Phân Tích Khổ Cuối Bài Tràng Giang [21+ Bài Văn Hay Nhất]

Phân Tích Khổ Cuối Bài Tràng Giang ❤️️ 21+ Bài Văn Hay Nhất ✅ SCR.VN Tuyển Tập Các Mẫu Văn Phân Tích Độc Đáo Về Tác Phẩm Nổi Tiếng Của Huy Cận.

NỘI DUNG BÀI VIẾT

Dàn Ý Phân Tích Khổ Cuối Bài Tràng Giang

Lập dàn ý phân tích khổ cuối bài Tràng giang sẽ giúp các em học sinh nắm được bố cục và những luận điểm chính. Tham khảo mẫu phân tích khổ cuối bài Tràng giang dàn ý chi tiết như sau:

1.Mở bài phân tích khổ cuối Tràng giang:

  • Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ Tràng giang.
  • Dẫn dắt vào vấn đề: hai khổ thơ cuối trong bài Tràng giang.

2.Thân bài phân tích khổ cuối Tràng giang:

a. Khái quát chung

-Với nhan đề, nhà thơ đã khéo gợi lên một vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại:

  • “Tràng giang” gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn.
  • Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để gợi không khí cổ kính trang nghiêm. Tác giả còn sử dụng từ biến âm “tràng giang” thay cho “trường giang”, hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.

-Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”

  • Gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc. Đồng thời cho người đọc thấy rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả xuyên suốt tác phẩm. Đó là tâm trạng “bâng khuâng”; nỗi buồn mênh mang, không rõ nguyên cớ nhưng da diết, khôn nguôi. Đó còn là không gian rộng lớn “trời rộng sông dài” khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội nghiệp.
  • thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của thi nhân khi đứng trước cảnh sông nước bao la trong một buổi chiều đầy tâm sự.

b. Phân tích khổ thơ cuối cùng “Tràng giang”:

  • “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”: không gian như được mở rộng hơn với cảnh bầu trời với những đám mây trắng chen chúc nhau như sà xuống đỉnh núi, nỗi buồn của con người đang lan tỏa ra mạnh mẽ hơn.
  • “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”: trong khoảng không gian rộng lớn, yên tĩnh đó là hình ảnh chú chim nghiêng đôi cánh như đổ bóng chiều tà xuống không gian bên dưới.
  • “Lòng quê dợn dợn vời con nước”: “dợn dợn’ là cách dùng từ mới mẻ của tác giả, nó không chỉ là tâm trạng nhớ nhung, buồn bã mà đó còn là những băn khoăn, trăn trở mong mỏi cho quê nhà sớm được độc lập tự do, nỗi nhớ luôn lăn tăn như con nước của dòng sông.
  • “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”: vào lúc mặt trời lặn cũng là lúc con người ta thường cảm thấy bâng khuâng, nhớ nhà đặc biệt là khi các nhà lên khói nấu cơm chiều. Tuy nhiên, nỗi nhớ nhà của tác giả không đợi khi có khói của bữa cơm chiều mà nó luôn luôn thường trực.
  • khổ thơ đã khắc họa thành công hình ảnh bức tranh thiên nhiên đượm buồn buổi chiều tà và lột tả nỗi lòng của tác giả một cách kín đáo nhưng lại sâu sắc.

3.Kết bài phân tích khổ cuối Tràng giang:

Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của khổ thơ.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Dàn Ý Bài Tràng Giang Chuẩn Nhất 🍀 Mẫu Nghị Luận Hay

Dàn Ý Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Tràng Giang

Trước khi đi vào phân tích 2 khổ cuối bài thơ Tràng Giang, hãy lập dàn ý chi tiết để không bị sót ý khi làm bài nhé!

I. Mở bài: Giới thiệu hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang

Ví dụ: Một trong những nhà thơ mới nổi tiếng là nhà thơ Huy Cận, mỗi bài thơ mang một phong cách rất riêng. Thơ của Huy Cận mang phong cách thơ hàm súc, triết lí và phục vụ cho cách mạng của nước ta. Một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng là Tràng giang, bài thơ nằm trong tập thơ Lửa thiêng…

II. Thân bài: Phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ Tràng Giang

  1. Khổ 3
  • Hình ảnh những cánh “bèo dạt” lại gợi lên cảm giác chia li đã xuất hiện từ đầu thi phẩm.
  • Sự cô quạnh đã được đặc tả bằng cái không tồn tại ( không gian mênh mông, trong đó không có bất cứ dấu hiệu nào là của thế giới con người: không cầu, không chuyến đò ngang).
  • Nỗi buồn này như vậy không chỉ là nỗi buồn giữa trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn về cuộc đời và nhân thế.
  1. Khổ cuối

-Hai câu đầu: màu sắc cổ điển của các hình ảnh thiên nhiên:

  • Các hình ảnh mây, núi, gió được thể hiện rất rõ và nổi bật qua đoạn thơ
  • Hình ảnh lớp mây thể hiện nỗi buồn của tác giả vô bờ
  • Hình ảnh cánh chim lẻ loi, thể hiện nỗi buồn của tác giả thêm sâu nặng
  • Hình ảnh cánh chim không chỉ báo hiệu hoàng hôn mà còn chỉ cái tôi nhỏ nhoi, cô độc của tác giả

-Hai câu cuối:

  • Nhà thơ có cảm giác nhớ quê hương khi đứng trước cảnh thiên nhiên
  • Nỗi buồn của Huy Cận được thể hiện rất sâu sắc và nổi bật
  • Khát vọng sự đẹp đẽ, tươi đẹp về quê hương đất nước, góp sức mình cho quê hương, đất nước

III. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang

Ví dụ: Khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang thể hiện cảnh núi non hùng vĩ của sông nước. Bên cạnh đó còn thể hiện cái tôi nhỏ nhoi của tác giả.

Gợi ý cho bạn ☔ Sơ Đồ Tư Duy Tràng Giang ☔ 12 Mẫu Tóm Tắt Hay

Phân Tích Khổ 4 Bài Tràng Giang – Mẫu 1

Tham khảo ngay mẫu phân tích khổ 4 bài thơ Tràng Giang độc đáo và ấn tượng nhất dưới đây.

Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim. Thơ diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của con người, niềm vui, nỗi buồn, sự cô đơn tuyệt vọng… Có những tâm trạng của con người chỉ có thể diễn tả bằng thơ. Vì vậy thơ không chỉ nói hộ lòng mình, mà thơ còn thể hiện được nỗi buồn thiên cổ của cả một thế hệ mang trong mình cái tôi cô đơn, bế tắc trước cảnh nước mất nhà tan. “Tràng Giang” là một bài thơ như thế. Đặc biệt điều đó được thể hiện rõ nhất qua khổ thơ cuối của tác phẩm.

Quả không sai khi nói rằng, với người làm thơ bài thơ là một phương diện biểu đạt tình cảm, tư tưởng chỉ có cảm xúc chân thành mãnh liệt với là cơ sở cho sự ra đời một tác phẩm nghệ thuật chân chính, cảm xúc càng mãnh liệt thăng hoa thì thơ càng nhiều khả năng chinh phục ám ảnh trái tim người đọc. Mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà thơ khi sáng tạo nghệ thuật.

Huy Cận đã không ngừng tìm tòi sáng tạo để tìm ra lối đi cho riêng mình và ông đã khẳng định được vị trí của mình trong nền thơ hiện đại Việt Nam. Tiêu biểu cho phong cách của Huy Cận có thể kể đến “Tràng Giang” theo lời kể của Huy Cận bài thơ được gợi cảm xúc từ một buổi chiều mùa thu năm 1939 khi tác giả đứng ở bờ Nam Bến chèm, trước cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước, nhiều cảm xúc thời đại dội về khi thi sĩ thấy cái tôi của mình quá nhỏ bé so với vũ trụ bao la, nên ông đã gửi gắm cả vào bài thơ này.

“Tràng giang” là một từ Hán Việt gợi tả liên tưởng tới không gian cổ kính, trang trọng “tràng” là một âm độc khác của từ trường trong tiếng Hán, hay âm “ang” đi liền với nhau đã gợi cảm giác về một con sông không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông và ta cảm thấy con sông ấy không chỉ là dòng sông hồng đỏ nặng phù sa, mà đó còn là con sông của ngàn xưa trong tâm tưởng.

Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, đã thâu tóm và gợi mở cảm xúc chủ đạo của bài thơ trước cảnh trời rộng, sông dài. Lòng người đã giấy lên tâm trạng bâng khuâng và nhớ, từ láy “Bâng Khuâng” đã diễn tả được tâm trạng của chủ thể trữ tình buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng và con sông dài miên man tít tắp ấy cứ vỗ đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động biết bao trái tim bạn đọc nhiều thế hệ.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiếu sa
Lòng quê rờn rợn với con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Cảnh sắc thiên nhiên ở khổ thơ này đẹp đẽ và kỳ vĩ đến lạ lùng, ở phía chân trời xa những đám mây trắng cứ đùn lên lớp lớp được ánh chiều phản chiếu lấp lánh như những hòn núi bạc khổng lồ. Cảnh tượng hùng vĩ ấy gợi ta liên tưởng tới bài “thu hứng” của Đỗ Phủ.

Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ai xa”.

Trên cảnh trời mây sông nước bao la bỗng nhiên xuất hiện một cánh chim bé bỏng lạc đàn. Cánh chim càng nhỏ bé cô đơn bóng chiều càng xa xuống, rớt xuống cảnh chiều càng buồn hơn. Phải chăng cánh chim bé nhỏ ấy chính là hình ảnh của nhà thơ khi “Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước”, trước cảnh nước mất, nhà tan.

Chỉ biết rằng trong khổ thơ thi sĩ như kẻ lữ thứ lạc vào một hoang đảo trơ chọi, cô đơn đến tuyệt đối. Hai chữ “rờn rợn” là từ láy thể hiện sự sáng tạo của tác giả diễn tả tâm trạng nôn nao, day dứt của lòng người đang gợi lên như những cột sóng trong tâm hồn, đó là nỗi nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương. Đến đây nỗi nhớ ấy đã được nhà thơ giãi bày.

Lòng quê rờn rợn vờn con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Hơn 1000 năm trước, khi đứng trước nước non, mây trời nhà thơ thời hiệu ở Trung Quốc đã từng chạnh lòng.

“Nhật mộ hương quan hà xử nhị
Yến ba giang phượng sử nhân sầu.
(quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho vừa lòng ai).

Người xưa nhìn thấy khói sóng trên sông mà nhớ tới quê hương, lấy khói sóng làm duyên cơ cho nỗi nhớ nhà. Còn Huy Cận nỗi nhớ nhà luôn thường trực trong tâm, nên ông không cần phải lấy bất cứ khói nào để làm duyên cơ, ông nhớ nhà như để chạy trốn cái cô đơn mà đó ông gọi là lòng quê.

Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong cách cổ điển và hiện đại, kết hợp với thể thơ 7 chữ, cách ngắt nhịp gieo vần đăng đối tả cảnh ngụ tình “Tràng Giang” nói chung và khổ thơ cuối nói riêng thực sự là bức tranh thiên nhiên độc đáo, cùng với những tâm trạng, nỗi lòng rất khó để thổ lộ của nhà thơ.

Bài thơ đã kết thúc nhưng mỗi lần đọc lại tác phẩm trong lòng ta như vẫn hiện lên hình ảnh của dòng sông Hồng mênh mang, mang nặng nỗi buồn sâu thẳm và có lẽ đó chính là lý do tại sao dù ra đời đã lâu nhưng “Tràng Giang” vẫn không hề bị bụi thời gian phủ mờ và giá trị của nó vẫn còn sáng mãi đến ngày hôm nay.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Mở Bài Tràng Giang 🌹 20 Đoạn Văn Mẫu Hay

Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Tràng Giang Hay – Mẫu 2

Giới thiệu đến bạn bài phân tích về 2 khổ thơ cuối bài Tràng Giang đặc sắc nhất.

Bài thơ Tràng Giang là một bài thơ tiêu biểu gắn liền với Huy Cận. Thể hiện nỗi buồn của tác giả trước nhân tình thế thái, trước nỗi buồn nhân thế. Thể hiện tình cảm yêu quê hương, đất nước của tác giả.

Đặc biệt là hai khổ thơ cuối thể hiện rõ nét tâm trạng phiền não, sầu muộn của tác giả Huy Cận với những nỗi sầu nhân thế.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Hình ảnh từng cụm bèo lững lờ trôi trên sông vô định không biết đời mình rồi sẽ đi đâu về đâu. Trong bối cảnh không gian mênh mông sông nước trời biển bao la, thời gian là cảnh chiều tà. Nhìn những đám bèo trôi vô định, không có phương hướng khiến cho tác giả cảm thấy nôn nao buồn.

Trong câu thơ “mênh mông” hai từ láy này gợi lên cho người đọc sự sầu muộn bao la, trước cảnh sông chiều nhưng không có một con đò nhỏ để qua sông, càng làm cho lòng người thêm man mác. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối lập giữa không gian và con người bé nhỏ. Không gian càng mênh mông thì con người càng cảm thấy mình thật cô đơn bé nhỏ, lạc lõng biết bao nhiêu.

