Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến [29+ Bài Hay Nhất]

Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến ❤️️ 29+ Bài Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Những Bài Văn Mẫu Cảm Nhận Về Hình Ảnh Người Lính Của Quang Dũng.

NỘI DUNG BÀI VIẾT

Cách Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến

Tham khảo hướng dẫn cách phân tích hình tượng người lính Tây Tiến giúp các em học sinh nắm được phương pháp làm bài.

👉 Bước 1: Tìm hiểu về tác giả và tác phẩm.

  • Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp với hồn thơ hào hoa, lãng mạn, thấm đượm tình đồng bào đồng chí.
  • “Tây Tiến” là một trong những bài thơ hay nhất, xuất sắc nhất, làm nên tên tuổi của Quang Dũng; đồng thời được coi là “đứa con đầu lòng tráng kiện và hào hoa của nền thơ ca kháng chiến”. Bài thơ được viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
  • Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng và hào hoa.

👉 Bước 2: Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến

a/ Vài nét chung về những người lính Tây Tiến:

  • Xuất thân: Phần đông các chiến sĩ trong trung đoàn đều là những chàng trai Hà thành, xếp bút nghiên lên đường theo tiếng gọi của non sông
  • Nêu phạm vi hoạt động, nhiệm vụ của đơn vị.

b/ Vẻ đẹp hào hùng của hình tượng người lính trong bài thơ:

-Hào hùng là vẻ đẹp mang phẩm chất, cốt cách mạnh mẽ thuộc về ý chí.

-Biểu hiện trong bài thơ:

  • Khí phách ngang tàng, tinh thần lạc quan trước khó khăn, gian khổ:
  • Hoàn cảnh chiến đấu vô cùng gian khổ: sốt rét, hành quân trên địa hình hiểm trở, thiên nhiên ẩn chứa những điều nguy hiểm, cáichết luôn cận kề.
  • Trên cái phông nền đó, ta càng thấy rõ hơn vẻ đẹp hào hùng của những người lính Tây Tiến. Họ vẫn dấn thân, bất chấp hiểm nguy, vượt qua núi cao, vực sâu, thú dữ, bệnh tật, thể hiện qua cách nóivừa táo bạo vừa tinh nghịch “súng ngửi trời”, “không mọc tóc”, “bỏ quên đời”…
  • Tinh thần yêu nước, lí tưởng chiến đấu luôn chói ngời, bất chấp cả sự sống và tuổi trẻ của bản thân mình: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”, “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” – coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.

-Sự hào hùng gắn liền với bi tráng: hi sinh của những người línhTây Tiến.

c/ Vẻ đẹp hào hoa:

  • Là vẻ đẹp lãng mạn của tâm hồn con người
  • Người lính được miêu tả rất thực trong những sinh hoạt cụ thể, với những bước đi nặng nhọc trên đường hành quân cùng với những đói rét bệnh tật, tiều tụy về hình hài, song rất phong phú trong đời sống tâm hồn, với những khát vọng mãnh liệt của tuôi trẻ (Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc).
  • Họ nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng với những cảnh sắc độc đáo rất tinh tế (hồn lau nẻo bến bờ, dáng người trên độc mộc, dòng nước lũ, hoa đong đưa).
  • Tâm hồn người lính cháy bỏng những khát vọng chiến thắng, đồng thời cũng ôm ấp những giấc mơ đẹp về tình yêu tuổi trẻ (Mắt trừng gửi mộng qua biên giới – Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Hoặc vẻ đẹp của người con gái núi rừng có nét hoang sơ, kiều diễm đến sững sờ (Kìa em xiêm áo tự bao giờ).

d/ Nghệ thuật xây dựng và khắc họa hình tượng:

  • Bút pháp tả thực kết hợp hài hòa với cảm hứng lãng mạn.
  • Sử dụng số lượng lớn từ Hán Việt
  • Cách nói giảm, nói tránh, thủ pháp đối lập
  • Giọng điệu hào hùng, bi tráng

👉 Bước 3: Khái quát lại về hình tượng người lính Tây Tiến

  • Nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa chân thực và sinh động vẻ đẹp hào hùng của những người lính Tây Tiến – những con người ưu tú của đất Việt, những tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, tinh thần cống hiến cho lớp trẻ noi theo.
  • Khẳng định tài hoa của Quang Dũng và sức sống bền bỉ của bài thơ trong lòng độc giả nhiều thế hệ

Chia sẻ cùng bạn 🌹 Tóm Tắt Tây Tiến 🌹 12 Bài Tóm Tắt Ngắn Gọn Hay Nhất

Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến Dàn Ý

Lập dàn ý chi tiết cho bài phân tích hình tượng người lính Tây Tiến để bạn có thể làm bài tốt hơn và không bị thiếu ý.

