Phân Tích Mặt Đường Khát Vọng: 37+ Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Mặt Đường Khát Vọng ❤️ 37+ Mẫu Hay Nhất ✅ Mời Các Bạn Tham Khảo bài Mẫu Phân Tích Bài Thơ Mặt Đường Khát Vọng Đặc Sắc Nhất.

Dàn Ý Phân Tích Mặt Đường Khát Vọng Đơn Giản

Gợi ý cho bạn mẫu dàn ý cho bài văn phân tích trường ca “Mặt đường khát vọng” đơn giản, tham khảo ngay:

I. Mở bài:

  • Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm ra đời vào năm 1971, giữa lúc của kháng chiến chống Mĩ diễn ra khốc liệt.
  • Tác phẩm được xem là là một trong số những trường ca hay nhất của nền thi ca Việt Nam.

II. Thân bài:

  • Cấu trúc của trường ca “Mặt đường khát vọng” gồm 9 chương: “Lời chào”, “Báo động”, “Giặc Mĩ”, “Tuổi trẻ không yên”, “Đất nước”, “Áo trắng và mặt đường”, “Xuống đường”, “Khoảng lớn âm vang”, “Báo bão”.
  • Phong cách ngôn ngữ trong đoạn thơ trên là: nghệ thuật
  • Phương thức biểu đạt chính là: biểu cảm.
  • Chất liệu văn học dân gian: làm đoạn thơ trở nên gần gũi, thân thuộc, hấp dẫn. Qua đó làm hiện lên hình ảnh con người Việt Nam nhân hậu, nghĩa tình, giàu sức sống, giàu niềm tin.
  • Sử dụng phép liệt kê: “những chân trời”, “những mảnh đất”, “những biển khơi”, “những ngàn sao” => nhấn mạnh những sự phong phú của những khát khao , ước mơ hoặc nhấn mạnh những khát khao khám phá được nhiều điều lớn lao, nhiều vẻ đẹp của cuộc đời.

III. Kết bài

  • Tóm tắt lại nội dung, ý nghĩa tác phẩm.
  • Cảm nhận của em sau khi phân tích về trường ca “Mặt đường khát vọng”.

Tham khảo mẫu 🌸 Dàn Ý Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm 🌸 chi tiết!

9+ Mẫu Phân Tích Mặt Đường Khát Vọng Hay Nhất

SCR.VN chia sẻ cho các bạn những bài văn phân tích trường ca “Mặt đường khát vọng” hay nhất, tham khảo ngay!

Phân Tích Mặt Đường Khát Vọng Của Nguyễn Khoa Điềm Đặc Sắc

Một trong những bài văn phân tích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm đặc sắc nhất, mời bạn cùng xem:

Nguyễn Khoa Điềm là một trong nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ những năm chống Mỹ – thế hệ đã có những đóng góp xuất sắc cho nền thơ ca Việt Nam những năm tháng ấy, đưa thơ ca trữ tình tuổi trẻ. Tư tưởng của ông trong thời kì này là sự tự nhận thức của tuổi trẻ về vai trò của mình và trong cuộc đấu tranh, tự nhận thức sâu sắc về đất nước và con người qua lập trường của chính mình. Tác phẩm tiêu biểu của ông trong chủ đề này chính là Mặt đường khát vọng. 

Mặt đường khát vọng là sự thức tỉnh của tuổi trẻ, lớp thanh niên được sống trong cảnh hòa bình. Họ nhận thức được rằng mình đang được sống trong thời bình, thời kì bình yên nhất mọi thời đại.

Cuộc sống ngày hôm nay họ có được là nhờ công lao của những người chiến sĩ thời chiến. Họ sẵn sàng hy sinh tình yêu, thanh xuân, gia đình hay cả tính mạng cho mình chỉ vì hai chữ “độc lập” cho toàn dân tộc ta. Lớp trẻ tự nhìn thấy ra được rằng “ta lớn lên rồi một sắc hồng” – hoàn cảnh sống quyết định được suy nghĩ, quyết định được nhận thức trong mỗi người về lòng biết ơn và trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giữ nước. 

Trong đời sống, lòng biết ơn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự hoàn thiện và phát triển nhân cách con người. Đó chính là tấm lòng biết ơn, luôn ghi nhớ công lao, sự hi sinh của người khác dành cho mình. Lòng biết ơn được thể hiện trong cả suy nghĩ và hành động, từ những hành động nhỏ đến những hành động lớn. Đó là tư tưởng , là thái độ kính trọng, quý trọng, là hành động đền đáp, cảm ơn người có ơn với mình.

Việt Nam thể hiện lòng biết ơn bằng ngày lễ như ngày 27 tháng 7 là ngày tưởng nhớ công lao của thương binh liệt sĩ – những người đã hy sinh xương máu, tính mạng để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống sau này cho các thế sau mai sau…

Tác giả vận dụng một cách sáng tạo yếu tố ẩn dụ. Sử dụng những màu sắc đời thường như “màu mực tím”, “sắc hồng”,… để vẽ lên sự bình yên trong thời bình. Qua đó cho ta thấy được vai trò quan trọng của việc biết ơn đến những người chiến sĩ đã phải nằm xuống nơi chiến trường từ đó thấy được vận mệnh đất nước nằm trong tay các thế hệ sau này, giới trẻ phải có trách nhiệm làm tròn nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.

Đoạn thơ cho thấy điểm mạnh của thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa cảm và nghĩ, chính luận và trữ tình. Tuy nhiên, nhược điểm của bài thơ này cũng khá rõ tính chính luận là còn nặng nề, tràn ngập cảm xúc, ý diễn ra chồng chéo và dàn trải, đoạn chưa thật cô đọng để gây ấn tượng. Hơn nữa, nội dung nghị luận chính trị không mới và sâu.

Mặt đường khát vọng được coi là bài thơ vừa mang tính trữ tình vừa mang tính chính luận. Nguyễn Khoa Điềm khắc họa thành công vai trò quan trọng của những người chiến sĩ trong công cuộc giành lại độc lập cho đất nước và tinh thần dân tộc của thế hệ trẻ trong thời bình, sự nhận thức đúng đắn về vai trò của bản thân.

Phân Tích Trường Ca Mặt Đường Khát Vọng Ngắn Gọn

Mẫu bài văn phân tích trường ca “Mặt đường khát vọng” dưới đây được đánh giá hay và ngắn gọn, mời bạn xem ngay

Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế trong một gia đình trí thức giàu truyền thống yêu nước và cách mạng.

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Trong những năm kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã gắn bó máu thịt với mảnh đất quê hương.

Thơ của ông thời đánh Mĩ cũng thường viết về cuộc sống, chiến đấu của con người trên vùng đất Huế. Người đọc yêu thơ của Nguyễn Khoa Điềm bởi những xúc cảm dồn nén, những suy tư sâu sắc về dân tộc và thời đại.

Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974. Tác phẩm viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược.

Thanh Tùng của báo Tiền Phong nhận định: “Trong ‘Mặt đường khát vọng’ với lối viết rất riêng, không đao to búa lớn, và không bắt đầu từ những anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo… tác giả thủ thỉ kể về mình và về người bạn gái đang dấn thân trong cuộc đấu tranh, về những con người rất bình dị nhưng đều có những cống hiến cho đất nước với thái độ vô cùng yêu thương, trân trọng…

Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn khác về đất nước và nhân dân với cách thể hiện cũng rất riêng của mình. Đó là sự tìm tòi, là cái nhìn mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước ở thời điểm ấy, thời hoa lửa”.

Hiền Thảo của báo Tổ Quốc cho rằng: “Cách định nghĩa đất nước của Nguyễn Khoa Điềm rất thơ và khúc chiết, không chung chung trừu tượng mà khá cụ thể. Quan niệm đó, vừa có tính kế thừa, vừa phát triển mang ý nghĩa triết lí rộng lớn, thể hiện chiều sâu, bề rộng văn hoá, những trải nghiệm, suy tưởng riêng và xúc động mãnh liệt, chân thành của Nguyễn Khoa Điềm.

Trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm nằm trong số những tác phẩm tiêu biểu của thơ phong trào thơ chống Mĩ. Hàng loạt các tập thơ ra đời đã thể hiện lòng yêu nước sục sôi, tinh thần đấu tranh anh dũng của thế hệ trẻ miền Nam. Thơ của họ là tiếng lòng của những con người nguyện sống chết cho non sông:

Nếu thơ con bất lực
Con xin nguyện trọn đời
Dùng chính trái tim mình làm trái phá
Sống chết một lần thôi.
(Trần Quang Long)

Thơ của họ bừng bừng khí thế hào hùng của tuổi trẻ trong đấu tranh giải phóng quê hương:

Ta nghe chừng đoàn người ngựa Thăng Long
Đang phá vỡ trùng vây, đập tan quân cướp nước
Ta đã thấy vành đai mở rộng
Thành phố rộn ràng khoác áo tứ thân.
(Nguyễn Kha)

Mẫu 🌸 Cảm Nhận 9 Câu Đầu Đất Nước 🌸 hay nhất!

Phân Tích Mặt Đường Khát Vọng Chi Tiết

Học cách làm bài văn phân tích trường ca “Mặt đường khát vọng” cùng mẫu chi tiết dưới đây!

Trường ca “Mặt Đường Khát Vọng” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm gồm chín chương, được tác giả viết xong tháng 12 năm 1971, Nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng ấn hành tháng 1/1974.