Khung cảnh thiên nhiên thể hiện như tâm trạng của nhà thơ Huy Cận lúc này đều gợi lên tâm trạng buồn. Giữa đất trời sông nước bao la không tìm được một người bạn tâm giao tri kỷ. Không ai có thể hiểu nỗi lòng của tác giả. Làm cho nỗi cô đơn cứ thế mà xô sóng ở trong lòng, con người cảm thấy mình thật bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện tại.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

Cánh chim chiều nghiêng bóng trước hoàng hôn, một cánh chim nhỏ nhoi lẻ loi trên bầu trời bao la rộng lớn, thể hiện sự cô liêu khắc khoải. Cánh chim chiều chao nghiêng kia phải chăng chính là hiện thân của tác giả lúc này, đang cảm thấy trào dâng nghiêng ngả những cơn sóng lòng. Đang cảm thấy mình lẻ loi, cô đơn trước cuộc đời bao la rộng lớn.

Thiên nhiên trong khổ thơ này gợi lên cho người đọc cảm giác buồn thê lương, não lòng. Đúng như câu thơ của Nguyễn Du viết trong tác phẩm Truyện Kiều rằng: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” để thể hiện sự cô đơn, lẻ loi buồn chán của tác giả trước thiên nhiên, cuộc đời.

Tác giả Huy Cận đã vô cùng tinh tế khi đặt cánh chim đối lập cô đơn với không gian bao la rộng lớn, mênh mông của đất trời, vũ trụ.

“Lòng quê rờn rợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Trong hai câu thơ này thể hiện tâm trạng nhớ nhà nhớ quê hương của tác giả Huy Cận. Người xưa thường nhìn khói lam chiều gợi lên cảnh nhớ nhà, nhớ mùi khói bếp thơm ngai ngái để hướng tới quê hương, gia đình. Hướng tới người thân thương nhất của mình.

Nhưng Huy Cận viết “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” thể hiện nỗi nhớ của ông là nỗi nhớ thường trực. Nó luôn chứa đựng in sâu trong lòng tác giả, không cần phải có chất xúc tác là khói lam chiều mới nhớ.

Phân tích hai khổ cuối bài Tràng giang xong, chúng ta có thể thấy tất cả đều gợi lên một bức tranh chiều tà vô cùng tinh tế, tươi đẹp nhưng thể hiện một nỗi sầu nhân thế vô cùng sâu sắc trong lòng tác giả.

Có thể bạn sẽ thích 🌼 Kết Bài Tràng Giang 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Khổ Cuối Bài Tràng Giang Hay Nhất – Mẫu 3

Đón đọc bài văn mẫu phân tích khổ cuối bài Tràng giang hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây:

Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại được nhắc đến như là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. Trước không gian ấy, ông thường bày tỏ cảm xúc buồn sầu đến mức ảo não, tuy nhiên ẩn sau nỗi sầu đó là khát khao tình đời, tình người. “Tràng giang” là một bài thơ như thế. Qua chặng đường ba khổ thơ đầu thể hiện tâm trạng buồn sầu của nhà thơ trước không gian bao la rợn ngợp, đến với khổ thơ cuối cùng, người đọc thấy được tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Tràng giang được sáng tác vào năm 1939, cảm hứng được gợi từ cảnh thiên nhiên bao la của sông Hồng. Bài thơ là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất được in trong tập “Lửa thiêng” (1940).

Xuyên suốt ba khổ thơ đầu là nỗi buồn của Huy Cận: từ nỗi sầu khi đối diện trước không gian mênh mông đến tâm trạng cô đơn trước bức tranh thiên nhiên được mở rộng về nhiều phía và sau đó là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời. Vậy nhưng, đến với khổ thơ cuối cùng, người đọc lại thấy được niềm khao khát gắn kết, tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả.

Ở đây, cái nhìn của Huy Cận như hướng lên trời cao để cảm nhận bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Đám mây – cánh chim vốn là motip quen thuộc trong thơ ca khi nói về trời chiều như “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” (Bà Huyện Thanh Quan) hay “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ/ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” (Chiều tối – Hồ Chí Minh) để gợi nỗi buồn xa vắng.Huy Cận cũng đã đưa những hình ảnh quen thuộc đó vào “Tràng giang” càng nhấn mạnh hơn bức tranh thiên nhiên mang màu sắc cổ điển.Thiên nhiên hiện lên với Mây cao đùn núi bạc, với cảnh huy hoàng, tráng lệ biết bao.

Thế nhưng, hình ảnh đó dường như cũng khắc họa tâm trạng buồn bã, cô đơn của con người trước không gian bao la rộng lớn bởi chim thì “mỏi” còn mây thì “trôi nhẹ” lững lờ. Không chỉ vậy, hình ảnh Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa đã khéo léo vẽ ra sự đối lập giữa cái nhỏ bé – cái bao la. Lời thơ giải thích phải chăng nhấn mạnh chỉ một cánh chim nhỏ nghiêng cánh cũng khiến cho bóng chiều “sa xuống” . Câu thơ đã khắc họa cảnh thiên nhiên rộng hơn, tráng lệ và hùng vĩ hơn nhưng cũng buồn hơn.

Không chỉ thể hiện cảm xúc buồn sầu một cách gián tiếp qua bức tranh thiên nhiên, mà ở đây nỗi khát khao tình đời, tình người của Huy Cận như bật ra một cách trực tiếp:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Từ láy dợn dợn đã miêu tả cảm xúc dâng trào mãnh liệt giống như sóng nước, động từ “vời” dường như nhấn mạnh nỗi cồn cào, hụt hẫng, chới với trong cảm xúc đồng nhất với ngoại cảnh. Bởi vậy lúc này, hồn thơ Huy Cận tha thiết nỗi “Nhớ nhà”. Đó là nỗi nhớ về nơi chôn rau cắt rốn hay là đang nhớ về đất nước, tổ quốc mình? Đây là nỗi nhớ kín đáo, thể hiện nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên dưới thời thuộc Pháp, sống trên đất nước mình mà luôn có cảm giác bơ vơ, lạc lõng.

Câu thơ cuối “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” gợi nhớ ý thơ quen thuộc trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)

Nhưng nếu người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà – tức là nỗi nhớ nhà được gợi lên từ ngoại cảnh, thì Huy Cận nhớ nhà mà không cần đên hoàng hôn – nỗi nhớ nhà không phụ thuộc vào ngoại cảnh, do đó nó càng mãnh liệt, thấm thía hơn bao giờ hết.

Có thể nói, khổ thơ kết bài “Tràng Giang” đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ dành cho quê hương đất nước. Càng thấm thía nỗi cô đơn, hiu quạnh, con người càng khát khao tình đời, tình người. Bởi vậy, đúng như Xuân Diệu từng cho rằng: “đây là bài thơ dọn đường cho tình yêu quê hương đất nước của Huy Cận”.

Gửi tặng bạn 💕 Nghị Luận Tràng Giang 💕 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Phân Tích Khổ Cuối Bài Tràng Giang Ngắn Gọn – Mẫu 4

Khổ thơ cuối cảu bài Tràng Giang là khổ thơ hay và dạt dào cảm xúc nhớ nhà nhất của tác giả, cùng phân tích khổ thơ đặc biệt này ngay nhé!

Huy Cận tưởng như là người lữ khách với niềm đam mê bất tận về một vẻ đẹp buồn âu sầu ảo não, vậy nên thi nhân đã không ngại bỏ buồn vào không gian, lượm lặt từ những chất thơ tế vi mỏng manh của tạo vật để làm nên những bức tranh không gian mang nỗi hoài cổ của chính mình. Khổ thơ cuối Tràng Giang là những vần điệu mang đậm nét âm hưởng ấy.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Khổ thơ cuối có thể coi là tuyệt bút tuyệt hoa mà Huy Cận đặc dùng. Mây cao núi bạc, khung cảnh mới thật hùng vĩ, tráng lệ làm sao, đó là những chất liệu mang màu cổ điển được họa sĩ Huy Cận vờn phối cho bức tranh chiều tà nhuốm màu buồn man mác của chính mình. Khiến cho chỉ một câu thơ ngắn, nhưng lại gợi về thăm thẳm những mênh mông và rợn ngợp từ quá khứ đuổi về hiện tại, từ cổ điển gọi về hiện đại.

Cánh chim gọi buổi chiều, tín hiệu ấy dường như không còn xa lạ nữa, thế nhưng vào trong thơ Huy Cận nó vẫn chở những xúc cảm của riêng nhà thơ vào trong đó. Tưởng như cánh chim nhỏ bé và đơn côi ấy, đã chở cả buổi hoàng hôn trên đôi cánh của mình, tưởng như đã chở cả cái không cùng và cô đơn vời vợi của kiếp người ở trên đó.

Dấu hai chấm tưởng như một sự ngăn cánh, để làm điểm nhấn cho độ nghiêng rất nghệ mà cũng rất tinh của cánh chim nhỏ, hay có thể là dụng ý của nhà thơ để cả câu thơ nâng đỡ cả điệu hồn của thi nhân gửi vào đó. Hai câu thơ cuối, đứng trước thiên nhiên rộng lớn mênh mông, thi nhân bỗng trào dâng một nỗi nhớ nhà khôn nguôi, nỗi nhớ ấy là nỗi nhớ luôn trở đi trở lại như một lời khấn khứa, như một khắc khoải khôn nguôi xuất phát từ tấm lòng của một cái tôi đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu vắng quê hương.

Hoàng hôn thường là mốc thời gian gợi nhớ gợi buồn, nhưng ở đây không gian ấy chỉ đơn thuần là ngoại giới, còn trong nội tâm nhà thơ, thì toàn bộ tâm hồn đã hướng trọn về tình quê mất rồi. Lấy cái không để gợi về cái có, để gợi về nỗi lòng, để khơi gợi sự đồng điệu đó chính là cái tài trong bút thơ Huy Cận.

Khổ thơ cuối Tràng Giang dường như là những mạch chảy mạnh mẽ nhất của tâm trạng thi nhân, tưởng như nếu lắng mình nghiêng lòng xuống trang sách có thể cảm được điệu tâm hồn buồn và cô đơn của cái tôi thơ Mới chở mang trong đó.

Giới thiệu đến bạn 🌟 Phân Tích Tràng Giang Huy Cận 🌟 Những Bài Hay Nhất

Phân Tích Tràng Giang Khổ 4 Ngắn Nhất – Mẫu 5

Với bài văn phân tích Tràng giang khổ 4 ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập cho bài viết trên lớp.

“Tràng giang” không chỉ là một bài thơ hay của Huy Cận mà còn là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới 1932- 1945. Bài thơ không chỉ miêu tả phong cảnh quê hương đất nước, thể hiện tình yêu quê hương đất nước mà còn thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Và có lẽ khổ thơ cuối cùng khép lại thi phẩm, gieo vào lòng người đọc nhiều ấn tượng:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Nhà thơ miêu tả một hoàng hôn tráng lệ với lớp lớp mây trắng chồng xếp lên nhau như những núi bạc, cánh chim nhỉ bé trao nghiêng trong áng chiều và phía dưới là sóng nước Tràng Giang vẫn nhịp nhàng vỗ nhịp.

Hình ảnh vận động hữu hình: “chim nghiêng cánh” để diễn tả một vận động vô hình “bóng chiều sa”. Dường như cánh chim đang trĩu xuống dưới sức nặng của bóng chiều, hoàng hôn mặt trời như sa xuống mặt đất. Nếu như trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, Lí Bạch… thì cánh chim là biểu hiện báo hoàng hôn trong thơ Huy Cận là sự hiện diện vủa cảm giác cô đơn, lạc lõng của cái tôi lãng mạn trước cuộc đời.

Thi nhân phủ định thi liệu cổ điển để khẳng định ý tình thời đại trong hai câu kết:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Hai câu thơ lấy ý từ hai câu thơ của Thôi Hiệu trong “Hoàng Hạc Lâu”:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thương sử nhân sầu”

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)

Thôi Hiệu xưa đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn khói sóng dâng lên nỗi nhớ quá khứ. Miền quê ấy có thể là nơi chôn rau cắt rốn, nơi con người sinh ra lớn lên nhưng cũng có thể hiểu là miền đất nơi con người gắn bó vĩnh viễn sau hoàng hôn của cuộc đời. Nỗi sầu ấy mang đậm màu sắc cổ điển, gợi mở nỗi buồn về sự hư vô của kiếp người.

Còn Huy Cận, đứng ngay trên quê hương mình, dòng sông không có khói mà vẫn dâng lên nỗi nhớ nhà. Nhà ở đây có thể hiểu rộng là nước nhà, chiếu lên hai chữ “lòng quê”, lời thơ Huy Cận bộc lộ kín đáo tình cảm với đất nước, quê hương. Đặt bài thơ trong bối cảnh xã hội bấy giờ, có thể hiểu là nỗi buồn đất nước mất chủ quyền, nỗi buồn của cả một thế hệ mang tầm thời đại mà ta còn bắt gặp trong thơ Chế Lan Viên, văn Nguyễn Tuân…

Từ láy “dợn dợn” đã đồng nhất nhịp điệu của sóng nước vố nhịp điệu của cảm xúc. Nó vừa gợi ra cái dập dềnh của sóng nước vừa gợi cảm giác hoang lạnh trong lòng nhân vật trữ tình. Từ láy “dợn dợn” còn diễn tả một cách chân thực, lãng mạn cảm giác hoang mang của cái tôi không tìm thấy điểm tựa và hướng đi cho cuộc đời mình.