I. Mở bài

  • Giới thiệu một vài nét khái quát về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
  • Tập trung giới thiệu về hình tượng người lính trong bài thơ.

II. Thân bài

  • Giới thiệu một số nét về những người lính Tây Tiến: họ là ai, xuất thân của họ, cảm hứng để tác giả sáng tác bài thơ là gì?
  1. Trải qua nhiều gian khổ nhưng vẫn lạc quan, kiên cường
  • Địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh: địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi; các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc”
  • Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.
  • Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, gập ghềnh của địa hình.
  • Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải vượt qua. Nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.

2. Có tâm hồn lãng mạn, hào hoa

  • Là những con người nặng tình: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” là tiếng gọi thân thương. “nhớ chơi vơi”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói” là nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.
  • Không khí đêm liên hoan tưng bừng với màu sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm áo”, “nàng e ấp”.
  • Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
  • Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:
  • Con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật duyên dáng, đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
  • Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương
  • Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó luôn gửi lại nơi núi rừng Tây Bắc

3. Mang vẻ đẹp bi tráng, hào hùng

  • Hình ảnh người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
  • Sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, luôn ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
  • Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”, “khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.
  • Đoàn quân Tây Tiến một thời từng quyết tâm ra đi: “người đi không hẹn ước” “thăm thẳm một chia phôi.

III. Kết bài

  • Khẳng định lại vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến: trải qua nhiều gian khổ nhưng vẫn lạc quan, kiên cường luôn có tâm hồn lãng mạn, hào hoa, mang vẻ đẹp hào hùng, bi tráng.

SCR.VN tặng bạn 💧 Dàn Ý Tây Tiến 💧 Dàn Ý Nghị Luận Văn Học Đầy Đủ

Dàn Ý Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến Chi Tiết

Dựa vào dàn ý phân tích hình tượng người lính Tây Tiến dưới đây, các em học sinh có thể tham khảo cho mình hệ thống luận điểm trọng tâm.

I. Mở bài phân tích hình tượng người lính Tây Tiến:

  • Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, hồn thơ ông luôn phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa.
  • Bài thơ được in trong tập Mây đầu ô, được Quang Dũng viết khi đã rời đơn vị Tây Tiến.
  • Hình tượng nổi bật trong bài thơ chính là hình tượng người lính Tây Tiến.

II. Thân bài phân tích hình tượng người lính Tây Tiến:

1.Khái quát chung

  • Tây Tiến: là tên một đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ kết hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào, làm hao mòn lực lực giặc Pháp.
  • Xuất thân lính Tây Tiến: phần đông là người Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên.
  • Cảm hứng sáng tác: Quang Dũng viết bài thơ để bày tỏ nỗi nhớ với đoàn quân Tây Tiến sau khi chuyển sang công tác ở đơn vị khác.

2.Vẻ đẹp của tinh thần nỗ lực, vượt lên những khó khăn gian khổ

  • -Chặng đường hành quân gian khổ: Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi; các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc” gợi địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh.
  • Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước … xuống” gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.
  • Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.
  • Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhấn mạnh sự trắc trở, gập ghềnh của địa hình.
  • Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong hoàn cảnh gian khổ.
  • Khung cảnh thiên nhiên cũng có lúc êm dịu, đậm hương vị cuộc sống: “nhà ai Pha Luông …”, “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em …”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình. Là tiếng thở phào nhẹ nhõm sau chặng đường dài hành quân.