Trong đó, chương “Đất Nước” có sức hấp dẫn đặc biệt, tương thích với tâm lý và nguyện vọng của quần chúng yêu thơ, mặc dù hình thức biểu đạt dưới dạng thơ tự do, không mấy gần với thể lục bát hay song thất lục bát mà sự tiếp nhận thơ truyền thống đã trở thành tập quán của người đọc/nghe thơ ở Việt Nam.

Tuy nhiên, đưa bài thơ trở về cấu trúc tổng thể của trường ca “Mặt Đường Khát Vọng” thì mới thấy trọn vẹn cái hay, cái đẹp phát tỏa hào quang.

Trước chương “Đất Nước” là bốn chương (Lời Chào, Báo Động, Giặc Mỹ, Tuổi Trẻ Không Yên) và sau đó cũng là bốn chương (Áo Trắng Và Mặt Đường, Xuống Đường, Khoảng Lớn Âm Vang, Báo Bão).

Như vậy, về cấu trúc, trường ca “Mặt Đường Khát Vọng” có sự đối xứng, mà chương “Đất Nước” ở trung điểm, nơi kết tụ từ những chương trước và tỏa lan tới những chương sau các sự kiện, vừa mang tính lịch sử vừa là thực tại của thời đại, liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc chiến tranh, một cách tuần tự, theo hướng đi lên chứ không phải theo hình parabol, tạo nên cao trào cho ý thơ phát triển, tuân thủ lớp lang tư duy thơ của tác giả, giữ được mạch thơ nhất quán.

Những điểm căn bản trong chương “Đất Nước,” như đã phân tích ở trên, đều có ở tám chương khác. Đó là tiếng thơ tự con tim trào ra cái năng lượng làm chuyển hóa tâm hồn đồng loại, làm điểm tựa cho sức bật lý trí vươn vai:

Ta đã đi qua những năm tháng không ngờ
Nhưng chiều nay, một buổi chiều dữ dội
Ta nhận ra mình đang lớn khôn

Khuôn mặt trẻ bỗng già trên lớp sóng
Ngẩng đầu lên, ta thấy mặt quân thù!

(Chương 1)

Những câu thơ “lời chào” ấy dung dị mà lại báo hiệu một cơn bão lớn đang hình thành với sức mạnh không thể ngăn được:

Ta quay nhìn. Sông đã hóa mênh mông
Từ trầm tư, sông vỗ sóng trùng trùng
Nối lịch sử những bờ không giới hạn
Những cam kết hôm nay với trăm đấng anh hùng…

(Chương 2)

Bởi vì kẻ xâm lược đã gieo gió trên lãnh thổ Tổ quốc yêu thương bằng những hành vi thú vật:

Chúng đánh ta để ta không tìm được chiều cao
… Chúng đánh ta trụy hết những bào thai truyền thống
… Chúng biểu diễn cuộc đời ta thành véc-tơ, đồ thị
Bằng chính máu chúng ta nhằm chứng minh hiệu năng vũ khí!

(Chương 3)

Bằng ngôn ngữ thơ, chương 3 là bản cáo trạng hùng hồn, lột tả chân tơ kẽ tóc cái bản chất dã thú của một đội quân dưới sự chỉ huy của những tên độc tài khát máu ôm mộng bá chủ hoàn cầu, hòng lũng đoạn thế giới bằng những thủ đoạn đê tiện, hèn hạ nhất-đó chính là quân đội viễn chinh Mỹ dưới thời Giôn-xơn, Ních-xơn hiếu chiến.

Quân đội đó bị vạch mặt, chỉ tên đích danh:

Tên Mỹ kia! Mày bị căm ghét đời đời
… Mày đến Việt Nam. Và đánh mất ở đây tất cả những giá trị cao quý con người.

Bộ mặt của bè lũ đế quốc, hành vi mất tính người của kẻ xâm lược không chỉ dồn tuổi trẻ miền Nam Việt Nam vào trạng thái:

“Lòng ta không bình yên
Lòng ta vẫn đầy khắc khoải,

để đến nỗi:

“25 năm qua chưa một đời trai trẻ
… Ta căm giận ngàn đời chúng mày, giặc Mỹ
Ta đau buồn “Đất Nước” hiểu ta không?

mà còn đẩy chính thanh niên Mỹ vào thảm cảnh:

“Chúng tôi là một động vật mới mẻ
… Chúng tôi tự do làm tình, tự do buồn, tự do ca hát
Tự do chết khi quét cùn thân xác….

Chính những điều đó đã thức tỉnh tuổi trẻ cả dân tộc Việt Nam:

“Hãy đứng dậy! và giơ cao ngọn đuốc!
Của tình yêu đã khơi lửa ngàn đời
Hãy nhận mặt quân thù và xuất kích hôm nay
Giành chiến thắng và làm nên hạnh phúc!

(Chương 4)

Hơn thế, từ bốn chương đầu không ngừng “ló rạng” những điểm nhìn, những chi tiết, để đến Chương 5-“Đất Nước” hiện ra ngời sáng.

Những chi tiết đắt giá nằm trong ký ức được đánh thức:

Biết ơn những cánh sẻ nâu đã bay đến cánh đồng
Rút những cọng rơm vàng về kết tổ
… Biết ơn mẹ vẫn tính cho con thêm một tuổi sinh thành
‘Tuổi của mẹ’ con nằm tròn bụng mẹ
Để con quý yêu tháng ngày tuổi trẻ…”

(Chương 1)

Cho đến những ký ức “lớn hơn”:

Buổi sáng ấy
… Hình dáng những chiếc tàu há mồm ngoạm vào thành phố…

khiến trong lòng cựa quậy:

“Lịch sử đã lặp lại rồi chăng?
Một nỗi đau từ vô tận vô cùng
Ùa vào mỗi căn nhà, góc phố…

(Chương 2)

Và:

Không ở đâu bằng “Đất Nước” Việt Nam này
Nơi nhân loại thêm một lần nhìn thấy…

(Chương 3)

Ôi những hàng cây từng in bóng huy hoàng
Trên đại lộ những năm đời mới lớn
Giờ đổi lá trầm ngâm màu tóc trắng
Của bụi đường và khói hơi cay…
(Chương 4)

Có rất nhiều ký ức như vậy kết lại, thầm thì và quặn lên:

Em ơi em “Đất Nước” là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên “Đất Nước” muôn đời…

để rồi bật lên da diết:

Ôi mây trắng ngang đầu, gió dưới rừng xa
“Đất Nước” ở đâu? Đâu là “Đất Nước”
… “Đất Nước” trên miệng ta rồi
Trong tim ta mang
Trên chân ta bước
“Đất Nước”! “Đất Nước”!
Cả núi rừng thét lên đồng loạt!

(Chương 5)

Chính ở Chương 5 – chương trung điểm này, tác giả truyền tới người đọc hai điểm nhấn đầy cảm xúc: sông Hồng (còn gọi là sông Mẹ hay sông Cái) và châu thổ nó sinh ra – Đồng bằng Bắc Bộ và cũng là miền Bắc hậu phương lớn, nơi:

Mẹ phả vào mặt con nồng nàn mùi sữa
Của những đồng xa nguyên vẹn được mùa
… Trong tháng năm chớp bể mưa nguồn
Ru con lớn và làm người thương Mẹ…

và, hình tượng Bác Hồ muôn vàn kính yêu:

Có Người, chúng tôi có lại Hùng Vương
Có lại dáng búp sen nghìn năm của chùa Một cột
Và những búp sen miền Nam tận bùn lầy Đồng Tháp
… Bởi vì Người là “Đất Nước” tôi
… Lý tưởng của Người
Sự sống chúng tôi mang….

Hai điểm nhấn này – sông Hồng và hình tượng Bác Hồ – là dấu khắc đậm đà, trước hết từ tình cảm của bản thân tác giả truyền sang người đọc.

Nguyễn Khoa Điềm sinh ra ở Huế nhưng có nguồn gốc bản quán tại mảnh đất Xứ Đông (Hải Dương-Hải Phòng trước đây còn gọi là tỉnh Đông, phía đông Thăng Long, bên bờ sông Hồng, nhìn sang Xứ Đoài là Hà Đông-Sơn Tây, phía tây và nay thuộc Hà Nội), trước kia nằm giáp biển, một vùng địa linh nhân kiệt nổi tiếng từ xa xưa, nên ông còn tên gọi khác là Nguyễn Hải Dương.

Thân sinh của ông là nhà báo Hải Triều (tức Nguyễn Khoa Văn, nổi tiếng trong cuộc luận chiến mà ông đứng về phía quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh”), thuộc dòng dõi quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng (1690-1725) là một công thần thời chúa Nguyễn Phúc Chu.

Thời trẻ, ông trở lại gắn bó với miền Bắc, học tập và trưởng thành. Bởi vậy, nhà thơ viết:

Chúng ta là người miền Nam
Nhưng tôi biết anh gốc gác họ Hoàng Kinh Bắc
Còn tôi họ Nguyễn tỉnh Đông
Huyết thống ta trôi trên bán đảo âm thầm
Hôm nay bỗng réo sôi từng hồi trống trận
Khi cơn lũ đang lao qua châu thổ sông Hồng!

Tình cảm cá nhân ông đã hòa vào tình cảm chung của nhân dân, để nói lên tiếng nói của đồng bào, đồng chí, hòa vào sức mạnh tổng hợp của “Đất Nước.” 

Trên con đường đi tới của dân tộc, sức mạnh “Đất Nước” lớn lên trong từng bước, từng giai đoạn:

Mọi cái đều là phía trước
… Mặt đường dãn ra trong nắng
Đón những bàn chân bước mạnh
Và bâng khuâng tìm nhớ
Những bước chân quen….