Bức tranh tâm trạng của chủ thể trữ tình mang màu sắc cổ điển khi nhân vật trữ tình cảm thấy cái nhỏ bé, hữu hạn của đời người với cái bao la, vô hạn của không gian. Đó là nét tâm trạng mang màu sắc phương Đông, tiếp nối mạch dòng ngàn đời trong thơ ca cổ điển. Tuy nhiên bài thơ vẫn mang những nét hiện đại, nhà thơ cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, mất mối liên hệ với vũ trụ, mất sự giao cảm với cuộc đời, con người và ngập tràn niềm khao khát đồng cảm để vơi bớt cô đơn. Đó cũng là tâm trạng chung của cái tôi lãng mạn trong thơ mới.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Cảm Nhận Bài Thơ Tràng Giang 🌟 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Khổ Cuối Tràng Giang Chi Tiết – Mẫu 6

Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích khổ cuối Tràng giang chi tiết để các em học sinh cùng tham khảo:

Huy Cận là nhà thơ nổi bật của phong trào thơ mới và là một trong những cây đại thụ của thơ ca Việt Nam hiện đại. Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta sẽ thấy được cái đặc trưng đặc biệt của thơ Huy Cận. Ông thường được nhắc nhớ bởi hồn thơ của những nỗi sầu vạn cổ hay nhà thơ của những nỗi niềm khắc khoải không gian.

Bài thơ “Tràng giang” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Huy Cận, được in trong tập “Lửa thiêng”, tập thơ đầu tay nhưng đã thể hiện được cái “chín” trong sáng tác của ông. Bài thơ gợi mở không gian sông Hồng, đoạn bến Chèm vào mùa nước nổi.

Thời điểm viết bài thơ Huy Cận đang là sinh viên của trường Cao đẳng Canh nông. Đứng trước cảnh sông nước mênh mông, ông thể hiện tâm trạng cô đơn, u sầu và sự lạc loài của số kiếp con người trước vũ trụ bao la, vô thủy, vô chung. Điều này người đọc có thể cảm nhận rõ nhất ở khổ cuối bài thơ.

“Tràng giang” là một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, trang trọng và gợi cho ta nhớ đến dòng sông li biệt từng gặp trong thơ Lí Bạch. Bên cạnh đó, vần “ang” trong hai từ khi đọc lên như vang vọng và gợi không gian mênh mông xa vắng, cái trải dài của bãi bờ sông nước. Vì vậy, ngay từ nhan đề, Huy Cận đã mở ra một cửa ngỏ nhìn vào cái vô biên. Hai chữ “Trường giang” ngắn gọn nhưng đã khái quát và phần nào đã làm rõ tư tưởng, thông điệp của nhà thơ muốn gửi gắm trong bài thơ.

“Bông khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Chỉ một câu thơ nhưng Huy Cận đã gói trọn cảm hứng chủ đạo của cả tác phẩm. Đó là nỗi bâng khuâng, lòng thương nhớ của một con người bé nhỏ trước cảnh trời rộng sông dài.

Kết thúc bài thơ, Huy Cận vẽ nên cảnh hoàng hôn về trên vùng sông nước. Nỗi cô đơn vẫn còn tiếp nối và trải ra cùng những con sóng, lênh đênh theo những con thuyền, theo cành củi lạc loài, theo những cánh bèo trôi nổi và cho đến cuối cùng, lại kết thụ ở đoạn thơ cuối:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Trong khổ thơ cuối bài “Tràng giang”, ta thấy Huy Cận chia đôi khổ thơ làm hai phần rõ rệt. Hai câu thơ trên gợi cảnh trời rộng bao la, hai câu cuối thì miêu tả cảnh sông dài. Mà song hành cùng với trời rộng, sông dài là nỗi cô đơn u sầu, là niềm nhớ, nỗi hoài hương da diết của thi nhân, đặc biệt là vào lúc hoàng hôn đang buông khép lại một ngày.

Hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy Huy Cận thật tài hoa khi vẽ nên một nét chấm phá đậm dấu ấn Đường thi, phác họa cảnh hoàng hôn vùng sông nước:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Những lớp mây nối tiếp nhau, đùn dồn tụ, ngưng kết thành những dãy núi trùng điệp. Còn hoàng hôn như dát bạc lên những dãy núi, khiến chúng lấp lánh sáng ngời. Đọc câu thơ ta có thể hình dung ra khung cảnh thiên nhiên ấy thật kì vĩ, tráng lệ làm sao và gợi nhắc đến câu thơ Đường:

Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa”.

Giữa vùng trời mênh mông, người thi sĩ vẽ thêm một cánh chinh đơn côi, bé bỏng. Cánh chim nhở như đang chở nặng bóng chiều tà đi về phía ánh dương rồi mất hút. Ta không khỏi cảm thấy cánh chim ấy cũng đang mang nỗi sầu vũ trụ, mà nỗi sầu ấy nặng quá, chúng phải nghiêng đôi cánh nhỏ.

Chính sự kết hợp giữa các hình ảnh mây đùn đùn, trời mênh mông và cánh chim bé nhỏ đang mang đến dư vị cổ điển cho tác phẩm của Huy Cận. Qua đó, độc giả cũng thấy rõ niềm khắc khoải không gian của Huy Cận. Một mình đứng trước vũ trụ bao la, đối diện với nỗi cô đơn, nhà thơ càng thấm thía cái vô tận, vĩnh hàng của không gian, thời gian và đồng thời là cái ngắn ngủi, hữu hạn của đời người.

Ở hai câu thơ cuối, nỗi cô đơn u hoài của Huy Cận còn tăng gấp bội khi ông dõi theo những con sóng đang gợn trôi trên dòng sông:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Lúc này điểm nhìn của nhà thơ đã dịch chuyển từ cao xuống thấp, từ trời mây núi, cánh chim giữa không trung rồi dừng lại trước mặt nước dập dềnh sóng. Từ láy “dờn dợn” mang tính gợi hình, vẽ ra những con sóng đang nhấp nhô trên mặt nước và khiến người nhìn rợn ngợp bởi những lớp sóng cứ dồn gối lên nhau. Còn nhịp 4/3 của dòng thơ lại gợi trạng thái gặp gỡ của những con sóng. Huy Cận đứng và phóng tầm mắt dõi theo những con sóng cứ dập dềnh triền miên, nỗi hoài nhớ quê hương cuối cùng đã dâng lên,

Trong thơ cổ điển, hình ảnh khói sóng trên sông đã trở thành nguyên cớ, thành cái dễ gợi nhắc nỗi niềm hoài hương của người thi sĩ. Còn ở đây, Huy Cận đã không còn bị tác động bởi yếu tố ngoại cảnh, là khói hoàng hôn để nói về nỗi niềm da diết nhớ quê hương. Như vậy, hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy, Huy Cận đã không lặp lại người xưa ở cái nguyên cớ nhớ quê nhưng vẫn khiến người đọc thấy bâng khuâng, nao nao thương nhớ.

Nhưng hơn hết, nỗi lòng đối với quê hương không chỉ là nỗi nhớ nhà mà sâu sắc hơn, là nỗi buồn. Nỗi buồn của cả một thế hệ, một lớp người bởi cảnh nước mất nhà tan. Vì vậy, đằng sau nỗi nhớ quê nhà da diết ấy còn ẩn chứa tình yêu đất nước tầm kín mà sâu sắc của Huy Cận.

Có thể nói, khổ thơ cuối bài “Tràng giang” là nơi hội tụ những đặc sắc nghệ thuật, nội dung sâu sắc của cả bài thơ. Ở đây ta thấy được phong vị cổ điển kết hợp hài hòa với tinh thần sáng tác hiện đại, và sự hài hòa giữa cảm xúc cá nhân và suy tư thời đại. Chính những sự cộng hưởng này đã khiến tâm trạng, cảm xúc, nỗi u sầu cô đơn và nỗi hoài vọng quê hương của Huy Cận càng thêm da diết, triền miên.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Phân Tích Khổ Thơ Cuối Của Bài Thơ Tràng Giang Đầy Đủ – Mẫu 7

Bài văn phân tích khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang đầy đủ dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.

Nhắc đến Huy Cận là nhắc đến hồn thơ u sầu, trong thơ ông luôn chất chứa những nỗi niềm của một kẻ sĩ vương nỗi sầu nhân thế. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách ấy của ông là “Tràng giang”, tác phẩm được viết vào mùa thu năm 1939. Khổ thơ cuối bài “Tràng giang” là những khổ hay nhất bài thơ, diễn tả nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp của thi nhân.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Giữa trời đất rộng lớn, mênh mông nhưng nhà thơ Huy Cận lại không tìm được một tiếng nói đồng cảm, tri âm, không có một ai có thể thấu hiểu được tâm trạng và những nỗi buồn đang giăng kín trong tâm hồn nhà thơ. Nỗi phiền muộn, u sầu không thể giãi bày, chỉ có thể tự mình giữ lấy nên nó càng nhức nhối, khắc khoải.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.”

Những hình ảnh cổ điển “mây”, “cánh chim” được tác giả sử dụng kết hợp với các động từ “đùn”, “nghiêng”, “sa” đã diễn tả được cái hùng vĩ và sức sống tràn đầy của thiên nhiên. Những tầng mây “lớp lớp” chất chồng lên nhau tạo nên những dãy núi bạc khổng lồ, lơ lửng trên nền trời xanh ngắt. Một cảnh tượng thật hùng vĩ biết bao! Thiên nhiên lúc này không còn trong trạng thái tĩnh mịch nữa mà nét động dần thay thế.

Mây đùn núi bạc trong ánh chiều, chim nghiêng cánh nhỏ mơ màng trong bóng hoàng hôn, tất cả tạo nên một không gian đẹp đẽ, rực rỡ và sống động. Tuy nhiên, trong khung cảnh ấy, ta vẫn thấy nét buồn, cô đơn của tâm hồn thi nhân khi bắt gặp hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”.

Cánh chim nhỏ bé, mỏng manh bay giữa mây cao, núi bạc, cô đơn giữa đất trời mênh mông, hùng vĩ tựa như hình ảnh thi nhân đang bơ vơ, chán ngán giữa dòng đời. Bởi thế mà nỗi buồn cứ thế trào dâng, miên man bất tận, thấm đượm trong cảnh, chất chứa trong tình.

Có thể nói, tình quê là một tình cảm đáng trân trọng của các thi nhân dành cho quê hương, đất nước. Thôi Hiệu từng nhìn khói sóng trên sông mà nhớ nhà:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

Hay Lí Bạch từng nhìn trăng mà nhớ quê hương da diết:

Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.”

Người ta xa quê thì nhớ quê, nhưng với Huy Cận thì khác, tác giả đang đứng trên quê hương mà lại nhớ quê hương da diết:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Từ láy “dợn dợn” gợi tả nét chuyển động diễn ra liên tục trong tâm khảm nhà thơ, một nỗi nhớ luôn thường trực khôn nguôi, đầy sâu sắc và ám ảnh. Dường như, không giây phút nào là thi nhân không nhớ đến quê hương, đất nước mình, đặc biệt là trong cảnh tổ quốc đang bị xâm lăng, giày xéo bởi quân thù.

Có thể nói, khổ cuối bài thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp nhưng buồn sầu. Ẩn sâu trong từng con chữ là cái tôi thi sĩ cô đơn song lại chất chứa tình cảm sâu nặng, tha thiết với quê hương, đất nước.

Khám phá thêm 💕 Phân Tích Khổ 1 Tràng Giang 💕 Những Bài Phân Tích Hay

Phân Tích Khổ Cuối Bài Tràng Giang Học Sinh Giỏi – Mẫu 8

Đón đọc bài văn phân tích khổ cuối bài Tràng giang học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.

Đọc thơ của Huy Cận người đọc cảm nhận rõ được tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước sâu nặng trong lòng ông. Bằng tình yêu nồng nàn và luôn cháy trong tim ông luôn hướng về quê hương đất nước dù hiện tại ông đang đứng trên mảnh đất quê hương. Khổ cuối bài Tràng giang là tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước.

Tác giả với tình yêu quê hương đất nước yêu cảnh sắc quê hương vì thế mà bức tranh thiên nhiên vẫn tiếp tục được mở ra với những chi tiết mới:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Câu thơ đầu đã gợi mở ra cảnh phía chân trời xa, những đám mây trắng chồng xếp lên nhau trùng trùng điệp điệp dưới phản chiếu ánh dương lấp lánh như núi bạc. Huy Cận học ý thơ của Đỗ Phủ qua bản dịch nghĩa của Nguyễn Công Trứ: “Mặt đất mây đùn từ ải xa.” Đã phác họa bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng đẹp một cách tráng lệ lung linh.

Nhưng đến câu thơ thứ hai: “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”. Thơ xưa khi nói đến chiều thường buồn điểm xuyết trên nền không gian là cánh chim về tổ. Huy Cận vẽ cánh chim trao nghiêng đặt trong dấu hai chấm như để nhấn mạnh cả bóng chiều như rơi xuống góp phần gợi nỗi buồn da diết về sự bé nhỏ của con người giữa cuộc đời.

Không gian rộng lớn bao la nhưng lại làm cánh chim nghiêng ngả với đôi cánh nhỏ của mình. Nhưng trong câu thơ trên Huy Cận có nhắc đến thời điểm “bóng chiều” là là khoảng thời gian đặc trưng cho tâm trạng nhớ nhà nhớ quê hương da diết của những người con xa quê chính vì thế mà hai câu tiếp theo đã bộc lộ rõ tâm trạng ấy:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Lần đầu tiên thi sĩ bộc lộ tâm trạng nỗi nhớ quê hương được hiện lên từ khói hoàng hôn, từ con nước dợn dợn. Nó đã gợi ta nghĩ đến cảm giác đang rợn lên trong tâm trí con người hay những con sóng nhấp nhô trên sóng nước rất khó phân định chỉ biết qua từ “dợn dợn” sóng nước, sóng lòng đang hòa quyện vào nhau mênh mang trên dòng sông. Chỉ biết tấm lòng thương nhớ quê hương không chỉ ở trong ý thức mà đã xâm lấn cảm giác của con người thấm thía.