3.Vẻ đẹp ngoại hình: dữ dội, lẫm liệt, oai phong

  • “đoàn binh không mọc tóc”: đó là hậu quả của những trận sốt rét rừng khắc nghiệt. Phần nào cho thấy phong thái ngang tàng, gan góc, ngạo nghễ của những người lính trẻ.
  • “quân xanh màu lá”: là hình ảnh làn da tái xanh như màu lá do bệnh sốt rét rừng (có thể là màu xanh của lá ngụy trang, có thể hiểu là màu xanh áo lính). Đó cũng là những mất mát hi sinh thầm lặng (dần mất sức khỏe, sức trai tráng).
  • “mắt trừng”: cái nhìn dữ dội, người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp của những người tráng sĩ xưa, cũng gợi hình ảnh khuôn mặt hốc hác do điều kiện vật chất thiếu thốn.
  • “đoàn binh”: gợi hình ảnh một tập thể đông đảo mang những nét chung phổ biến của mọi người lính (đầu không mọc tóc, da xanh, mắt trừng dữ dội)
  • Nhận xét: nếu cảm nhận theo cách thông thường họ mang vẻ ngoại hình kì dị, nhưng chỉ bằng ba chữ “dữ oai hùm” tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp dữ dội, lẫm liệt, oai phong của người lính Tây Tiến.

4.Vẻ đẹp nội tâm: hào hoa, đa tình, lãng mạn của những người lính trẻ

  • “Kìa em xiêm áo … xây hồn thơ”: cái nhìn đắm say, tình tứ của những người lính Tây Tiến trước vẻ đẹp duyên dáng của con người Tây Bắc. Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người.
  • “gửi mộng”, “đêm mơ”: lính Tây Tiến là những con người mơ mộng, là những người trai xuất thân từ đất hà thành nên họ mang vào chiến trường cả nét thi vị, lãng mạn trong tâm hồn (so sánh người lính xuất thân từ nông dân trong bài Đồng Chí – Chính Hữu).
  • “Hà Nội” là khung trời thương nhớ, là không gian khác hẳn đời sống gian khổ chiến trường, đó là nỗi nhớ quê hương.
  • “dáng Kiều thơm” gợi hình ảnh những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều, kiêu sa, hình bóng người thương của lính Tây Tiến. Đó là nguồn động lực để họ chiến đấu nơi chiến trường gian khổ.
  • Nhận xét: Trong hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt họ vẫn giữ được những nét hào hoa, lãng mạn vốn có của những thanh niên trí thức Hà Nội.

5.Vẻ đẹp của lẽ sống: tinh thần hi sinh cao cả

  • Hình ảnh bi hùng về người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”: đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
  • Sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước:“rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
  • Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”, “khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.
  • Nhận xét: Những người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp bi tráng, tầm vóc của họ sánh ngang với các tráng sĩ xưa. Với cảm hứng lãng mạn Quang Dũng đã bất tử hóa hình ảnh của họ.

III. Kết bài phân tích hình tượng người lính Tây Tiến:

  • Nêu cảm nhận về hình tượng người lính Tây Tiến.
  • Khái quát một số giá trị nghệ thuật tiêu biểu: bút pháp lãng mạn, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, Sử dụng nghệ thuật điệp, đối, hình ảnh thơ độc đáo, mới mẻ.
  • Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng Tây Bắc; vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Sơ Đồ Phân Tích Hình Tượng Người Lính Bài Tây Tiến

Tham khảo mẫu sơ đồ phân tích hình tượng người lính bài Tây Tiến dưới đây để hệ thống hoá kiến thức và ôn tập hiệu quả.

Sơ Đồ Phân Tích Hình Tượng Người Lính Bài Tây Tiến
Sơ Đồ Phân Tích Hình Tượng Người Lính Bài Tây Tiến

Gợi ý cho bạn 🌳 Sơ Đồ Tư Duy Tây Tiến 🌳 16 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay

Mở Bài Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến

Gợi ý viết mở bài phân tích hình tượng người lính Tây Tiến dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách giới thiệu hay.

Quang Dũng là một nhà thơ chiến sĩ với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu của một con người tài hoa, đa tài. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, là kết tinh của những trải nghiệm trong cuộc đấu tranh chống Pháp cùng những người đồng đội trong binh đoàn Tây Tiến.