Ngay ở những câu thơ này, quá khứ và hiện tại bện chặt vào nhau và hướng về tương lai, tạo nên thế vững chãi của hình tượng “chiếc kiềng ba chân” hay “ba cây chụm lại thành hòn núi cao”:

Mặt đường đưa ta về ngày hội lớn
Độc lập, Hòa bình, Thống nhất Bắc Nam…
… Vì hôm nay
Với cả trái tim đầy
Ta ra trận bằng màu áo trắng…

(Chương 6)

Đặt tiêu đề “Áo Trắng Và Mặt Đường,” Chương 6 trực tiếp nói về phong trào học sinh sinh viên miền Nam ngày ấy, tác giả gián tiếp “thiết lập” con đường tiến công vào sào huyệt cuối cùng của chế độ thực dân mới, mà chương bảy cụ thể hóa với khí thế hừng hực:

Thành phố hồi sinh trên khắp mặt đường
… Ta quỳ xuống mặt đường
… Ta xông lên chiếm hết mặt đường
… Hãy cùng đi mở rộng cửa Thành Đồng!

(Chương 7)

Con đường ấy dẫn đến âm vang:

Ta trở lại với phố phường náo động
Để lắng hết cái độ rền sự sống
Cái đường tròn mới lạ của âm thanh…
… Chúng con đi cuối đất, cùng trời
Đuổi hết giặc Mỹ rồi, con mẹ mới nguôi…

(Chương 8)

Năm 1971, lúc quân Mỹ chưa cút khỏi miền Nam, trong Chương 9 của trường ca “Mặt Đường Khát Vọng” đã xuất hiện khổ thơ có tính dự báo:

Ngàn năm sau không có phút này đâu
Ngàn năm trước sẽ gọi là mơ ước:
Phút đuổi Mỹ, phút ta giành lại nước
Mỗi tấc đường đều dậy gió xung phong!

Niềm tin ấy, khát vọng ấy đọng trong tim, nuôi dưỡng tâm hồn lớn lên hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây:

Xin trút một đời vào sức nặng bàn chân
… “Đất Nước” muôn năm!
Những ngựa đá lại xuống đường
Những rồng đá phải bay lên mà đuổi giặc
Những bà mẹ đo chân vào thần tích
Để hoài thai triệu triệu những anh hùng
Những anh hùng Việt Nam chống Mỹ
Đang xuống đường như nắng xuống quê hương…

(Chương 9)

Ngày mà Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành trường ca “Mặt Đường Khát Vọng” ông đang ở tuổi chưa đầy ba mươi (ông sinh ngày 15/4/1943), chưa vào độ “tam thập nhi lập,” vậy mà hồn thơ ông đầy đặn, chín chắn, dung chứa chật căng lý tưởng của một tư duy hoàn thiện về thời đại, về nhân dân, về “Đất Nước.” 

Ông trình bày một “vấn đề” rất phức tạp, đa chiều với những dòng thơ đầy chiêm nghiệm của một người hiểu thấu căn nguyên, như nhà bác học Abert Einstein (1879-1955), người sáng tạo ra phương trình tuyệt đẹp để giải mã bí ẩn của vũ trụ, từng khuyên: “Nếu bạn không thể trình bầy một vấn đề sao cho đơn giản, ấy là vì bạn chưa thấu hiểu vấn đề đó.”

Là chiến sỹ ở mặt trận Thừa-Thiên-Huế hồi đó, trong trường ca “Mặt Đường Khát Vọng,” hình ảnh Huế và và nhân dân quê hương ông luôn xuất hiện với tình cảm đắm sâu thương mến và khát vọng cháy bỏng:

Thành phố dịu dàng lên những hợp âm
Con sóng vỗ vào đá kè Thương-bạc
Tiếng guốc gõ lối hoàng cung tím ngát
Cuốn cái rì rào phố xá đi xa…

(Chương 8)

hay ngược lên tìm ngọn nguồn cái tên:

“Kờ-ruồng Kù-tiệt!
Tiếng suối hay tiếng chim?
Tiếng người hay tiếng chiêng?
… “Đất Nước”! “Đất Nước”!…
(Chương 5)

Đang lúc cầm súng trong tay, nhưng người cựu sinh viên khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội vẫn nuôi dưỡng và rèn luyện cảm xúc, để đến lúc cần thiết nói lên bằng thơ những nghĩ suy trăn trở trong lòng.

Ông đã làm đúng cả hai điều mà nữ diễn viên điện ảnh người Thụy Điển nổi tiếng ở Hollywood hồi những năm 50 và 60 (thế kỷ 20, bà đoạt ba giải Oscar) – Ingrid Bergman (1915-1982) từng nói, thứ nhất “Bạn phải rèn luyện trực giác của bạn” và thứ hai “Bạn phải tin vào tiếng nói nhỏ nhẹ bên trong bạn, nó nói với bạn một cách chính xác nên nói gì, quyết định gì.”

Từ thành phố Huế quê hương

Những âm thanh không bến, không bờ
Tuôn chảy, luân lưu, hồi sinh, cộng hưởng
Nhân sức mạnh trong tận cùng sức mạnh
Nhân niềm tin trong sâu thẳm niềm tin,

để đến ngày

Với hai ngón tay xòe lên như thiên thể
V bay lên như cánh chim báo bão
Lượn khắp địa cầu, ngôn ngữ, màu da
Ôi V Việt Nam, V Chiến thắng, bay xa
(Chương 8)

(V là chữ đầu của từ Victoria, tiếng Anh-có nghĩa là Chiến thắng).

Nguyễn Khoa Điềm tin và vận dụng thành công tính chính luận trong trường ca “Mặt Đường Khát Vọng.” “Thơ chính luận” có những tương đồng và khác biệt với “Bài báo chính luận” hay “Vở kịch chính luận.”

Cùng dùng thủ pháp phân tích và chứng minh trên cơ sở những chính kiến của bản thân, nhà báo thiên về chuyển tải sự vận động của các sự kiện bằng ngôn ngữ tân văn, trong khi nhà biên kịch khai thác ngôn ngữ hành động để tạo nên những nút thắt cao trào-tính kịch, còn nhà thơ đằm trong sự bùng nổ của cảm xúc, sáng tạo ngôn ngữ thơ, mà trong đó tiến trình khai thác phép ẩn dụ của ngôn từ là công việc chiết xuất tâm tưởng tới độ thăng hoa, để vừa tạo nên độ nén của câu thơ, cái đắc địa của chữ thơ, vừa mở ra những khoảng trống của bài thơ, cũng là mở ra không gian thơ cho việc thưởng thức thơ thêm rộng đường tiếp nhận.

Đó là những lời thơ giản dị mà hào sảng, đầy khí phách, rung động không chỉ con tim người Việt mà còn thức tỉnh trái tim loài người yêu chính nghĩa:

Khi tháng năm là niên khóa xuống đường
Khi bài học được viết từ mặt nhựa
Giấy không cạn đau thương, mực phải mài giữa phố
Chúng con thề chúng con sẽ ra đi!
(Chương 9)

Thời điểm viết trường ca “Mặt Đường Khát Vọng,” tác giả còn rất trẻ, rất lâu sau đó ông mới tham gia chính trường, song chất chính luận đã được ông tiếp nhận dưới dạng kiến thức, qua suy ngẫm, đào luyện trở thành tri thức, thành kiến văn, tạo nên cái phông văn hóa có sức phản chiếu vào ngõ ngách, soi tỏ bản nguyên của các sự vật và hiện tượng.

Viết về “Đất Nước” trong giai đoạn cuộc chiến tranh Việt Nam đang diễn ra ác liệt, nhưng ông đã nhìn rộng ra thế giới xung quanh bằng con mắt điềm tĩnh, bằng trực giác và cảm thụ có chọn lọc, để thấy được/ mọi người thấy được bối cảnh bên trong và bên ngoài biên giới lãnh thổ Tổ quốc, những sự sinh ra cuộc chiến và con đường tất yếu của cuộc chiến, cùng những hệ quả của nó.

Một lời tự vấn của tuổi trẻ trong vùng địch chiếm:

Ôi ta đã đốt cháy hôm nay để không cầm vũ khí
Có ngờ đâu ta thiêu cháy cả tương lai
Có ngờ đâu không muốn cầm súng giết người
Ta lại giết chính ta…
.

Một lời tự thú của người trẻ Mỹ cầm súng đi xâm lược:

Trí tuệ, luân lý già rồi mà chúng tôi thì trẻ
Chúng tôi chào trí tuệ, luân lý lụ khụ, chúng tôi đi…
(Chương 4)

Chỉ riêng những người đứng về phía chính nghĩa là cầm súng xuống đường, hy sinh tuổi thanh xuân để hồi sinh. Trên con đường ấy, tuổi trẻ luôn nuôi khát vọng hướng tới tương lai.

Chiến tranh là điều cực kỳ vô nghĩa, kéo loài người thụt lùi về quá khứ điêu linh. Nhưng, chiến tranh vẫn là miếng mồi béo bở, cuốn hút những thế lực tham lam bá chủ vào guồng máy chém giết, hủy diệt.

Những nỗ lực của các thế hệ loài người qua hàng nghìn năm, phấn đấu cho nền văn minh ngày thêm tươi sáng, đều bị chiến tranh, bị bọn người lòng lang dạ thú hủy hoại.

Chiến tranh sẽ còn tiếp diễn trên quả đất này. Những con người và những dân tộc bị áp bức vẫn phải cầm súng ra mặt trận. Họ khát vọng hòa bình không chỉ vì để có được ấm no, mà họ khao khát làm người.

