực tiếp vừa mang ý nghĩa khái quát, triết lý. Ngôn ngữ vừa lắng đọng, vừa gợi cảm nhưng cũng không kém phần hào hùng. Bài phú thể hiện lòng yêu nước sự tự hào dân tộc về truyền thống anh hùng bất khuất và thể hiện đạo lý nhân nghĩa cao đẹp, Mang lại tư tưởng nhân văn sâu sắc. Con người đóng và trò là bước đệm của mọi thành công và nỗi niềm cảm khái trước sông Bạch Đằng ở hiện tại.
Giới thiệu tuyển tập 🌟 Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng 🌟 15 Bài Hay
Phân Tích Tác Phẩm Phú Sông Bạch Đằng Đoạn 3, 4 – Mẫu 11
Bài văn mẫu phân tích tác phẩm Phú sông Bạch Đằng đoạn 3, 4 dưới đây sẽ là nội dung tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Sông Bạch Đằng là một trong những địa danh lịch sử với những chiến công lẫy lừng của cha ông ta. Đây cũng là con sông được nhắc đến trong thơ ca với niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Trong số đó, bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là một trong những tác phẩm nổi tiếng thời nhà Trần và cũng là một trong số ít những bài phú xuất sắc nhất của văn học trung đại Việt Nam.
Phú sông Bạch Đằng (tên chữ Hán Bạch Đằng giang phú) được dự đoán ra đời vào khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên thắng lợi của nhà Trần. Lấy cảm hứng từ một đề tài cũng không hề xa lạ, bởi sông Bạch Đằng đã trở thành thi liệu sáng tác của nhiều nhà thơ như Trần Minh Tông, Nguyễn Sưởng, sau này là Nguyễn Trãi.
Nhưng Trương Hán Siêu trong Phú sông Bạch Đằng đã mang tới biết bao cảm xúc vừa chân thực, thiết tha vẫn hoài niệm, xúc động để khơi dậy nên niềm tự hào, lòng yêu nước và khẳng định những tư tưởng nhân văn cao đẹp về giá trị con người.
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm ấy đã có một ý nghĩa rất to lớn trong sự nghiệp bảo vệ giang sơn của quân dân nhà Trần. Và điều đó càng chứng minh một chân lý:
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!
Với nghệ thuật tương phản, các bô lão đã lấy cái vận động, trôi chảy của dòng nước con người, dòng đời đối với nỗi nhục của quân thù, bởi nỗi nhục quân thù nghìn năm không sửa cũng có nghĩa là những chiến thắng của quân ta vĩnh viễn lên ngôi. Sau lời kể, các bô lão có lời bình luận giống như sự tổng kết về nguyên nhân làm nên chiến thắng ấy là có thiên thời, địa lợi nhưng vẫn đề cao yếu tố con người. Đó là một quan điểm tiến bộ, nhân bản. Đến đây lời ca của các bô lão gặp gỡ với khách ban đầu. Đó là nỗi buồn thương vừa nhớ tiếc.
Vượt lên nỗi buồn, nỗi đau các bô lão vẫn bừng sáng niềm tin, niềm tự hào vào chân lý vĩnh hằng, hồn nhiên, vĩnh viễn như chính cái dằng dặc, bao la của Bạch Đằng giang cuộn sóng hồng đổ về biển Đông tự bao đời. Trong lời ca của khách ở phần ba bên cạnh việc ca ngợi công đức vua Trần, những câu cuối còn đề cao và khẳng định tài đức con người, xem đó là nhân tố quyết định trong công cuộc đánh giặc ngoại xâm.