Câu thứ 4 “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” tính đối thoại với một tình cảm quan niệm thơ đi trước cho ta nghĩ đến tiếng thơ của Thôi Hiệu:

“Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

Với Huy Cận không cần khói sóng nào cần đến tác dụng của ngoại cảnh mà vẫn nhớ quê hương, nỗi niềm thương nhớ luôn thường trực trong lòng người. Đó là cách bày tỏ tình cảm thật sâu sắc. Cũng giống như Bà Huyện Thanh Quan:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Đứng trên quê hương, đất nước mà vẫn nhớ quê hương đất nước. Phải chăng đó là nỗi buồn sông núi của một trí thức yêu nước sống trong thân phận vong quốc nô, nỗi buồn của một thế hệ thanh niên yêu nước sống dưới thời Pháp đương thời. Bức tranh thiên nhiên gây ấn tượng bởi vẻ đẹp kì vĩ mĩ lệ của khung cảnh trời chiều đậm màu sắc nhưng bức tranh quá rộng lớn làm đầy lên nỗi cô đơn nhớ thương khắc khoải của nhân vật trữ tình.

Tràng giang là tiếng buồn của hồn thơ Huy Cận được gợi lên từ sự đối lập giữa không gian mênh mông cao rộng với nhỏ bé mong manh. Nỗi buồn không hoàn toàn vô cớ đó là nỗi buồn thương về kiếp người cuộc đời về quê hương đất nước. Nỗi buồn gắn với quan niệm thẩm mĩ của các nhà thơ mới cái đẹp sánh đôi với cái buồn. Đó cũng là nỗi buồn của thế hệ thanh niên mà trong thơ của Huy Cận thường đem nỗi buồn vào vũ trụ bao la.

Bài thơ còn là sự kết hợp hài hào giữa yếu tố cổ điển và hiện đại với các nghệ thuật thất ngôn trường thiên, phép đối ngẫu, thi tứ, bút pháp tả cảnh ngụ tình lấy điểm tả diện đã làm nổi bật khổ cuối của bài thơ.

Tuy chỉ là một khổ thơ nhưng khổ thơ cuối lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bộc lộ tâm trạng của Huy Cận khi đứng trên quê hương ngắm nhìn cảnh đẹp kì vĩ trên đất nước mình mà trong lòng không khỏi bồi hồi xúc động từ đó bộ lộ tình yêu thiên nhiên yêu quê hương kín đáo mà cũng tha thiết của tác giả.

Khi ta phân tích khổ thơ cuối bài Tràng giang dường như nó giúp khơi gợi trong chúng ta tình yêu quê hương đất nước tha thiết, yêu cảnh sắc quê hương mình từ đó mà dạy chúng ta cách trân trọng cuộc sống, trân trọng những gì đang có.

Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Khổ 2 Tràng Giang 🌠 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Khổ Cuối Tràng Giang Nâng Cao – Mẫu 9

Tham khảo bài văn phân tích khổ cuối Tràng giang nâng cao dưới đây để trau dồi những ý văn hay và đặc sắc.

Thơ của Huy Cận lại vô cùng hàm súc, giàu chất suy tưởng triết lý. Trước Cách mạng, thơ của ông nhuốm đầy nỗi buồn mênh mang, da diết. Nỗi buồn đó dường như vô cớ nhưng xét cho cùng, đấy lại là nỗi buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Sau Cách mạng, các tác phẩm của ông đã có sự hòa điệu giữa con người và thiên nhiên.

Khi viết về ông, các tác giả trong cuốn Thi nhân Việt Nam có viết:Có người muốn làm thơ phải tìm những cảnh nên thơ. Huy Cận không thế. Nguồn thơ đã sẵn trong lòng thời thi nhân không cần có nhiều chuyện. Thật vậy, các tác phẩm của Huy Cận dường như đã được ông giấu hết tâm tư, suy nghĩ, tình cảm của mình vào thiên nhiên, hòa quyện nỗi lòng của mình với trời mây sông nước, tiêu biểu là thi phẩm Tràng giang – đặc biệt là ở khổ 4.

Nếu như trong ba khổ đầu, Huy Cận đã sử dụng biện pháp tả cảnh ngụ tình để đưa những kiếp người bất hạnh, thấp cổ bé họng vào bài thơ qua cảnh vật nơi bến bờ con sông. Thì giờ đây, ở khổ cuối, ông đã “đặt” một phần của sự cô độc cùng với nỗi nhớ quê nhà da diết của mình lên một tầng thiên nhiên cao hơn, rộng lớn hơn – trời mây: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Một câu thơ chỉ với bảy chữ thôi mà đã mở ra trước mắt người đọc một cảnh tượng vô cùng hùng vĩ, tráng lệ nhưng cũng có phần khiến ta bất giác phải choáng ngợp bởi hình ảnh núi mây. Thật ra, núi mây ở đây không có nghĩa là núi và mây mà nó chính là một ngọn núi to lớn, sừng sững do thiên nhiên tạo ra bằng cách gom những đám mây lại với nhau.

Từ láy lớp lớp đã góp phần tạo cảm giác mây như dày đặc hơn, nhiều tầng lớp hơn khiến cho núi mây có màu bàng bạc, huyền ảo như mộng. Không những thế, trong câu thơ còn xuất hiện động từ đùn có tính gợi tả vô cùng cao, được Huy Cận lấy cảm hứng từ ý thơ của Đỗ Phủ:

Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Sự kết hợp khéo léo giữa hai cụm từ đùn và lớp lớp không chỉ làm không gian như được mở rộng hơn, cao hơn, rộng hơn và thậm chí là sâu hơn. Mà nó còn khiến nhân vật trữ tình đã nhỏ bé, cô độc lại càng bé nhỏ hơn biết nhường nào! Ngoài ra, hình ảnh núi mây của Huy Cận còn gợi ra cho đọc giả một sự liên tưởng: liệu có phải tác giả đã mượn hình ảnh những đám mây dày đặc, xếp chồng xếp lớp lên nhau để rồi nói lên, bộc tâm trạng sầu thảm cùng nỗi buồn vạn kỉ của mình.

Giữa không gian bao la, rộng lớn và tưởng chừng như yên ắng ấy lại đột nhiên xuất hiện một cánh chim nhỏ bé. Thoạt đầu, cánh chim nhỏ này xuất hiện như chỉ để tô điểm thêm cho sự hùng vĩ, kì ảo của cảnh sắc thiên nhiên. Đối lập với sự kì vĩ là cánh chim ấy lại nhỏ nhoi và cô độc đến độ: Chim Nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Hình ảnh cánh chim xuất hiện trong thơ văn Việt Nam nói riêng và phương Đông nói chung là không hề xa lạ. Ví như, hình ảnh cánh chim trong thơ cổ thời Đường bay về chốn vô tận, vô định gợi cảm giác xa xăm, phiêu dạt, chia lìa:

Chúng điểu cao phi tận – Lý Bạch
Thiên sơn điểu phi tuyệt – Liễu Tông Nguyên

Hay cánh chim bay mỏi mệt vì nhớ quê hương trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan:

Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa, khách bước dồn

Và kể cả cánh chim xuất hiện trong thơ của Chế Lan viên- một nhà thơ cùng thời với Huy Cận cũng có viết:

Chao ôi! mong nhớ! Ôi mong nhớ!
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn.

Mặc dù vậy, ta có thể dễ dàng nhận thấy được sự khác biệt của cánh chim trong thơ Huy Cận so với cánh chim trong thơ của các nhà thơ khác. Cánh Chim trong thơ của huy cận không hoàn toàn tĩnh lặng, dường như ta cảm thấy được cánh chim ấy đang đập cánh chao nghiêng giữa một không gian bao la rộng lớn.

Nhưng sự chao nghiêng này lại không toát lên được nét phóng túng của một cánh chim tự do. Chú chim nhỏ nghiêng đôi cánh kéo bóng chiều cùng chú sa xuống bao phủ, chiếm đóng cả một bầu trời rộng lớn hay lại là chiếc bóng chiều đang đè nặng, dồn ép lên đôi cánh nhỏ bé, yếu ớt kia?

Tâm trạng của Huy Cận lúc bấy giờ cũng vậy. Có lẽ ông sẽ cảm thấy hoang mang lắm, bơ vơ lắm, lẻ loi và đơn độc lắm. Vào những giây phút quyết định đó, Huy Cận đã tìm được câu trả lời cho riêng mình:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không Khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Hoài Thanh, Hoài Chân có viết trong cuốn Thi nhân Việt Nam: Huy Cận đi lượm lặt những chút buồn rơi rác rồi để sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi bình thường thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc.

Thật vậy, chỉ với hình tượng đối lập giữa sự nhỏ bé, đơn độc của một cánh chim và sự bao la, rộng lớn của không gian, cũng đủ để tâm hồn Huy Cận đồng cảm với cánh chim ấy và trào dâng một nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương vô cùng mãnh liệt. Cảm xúc ấy cứ cồn cào và day dứt trong lòng thi sĩ từng đợt từng đợt như gợn sóng trong lòng ông.

Dợn dợn – cách sử dụng từ ngữ vô cùng khéo léo và linh hoạt đến lạ thường!Thay vì dùng dờn dợn, ông lại sáng tạo ra một từ láy mới cho riêng mình: dợn dợn. Liệu có phải với hai thanh nặng đã kéo nỗi buồn của ông rơi vào hố sâu tuyệt vọng – nỗi tuyệt vọng trước cảnh nước mất nhà tan.

Từ dợn dợn ấy vừa tả những con sóng gợn trên mặt nước lại còn vừa ám chỉ những con sóng gợn trong lòng nhà thơ. Bởi lẽ đó có người nói về Tràng giang quả thật không sai. Là Tràng giang, khổ nào cũng dập dềnh sóng nước. Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.

Câu thơ cuối cùng trong khổ bốn của Tràng giang được Huy Cận dựa trên nền thơ của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu: Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Mặc dù lấy ý từ thơ của Thôi Hiệu nhưng Huy Cận lại có sự phát triển hơn trước: người xưa chỉ đến khi nhìn thấy khói trắng mới nhớ đến nhà; còn Huy Cận với tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng, tình cảm ấy trong ông cứ dạt dào, trào dâng ngày một nhiều thêm mà chẳng cần đến bất kì chất xúc tác nào!

Khổ thơ cuối của bài Tràng giang không chỉ là nỗi buồn, nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ mà nó còn chất chứa một sự khát khao, hi vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn, xã hội hạnh phúc hơn. Xuân Diệu đã từng nhận xét về thơ Huy Cận: Thơ Huy Cận dường như ngầm chất chứa cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế.

Chia sẻ 🌼 Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang 🌼 Văn Mẫu Tuyển Chọn

Phân Tích Khổ 4 Bài Tràng Giang Đặc Sắc – Mẫu 10

Bài văn phân tích khổ 4 bài Tràng giang đặc sắc dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý hay khi làm bài.

Nhà thơ Huy Cận có rất nhiều bài thơ hay miêu tả về cảnh thiên nhiên, tình yêu quê hương đất nước, nỗi nhớ nhà trong đó nổi bật nhất là bài thơ ” tràng giang” nó là bài thơ tiêu tiêu biểu của phong trào thơ mới. trong bài thơ ” tràng giang ” khổ thơ cuối của bài thơ khổ thơ này đã thể hiện tâm trạng buồn, cô đơn, bơ vơ của tác giả khi nhớ nhà:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,
Lòng quê dợn dợn vời non nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Tác giả đã dùng những từ láy ” lớp lớp” ở đây để miêu tả rõ hình ảnh của những đám mây nhiều nó từng lớp từng lớp đã làm bạc đi cả bầu trời, câu thơ :”lớp lớp mây cao đùn núi bạc” nhà thơ đã dùng biện pháp so sánh ẩn dụ và bút pháp chấm phá với “mây cao đùn núi bạc” thành “lớp lớp” đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa” để tô thêm vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ tác giả đã so sánh màu của những đám mây với” bạc” một cách so sánh khá khéo léo. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ “đùn”, khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi thành núi bạc. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc. Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau.

Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều. Trời mây thì bao la, rộng lớn như vậy còn chim thì chao nghiêng nhưng ở đây không phải là chao nghiêng một cách bình thường mà “chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”:Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi.

Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.có lẽ những đàn chim đang vội vã bay về tổ ấm của mình để tránh được cái ” bóng chiều sa”.

Dường như những cánh chim đó đang bị đè nặng của cảnh xế chiều buông xuống và điều đặc biệt hơn là cánh chim không bình thường mà chim nghiêng bỏi đôi cánh nhỏ bằng đôi cánh nhỏ của mình chim bay về tổ ấm của mình để tránh được một không gian rộng lớn buổi chiều tà. chim bay đi đâu cho thoát khỏi cái bóng chiều tà đang đè nặng xuống mình? Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

“Lòng quê dợn dợn vời non nước” Lòng quê ở đây muốn nói lên nỗi nhớ quê hương của nhà thơ, sự hướng tâm chứ không chỉ đơn thuần là tấm lòng chất phác, quê mùa. Hai từ “dợn dợn” cho ta cảm nhận sóng biển đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay tác giả đang nhớ thương vậy?

“Dợn dợn” là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. Hai từ “dợn dợn” còn gợi cho ta thấy được sự lên xuống uốn lượn của sóng biển hay nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng của một buổi chiều tà.