Trong trường ca “Mặt Đường Khát Vọng,” Nguyễn Khoa Điềm đã phần nào hé lộ ý tưởng đó.

Mãi 45 năm sau, năm 2016, ông mới thổ lộ rõ rệt trong bài thơ “Viết Cho Lần Cuối:”

Phải không em, chỉ nỗi khát làm người
Anh đã chọn với hai hàng nước mắt
Khi cái chết làm phép trừ vô cực
Anh là anh, mãi mãi vẫn là anh….

Cũng cùng năm đó (2016), ông còn công bố bài thơ “Những Câu Hỏi Đầu Năm” với sự day dứt:

Vì sao ly rượu đưa lên, tay mình run khẽ
Chẳng chạm vào ai, cũng đã chạm với đời
Sao lại thế, nửa đêm thức giấc
Chợt thấy mình nhẹ bẫng giữa sương rơi?

và bất ngờ nhận ra, tuy vẫn là câu nghi vấn song ở tâm trạng nhẹ nhõm hơn:

Mãi mãi hồn ta không cũ nữa
Em chăng là nắng mới tinh khôi?

Dường như mỗi khi đặt một câu hỏi là một lần làm cho người ta lớn thêm! Bởi vậy, cùng một câu hỏi, nhưng mỗi lần hỏi, bất luận trong hoàn cảnh nào, là một lần tâm thế, lý trí và cảm xúc trong người ta thay đổi, để sẵn sàng đón nhận cái mới từ câu trả lời như một phát hiện.

Trường ca “Mặt Đường Khát Vọng” nói riêng và trong nhiều bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm, tính chính luận đã neo vào lòng người đọc một cách vững chắc và sẽ ở lại rất lâu. Bởi, Thơ mãi là “Nắng mới tinh khôi”.

Đọc thêm văn mẫu 🌸 Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước 🌸 đặc sắc!

Phân Tích Mặt Đường Khát Vọng Lời Chào Ngắn Hay

Tham khảo bài văn phân tích phần “Lời chào” trong trường ca “Mặt đường khát vọng” dưới đây để biết cách làm dạng đề này nhé!

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Trong những năm kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã gắn bó máu thịt với mảnh đất quê hương. Thơ của ông thời đánh Mĩ cũng thường viết về cuộc sống, chiến đấu của con người trên vùng đất Huế.

Người đọc yêu thơ của Nguyễn Khoa Điềm bởi những xúc cảm dồn nén, những suy tư sâu sắc về dân tộc và thời đại. Tác phẩm chính của Nguyễn Khoa Điềm: Đất ngoại ô (thơ, 1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (tuyển chọn, 1990), Cõi lặng (thơ, 2007).

Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974. Tác phẩm viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Trong đó phần lời chào đã để lại ấn tượng sâu sắc.

Chương thơ có nhan đề là “Lời chào” như tiếng lòng thân thương của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Đó có thể là lời chào tiễn biệt những năm tháng ấu thơ đã trôi qua. Đó cũng có thể là lời chào đến những tháng ngày tương lai sắp tới. Nhan đề là sự giao thoa hai lớp nghĩa, chào tạm biệt quá khứ, chào tương lai đang đến gần.

Hai khổ thơ đầu mênh mang những xúc cảm bồi hồi, xao xuyến của nhà thơ khi nghĩ về những năm tháng tuổi thơ. Lời thơ nhẹ nhàng như chút giật mình khe khẽ trước sự biến thiên của cuộc đời.

Ai chẳng có những tháng ngày thơ ấu. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy. Đó là những ngày còn cắp sách đến trường, hồn nhiên, vô tư với màu mực tím, với nét chữ thiếu thời, với sắc hồng hoa phượng.. Đó là những năm tháng hồn nhiên vô tư nhất. Và cũng bởi vô tư, hồn nhiên nên khi tất cả đã trôi qua, nhà thơ có chút giật mình tiếc nuối:

Bèo lục bình mênh mang màu mực tím
Nét chữ thiếu thời trôi nhanh như dòng sông..

Một thời mực tím đã xa, một thời cắp sách đến trường chỉ còn là hoài niệm, tất cả để lại những dư âm bồi hồi trong lòng nhà thơ. Phép tu từ ẩn dụ trong hai câu thơ gợi lên những liên tưởng độc đáo thú vị. Tuổi học trò giống như một dòng sông và những nét bút tím như màu hoa lục bình. Tất cả, theo thời gian, theo tuổi “phượng”, tuổi đời cứ lặng lẽ trôi đi..

Một ngày kia, ta chợt nhận ra mình đã lớn khôn. Nhận thức được sự lớn khôn của chính bản thân mình là dấu hiệu của sự trưởng thành. Và người trưởng thành thường hay suy tư về quá khứ. Vậy nên, xúc cảm tiếc nuối về một thời học trò vẫn thường ùa về náo nức, vẹn nguyên trong tâm trí những người đã trải qua quãng thời gian đẹp đẽ đó..

Không dừng lại ở những hoài niệm tiếc nuối, mạch thơ Nguyễn Khoa Điềm hướng ta đến những điều lớn lao hơn.

Hàng loạt cụm từ “biết ơn” đứng đầu mỗi khổ thơ thể hiện lòng biết ơn của nhà thơ đến những điều bình dị trong cuộc sống. Nhà thơ biết ơn những “cánh sẻ nâu” bay đến cánh đồng, rút rơm vàng về kết tổ mang lại cho tuổi thơ biết bao trải nghiệm thú vị của những chiều rong ruổi tìm bắt tổ chim.

Nhà thơ biết ơn những cánh diều đã kéo về “cả một sắc trời xanh” để bao ánh mắt tuổi thơ đắm nhìn lên đó. Nhà thơ biết ơn người mẹ của mình, không quên tính tuổi con từ những ngày vừa hoài thai trong bụng. Nhà thơ biết ơn những trò chơi thuở nhỏ – gắn liền với những lời đồng dao dân dã góp phần làm nên một đời tiếng Việt ngân nga.

Từ những điều bình dị, nhà thơ hướng lòng biết ơn của mình đến những điều lớn lao hơn: Biết ơn “dấu chân bấm mặt đường”, “dấu chân trần” – của những người lao động nhọc nhằn lam lũ để cho ta được cắp sách đến trường; biết ơn những anh hùng hi sinh vì đất nước:

Cao Bá Quát ngã mình trên chiến địa
Trăm năm rồi sông vẫn sáng màu gươm..

Phân Tích Mặt Đường Khát Vọng Ta Đã Đi Qua Hay Nhất

Các bạn học sinh đừng bỏ qua bài văn phân tích phần đầu của trường ca “Mặt đường khát vọng” sau đây nhé!

Mỗi độ tuổi, mỗi giai đoạn trong cuộc đời mỗi người đều có những ý nghĩa riêng và mang lại cho ta những suy nghĩ, những bài học khác nhau. Nhưng có lẽ, để lại ấn tượng sâu sắc đối với mỗi người hơn cả đó chính là tuổi trẻ. Tuổi trẻ là thanh xuân, là quãng thời gian tươi đẹp nhất trong cuộc đời của một con người, bởi một khi đã qua đi đồng nghĩa nó sẽ không bao giờ quay trở lại. Trong quãng thời gian tuổi trẻ đó không thể thiếu đi công ơn của mẹ.

Ta đã đi qua những năm tháng không ngờ
Vô tư quá để bây giờ xao xuyến
Bèo lục bình mênh mang màu mực tím
Nét chữ thiếu thời trôi nhanh như dòng sông…

Ta lớn lên bối rối một sắc hồng
Phương cứ nở hoài hoà như đếm tuổi
Như chiều nay, một buổi chiều dữ dội
Ta nhận ra mình đang lớn khôn…

Mở đầu đoạn thơ là những cảm xúc bâng khuâng nuối tiếc của tuổi trẻ khi đã đi qua Tuổi trẻ, đó chính là giai đoạn con người ta mang trong mình tất thảy sức mạnh, tất thảy vẻ đẹp, từ thể xác đến tinh thần và cả trí tuệ nữa. Và có lẽ bởi vậy nên trong chính những năm tháng ấy, con người luôn cháy hết mình với đam mê, với những ước mơ, khát vọng và hoài bão.

Ở cái tuổi ấy, người ta tự đặt ra cho mình mục tiêu, lí tưởng để cống hiến, để biến nó thành sự thật dù biết rằng phía trước họ có thật nhiều khó khăn, thử thách và cả những thất bại nữa. Và có thể rằng, trong những năm tháng thanh xuân ấy họ sẽ vấp ngã, nhưng tuổi trẻ luôn cho phép người ta có quyền được thất bại, thất bại để đứng lên và để trưởng thành hơn. Để rồi, đến một lúc nào đó, khi đã đi qua quãng thời gian quý báu ấy, người ta nhìn lại và thầm cảm ơn, thầm trân trọng nó vì đã cho ta vỡ lẽ bao điều và trưởng thành hơn từ vấp ngã.

Biết ơn những cánh sẻ nâu đã bay đến cánh đồng
Rút những cọng rơm vàng về kết tổ
Đá dạy ta với cánh diều thơ nhỏ
Biết kéo về cả một sắc trời xanh
Biết ơn mẹ vẫn tính cho con thêm một tuổi sinh thành

“Tuổi của mụ” con nằm tròn bụng mẹ
Để con quý yêu tháng ngày tuổi trẻ
Buổi mở mắt chào đời, phút nhắm mắt ra đi…

Trên bước đường trưởng thành, lớn khôn đó. Không thể thiếu hình bóng của người mẹ. Mẹ mang nặng chín tháng mười ngày để sinh ra được con. Mẹ chính là người nâng đỡ chúng ta trên mỗi chặng đường từ khi bắt đầu khóc cho đến khi mẹ ra đi. Cho nên sự trưởng thành của con bên cạnh những người bạn, người cộng sự thì người mẹ đóng vai trò hết sức quan trọng.