Phần cuối bài phú là những lời ngợi ca của các bô lão và lữ khách về dòng sông huyền thoại, về đất nước và con người Việt Nam anh hùng. Tác giả đã dành những lời khen tặng, ngợi ca dành cho những vị anh hùng mà đứng đầu là hai vị vua nhà Trần:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh
Hai vị “thánh quân” ở đây là vua Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ 2 và thứ 3. Nhờ những vị vua sáng suốt anh minh, nhờ những thủ lĩnh kiệt xuất cầm binh mà chúng ta đã giành được chiến thắng. Đến đây, tác giả khẳng định:
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
Điều đó cho thấy, chiến thắng không phải chỉ do thuận lợi về địa thế hiểm trở mà quan trọng nhất là ở con người, ở cái “đức cao” lòng yêu thương con dân, tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc. Đó mới chính là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng lầy lừng và vẻ vang nhất.
Có thể nói rằng, “Phú sông Bạch Đằng” là một bài ca yêu nước, tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc. Với bố cục chặt chẽ, nhịp điệu thay đổi linh hoạt phóng khoáng, lời văn cô đọng mà dạt dào cảm xúc, bài phú đã khiến người đọc thêm phần tự hào về non sông hùng vĩ và biết ơn sâu sắc thế hệ cha ông đã gìn giữ cho đất nước thanh bình hôm nay. Đó cũng chính là giá trị cao cả nhất, giúp tác phẩm trở thành một trong những bài phú xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam.
Mời bạn khám phá thêm 💕 Phân Tích Đoạn 1 Phú Sông Bạch Đằng 💕 15 Bài Hay Nhất
Phân Tích Bài Phú Sông Bạch Đằng Đoạn 3, 4 Đơn Giản – Mẫu 12
Đón đọc bài văn phân tích bài Phú sông Bạch Đằng đoạn 3, 4 đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và luận điểm cơ bản nhất.
“Phú sông Bạch Đằng” – một tác phẩm tiêu biểu cho đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam. Tác giả Trương Hán Siêu đã bằng những hoài niệm quá khứ để thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc về chiến công lừng lẫy trên sông Bạch Đằng. Có thể nói bài phú chứa đựng những giá trị tư tưởng nhân văn sâu sắc, đó là truyền thống anh hùng bất khuất và đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam ta.
Sau thời khắc sống lại những giây phút hào hùng thắng lợi của quân dân ta, các bô lão đã nhận định về nguyên nhân dẫn đến thắng lợi:
“Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an”
Trong đó, ba yếu tố được nhấn mạnh đến chính là thiên thời – địa lợi – nhân hòa, vai trò của con người là yếu tố quan trọng nhất, đặc biệt hình ảnh của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được so sánh với những người hùng thế hệ xưa như một lời khẳng định sức mạnh, sự anh minh, tài năng lãnh đạo nghĩa quân của ông “Bởi đại vương coi thế giặc nhàn”. Trong bài phú, riêng hai bài ca cuối bài được chuyển sang thể lục bát, đó là bài ca của các bô lão và lời ca của kẻ khách:
“Sông Đằng một dải dài ghê…
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”
“Anh minh hai vị thánh quân…
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao”
Lời ca của các bô lão đã ca ngợi hình tượng con sông Bạch Đằng mênh mông, rộng lớn và hiểm trở, thể hiện niềm tự hào về dòng sông lịch sử, đồng thời khẳng định một quy luật tất yếu muôn đời kẻ bất nghĩa sẽ tiêu vong, người anh hùng sẽ được lưu danh muôn đời. Còn lời ca của kẻ khách nối tiếp niềm tự hào đó, ca ngợi sự anh minh của Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông mang đến sự thanh bình yên ổn muôn thuở sau này của dân tộc.
Qua bài “Bạch Đằng giang phú”, người đọc nói chung và nhân dân Việt Nam ta nói riêng được ôn lại những trang lịch sử dân tộc vẻ vang, hào hùng, củng cố thêm niềm tự hào và tự tôn dân tộc. Đồng thời người đọc có ấn tượng sâu sắc bởi đây là bài phú viết bằng chữ Hán được xếp vào loại hay bậc nhất văn học trung đại Việt Nam.
Tiếp tục tham khảo 🌟 Phân Tích Đoạn 2 Phú Sông Bạch Đằng 🌟 10 Mẫu Hay Nhất