Và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà là liên tục, nhiều lần nhưng nỗi ấy mới chỉ là “dợn dợn” mà chưa phải là cuồng nhiệt. Câu thơ muốn nói lên lòng nhớ quê hương khi tác giả sông nước. hay trong truyện kiều cũng ả nỗi nhớ nhà nhưng lại chưa biết đâu là nhà khi:

“Bốn phương mây trắng một màu
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà”

Kiều nhớ quê nhà nhưng bốn phương đều là một màu làm sao để nhận ra được đâu là nhà hay trong cuộc sống của cô như thế thì sẽ biết về đâu và đâu sẽ là nhà?vâng lòng nhớ quê hương được gợi lên bởi từ” mây trắng “, cánh chim chiều và được tác giả nhấn mạnh ở từ” con nước’. Tác giả kết thúc bài thơ một cách nhẹ nhàng nhưng sâu lắng:

“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Nhà thơ đã mượn từ “khói “trong thơ của nhà thơ thôi hiệu để nói lên nỗi lòng của mình, nếu như nhà thơ Tô Hiệu nói” trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” thì nhà thơ HUY CẬN không có “khói” nhưng vẫn nhớ về nhà hay cái nôi mà mình đã nuôi ta trưởng thành. Nhà thơ tô hiệu mới nói lên nỗi nhớ nhà một cách chung nhưng ở đây nhà thơ huy cận đã khẳng định “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” câu thơ rất mạnh mẽ dứt khoát .

Xưa kia nhà thơ thôi hiệu buồn vì cõi tiên mù mịt, quê nhà cách xa, khói sóng trên sông gợi cho tác giả thấy mờ mịt mà sầu. Nhưng nay Huy Cận buồn trước cảnh không gian hoang vắng,sóng “gợn tràng giang “khiến ông nhớ tới quê hương như một nguồn ấm áp vá là tổ ấm hạnh phúc đối với ông.

Thôi Hiệu tìm giấc mơ tiên chỉ thấy hư vô, đó là lòng khát khao một cõi quê hương thực tại còn Huy Cận một mình đối diện với khung cảnh vô tình, hoang vắng lòng ông lại muốn được trở về với quê hương mang nặng tình thương và mang lại sự ấm áp cho tác giả đó cũng là nỗi khát vọng của ông.

Bằng những biện pháp so sánh và sự tài tình miêu tả của nhà thơ đã thể hiện rõ nỗi buồn, nỗi nhớ nhung quê hương của tác giả. Nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

Gợi ý cho bạn 🌹 Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang 🌹 Văn Mẫu Hay

Phân Tích Khổ Thơ Cuối Bài Tràng Giang Mở Rộng – Mẫu 11

Tham khảo bài văn phân tích khổ thơ cuối bài Tràng giang mở rộng dưới đây với những liên hệ hay để vận dụng cho bài viết.

Lửa thiêng (1940) của Huy Cận là một tập thơ sáng giá trong Thơ mới Việt Nam. Phong cảnh trong Lửa thiêng, nhất là trong các bài thơ Vạn lí tình, Tràng giang, Đẹp xưa… đều đượm một nỗi buồn man mác:

Tôi ngã ba sông nước bốn bề
Nửa chiều gà lại gáy trên đê.

Đó là con sông Ngàn bên núi Mồng Gà thuộc Hương Sơn (Hà Tĩnh), quê hương thân yêu của nhà thơ. Trong Tràng giang, một nỗi buồn như dồn nén thấm sâu vào cảnh vật và lan xa muôn vàn con sóng, nhất là bốn câu kết của bài thơ:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Bao trùm cả bài thơ là một không gian nghệ thuật bao la, thật đẹp và cũng thật buồn. Có sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp. Có lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu. Có lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng và trước mắt nhà thơ là một khung cảnh bao la, vắng vẻ: Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Khổ cuối nói đến hoàng hôn trên tràng giang. Một cái nhìn xa vời vợi. Trước mắt nhà thơ là những núi mây nhô lên, đùn lên lớp lớp màu trắng bạc. Cảnh sắc thiên nhiên rất tráng lệ. Bầu trời chắc là xanh thẳm, hoặc tím thầm trong khoảnh khắc hoàng hôn nên màu mây ở cuối chân trời mới ánh lên màu bạc ấy. Giữa cái bao la mênh mông bỗng xuất hiện một cánh chim nhỏ nhoi. Cánh chim đang chở nặng bóng chiều, bay vội vã.

Trên cái nền tím sẫm, nhạt nhòa của bóng chiều hôm, hiện lên những núi bạc mây cao và một con chim lạc đàn nghiêng cánh nhỏ. Hai nét vẽ ấy tượng trưng cho những cảnh chiều hôm trong tâm tưởng người lữ thứ: Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi (Bà Huyện Thanh Quan), Chim hôm thoi thóp về rừng (Nguyễn Du). Nghệ thuật tương phản giữa cánh chim nghiêng nhỏ bé và mờ dần với núi mây bạc hùng vĩ, với trời đất bao la đã làm cho cảnh đất trời và tràng giang thêm mênh mông hơn, xa vắng hơn, và cũng buồn hơn.

Bốn câu kết mang ý vị cổ điển rất đậm đà. Ý vị ấy, màu sắc ấy được thể hiện ở hình ảnh nhà thơ một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vô cùng của không gian, thời gian đối với kiếp người hữu hạn. Một cánh chim, một núi mây bạc cũng dẫn hồn ta đi về mọi nẻo, đến với mọi phía chân trời: Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm – Mặt đất mây đùn cửa ải xa (Đỗ Phủ). Ý vị cổ điển ấy lại được tô đậm bằng một tứ thơ Đường:

Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Hơn mười hai thế kỉ trước, trong bài thơ Hoàng Hạc lâu, Thôi Hiệu đã viết:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

(Tản Đà dịch)

Huy Cận nhìn cao rồi nhìn xa theo tràng giang vời con nước, ở trên nhà thơ đã phủ định: Mênh mông không một chuyến đò ngang – Không cầu gợi chút niềm thân mật thì ở đây, ông lại nói: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Nỗi buồn cô đơn và nỗi nhớ quê tràn ngập tâm hồn khách tha hương trong buổi hoàng hôn, bên dòng sông đang mải miết trôi về tận phương nào xa xôi.

Thơ Huy Cận hàm súc, cổ điển và thấm đẫm màu sắc triết lí suy tưởng. Một hồn thơ bơ vơ, sầu não ấy luôn hướng tới sự giao hòa giữa con người và tạo vật trên một không gian mênh mông, vắng lặng. Cảnh sắc trong Tràng giang đẹp mà buồn. Tình quê, lòng quê trong bốn câu kết thật vô cùng sâu sắc, thắm thiết. Đó là những vần thơ mãi mãi vương vấn lòng người trong mọi thời gian và không gian.

Thơ thất ngôn trong Tràng giang mang vẻ đẹp cổ kính, trang trọng. Mỗi khổ thơ nếu đứng tách riêng ra sẽ trở thành một bài tứ tuyệt thể hiện sâu sắc cảm hứng mà tác giả đã viết trong lời đề từ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Nỗi buồn bâng khuâng và nỗi nhớ ấy là của một tấm lòng đang hoài vọng quê hương.

Âm điệu đoạn thơ trầm bổng như muôn ngàn sóng gợn buồn điệp điệp trong lòng người đọc bấy lâu nay. Cảnh sắc hoàng hôn và lòng quê được nói đến trong đoạn thơ mãi mãi khơi gợi trong ta hình bóng quê hương yêu dấu. Tràng giang đã và đang mang theo bao vạn lí tình trong hồn ta.

Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Khổ 3 Tràng Giang 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất

Phân Tích Tràng Giang Khổ Cuối Đạt Điểm Cao – Mẫu 12

Để viết phân tích Tràng giang khổ cuối đạt điểm cao, các em học sinh có thể tham khảo gợi ý làm bài dưới đây:

Nhắc đến Cù Huy Cận, ta thường nhớ đến một nhà thơ giàu suy tư với những vần thơ u sầu, ảo não. Thông qua những trang thơ văn, Huy Cận đã thể hiện được những cảm xúc chân thành về những cuộc đời, về con người, thơ ông lúc nào cũng chứa đựng một nỗi buồn man mác, “nỗi buồn miên viễn”, một nỗi buồn trải dài với mênh mông của trời đất.

Đọc thơ Huy Cận, độc giả thường mang những xúc động, bồi hồi với từng vần thơ, với từng nội dung triết lí nhân sinh ở đời mà nhà thơ truyền tải, bởi những cảm xúc ấy quá đỗi chân thực, nó bắt nguồn từ chính những cảm xúc, những trải nghiệm của nhà thơ trong cuộc đời.

Cái ấn tượng mà Huy Cận để lại cho độc giả không chỉ là nỗi buồn, sự suy tư mà trên tất cả, đó chính là sự chiêm nghiệm đầy quý giá trước những vấn đề, hiện tượng tất yếu của cuộc đời này. Cũng được sáng tác trong sự suy tư, trong dòng cảm xúc u buồn, trầm mặc ấy, bài thơ “Tràng giang” tiêu biểu cho cảm hứng thơ văn này của Huy Cận.

Bài thơ “Tràng giang” được sáng tác trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, đó là khi nhà thơ một mình ngắm cảnh trên bến đò Chèn, trước không gian sông nước mênh mông, rộng lớn nhà thơ đã có những suy tư về cuộc đời, về con người, đó chính là sự nhỏ bé, vô nghĩa của con người trước sự rộng lớn, vô hạn của cuộc đời.

Những cảm xúc buồn bã, suy tư đầy trăn trở ấy của nhà thơ được ghi lại một cách chân thực và sâu sắc qua bài thơ “Tràng giang”. Đặc biệt, qua khổ thơ đầu của bài thơ, Huy Cận vừa thể hiện được ngọn nguồn của cảm xúc, cũng là nguyên nhân dẫn đến, nguyên nhân tác động đến tâm trạng, sự suy tư của mình. Và trước sự mênh mông của không gian sông nước ấy, nhà thơ Huy Cận đã thể hiện được những suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, về con người.

Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

Không gian vắng lặng của sông nước tiếp tục được nhà thơ Huy Cận đặc tả thông qua hình ảnh lơ thơ của cồn cỏ “Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu”. Hình ảnh “cồn cỏ” gợi cho người đọc liên tưởng đến những khoảng không gian nhỏ hẹp, xa mờ của những bãi đất giữa sông, sự vắng lặng thể hiện ngay qua các nhà thơ dùng từ, “lơ thơ” gợi ra cái ít ỏi, sự xa cách của các cồn cỏ, “đìu hiu” lại gợi ra cái quạnh quẽ, cô tịch không gian.

Trong không gian hoang vắng, mênh mông hoàn toàn không có sự xuất hiện của bất kì sống, không có dấu hiệu nào của con người. Nhà thơ Huy Cận cảm nhận được sự tịch mịch đó nên đã thể hiện sự cảm thán trước sự hoang vắng ấy “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.

Câu thơ thể hiện được một sự trống vắng, hụt hẫng trong cảm xúc của nhà thơ. Bởi tiếng “đâu” của nhà thơ vang lên đầy mất mát, đau lòng, cái khoảng không gian rộng lớn nhưng buồn vắng ấy khiến cho nhà thơ choáng ngợp, làm đậm đặc thêm tâm hồn vốn chất chồng những suy tư.

Nên nhà thơ muốn kiếm tìm những dấu hiệu của sự sống, muốn “bấu víu” vào đó để tìm chút ấm áp, chút sự sống. Nhưng ngay cả mong muốn nhỏ nhoi đó cũng trở nên vô vọng bởi “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, nghĩa là không có bất cứ dấu hiệu nào của con người, của sự sống, không gian làng mạc, âm thanh của cuộc sống vốn chỉ tồn tại trong tâm tưởng của nhà thơ:

“Nắng xuống chiều lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu”

Khi đã vô vọng trong tìm kiếm hơi ấm từ cuộc sống thì nhà thơ Huy Cận lại tiếp tục thể hiện nỗi lòng qua việc miêu tả khung cảnh của bầu trời, của dòng sông. Đó chính là cái sâu thăm thẳm của bầu trời khi nắng xuống, dấu hiệu của một ngày hoàn toàn lùi xuống, dần nhường chỗ cho ánh chiều tà bao phủ không gian “Nắng xuống chiều lên sâu chót vót”. “Chót vót” không chỉ gợi ra độ sâu, cũng như độ rộng của bầu trời, mà còn gợi ra cái suy tư bề bộn, ngổn ngang trong tâm hồn của nhà thơ.

Dưới không gian sâu thăm thẳm, rộng mênh mông của bầu trời thì dòng sông như dài ra, kéo theo cái rộng lớn của bầu trời làm cho cảnh vật chìm đắm trong sự tịch mịch, cô liêu “Sông dài, trời rộng bến cô liêu”.

“Tràng giang” là bài thơ thể hiện được nhiều suy tư, cảm xúc của nhà thơ Huy Cận, mà trên tất cả đó chính là sự suy tư của về con người và về cuộc đời. Trước không gian mênh mông, kì vĩ của tự nhiên, nhà thơ cảm nhận trọn vẹn sự cô đơn của con người, mà cái cô đơn, nhỏ bé này không chỉ tồn tại ở cá nhân nhà thơ.