Tác giả nhận ra rõ được điều đó và bày tỏ lòng biết ơn chân thành với mẹ. Nhờ có mẹ, tác giả mới có ngày hôm nay biết trân trọng mọi thứ xung quanh, trân trọng tuổi trẻ và sống hết mình trong chặng đường của mình cho đến lúc ra đi.

Phép điệp từ “Biết ơn” khiến cho lời thơ giàu nhạc điệu, nhấn mạnh sự nhận thức và lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ vói những gì nhỏ bé, gần gũi, với mẹ đã giúp mình lớn khôn và biết trân trọng tuổi trẻ. Tác giả thể hiện sự lớn khôn của mình khi nhận ra những giá trị của những gì nhỏ bé, gần gũi, biết ơn mẹ.

Biết ơn trò chơi tuổi nhỏ mê ly
“Chuyền chuyền một…” miệng, tay buông bắt
Ngôn ngữ lung linh, quả chuyền thoăn thoắt
Nên một đời tiếng Việt mãi ngân nga…

Biết ơn dấu chân bấm mặt đường xa
Những dấu chân trần, bùn nặng vết
Ta đi học quen dẫm vào không biết
Dáng cuộc đời in mãi dáng ta đi…

Biết ơn dòng sông dựng dáng kiếm uy nghi
Trong tâm trí một nhà thơ khởi nghĩa
Cao Bá Quát ngã mình trên chiến địa
Trăm năm rồi sông vẫn sáng màu gươm…

Sống trên đời, một trong những thái độ mà con người cần có, đó là lòng biết ơn, đặc biệt là tuổi trẻ ngày nay. Lòng biết ơn là ghi nhớ công lao của người có công với mình, giúp đỡ mình, làm ra thành quả cho mình hưởng thụ. Đó là biết ơn đối với những thành quả mà cha ông để lại, biết ơn cha mẹ, ông bà, biết ơn những người bao bọc, giúp đỡ mình lúc khó khăn….

Cần phải có lòng biết ơn vì không có cái gì tự nhiên mà có: biết ơn cha mẹ, thầy cô, người có công với nước, người làm ra sản phẩm cho ta hưởng thụ. Lòng biết ơn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống. Đây là một truyền thống, đạo lí của dân tộc, “Uống nước nhớ nguồn”.

Đồng thời đây là bài học sơ đẳng tạo nên nền tảng đạo đức, lối sống văn minh của con người. Đó còn là cơ sở vững chắc cho những tình cảm tốt đẹp khác như lòng yêu nước, yêu thương cha mẹ,… ngày càng phát triển và phong phú. Nó giúp ta biết trân trọng cuộc sống, là động lực để ngày ngày ta tiến về phía trước.

Trong cuộc sống ngày nay, sự biết ơn cha mẹ có thể biểu hiện các hành động chăm sóc, hỏi han sức khỏe. Sự biết ơn với dân tộc có thể được thể hiện thông qua các hành động đền ơn đáp nghĩa vào các ngày 27/7, chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đồng thời là luôn có ý thức giữ gìn và bảo vệ độc lập dân tộc. Sự biết ơn nên được thể hiện qua cả hành động và lời nói.

Trăm năm rồi ta đếm bước sông Hương
Vẫn soi thấy niềm đau và nổi giận
Khuôn mặt trẻ bỗng già trên lớp sóng
Ngẩng đầu lên, ta thấy mặt quân thù!

Qua việc sử dụng các biện pháp tu từ kết hợp với ngôn ngữ bình dị chân thành. Tác giả đã thể hiện tình cảm chân thành, lòng biết ơn sâu sắc với những gì được trải nghiệm để có thể vững bước trên cuộc đời được sống hết mình với tuổi trẻ và hơn cả đó là lòng biết ơn với người mẹ vĩ đại của mình.

Xem ngay 🌸 Sơ Đồ Tư Duy Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm 🌸 đa dạng!

Phân Tích Mặt Đường Khát Vọng Chương 1 Ấn Tượng

Nếu bạn đang tìm kiếm bài văn phân tích chương 1 trường ca “Mặt đường khát vọng” thì nên tham khảo mẫu mà chúng tôi gợi ý sau đây:

Những bài thơ được trích trong Mặt Đường Khát Vọng chính là phần 2 của tập Đất Và Khát Vọng. Đây là sáng tác hay làm nên tên tuổi của Nguyễn Khoa Điềm. Và ông cũng chính là một trong số ít nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Với trường ca Mặt đường khát vọng ông đã có đóng góp rất lớn dành cho văn học hiện đại Việt Nam.

Ở đó ta cảm nhận được những cảm xúc nồng nàn và cũng không kém phần sâu lắng của người trí thức Nguyễn Khoa Điềm về vận mệnh đất nước và con người. Qua đó ta cảm nhận được phong cách sáng tác thơ tài hoa của thi sĩ. 

Chương 1 trong “Mặt đường khát vọng” có tên là “Lời chào” là một tác phẩm sâu sắc, phân tích đầy cảm xúc về cuộc đời của con người. Tác giả đã truyền tải thông điệp rằng mỗi tuổi trẻ đều mang trong mình những giá trị quý báu và kinh nghiệm đáng giá để chúng ta có thể học hỏi, trưởng thành và phát triển.

Ta đã đi qua những năm tháng không ngờ
Vô tư quá để bây giờ xao xuyến
Bèo lục bình mênh mang màu mực tím
Nét chữ thiếu thời trôi nhanh như dòng sông…

Ta lớn lên bối rối một sắc hồng
Phương cứ nở hoài hoà như đếm tuổi
Như chiều nay, một buổi chiều dữ dội
Ta nhận ra mình đang lớn khôn…

Ở đoạn đầu của bài thơ, tác giả miêu tả những ký ức của mình về quá khứ, khi những ngày trẻ trung đang trôi qua một cách không thể ngờ được. Nhưng đến bây giờ, những ký ức đó lại vấn vương trong tâm trí tác giả và gợi lên những cảm xúc đong đầy tình cảm. Bài thơ tiếp tục diễn tả những hình ảnh của cuộc sống, từ những cánh sẻ nâu bay đến cánh đồng, cho đến dòng sông uy nghi, để thể hiện sự đa dạng và đa chiều của cuộc sống.

Biết ơn những cánh sẻ nâu đã bay đến cánh đồng
Rút những cọng rơm vàng về kết tổ
Đá dạy ta với cánh diều thơ nhỏ
Biết kéo về cả một sắc trời xanh
Biết ơn mẹ vẫn tính cho con thêm một tuổi sinh thành

“Tuổi của mụ” con nằm tròn bụng mẹ
Để con quý yêu tháng ngày tuổi trẻ
Buổi mở mắt chào đời, phút nhắm mắt ra đi…

Biết ơn trò chơi tuổi nhỏ mê ly
“Chuyền chuyền một…” miệng, tay buông bắt
Ngôn ngữ lung linh, quả chuyền thoăn thoắt
Nên một đời tiếng Việt mãi ngân nga…

Biết ơn dấu chân bấm mặt đường xa
Những dấu chân trần, bùn nặng vết
Ta đi học quen dẫm vào không biết
Dáng cuộc đời in mãi dáng ta đi…

Tác giả cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với những kỉ niệm tuổi thơ và những trò chơi cổ điển, như “Chuyền chuyền một…” hay ngôn ngữ Việt Nam. Những kỉ niệm hồi đó đã giúp tác giả hiểu rõ hơn về bản chất của cuộc sống và phát triển thành con người trưởng thành.

Biết ơn dòng sông dựng dáng kiếm uy nghi
Trong tâm trí một nhà thơ khởi nghĩa
Cao Bá Quát ngã mình trên chiến địa
Trăm năm rồi sông vẫn sáng màu gươm…

Trăm năm rồi ta đếm bước sông Hương
Vẫn soi thấy niềm đau và nổi giận
Khuôn mặt trẻ bỗng già trên lớp sóng
Ngẩng đầu lên, ta thấy mặt quân thù!

Bài thơ cũng nhắc đến dòng sông Hương, nơi mà tác giả đã trải qua nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Tuy nhiên, trong phần cuối của bài thơ, tác giả cũng đề cập đến mặt trận chiến tranh và quân thù. Điều này cho thấy cuộc sống có những mặt khác nhau, từ những thứ đẹp đẽ cho đến những bi kịch đau buồn, và tất cả những trải nghiệm đó đều là những bài học quý giá để tác giả học hỏi và trưởng thành.

Phép điệp cú pháp nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm tạo nhịp điệu. Nhấn mạnh sự biết ơn của nhân vật trữ tình đối với những kỉ niệm bình dị, thân quen trong cuộc đời mình. Qua đó nhằm thể hiện giá trị của những điều bình dị trong cuộc sống

Cuộc sống của mỗi người luôn là một con đường khác, một bầu trời khác hay đôi khi là một thế giới khác. Mỗi người nên lập ra cho chính mình sự biết ơn dù là những thứ đơn giản, bình dị nhất. Giá trị của cuộc sống đôi lúc là những điều lạ lùng đến giản dị. Từ sự trân quý, yêu mến những điều bình thường, giản dị, con người nhận ra giá trị của cuộc sống thông qua yêu thương vô bờ.