Thành công nổi bật của của bài thơ là xây dựng được hình tượng người lính Tây Tiến vừa mang dáng dấp của những người chiến sĩ thuở trước, vừa mang những vẻ đẹp hiện đại của những người chiến sĩ chống Pháp, kiên cường nhưng cũng rất đỗi hào hoa, phong nhã.

Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Mở Bài Tây Tiến 🌺 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất

Kết Bài Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến

Tham khảo đoạn văn mẫu kết bài phân tích hình tượng người lính Tây Tiến dưới đây để vận dụng cho bài viết của mình.

Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng đã đem đến cho bạn đọc một hình ảnh người lính thật khác. Kết hợp linh hoạt, hài hòa giữa chất lãng mạn và hiện thực người lính hiện lên vừa mang trong mình cái hào hoa, phong nhãn nhưng đồng thời toát lên sự anh hùng, dũng cảm, những người con mang cả tuổi thanh xuân cống hiến cho đất nước.

Nhà phê bình Phong Lan nhận định: “Tây Tiến là một tượng đài bất tử về người lính vô danh” – bất tử bởi chính những vẻ đẹp hào hoa, hào hùng bi tráng. Vì vậy, người lính Tây Tiến qua bài thơ cùng tên của Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi vĩnh hằng và trong thế giới nhân sinh.

Tiếp theo, mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Kết Bài Tây Tiến 🌹 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất

Phân Tích Vẻ Đẹp Hình Tượng Người Lính Tây Tiến – Mẫu 1

Bài văn phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.

Bài thơ Tây Tiến ra đời vào năm 1948, khi mà cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn cam go và ác liệt nhất. Nhà thơ Quang Dũng bằng tài năng và trái tim thương nhớ đồng đội cũ đã khắc họa nên những nét chân thực nhất về hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp với hình tượng bi tráng hào hùng.

Binh đoàn Tây Tiến được thành lập vào năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh địch trên tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ các tỉnh từ Lai Châu đến Thanh Hóa. Cuộc sống chiến đấu của những người lính Tây Tiến vô cùng khổ cực, thiếu thốn. Phần lớn vì vùng núi hiểm trở, chốn rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, thiếu thuốc men. Những người lính Tây Tiến hi sinh nhiều vì bệnh tật còn nhiều hơn sự hi sinh trên chiến trường.

Những người lính Tây Tiến hầu hết là những thanh niên trí thức Hà Thành, phần đông là các sinh viên, học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Mặc dù phải chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy xong họ vẫn hiện lên với hình tượng lãng mạn song rất đỗi hào hùng, bi tráng.

Bài thơ có nhan đề Tây Tiến, nhằm nhấn mạnh tên gọi của binh đoàn và để thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về 1 thời kháng chiến khó khăn dữ dội nhưng rất đỗi hào hùng, say mê.

Hình tượng người lính Tây Tiến đã được nhà thơ Quang Dũng khắc họa bằng những hình ảnh chi tiết vừa tả thực lại vừa lãng mạn, mạch cảm xúc bài thơ là nhớ thương nên mở đầu bài thơ nhà thơ Quang Dũng đã viết.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.

Hình ảnh sông Mã anh hùng là hình ảnh đầu tiên mà nhà thơ nhớ đến. Chắc có lẽ sông Mã là 1 người bạn đồng hành lâu dài cùng các chiến sĩ trên các chặng đường hành quân chiến đấu. Câu thơ giống như một tiếng gọi tha thiết ám ảnh, khoảng cách địa lí xa xôi, vời vợi mà nỗi nhớ luôn thường trực ám ảnh.

Câu thơ thứ 2 đã sử dụng tới hai chữ nhớ, ngắt nhịp 4/3 đã diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi, khát khao của tác giả. Cụm từ “nhớ chơi vơi” nỗi nhớ như lan tỏa trong cả không gian và thời gian thấm vào nỗi lòng, tạo cảm giác như trống vắng, ám ảnh khôn xiết về 1 thời hào hùng đã qua. Câu thơ reo vần “ơi” tạo nên sự dịu dàng, nhớ thương sâu sắc.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường lát hoa về trong đêm hơi”.