Mà nó còn là nỗi buồn, sự lạc lõng cô đơn của cả một thế hệ người trong thời đại mà nhà thơ sinh sống. Đặc biệt, qua khổ thơ đầu, nhà thơ Huy Cận cũng đã thể hiện được cảm xúc chủ đạo của bài thơ, nỗi buồn được gợi ra một cách đầy khéo léo, tinh tế, thu hút được sự đồng cảm của người đọc, người nghe.

Tham khảo trọn bộ 🌳 Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang 🌳 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Đoạn Cuối Tràng Giang Sinh Động – Mẫu 13

Tham khảo bài văn phân tích đoạn cuối Tràng giang sinh động dưới đây với những ý văn giàu hình ảnh.

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Thơ ông chịu ảnh hưởng của thơ Đường, thơ Pháp, giọng thơ ảo não. Thơ Huy Cận trước cách mạng tháng 8 thường mang tâm trạng buồn, u uất. Đó cũng là một tâm trạng chung của cả thế hệ một dân tộc. Bài thơ “Tràng giang” được trích từ tập “Lửa Thiêng” thể hiện một nỗi buồn cô đơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ quê hương trong cảnh hoàng hôn trước tràng giang.

Khổ thơ cuối là nỗi nhớ trào dâng của tác giả, một nỗi nhớ quê hương da diết khi đứng trước hoàng hôn, nơi sông dài trời rộng:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
….
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Đây là khổ thơ kết tinh của làng quê “dợn dợn vời con nước” của Huy Cận, của một tấm lòng sâu lắng thiết tha với quê hương, đất nước.

Hai câu đầu là một bức tranh nhiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”

Cách cảm nhận của nhà thơ hết sức tinh tế tạo nên những nét vẽ hoành tráng của thiên nhiên buổi chiều: “lớp lớp mây” chồng xếp lên nhau thành núi mây trắng trông như được dát bạc. Từ “đùn” rất giàu giá trị tạo hình gợi nhớ đến hai câu thơ của Đỗ Phủ:

“Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Một cánh chim nhỏ xuất hiện trong câu thơ gợi ấn tượng về sự cô đơn, bơ vơ, nhỏ nhoi đến tội nghiệp khiến cho không gian càng thêm rộng lớn. Một cách cảm nhận vừa gần gũi, vừa tinh tế. Hình ảnh bóng chiều như thu lại sa xuống từ cánh chim:

“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”

Trước không gian vô tận ấy, tâm trạng nhà thơ là nỗi nhớ nhà:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Tư thế ấy có khiến ta liên tưởng đến Lý Bạch: “Cửa đầu vọng minh nguyệt – Đê đầu tư cố hương”?

Âm hưởng hai câu thơ Đường thi tuyệt tác của Thôi Hiệu phảng phất ở đây:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Thế nhưng Thôi Hiệu phải có “khói sóng” mới “buồn lòng ai”. Còn nhà thơ của chúng ta “không khói hoàng hôn” mà “lòng quê” vẫn “dợn dợn vời con nước”! Từ láy “dợn dợn” và từ “vời” khiến nỗi buồn triền miên, xa xôi, dàn trải mãi đến vô tận, đến khôn cùng! Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, Huy Cận đã trải lòng mình trên từng trang thơ để thể hiện tình yêu quê hương , đất nước tha thiết.

Là khổ thơ xuất sắc nhất trong tác phẩm, và cũng là khổ thơ thể hiện rõ nhất nét tâm trạng của một chàng trai trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ. Thế mới hiểu vì sao người ta nói Huy Cận là cái mảnh hồn thiêng sông núi, và là nỗi sầu của nhân thế. Nhờ kết hợp những biện pháp nghệ thuật tài hoa đã làm nổi bật giá trị nội dung, tư tưởng của một phong cách thơ mới tài năng. Và Huy Cận mãi về sau khi nhắc đến vẫn sẽ luôn là một mảnh hồn không thể tách rời với văn học Việt Nam.

Chia sẻ 🌼 Phân Tích Bài Thơ Chiều Tối Của Hồ Chí Minh 🌼 Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Khổ Cuối Của Tràng Giang Ngắn Hay – Mẫu 14

Chia sẻ bài văn phân tích khổ cuối của Tràng giang ngắn hay dưới đây giúp các em học sinh có thêm cho mình những gợi ý làm bài phong phú.

Ai đó đã từng nhận xét như này về thơ Huy Cận: rằng, thơ ông không phải là rượu đã rót vào chén mà là men được lên, không phải là hoa trên cành, mà là dòng nhựa đương chuyển. Phải chăng muốn nói đến sức sống cũng như sức gợi của sự hàm súc, cô đọng trong cách dùng từ đặt câu của thi nhân. Khổ thơ 4 bài Tràng Giang có thể xem là chuẩn mực cho nhận định ấy.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Thế giới thiên nhiên được Huy Cận tạo ra bao giờ cũng là một không gian hùng vĩ rợn ngợp và gợi buồn. Mà như Hoài Thanh đã nói, rằng “tưởng như Huy Cận đã lượm lặt hết những chút buồn rơi rải rác để viết nên những vần thơ âu sầu ảo não như thế”. Vừa bước vào thế giới thơ, ta đã bắt gặp ngay hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ mà thấm màu buồn đã được phác lên làm toàn bộ bức phông nền cho cảnh vật. Lớp lớp, mây cao và núi bạc.

Những chất liệu rất quen thuộc trong thơ cổ điển, được Huy Cận sử dụng, nhưng cái mới ở đây chính là cách nhà thơ kết hợp, nhào nặn chúng bằng tư duy thơ hiện đại của mình. Vậy cho nên, Huy Cận tập cổ mà không nệ cổ. Hình ảnh trong câu thơ này gợi cho ta nhớ đến dáng dấp của một câu thơ trong thơ Đỗ Phủ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Đều là cách diễn đạt gợi nên không gian buổi chiều, buổi hoàng hôn đẹp mà buồn nhưng diễm lệ, mờ ảo. Cũng đồng thời, gợi nên chất hùng vĩ nét khoáng đạt của cảnh vật. Để tiếp tục câu thơ sau, là nghệ thuật đối rất chỉnh của thi nhân:

“Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”

Cánh chim nghiêng như đã đỡ cả buổi hoàng hôn rực rỡ trên đôi cánh nhỏ bé của mình, như đang mang trong nó cả cái lồng lộng hùng vĩ của dáng chiều. Vẫn là sự thủ pháp đối lập quen thuộc trong thơ cổ, cánh chim nhỏ nhoi, đơn độc giữa chân trời của nó và đối lập là hình ảnh thiên nhiên, là bóng chiều rợn ngợp, rộng lớn, mênh mông.

Điều đó tạo cảm giác mới mẻ trong cảm nhận cho người đọc. Dấu hai chấm chính là dụng ý nghệ thuật mà Huy Cận đặt vào dòng thơ. Tưởng như không chỉ trong cảm giác, mà cả trong dòng chảy của nghệ thuật đang tiếp diễn trên trang giấy, thì cánh chim đơn côi và cô đơn ấy cũng đang gồng gánh và mang trong nó cả bóng chiều lồng lộng.

Đứng trước không gian rộng lớn ấy, nhân vật trữ tình chảy tràn những xúc cảm bồi hồi về quê hương:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Từ “dợn dợn” thực sự là điểm mấu chốt để ta thấy bút thơ tài hoa của Huy Cận, vừa gợi được cái cồn cào khắc khoải trong lòng người, vừa cho thấy sự day dứt khôn nguôi trong tâm can, sự khắc khoải, đau đáu của một kẻ đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu quê hương. Câu thơ cuối, là một chỉ dấu để ta hiểu hơn về cảm giác của nhân vật trữ tình. Rằng dẫu không cần một điểm tựa, điểm gợi đến từ khói trắng của chiều tà, của hoàng hôn thì trong lòng nhân vật trữ tình vẫn dấy lên nỗi niềm tha thiết với quê hương.

Đây là cảm giác trống vắng, thiếu thốn bất định của cái tôi thơ Mới thời kì bấy giờ. Nhưng đồng thời cũng đặt ra cho ta một câu hỏi, phải chăng giữa con người và cảnh vật, con người và con người nơi đây không còn sự gắn kết, cho nên tôi mới cảm thấy bơ vơ, cô quạnh và lạc lõng đến vậy. Nó phải chăng là một sự đứt gãy có tính phổ quát và sự gắn kết trong xã hội, cũng đồng thời là sự biến mất của những giá trị truyền thống và thay vào đó là sự chuyển mình của dòng chảy hiện đại.

Khổ 4 cuối là khổ thơ đặc sắc, nắm giữ hồn cốt thơ Huy Cận, và cho ta hay, nỗi buồn sầu ảo não trong thơ ông, còn là nỗi buồn của một hồn thơ luôn tha thiết, vọng ngưỡng về quê hương của mình.

SCR.VN tặng bạn 💧 Nghị Luận Chiều Tối 💧 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Phân Tích Bài Tràng Giang Khổ Cuối Đơn Giản – Mẫu 15

Tham khảo bài văn mẫu phân tích bài Tràng giang khổ cuối đơn giản dưới đây với những luận điểm ngắn gọn trọng tâm nhất.

Thơ của Huy Cận mang nhiều nỗi buồn về cảnh vật và thế sự. Nỗi buồn của con người về quê hương đất nước. Bài thơ Tràng Giang là nơi tác giả bày tỏ nhiều tình cảm với quê hương đất nước. Khổ thơ cuối trong bài đã thể hiện được nỗi sầu của thi nhân và nhân thế.

Ba khổ đầu nhà thơ đã sử dụng phép tả cảnh ngụ tình. Nói về những con người thấp cổ bé họng. Trong khổ cuối ông hòa vào đó sự cô đơn của bản thân và nỗi nhớ quê hương lên tầng thiên nhiên cao hơn.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” câu thơ tưởng chừng như đơn giản nhưng lại khiến người đọc choáng ngợp. Họ choáng ngợp bởi hình ảnh núi mây ở đây. “Lớp lớp” là từ láy thể hiện được cảm giác mây như dày thêm, màu của núi mây có màu bạc huyền ảo. Trong câu thơ này tác giả cũng lấy cảm hứng từ thơ của Đỗ Phủ.

“Đùn” và “lớp lớp” là những cụm từ khiến cho không gian trở nên rộng hơn. Điều này khiến cho nhân vật trữ tình đã cô độc nay còn nhỏ nhoi hơn trước thiên nhiên rộng lớn. Hình ảnh trên còn khối cho người đọc liên tưởng đến nỗi buồn trong lòng tác giả. Từng chồng từng chồng xếp lên nhau.

Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Giữa không gian bao la rộng lớn của thiên nhiên. Hình ảnh cánh chim nhỏ bé đang đập cánh cho nghiêng hiện lên. Hai câu thơ cuối nói lên được nỗi nhớ da diết của nhà thơ. “Dợn dợn” là từ láy được ông sáng tạo riêng. Hai thanh nặng xuất hiện như nỗi buồn của nhà thơ đang vào hố sâu tuyệt vọng. Nó như cơn sóng gợn buồn trong lòng tác giả.

Câu thơ cuối trong bài Tràng Giang được lấy cảm hứng từ thơ của Thôi Hiệu. Đối với tác giả tình yêu quê hương đất nước trong ông lúc nào cũng sẵn có. Không cần bất cứ một thứ xúc tác nào tác động.

Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Sơ Đồ Tư Duy Chiều Tối 🌺 10 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay

Mẫu Phân Tích Khổ Cuối Bài Thơ Tràng Giang Luyện Viết – Mẫu 16

Giới thiệu đến bạn bài phân tích tác phẩm Tràng Giang khổ thơ cuối hay và đầy ý nghĩa, xem ngay và luôn nhé!

Trong số các nhà thơ mới trước Cách mạng, Huy Cận là một nhà thơ có chất thơ ảo não nhất. Thơ ông luôn chất chứa một nỗi sầu nhân thế. “Tràng Giang” là một bài thơ gắn liền với tên tuổi của Huy Cận. Với những nỗi niềm yêu nước thiết tha. Đặc biệt, nỗi niềm thương nhớ ấy càng được thể hiện rõ nét ở khổ thơ cuối trong bài.

Không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về buổi chiều. Tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau như trong thơ cổ mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau.

Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ trơi giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều. Làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ.

Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này.

Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập. Đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian:

Lòng quê rờn rợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Tầm mắt trở lại trên dòng nước. Từng đợt sóng nước dập dềnh, nhẹ nhàng uốn lượn nhưng cũng tồn tại rất lâu, lan tỏa rất xa. Đó là hình ảnh miêu tả, nhưng cũng chính là tâm trạng của tác giả – một cảm giác cô đơn, buồn bã trải dài vô tận. Cả một không gian mênh mông vắng lặng, khiến cho nỗi buồn nhớ quê hương của nhà thơ càng trở nên rõ ràng.

Buổi chiều là thời gian con người đoàn tụ với quê hương. Cũng là khoảng thời gian buồn nhất trong ngày của những người con phải xa người thân, xa gia đình. Và quả thật, nỗi buồn ấy được nhà thơ khẳng định ở câu cuối:

“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Bài thơ là bức tranh quê hương đẹp đẽ, nên thơ. Với những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam như bờ sông, cánh bèo, củi khô, áng mây. Đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, đã thấm vào từng con chữ.

Tiếp tục tham khảo 💕 Nghị Luận Từ Ấy Tố Hữu 💕 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Phân Tích Khổ Thơ Cuối Tràng Giang Lớp 11 – Mẫu 17

Bài văn phân tích khổ thơ cuối Tràng giang lớp 11 dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm vững phương pháp làm bài.