Những điều giản dị nằm trong ta thể hiện ra những kí ức vui vẻ, giá trị tuy khó mà cảm nhận được nhưng sự biết ơn với chúng vẫn cần có và buộc phải còn mãi. Bởi chúng sẽ trở thành cội nguồn của ta và cho ta những ngày tháng đẹp nhất. Bầu trời phía trước vẫn sẽ còn nhiều khó khăn nhưng hãy biết trân trọng, hãy biết ơn chúng vì lẽ rằng: Những điều giản dị thật đẹp

Tóm lại, chương 1 “Lời chào” trong “Mặt đường khát vọng” là một tác phẩm đầy cảm xúc, phản ánh sự đa dạng và đa chiều của cuộc sống, và nhấn mạnh rằng mỗi con người đều có những giá trị và kinh nghiệm riêng, mà chúng ta có thể học hỏi và trân trọng để trưởng thành và phát triển.

Phân Tích Mặt Đường Khát Vọng Chương Đất Nước Xuất Sắc

Mẫu bài văn phân tích phần “Đất nước” trong bài trường ca “Mặt đường khát vọng” xuất sắc nhất ở bên dưới, mời bạn xem ngay:

Nguyễn Khoa Điềm sinh ra trong gia đình trí thức, có truyền thống yêu nước và cách mạng. Thừa hưởng truyền thống gia đình và vốn tri thức văn hóa sâu rộng của bản thân, thơ Nguyễn Khoa Điềm là kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người.

“Đất nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại anh hùng, nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân” (Nguyễn Khoa Điềm) Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi, nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ.

Đoạn trích “Đất Nước” được xây dựng theo phương thức luận đề, được thể hiện qua chất liệu văn hóa dân gian quen thuộc. Chính điều này đã tạo nên hiệu quả thẩm mĩ đặc biệt cho đoạn thơ, đồng thời thể hiện sinh động tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”.

Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối cái nhìn lịch sử của nhà thơ. Nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, chiến đấu bảo vệ đất nước và điểm tô cho đất nước. Từ phương diện lịch sử nhà thơ nhận thức sâu sắc: chính nhân dân là người đã lao động để tạo dựng sự sống, chiến đấu để bảo vệ đất nước và họ cũng là người đã giữ gìn, lưu truyền các truyền thống của dân tộc. Nhà thơ thôi thúc người đọc nhìn vào lịch sử tồn tại của đất nước qua giọng điệu tâm tình với nhân vật “em”:

Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước

Số từ “bốn nghìn năm” đã lưu ý người đọc tìm về với lịch sử dân tộc bằng niềm tự hào sâu sắc. Nhìn xa vào 4000 năm đất nước, ta nhận ra vai trò quan trọng của người bình dân trong quá trình giữ nước. Cách nói phiếm chỉ về thời gian “năm tháng nào” và điệp từ “người người lớp lớp” khẳng định, ghi nhận công lao của hàng triệu người dân trong quá trình lao động xây dựng và chiến đấu bảo vệ đất nước ở mọi thời kì bằng lòng biết ơn sâu nặng.

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc, người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nghệ thuật liệt kê và phép điệp “con trai, con gái” đã khẳng định chính những người dân bình dị đã làm nên đất nước bằng phẩm chất cao đẹp: cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu, yêu nước nồng nàn. Lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc ghi dấu sự hi sinh thầm lặng của nhân dân trong “bốn nghìn lớp người”:

Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Nghệ thuật đối lập giữa những câu thơ “Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ” với “Không ai nhớ mặt đặt tên” đã khẳng định, tôn vinh những con người vô danh, thầm lặng hi sinh cho đất nước. Những câu thơ ngắn, nhịp điệu dồn dập và câu hỏi tu từ “Nhưng em biết không?”, phép điệp “nhiều, anh hùng” thể hiện lòng tự hào, biết ơn sâu sắc của nhà thơ với người anh hùng vô danh đã đóng góp, hi sinh cho đất nước.

Cặp tính từ chọn lọc “giản dị và bình tâm” và phép đối “sống và chết” đã khái quát bức họa về người anh hùng nhân dân. Họ sống giản dị, chiến đấu và hi sinh cho đất nước một bình thản. Họ hi sinh mà không cần để lại tên tuổi cho lịch sử, họ chiến đấu vì một lẽ sống bình dị mà cao cả: bảo vệ đất nước. Câu thơ ngắn, dồn nén cảm xúc, chứa đựng sự biết ơn chân thành của Nguyễn Khoa Điềm trước sự cống hiến thầm lặng nhưng lớn lao của nhân dân.

Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã đem lại cho Nguyễn Khoa Điềm cái nhìn mới mẻ về dòng chảy lịch sử dân tộc, để từ đó thấy được vai trò quan trọng của những người dân bình thường trong quá trình đấu tranh, gìn giữ đất nước. Nhân dân đã bảo lưu, nuôi dưỡng giá trị vật chất, tinh thần của dân tộc. Những con người giản dị của đất nước đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần để tạo ra sự sống cho đất nước trong quá trình lao động nhọc nhằn:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đặp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

Đại từ “họ” điệp nhiều lần ở đầu mỗi câu thơ đã làm nổi bật vai trò quan trọng của nhân dân trong quá trình lao động xây dựng sự sống cho đất nước. Lửa và lúa là hai yếu tố quan trọng nhất, “gìn giữ ngọn lửa và giống lúa chính là gìn giữ sự sống còn của cộng đồng”. (Nguyễn Khoa Điềm). Từ quan điểm đó, nhà thơ đã liệt kê để khẳng định chính nhân dân đã tạo dựng, giữ gìn, lưu truyền mọi giá trị văn hóa vật chất, từ những cái nhỏ bé, giản đơn nhưng vô cùng quan trọng.

Hình ảnh “truyền giọng điệu mình cho con mình tập nói”, “gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân” nói lên vai trò của những người bình dân trong quá trình bảo lưu các giá trị văn hóa tinh thần của đất nước. Đó cũng là khát vọng giữ gìn bản sắc dân tộc của cha ông.

Các động từ “giữ, chuyền, truyền, gánh” dựng lên hình ảnh các thế hệ người dân nối tiếp nhau duy trì cuộc sống, lưu truyền các giá trị truyền thống của dân tộc. Họ không quản khó nhọc, bỏ bao công sức “đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”. Câu thơ nhắc nhở như lời tri ân chân thành của thế hệ hôm nay khi thừa hưởng những thành quả do các thế hệ đi trước tạo nên.

Những người dân bình dị, hiền hòa đã chiến đấu để bảo vệ đất nước và giữ gìn, phát triển truyền thống yêu nước của dân tộc:

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Câu điều kiện “có… thì…” được điệp hai lần cùng với phép đối “ngoại xâm”, “nội thù” và liệt kê các động từ “chống, vùng lên, đánh bại” đã khẳng định tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước của nhân dân. Câu thơ là niềm tự hào của tác giả về truyền thống yêu nước. Bằng những công việc giản dị, hoạt động bình thường trong cuộc sống, từ những hành động dũng cảm khi đất nước lâm nguy, từng thế hệ người dân đã bảo lưu, vun đắp, làm nên tiến trình lịch sử của dân tộc. Đoạn thơ thể hiện rõ nét, sinh động tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.

Từ phương diện văn hóa Nguyễn Khoa Điềm đã giúp ta nhận thức sâu sắc tư tưởng Đất Nước của Nhân dân qua lối sống, tâm hồn và tính cách của con người Việt Nam. Nhà thơ tiếp tục khái quát và khẳng định tư tưởng cốt lõi: nhân dân là những người đã tạo dựng truyền thống văn hóa của dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã viết hoa và điệp danh từ “Nhân dân” nhằm ngợi ca, tôn vinh vai trò quan trọng của nhân dân

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

Tác giả trở về với ngọn nguồn phong phú của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao để khẳng định truyền thống văn hóa của đất nước được hình thành từ những vẻ đẹp tinh thần của nhân dân:

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù không sợ dài lâu

Bốn câu thơ được lấy từ ý của ba câu ca dao, khái quát ba phương diện quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của dân tộc. Đó là tình cảm, lao động và chiến đấu. Yêu say đắm, thủy chung, coi trọng tình nghĩa hơn vật chất và tinh thần bất khuất, nền bỉ chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo về cuộc sống yên bình cho đất nước. Vận dụng một cách sáng tạo ca dao, Nguyễn Khoa Điềm cho ta thấy có sự đồng điệu trong tâm hồn của cha ông từ ngàn xưa và thế hệ trẻ hôm nay.

Thán từ “Ôi”, câu hỏi tu từ và hình ảnh “về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát” đã nhấn mạnh đặc điểm riêng về địa lí, văn hóa của đất nước ta:

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Đất nước ta mang dấu ấn sâu sắc của nền văn minh sông nước, đất nước của những câu hò, điệu lí, lời ca. Câu hát trên dòng sông gắn liền với các công việc lao động “chèo đò, kéo thuyền, vượt thác” gợi lên tinh thần lạc quan, hăng say lao động của những con người bình dị.

Người đến hát khi chèo đò, lái thuyền, vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi

Và chính họ, với những bài ca lao động của mình, đã “gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”, tạo nên vẻ đẹp phong phú, kì diệu cho những dòng sông đất nước, góp phần điểm tô, hình thành vẻ đẹp văn hóa của đất nước.

Nhìn từ phương diện văn hóa, với vốn tri thức sâu rộng, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh chính nhân dân là chủ thể sáng tạo bản sắc văn hóa của đất nước. Đoạn thơ tô đậm tư tưởng đất nước của nhân dân, một tư tưởng mang tính chân lí được tác giả đúc kết từ kiến thức sách vở và kinh nghiệm cuộc sống.

Thể thơ tự do được sử dụng sáng tạo, nhịp điệu biến đổi linh hoạt, các phép điệp, được sử dụng hiệu quả đã tạo nên giá trị thẩm mĩ cho đoạn thơ. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng hình ảnh và từ ngữ chọn lọc, giản dị, tinh tế, giúp người đọc nhận thức rõ chính nhân dân đã tạo dựng đất nước, tạo dựng sự sống, giữ gìn truyền thống, văn hóa dân tộc.

Đoạn thơ là tình cảm yêu mến, tự hào của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò của nhân dân trong quá hình thành xây, điểm tô vẻ đẹp của đất nước. Đó là kết tinh của những cảm xúc mãnh liệt và chiêm nghiệm sâu sắc về đất nước, về vai trò của người, là tiếng lòng chân thành của thế hệ trẻ hướng tới cội nguồn dân tộc, tới truyền thống văn hóa, lịch sử mà nhân dân là người sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu mai sau.

Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng Đất Nước của nhân dân” bằng hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình chính trị sâu lắng, thiết tha.

Đọc thêm những bài 🌸 Bình Giảng Đất Nước 🌸 xuất sắc!

Phân Tích Đất Nước Mặt Đường Khát Vọng Nâng Cao

Gửi tặng đến quý vị độc giả mẫu bài văn phân tích chương “Đất nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng” nâng cao.

Ai đó cũng đã từng hỏi lòng có mối tình nào lẳng lặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc? Để đáp lời những câu hỏi ấy thì đã có rất nhiều những vần thơ cất cánh. Chúng ta thấy hình ảnh đất nước đau thương quật cường căm hờn vùng lên đấu tranh huy hoàng trong thơ Nguyễn Đình Thi, ta thấy Lê Anh Xuân với Dáng đứng Việt Nam bay lên bát ngát mùa xuân, với Xuân Diệu là “tổ quốc tôi như một con tàu” thì đến năm 1971 Nguyễn Khoa Điềm cũng đã góp thêm một ý thơ hay về đề tài đất nước. Đó là bài thơ Đất nước.

Tác phẩm Đất nước ra đời cùng với trường ca Theo chân bác (Tố Hữu), Bài ca chim chơ Rao (Thu Bồn)… Song các bản trường ca này triển khai cảm xúc xoay quanh câu chuyện về cuộc đời một nhân vật anh hùng.

Riêng với trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điểm lại triển khai cảm xúc theo quá trình vận động ý thức của một tầng lớp tuổi trẻ thành thị Việt Nam được thức tỉnh trước hiện tại đất nước để nhìn rõ kẻ thù và ý thức về trách nhiệm của thế hệ mình vực dậy con đường đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi….
Đất Nước có từ ngày đó …”

Đoạn thơ với giọng nhẹ nhàng, thủ thỉ đã đưa ta về với cội nguồn của đất nước . Đất nước có từ ngày tháng năm nào không ai rõ ,chỉ biết rằng:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ ngày xửa ngày xưa…”mẹ thường hay kể”
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc“

Khi lí giải về cội nguồn đất nước, tác giả lí giải đất nước gắn liền với mỹ tục thuần phong , với cổ tích truyền thuyết, với tập tục ăn trầu , búi tóc ; với truyền thống cần cù lao động, anh hùng bất khuất chống giặc ngoại xâm, được hình thành từ lối sống giàu tình nghĩa “ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Lời thơ như lời kể , hình ảnh giản dị, gần gũi và tác giả vận dụng yếu tố văn hóa dân gian để lí giải cội nguồn đất nước thân thuộc, gần gũi và có ngay trong mỗi một gia đình bình dị, gần gũi nhưng thật thiêng liêng.

Tiếp theo là cách tác giả cảm nhận đất nước về phương diện địa lí , lịch sử và nhắn nhủ ý thức cội nguồn dân tộc. Về phương diện địa lí , tác giả cảm nhận :

“Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc “
Nước là nơi “ con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Tác giả định nghĩa rất cụ thể “ Đất là ….., Nước là….. và tổng hợp Đất nước là ….Đất nước được cảm nhận là những không gian gần gũi, gắn bó như nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc “
Nước là nơi “ con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Quả đúng, đất nước bắt nguồn từ tình yêu bé nhỏ nhất rồi lớn dần lên đến hùng vĩ , thiêng liêng hợp nhất, thống nhất toàn vẹn.Về phương diện lịch sử thì đất nước là nơi dân mình đoàn tụ.

“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”X

Đất nước là không gian sinh sống của cộng đồng dân tộc ta qua bao thế hệ từ thời Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra đồng bào ta trong bọc trứng cho đến nay và cả mai sau vẫn là không gian tồn tại, phát triển, trải rộng trên một không gian mênh mông. Từ cách cảm nhận đó nhà thơ nhắn nhủ phải có ý thức cội nguồn dân tộc, hay thế hệ đi sau phải biết nhớ ơn thế hệ đi trước hướng về đất Tổ , nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.

“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.

Bằng cách diễn đạt bình dị, vừa hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi đoạn thơ không chỉ thể hiện cảm nhận về đất nước mà còn thể hiện tình yêu nước tha thiết của tác giả và lời nhắn nhủ của tác giả với tất cả cháu con. Đất nước gần gũi và gắn bó thân thiết với anh , với em, với mọi người:

“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”

Với giọng thơ tâm tình , ngọt ngào như lời của đôi lứa yêu nhau tác giả khẳng định con người là hạt nhân làm nên đất nước, hay mỗi con người là một phần tử của cộng đồng, đất nước bằng sự gần gũi, yêu thương và tự hào.

“Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Đất nước nằm trong chính không gian sống với tất cả thân thương, trìu mến. Chính vì thế mà:

“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn.”

Khi đôi lứa giao duyên, yêu thương cũng là khi đất nước nhỏ được dựng xây để cùng vun lên đất nước to lớn. Khi chúng ta cầm tay mọi người – mọi người có cầm tay nhau,yêu thương giúp đỡ lẫn nhau – có đoàn kết, yêu thương đồng bào thì mới tạo nên sức mạnh cho đất nước “vẹn tròn to lớn để làm nên lịch sử dân tộc và đất nước .

“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”

Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông chèo lái xây dựng đất nước ngày càng tươi đẹp, ngày càng cường thịnh, văn minh . Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm :

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”.

Nhà thơ cất lời gọi yêu thương “ em ơi em” để nhắn nhủ đất nước là mồ hôi xương máu của tổ tiên, của dân tộc ngàn đời. Vì vậy mà “phải biết “ gắn bó, san sẻ, hóa thân cho dáng hình đất nước – phải biết đoàn kết, chia sẻ và cống hiến, hi sinh cho đất nước . Ngay trong hoàn cảnh chống Mĩ quyết liệt, lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm là hồi trống đánh thức tinh thần quyết chiến của mỗi cá nhân để giành và giữ đất nước.

Nhà thơ gieo vào từng vần thơ ca ngợi đất nước:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu….
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta….”

Đoạn thơ ngợi ca đất nước hùng vĩ, khẳng định những phẩm chất cao đẹp về quê hương đất nước, con người Việt Nam của tác giả. Đất nước hùng vĩ với danh lam thắng cảnh đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn rất nhân văn là núi ấy, hòn ấy góp phần làm đẹp thêm cho đất nước. Dường như, lứa đôi hạnh phúc ấm êm đã dựng xây cho đất nước thêm kì vĩ, lớn lao.

Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp đất nước về mặt lịch sử và truyền thống:

“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”

Cái “ gót ngựa của Thánh Gióng” đã để lại cho nước non bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay. Chín mươi chín con voi ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lòng “góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”. Những từ ngữ “ đi qua còn để lại”, “ góp mình dựng” thật bình dị mà đáng tự hào biết bao, tự hào về sự thiêng liêng của đất nước. Đất nước có núi cao, biển rộng, sông dài, có Sông Hồng “ đỏ nặng phù sa”, có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa mà tác giả ví như con rồng.

“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”

Những con rồng “nằm im” từ bao đời nay mà người dân Nam Bộ mến yêu có “ dòng sông xanh thẳm” với nước ngọt phù sa, tôm cá,…là hình ảnh đất nước tươi đẹp, con người Việt Nam tài hoa và chịu thương chịu khó. Ngắm núi Bút non Nghiên Nguyễn Khoa Điềm không nói đến “ địa linh nhân kiệt” với tinh thần tôn sư trọng đạo của nhân dân ta.Những học trò nghèo góp cho đất nước mình Núi Bút, non Nghiên. Hạ Long trở thành kì quan , thắng cảnh là nhờ có “Con cóc, Ông Đốc, Ông Trang …làm nên.

Nhà thơ ngợi ca đức tính cần cù , siêng năng, dũng cảm “làm nên đất nước muôn đời”. Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nhắc đến thể hiện niềm tự hào và biết ơn đất nước cùng Nhân dân của tác giả về phẩm chất của con người : trí tuệ, trung hậu, cần cù, anh dũng,…. Chính những vẻ đẹp của nhân dân làm cho non sông gấm vóc thêm giàu đẹp.

Sau tám câu thơ là giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào . Bằng giọng văn chính luận kết hợp với chất trữ tình đằm thắm.

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta….”