Nền thơ 1930 – 1945 đã đóng góp cho thi đàn văn học Việt Nam nhiều phong cách độc đáo. Nếu ta theo Thế Lữ vào giấc mơ tiên, vào cuộc đời bất tận theo cách sôi nổi cuống quýt vội vàng của Xuân Diệu “muốn cắn trái xuân hồng” thì ta cũng có thể đi theo Huy Cận đi vào bể sầu nhân thế. Chẳng cần đi tới tập thơ Lửa thiêng chỉ riêng bài Tràng giang cũng đã làm nên hồn thơ “ảo não” Huy Cận. Và khổ thơ cuối là khổ thơ sâu lắng tha thiết nhất trong trường buồn Tràng giang của ông.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Nếu như trong ba khổ thơ đầu chúng ta thấy tâm trạng buồn của một “nỗi buồn” thế hệ mang tính thời đại, một nỗi buồn không tìm ra lối thoát nó như kéo dài triền miên, nó như dàn trải theo mênh mông vô địch của sông nước, thì tới khổ thơ cuối tâm trạng ấy được nâng lên chiều cao, lan tỏa trong khói hoàng hôn của buổi chiều tàn.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Ở dòng thơ này ta thấy đôi mắt của nhà thơ dường như đang nhìn thấy rất xa nơi cuối chân trời “Tràng giang”. Thật vậy không gì vui bằng lúc rạo rực bình minh, nhưng cũng không gì buồn bằng cái buổi ngày tàn của“bóng chiều sa”. Nhưng chính lúc ấy trong thơ Huy Cận với “Tràng giang” lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ với “lớp lớp” những tầng mây hợp thành “núi mây” khổng lồ, được vạt nắng chiếu rọi thành “núi bạc”.

Những đám mây trắng xốp ấy cứ to dần lên như hình quả núi và đằng sau hình quả núi ấy là một mặt trời chói lọi sắp tắt khiến cho núi mây trở thành núi bạc, một cảnh rực rỡ hiếm có khi hoàng hôn đang lụi dần, không gian dường như có một sự vận động lặng lẽ: mây cứ đùn lên mãi chiếm lĩnh cả bầu trời cao, khiến cho ở đấy mây cũng đầy nỗi buồn rợn ngợp.

Tác giả đã dùng cái có của thiên nhiên để nói về cái không của tình người trong cái bể trời bao la ấy. Câu thơ gợi nhớ nỗi buồn của Đỗ Phủ khi ông không chốn nương thân da diết nhớ quê hương:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Ta thấy trong suốt hành trình Tràng giang hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ “trôi nổi mông lung lạc loài vô định”, một cành củi khô bập bềnh trôi trên sông (củi một cành khô lạc mấy dòng), một đám bèo xanh trôi nổi trên sông (bèo dạt về đâu hàng nối hàng). Với khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong một hình ảnh cô đơn lạc loài. Đó là một cánh chim, chim nhỏ nhoi đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh nhỏ cố bay về chân trời xa vắng.

Cánh chim bay lượn tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông lung quá, nỗi buồn ở đây càng thêm da diết trong nhớ thương. Nó không đóng khung cảnh sông nước ở trước mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa. Nếu như câu thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp theo lại trĩu xuống theo hình ảnh “bóng chiều sa”.

Có lẽ bóng chiều ấy đang chở nặng một tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên mới có chữ “sa” chứ không phải là “xa”. Phải chăng cái nỗi buồn cô đơn cùng nỗi buồn “sầu nhân thế” đó càng gợi lên trong nỗi buồn của nhà thơ. Nó thể hiện sâu đậm trong hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng, cái vô tận của không gian đối lập với kiếp người.

Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Chuyển sang câu thơ thứ ba đột ngột xuất hiện hai tiếng “lòng quê” không phải là ánh mắt nhìn vào mình, nhìn theo đến hun hút vào “tràng giang” mà chính là cõi lòng nhìn vào mình rồi nhìn về phía chân trời xa xôi.

“Lòng quê” đó là nỗi lòng nhớ quê hương. Và cũng có nghĩa diễn nôm na là: của người trí thức tây học này vốn đã bị thị thành hóa giờ đây nó đang trở lại thành tấm lòng của người cố hương giàu tình làng nghĩa xóm. Hai nghĩa trên nó sẽ định ra cho sự giải thoát cô đơn. Phải thành cái mình thứ hai nữa mới trở về chính quê hương mình.

Hai tiếng “dợn dợn” gợi lên muôn nhịp sóng: sóng nước, sóng lòng diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh mông trong khoảnh khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê cố hương:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

Dòng thơ cuối cùng gợi ngay đến 2 câu thơ của Thôi Hiệu thời Đường cũng là tâm tình quê của Huy Cận. Với Huy Cận lòng quê đã nhớ quê sẵn. Đó là nhớ nhà, nhớ những người ruột thịt, những gốc chuối bờ tre. Vì thế không có một sự gợi ý ngoại cảnh thì tấm lòng ấy vẫn đăm đắm hướng về quê nhà để hi vọng kiếm một chút niềm thân mật ở làng quê sông nước, nơi chôn nhau cắt rốn của mình.

Mới đọc bài thơ Tràng giang ta có cảm tưởng tất cả bài thơ là thiên nhiên. Nó rất hoang vắng, nó độc thoại với chính nó. Thế nhưng bốn dòng thơ cuối bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương của tác giả. Và ở hoàn cảnh đất nước bị đô hộ càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu thì thi nhân càng “ảo não” bấy nhiêu.

Phải chăng ai đó đã nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất, tiềm ẩn nhất với đáy sâu tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Tràng giang đã khơi dậy tâm hồn bạn đọc một tình yêu thiêng liêng cao cả, nó mở đường cho tình yêu Tổ quốc, tình yêu giang sơn đất nước.

Đón đọc tuyển tập 🌠 Bình Giảng Từ Ấy 🌠 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Phân Tích Khổ Cuối Tràng Giang Facebook – Mẫu 18

Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích khổ cuối Tràng giang Facebook giúp các em học sinh tham khảo vận dụng cho bài viết.

Huy Cận thơ của ông mang nhiều nỗi buồn cảnh vật và thế sự. Nỗi buồn đó về những con người, kiếp người và về quê hương đất nước. Bài thơ Tràng Giang chính là nơi tác giả bài thơ nhiều tình cảm của bản thân với quê hương, đất nước. Đặc biệt trong khổ cuối thể hiện nỗi sầu của thi nhân và nhân thế.

Trong ba khổ đầu, tác giả dùng biện pháp tả cảnh ngụ tình để mô tả những con người nhỏ nhoi, thấp cổ bé họng thì trong khổ cuối, ông đã hòa chung sự cô độc bản thân vào nỗi nhớ quê nhà nhớ quê lên tầng thiên nhiên cao, rộng lớn hơn nhiều:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Một câu thơ tưởng như đơn giản nhưng khiến người đọc choáng ngợp bởi hình ảnh núi mây. Từ láy lớp lớp khiến cho chúng ta có cảm giác mây như dày, tầng lớp và núi mây có màu bàng bạc, huyền ảo. Huy Cận còn lấy cảm hứng từ trong thơ Đỗ Phủ vào bài thơ.

Các cụm từ đùn và lớp lớp khiến không gian như rộng và cao hơn rất nhiều. Điều này khiến nhân vật trữ tình đã cô độc nay lại còn nhỏ nhoi trước thiên nhiên. Hình ảnh núi mây Huy Cận còn khiến độc giả có sự liên tưởng về nỗi buồn trong lòng Huy Cận xếp chồng lớp lên nhau đó là tâm trạng sầu thảm của chính tác giả.

Giữa không gian thiên nhiên bao la, rộng lớn còn có cánh chim nhỏ bé: Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa. Thơ Huy Cận cánh chim không thật sự tĩnh lặng mà nó đang đập cánh chao nghiêng trong một không gian thiên nhiên vô tận.

Hai câu thơ cuối Huy Cận cảm thấy cô độc, lẻ loi và nhớ nhà da diết:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Dợn dợn từ ngữ chỉ có trong thơ của Huy Cận, ông lại sáng tạo ra một từ láy riêng cho mình. Hai thanh nặng như là nỗi buồn của tác giả vào hố sâu tuyệt vọng. Từ dợn dợn tựa như những con sóng dợn buồn trong lòng nhà thơ Huy Cận.

Câu thơ cuối của Tràng giang dựa trên nền thơ của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu: Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà nhớ quê còn Huy Cận lại phát triển thêm ý thơ đó là “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, đối với ông tình yêu quê hương, đất nước trong lòng ông lúc nào cũng có sẵn mà không cần một thứ xúc tác nào khác.

Trong Tràng Giang khổ thơ cuối đặc biệt với sự u ám và thể hiện nỗi buồn, nỗi nhớ quê hương của chính tác giả. Qua bài thơ tác giả mong muốn cuộc sống này trở nên ý nghĩa và tốt đẹp.

Giới thiệu đến bạn 🌟 Sơ Đồ Tư Duy Từ Ấy 🌟 10 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay

Phân Tích 2 Khổ Cuối Của Bài Tràng Giang – Mẫu 19

Cùng phân tích 2 khổ thơ cuối bài thơ Tràng Giang để ảm nhận được nỗi lòng nhớ quê của tác giả Huy Cận ngay nhé!

Độc giả biết đến hồn thơ của Huy Cận trước cách mạng là một hồn thơ sầu, buồn trước nỗi sầu nhân thế. Đến với bài thơ “Tràng giang”, ta lại bắt gặp một nỗi buồn. Cô đơn sâu sắc của tác giả trước cuộc đời. Đặc biệt, nỗi sầu buồn ấy được làm nổi bật trong hai khổ thơ cuối của bài thơ.

Khổ thơ thứ 3 đã gợi ra hình ảnh một kiếp người nhỏ bé, vô định, chênh vênh trước dòng đời mang nét cổ kính:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Hình ảnh “bèo dạt” như gợi bão tố của cuộc đời đang xô đẩy số phận một con người nhỏ bé. Như hình ảnh bèo cô độc, bị xô đẩy. Con người như cùng bơ vơ trước cuộc đời. Điệp từ “không” nhấn mạnh sự trống vắng, thiếu hụt, mất mát.

Dòng sông là bức tường ngăn cách, phương tiện đi qua nó là “đò”, “cầu”. Là cái khiến con người xóa bớt sự cô đơn. Nhưng ở đầy, đã có sự phủ định tuyệt đối “không cầu”, “không đò”. Đó lại là sự khẳng định không có bất kì tín hiệu. Mối liên hệ nào để con người gần gũi nhau. Giá trị sống của con người đang bị hoàn toàn tiêu diệt.

Hình ảnh “bờ xanh’, “bãi vàng” là hai sự vật vốn dĩ đứng cạnh nhau mà lại không có một mối liên hệ ràng buộc nào. “Lặng lẽ” chỉ hoạt động âm thầm, kín đáo, riêng lẻ. Tác giả đã gợi ra bức tranh cảnh vật hoang vắng, thiếu hơi ấm tình người.

Khổ thơ thứ 4 gợi ra cả một bầu tâm sự của tác giả:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vờn con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Hình ảnh “mây cao”, “núi bạc” mang hình ảnh kì vĩ, mang tầm vóc lớn. Nhà thơ đã lựa chọn sử dụng những hình ảnh lớn lao, kì vĩ. Mượn từ “đùn” của nhà thơ Đường, đó là sự chuyển động từ bên trong đẩy ra bên ngoài. Từng lớp mây trắng cứ bung nở, tỏa ra thành một núi bạc.

“Lớp lớp” là nhiều, chồng lên nhau, không có điểm kết thúc. Hình ảnh mây trắng hết lớp này đến lớp khác như một cây bút bông nở lên trên trời cao. Mây trông như những ngọn núi bạc, mây là núi, núi tựa mây. Hình ảnh “cánh chim” là một công thức ước lệ trong thơ cổ. Lấy cánh chim để gọi buổi chiều, nói hộ tâm trạng con người.

Câu thơ cuối cùng “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” chính là tâm sự nhớ quê hương mà tác giả gửi gắm. Cách thể hiện nỗi nhớ nhà: không cần có yếu tố gợi nhớ. Mà vẫn nhớ vì nỗi nhớ luôn thường trực ở trong tâm hồn thi sĩ.

“Tràng giang” là một bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng buồn. Đặc biệt hai khổ thơ cuối thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ. Tình yêu ấy mang tâm sự thầm kín của tác giả. Trong đó còn có sự kết hợp giữa hiện đại và cổ điển, xứng đáng là bài thơ hay nhất của tập “Lửa thiêng”.

Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Tràng Giang 🌼 13 Mẫu Khổ 3 4 Hay

Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Tràng Giang Facebook Chọn Lọc – Mẫu 20

Tham khảo dưới đây phân tích 2 khổ cuối bài Tràng giang Facebook chọn lọc giúp các em học sinh có thêm những ý tưởng làm bài.

Con người trước không gian rộng lớn bao la luôn có cảm giác nhỏ bé, rợn ngợp. Đứng trước không gian ấy, con người thường có nhiều chiêm nghiệm suy ngẫm về cuộc đời để rồi nhận ra sao ta cô đơn quá. Đó cũng chính là nỗi niềm của Huy Cận khi đứng trước không gian trùng điệp rộng lớn của Tràng giang. Sự cô đơn nhỏ bé ấy được thể hiện rõ trong hai khổ cuối của bài thơ.