Bốn câu thơ là dáng hình đất nước hiện lên vừa mộc mạc, đơn sơ vừa thân thương, gần gũi với đồng lúa, nương ngô…. Đất nước với tất cả đơn sơ ấy là dáng hình mà cha ông hằng mong ước, hằng gây dựng. Dường như con người là hạt nhân to lớn nhất để đất nước thêm muôn hình muôn vẻ, thêm đẹp và thêm tươi. Như vậy, qua hình tượng đất nước tác giả ngợi ca tâm hồn nhân dân, bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam và bày tỏ lòng yêu mến, tự hào về quê hương đất nước.

Tư tưởng đất nước của nhân dân được tác giả nhắc đến qua từng câu chữ:

“Em ơi em…….
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”

Mở đầu đoạn thơ là lời gọi thân thiết, ngọt ngào “ Em ơi em” hãy nhìn về bốn nghìn năm đất nước, nhìn lại quá khứ của nhân dân, đất nước với 4000 năm văn hóa gắn liền với những con người Việt Nam cần cù trong lao động và anh hùng trong chiến đấu:

“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”

Giọng thơ vừa tâm tình vừa khẳng định truyền thống cao đẹp của con người Việt Nam với tám chữ vàng: kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang.

“Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước , có những con người đã hy sinh thầm lặng mà tác giả không bao giờ quên :

“Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ làm ra Đất Nước”

Chính nhân dân là người có công lớn trong sự nghiệp hôm qua, hôm nay và cả mai sau:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà , từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Tác giả sử dụng phép lặp, hình ảnh cụ thể và giàu sức gợi cảm càng khẳng định sức mạnh của nhân dân trong sáng tạo, giữ gìn những giá trị vật chất và tinh thần của đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tác giả khẳng định:

“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Bằng giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng tác giả khẳng định nhân dân đóng vai trò chủ thể trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Phải chăng tác giả đang nhắc nhở mỗi người dân ý thức trách nhiệm, tinh thần yêu nước và lòng tự tôn dân tộc.

“Dạy anh “ biết yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”

Vận dụng sáng tạo văn học dân gian để gợi nhắc và khẳng định các truyền thống cao đẹp của nhân dân ta: say đắm trong tình yêu, anh hùng trong chiến đấu. Điều đó chính là sức mạnh cho đất nước để chiến thắng và tiến lên. Nhà thơ ý thức được cội nguồn sức mạnh của nhân dân nên hy vọng, tin tưởng:

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”

Giọng thơ tâm tình tha thiết , vận dụng sáng tạo các yếu tố văn học dân gian , ý tưởng đẹp, cảm xúc chân thành tác giả đã thể hiện cả niềm tự hào, tình yêu tha thiết với quê hương đất nước.

Như vậy, bằng việc sử dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo, cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc kết hợp giọng thơ trữ tình – chính trị tha thiết, sâu lắng và giàu chất suy tư Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở lớp lớp thế hệ trẻ hôm nay phấn đấu hơn nữa vì đất nước muôn đời và hãy nhớ:

“Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”

Gợi ý đoạn 🌸 Mở Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm 🌸 điểm cao!

Phân Tích Đoạn Trích Mặt Đường Khát Vọng Học Sinh Giỏi

Tham khảo bài văn phân tích đoạn trích “Đất nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng” dành cho học sinh giỏi dưới đây ngay nhé!

Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ nổi tiếng, quê ở xứ Huế mộng mơ, sinh ra trong một gia đình trí thức cách mạng. Ông là cây bút tiêu biểu của thế hệ những nhà thơ trẻ những năm chiến tranh chống Mĩ. Thơ ông giàu chất triết lí, thể hiện tình cảm nồng nhiệt của người thanh niên trí thức yêu nước, hăng hái tham gia vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Ông từng giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin, Tổng Thư kí Hội Nhà văn Việt Nam (Khóa V) và ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (Khóa IX), Trưởng ban Tư tưởng Trung ương. Ông đã để lại hai tác phẩm chính: Đất ngoại ô (tập thơ – 1972) và Mặt dường khát vọng (trường ca – 1974). Đoạn trích Đất nước thuộc phần đầu, chương V của Mặt đường khát vọng.

Trích đoạn Đất nước thể hiện cảm hứng của nhà thơ về Đất Nước: niềm tự hào dân tộc, tình yêu thương, sự gắn bó và tinh thần xây dựng quê hương.

Tâm sự của nhà thơ về sự hình thành Đất Nước hết sức tự nhiên, bình dị, khơi gợi cảm xúc:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Tiếp theo, nhà thơ nói đến sự lớn lên của Đất Nước. Thứ nhất, sự lớn lên này khởi nguồn từ lòng yêu nước, đấu tranh chống bè lũ cướp nước:

Khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.

Thứ hai là khởi nguồn từ nền tảng đạo lí tốt đẹp nghìn đời cùa những con người Việt Nam giàu tình nặng nghĩa:

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay, muối mặn.

Thứ ba là khởi nguồn từ quá trình lao động siêng năng, cần mẫn, một nắng hai sương trên đồng ruộng để làm nên những hạt thoc vàng ươm, những hạt gạo trắng ngần nuôi sống bản thân, gia đình và cộng đồng:

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.

Sau đó, nhà thơ định nghĩa về Đất Nước:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước, là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở.

Ở đây, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật chơi chữ dựa trên cơ sứ những việc tách từ (chiết tự): “Đất” và “Nước” để làm tăng thêm giá trị sự gần gữi, thân thiết, thiêng liêng của Đất Nước đối với mỗi người Việt Nam yêu nước.

Mặt khác, Đất Nước còn được cảm nhận theo các phương diện không gian và thời gian; địa lí và lịch sử:

Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông

Tứ thơ khơi dậy hình ảnh một Đất Nước, một dân tộc có chiều dài lích sử bốn nghìn năm văn hiến, có nguồn gốc con Rồng cháu Tiên rất đáng tự hào:

Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.

Vì Đất Nước là nơi mọi người sinh ra, lớn lên và trở về lòng đất mẹ nên phải có trách nhiệm “gánh vác”, biết ơn lớp người đi trước:

Những ai đá khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

Một lần nữa, nhà thơ lắng đọng tâm hồn mình, nhắc nhở trách nhiệm của công dân trong việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy cao độ nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc cũng như các giá trị vật chất của nhân dân làm nên:

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước.

Trên cơ sở đó, nhà thơ mở rộng nội dung:

Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm.

Hình ảnh “hai đứa cầm tay” gợi tả sự gắn bó thắm thiết của đôi lứa yêu nhau, là hình ảnh tượng trưng cho hạnh phúc tuổi trẻ, hạnh phúc gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, là một phần của Đất Nước. Sự “hài hòa nồng thắm” ấy có tác dụng khắc sâu sự hòa hợp thân ái giữa cái riêng và cái chung, sự thống nhất giữa tình yêu lứa đôi với tình yêu Đất Nước.

Nghệ thuật tăng tiến “hai đưa cầm tay” – “chúng ta cầm tay mọi người” – “Đất Nước vẹn tròn to lớn” có tác dụng miêu tả sự gắn bó giữa cá nhân với cộng đồng, mở rộng tình yêu đôi lứa đến tình yêu đồng bào, tình đoàn kết dân tộc, phát huy truyền thống “Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” để làm nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam.

Ba câu thơ kế tiếp, nhà thơ biểu thị một niềm tin:

Mai đây khi con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng.

Cụm từ “những tháng ngày mơ mộng” phác họa hình ảnh Đất Nước tươi sáng, huy hoàng, phồn vinh, hùng mạnh, rực rờ ở tương lai đồng thời biểu thị một niềm tin mãnh liệt, phơi phới vào tài và đức của thế hệ trẻ Việt Nam.

Bốn câu cuối cùng của đoạn trích là lời tự nhủ, tự khuyên mình của nhà thơ cũng là lời căn dặn, nhắn gửi thế hệ trẻ phải sống hết mình, sống cho ra sống, sống để bảo vệ, tô điểm, làm đẹp Đất Nước muôn đời:

Em ơi em
Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…

Nghệ thuật liên tưởng liệt kê: “máu xương” – “gắn bó” – “san sẻ” -“hóa thân” kết hợp với điệp từ “phải biết” và lời gọi ngọt ngào, trìu mến “em ơi em” đã làm cho giọng điệu thơ giàu chất chính luận, chất trí tuệ. Thực chất, lời thơ là lời hô hào, kêu gọi, giáo huấn nhưng không khô khan, trừu tượng mà trái lại rất trữ tình, da diết.

Nhìn chung, đây là một đoạn trường ca hay. Từng hình ảnh thơ mang lại cho độc giả sự bay bổng trong trí tưởng tượng; khơi gợi chúng ta những tình cảm tự hào, yêu thương, thủy chung, son sắt với Đất Nước; thổi vào tâm hồn chúng ta chất thơ với nhiều cung bậc.

Đặc biệt, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sử dụng sáng tạo, khéo léo các yếu tố của tục ngữ, ca dao, dân ca, thành ngữ, truyền thuyết, cổ tích, thần thoại trong kho tàng vô cùng quý báu của dân tộc ta.

Nếu xét ở thời điểm ra đời (12-1971) thì bài trường ca này còn có tác dụng làm thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam, nhận thức được bộ mặt xâm lược tàn bạo của đế quốc Mĩ, kêu gọi hướng về nhân dân, Đất Nước, ý thức được sứ mệnh lịch sử của thế hệ mình, đứng dậy đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.

Tóm lại, những thành công về nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn thơ trên đã nói hộ chúng ta những tình cảm yêu nước và tự hào dân tộc, vừa nồng nàn vừa sâu lắng, thiết tha.

Mẫu đoạn văn 🌸 Kết Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm 🌸 thu hút!

Viết một bình luận