Bài thơ Tràng giang được viết vào mùa thu năm 1939 khi tác giả đang đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng. Nhìn cảnh sông nước rộng lớn và suy nghĩ về kiếp người chính là nội dung của bài thơ. Đặc biệt ở hai khổ cuối dường như không chỉ đơn thuần tả cảnh mà trong đó ta còn bắt gặp tâm trạng của thi nhân.

Tràng giang không những là tác phẩm điển hình cho hồn thơ Huy Cận mà còn tiêu biểu cho thơ ca lãng mạn (đặc biệt là phong trào Thơ Mới) trong giai đoạn 1932-1945. Cảnh chiều trong Tràng giang có chiều kích của không gian cao rộng, có sông nước mênh mang và tất cả đều tiêu sơ, hoang vắng, chất chứa nỗi sầu nhân tình thế thái…

Nếu ở hai khổ thơ đầu là khung cảnh thiên nhiên sông nước rộng lớn ngợp trời:

Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Thì đến khổ thơ thứ hai khung cảnh và điểm nhìn đã được thu hẹp hơn thể hiện nỗi sầu buồn trong tâm hồn của thi nhân:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Không còn là trời rộng là sông lớn, từ cái nhìn bao quát đã trở thành cái nhìn cận cảnh. Hình ảnh bèo quen thuộc xuất hiện. những cánh bèo nhỏ bé thường gọi sự nhỏ bé của kiếp người. Cánh bèo mong manh như chính kiếp người. Nếu cánh bèo không thể tự di chuyển mà bị dòng nước xô đẩy thì con người cũng thế. So với cuộc đời rộng lớn mênh mông thì con người chỉ là những hạt cát nhỏ bé trôi nổi giữa dòng đời.

Trong câu thơ dường như thoáng chút bất lực bế tắc. Không chỉ một cánh bèo, một kiếp người mà “hàng nối hàng” nhiều kiếp người cũng đang lạc lõng bơ vơ giữa cuộc đời. Dường như không chỉ có Huy Cận cảm thấy cô đơn thấy lạc lõng ngay chính trên đất nước của mình mà là cả một tầng lớp thanh niên sinh ra trong thời loạn lạc của đất nước. Họ đều như những cánh bèo kia lênh đênh không biết sẽ đi về đâu chỉ đành phó mặc cho dòng đời xô đẩy

Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Biết chọn một dòng hay để nước trôi.”

Huy Cận cũng thế nên ông thấu hiểu cho tình cảnh của những người thanh niên giống ông. Phân tích 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang sẽ thấy chỉ một từ láy “mênh mông” nhưng cũng đã đủ diễn tả không gian rộng lớn của đất trời. Không gian như được mở rộng ra vô biên. Và trong không gian rộng lớn ấy chỉ có cánh bèo nhỏ bé lênh đênh, thật cô đơn và tuyệt vọng.

Sau khi vẽ ra không gian rộng lớn ấy, nhà thơ đã đi đến một điệp khúc “không” độc đáo. Điệp từ “không” được lặp lại hai lần trong lời thơ – “không một chuyến đò ngang”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”. Không có gì cả, không có người cũng chẳng có sự vật. Nỗi cô đơn cứ thế mà ngự trị khắp nơi len lỏi vào không gian xen lẫn vào tâm hồn nhà thơ. Đó cũng chính là điều đã làm nên cái điệu buồn miên man này.

Nhưng dường như không chỉ có cảnh vật cô đơn mà con người dường như cũng từ chối cả sự giao tiếp với thế giới xung quanh. Chính con người dường như cũng đang thu mình lại giữa sự cô đơn, khép lại tấm lòng của mình và từ chối giao tiếp với thế giới. Bến và đò vốn muôn đời nối liền nhau, nhắc đến bến là phải nghĩ đến đò nhưng trong câu thơ thì bến trống rỗng mà thuyền cũng chẳng đến. Bến đó nhưng nào có đợi mong thuyền hay một chuyến đò nào sang sông. Tất cả mọi sự vật đều từ chối sự kết nối.

Hai khổ thơ cuối bài Tràng giang ta thấy từ láy “lặng lẽ” đã nhấn mạnh thêm sự trống vắng tĩnh lặng đến đáng sợ nơi đây. Trong im vắng cũng chính là lúc người ta sống thật với lòng mình sống thật với những cảm xúc của mình. Nhưng trong im vắng người ta lại cảm thấy cô đơn nhiều hơn, để rồi cần tìm một nơi để nương tựa sẻ chia.

“Bờ xanh” tiếp “bãi vàng”, những gam màu đã bắt đầu xuất hiện. Nhưng có màu xanh tươi mát hay màu vàng ấm áp cũng không khiến cho bức tranh này tươi mới hơn mà ngược lại nó càng trở nên âm u tịch mịch. Những gam màu ấy chỉ càng khiến cho cảnh trở nên hiu hắt đìu hiu. Cảnh buồn thấm vào cảnh vào người hay chính nỗi buồn sự cô đơn của con người khiến cảnh vật cũng u ám như câu thơ của Nguyễn Du từng viết

Cảnh nào cảnh chẳng đeo
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Qua đây ta thấy con người đang cô đơn lạc lõng trong không gian rộng lớn, trong thời gian mênh mông vô thủy vô chung của đất trời…

Thật không sai khi nói rằng thơ của Huy Cận có sự hòa quyện chặt chẽ giữa chất cổ điển và chất hiện tại. Điều ấy được thể hiện rõ ở khổ thơ cuối:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Phân tích 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang, ta thấy hình ảnh những đám mây chất chồng lên nhau được diễn tả thật hùng vĩ qua dòng phác họa “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Từ láy “lớp lớp” diễn tả khối lượng lớn, và dường như còn đang tiếp diễn. Sức sống ấy cứ dâng lên không sao kìm nén được. Sức sống ấy được diễn tả cô đọng qua từ “đùn”. Trong thơ văn, không ít nhà thơ đã dùng từ “đùn” để thể hiện sức sống của cảnh vật như Đỗ Phủ từng viết

Giang giang ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.’

(Thu hứng)

(Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)

Hay Nguyễn Trãi cũng từng viết:

Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”

(Cảnh ngày hè)

Huy Cận cũng sử dụng từ “đùn” ấy để diễn tả sự chất đống, chất dồn của đám mây. Những đám mây xếp chồng lên nhau tạo cho ta cảm giác như những núi bạc đã lơ lửng trên không. Hình ảnh hiện ra thật hùng vĩ làm sao. Trong bức tranh cổ thi ấy, nét động bắt đầu xuất hiện. Đầu tiên chính là “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình ảnh con chim cuối ngày thường gợi ra một cảm giác chán chường mệt mỏi như trong câu thơ của Bà huyện Thanh Quan.

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn”
.

Hay trong câu thơ của Hồ Chí Minh

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”.

Cánh chim của Huy Cận cũng thế chở đầy mệt mỏi lo âu và cả sự cô đơn rợn ngợp. Chú chim nhỏ bé cô đơn giữa bầu trời rộng lớn. Cánh chim nếu so với bầu trời thật quá nhỏ bé cũng như con người với dòng đời này. Ta nhận ra cuộc đời này nếu so với dòng chảy vô tận của thời gian thì chẳng khác nào một hạt cát giữa sa mạc, một giọt nước giữa đại dương.

Nếu ở những dòng thời trên thời gian không xuất hiện cụ thể thì ở dòng thơ này thời gian đã được xác định “bóng chiều sa”. Giữa hai sự vật “chim nghiêng cánh nhỏ” và “bóng chiều sa” dường như không có sự kết nối, cho người đọc tự liên tưởng. Chính vì vậy ta có cảm tưởng dường như cánh chim đang chở nặng bóng chiều hay chính cánh chim mỏi mệt đã kéo bóng chiều xuống. Nhưng dù hiểu theo cách nào ta vẫn thấy hình ảnh ấy hiện ra thật tráng lệ.

Nỗi buồn của người lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp. Từ điểm nhìn trên cao, Huy Cận đã di chuyển điểm nhìn xuống mặt nước quen thuộc

Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Lòng quê chính là tình cảm dành cho quê hương đất nước. Hóa ra nhà thơ không chỉ quan tâm đến bản thân mà ngầm trong đó là một tình yêu nước thầm kín. Từ láy dợn dợn gọi tả sự chuyển động nhỏ nhưng diễn ra liên tục không ngừng như một sự ám ảnh.

Tình yêu đối với quê hương cũng thế có đôi khi mạnh mẽ có khi khi lại ẩn khuất trong cuộc sống nhưng nó vẫn tồn tại mãi ở đó không khác đi. Không nhắc về nói nhưng mỗi lần nhớ đến vẫn cảm thấy đau nói. Dùng sự vật biểu trưng để nhớ đến quê hương không phải là điều xa lạ. Như Lí Bạch từng nhìn trăng mà nhớ quê hương:

Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương”

Hay Thôi Hiệu cũng từng:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

Nhưng nếu các thi nhân xưa cần vật để gợi nhớ quê hương thì Huy Cận đang ở trên quê hương mà vẫn nhớ về quê hương. Tại sao một con người đang đứng trên đất nước mình mà lại đi nhớ về quê hương? Bởi lẽ quê hương ta đang bị quân giặc giày xéo, đây không phải là quê hương đúng nghĩa, nên dù đang đứng ngay trên quê hương mình nhưng ông vẫn thấy cô đơn, thấy bơ vơ như những con người xa quê…

Phân tích 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang nói riêng cũng như toàn bộ tác phẩm nói chung sẽ thấy bài thơ chính là một nỗi buồn cô đơn dài vô tận. Nỗi buồn ấy không chỉ đến từ vạn vật mà còn đến từ chính tâm trạng thi nhân. Đó là tâm trạng của một người không có được tự do trên chính đất nước mình. Giọng thơ đượm buồn kết hợp với những hình ảnh rộng lớn của không gian đã cho thấy được sự cô đơn nhỏ bé của kiếp người trước sự trôi nổi của dòng đời.

Phân tích bài thơ Tràng giang nói chung cũng như hai khổ thơ cuối nói riêng sẽ thấy tác phẩm là đại diện tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Huy Cận. Một cái buồn ảo não, một nỗi sầu nhân thế ngấm xuyên vào cảnh vật và vào cả lòng người. Bởi thế mà nhà thơ Lê Duy đã từng viết:

“Là Tràng Giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước,
Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn…”

Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Phân Tích Đây Thôn Vĩ Dạ Của Hàn Mặc Tử 🌺 10 Bài Hay

Phân Tích Khổ Đầu Và Cuối Bài Tràng Giang – Mẫu 21

Bài văn phân tích khổ đầu và cuối bài Tràng giang dưới đây sẽ là tư liệu hay hỗ trợ các em học sinh trong quá trình làm bài.

Phong trào Thơ Mới đánh dấu tên tuổi của nhiều thi nhân, trong đó phải kể đến Huy Cận- một hồn thơ “sầu vạn cổ”. Mỗi vần thơ của Huy Cận đều chất chứa những nỗi buồn miên man, sầu bi của nhà thơ trước thời đại, trước xã hội mà ông đang sống. Đằng sau những nỗi sầu ấy là tiếng lòng của một con người yêu nước. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.

Mở đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, lời đề từ với bảy chữ thôi nhưng đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm. Câu thơ gợi ra nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người trước cảnh bật bao la, sâu rộng. Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở cho những câu thơ sau được giãi bày tự nhiên:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng đầy tinh tế đã gợi ra một không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết. Những con sóng gợn nhẹ nơi dòng sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng thể nào dứt.

Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài rộng, mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước, mặc nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy, chảy trôi.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” không chỉ làm cho câu thơ thêm uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé, tầm thường. Cành củi khô ấy phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho thi nhân với một cái tôi bơ vơ, lạc lõng trong chính đời sống của mình.

Ở khổ thơ cuối, bài thơ vẽ nên một bức tranh đầy tráng lệ của thiên nhiên và nỗi buồn sâu lắng của lòng người:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Bầu trời với những đám mây cao trắng được phản chiếu dưới ánh mặt trời tạo hoá trở nên đẹp đẽ với ánh bạc lấp lánh. Động từ “đùn” cho thấy được sự vận động đầy mạnh mẽ của cảnh vật, những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ. Giữa không trung là cánh chim bé nhỏ đang đơn độc nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương. Hình ảnh đối lập giữa cánh chim nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ càng tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng, khoáng đạt.

Trước cảnh thiên nhiên ấy, nỗi nhớ quê hương trong lòng thi nhân lại thêm da diết, cồn cào:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Trong thơ Đường Thi cũng đã từng viết:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.

Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà thương nỗi nhớ quê nhà. Trong “Tràng giang”, nỗi nhớ quê hương của Huy Cận dường như thường trực, dai dẳng và mãnh liệt hơn bởi “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Không vì bất cứ điều gì mà nỗi nhớ vẫn “dợn dợn” trong lòng thi nhân, đó chính là biểu hiện của tình yêu quê hương nói riêng và tinh thần yêu nước nói chung.

Bằng sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, bài thơ đậm chất Đường thi nhưng vẫn rất Việt Nam với những hình ảnh đầy gần gũi như con thuyền xuôi mái, bèo dạt mây trôi, cành củi khô lạc dòng,.. Qua 2 khổ thơ đầu và cuối tác phẩm, ta thấy được một nỗi buồn vô tận của cái tôi lạc lõng trong cuộc đời.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Nghị Luận Đây Thôn Vĩ Dạ 🍀 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Trên đây là tuyển tập những mẫu bài phân tích 2 khổ cuối bài thơ Tràng Giang của tác giả Huy Cận! Cảm ơn bạn đã tham khảo tại scr.vn.

Viết một bình luận