Ta có thể thấy “Sài khao, Mường Lát” là những địa danh của các tỉnh miền núi phía Bắc nơi mà binh đoàn Tây Tiến đã từng hành quân qua. Chất lãng mạn và chất hiện thực ở câu thơ này được hòa quyện vào nhau. Viết về đoàn quân mỏi sau cuộc hành quân dài, nhưng khí chất vẫn rất lãng mạn khi “sương lấp”, “hoa về”, “đêm hơi”.

Bức tranh thiên nhiên vùng núi Tây Bắc được nhà thơ Quang Dũng khắc họa bằng hình ảnh rất lãng mạn, thông qua cái nhìn của những người lính Tây Tiến, giữa trùng trùng, điệp điệp của núi non, dựng vách hiểm trở, thế mà qua cái nhìn của người lính, khung cảnh ấy lại rất đỗi hay ho và vui nhộn như thế này.

“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.

Hai câu thơ mang hình tượng khái quát cao diễn tả sinh động về những gian khổ của người lính , các từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm” gợi lên không gian được mở ra nhiều chiều, một không gian thiên nhiên hùng vĩ nhưng nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng. Từ “heo hút” được dùng rất đặc sắc vừa gợi ra độ sâu khi nhìn xuống, mà khi nhìn lên lại cảm thấy hoang vắng, lạnh lẽo. Địa hình chiến đấu của những người lính Tây Tiến mặc dù quả thực đầy gian khó và hiểm nguy.

Hình ảnh “Súng ngửi trời” được sử dụng rất hóm hỉnh, vui tươi, đọc câu thơ ta liên tưởng đến câu thơ “Đầu súng trăng treo” của nhà thơ Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”. Cùng là hình ảnh lãng mạn nhưng với Chính Hữu là hình ảnh hiện thực, từ con mắt tinh tế nhà thơ và ước muốn hòa bình. Còn với Quang Dũng cụm từ “Súng ngửi trời” là khí phách hiên ngang, giữa thiên nhiên hoang sơ lạnh lẽo, hình ảnh con người làm chủ, khẳng định cốt cách của người lính

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

Chắc có lẽ đây là những câu thơ miêu tả chân thực nhất về những khó khăn gian khổ của những người lính Tây Tiến nói riêng và những người lính trong thời kháng chiến chống Pháp nói chung lúc bấy giờ. Hình ảnh “cọp trêu người” và “oai linh thác gầm thét” là những dẫn chứng thật nhất, sự ám ảnh, dữ tợn của muông thú của thiên nhiên.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
ục lên súng mũ bỏ quên đời”.

Từ láy “dãi dầu” miêu tả sự nhọc nhằn, vất vả của người lính. Cuộc hành quân trở như trùng lại, chậm lại 1 chút. Qua chữ “bỏ quên đời” ta thấy được hình tượng, khí phách dược ngời sáng từ chính sự thật đau lòng nhất, các anh đã hi sinh trong quá trình hành quân. Dù là sự mệt mỏi, hi sinh như thế nào, họ vẫn coi đó là sự nhẹ nhàng, thanh thản.

Sau cuộc chiến đấu, hành quân gian khổ, hiểm nguy đối đầu anh dũng với lũ giặc, những người lính Tây Tiến lại trở về nghỉ ngơi với những buổi liên hoan văn nghệ đặc sắc.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”.

Sau những cuộc chiến đấu vất vả với súng đạn, bom lửa. Những đau thương, mất mát vì bệnh tật, cái chết ập đến bất cứ lúc nào khi bỏ lại tất cả, hình tượng người lính Tây Tiến lúc này thật gần gũi. Buổi liên hoan bùng cháy lên sự vui tươi, phấn khởi. Hội trại bùng lên với khúc hát tươi vui, sự giao lưu giữa những người lính và những người dân địa phương.

Từ “bừng” được dùng rất hay, thể hiện sự náo nức. Đêm hội ấy, ta làm sao mà quên được hình ảnh người con gái trong buổi liên hoan trong bộ xiêm y vô cùng xinh đẹp, trang trọng. Cảm xúc người chiến sỹ như ngỡ ngàng trước vẻ đẹp lung linh của đêm hội, rồi lại thả hồn vào điệu múa, tiếng nhạc khèn của đêm hội.

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

Hương vị xôi nếp đầu mùa, tha thiết là một kỉ niệm khó quên trong lòng người lính Tây Tiến. Câu thơ được gieo thanh bằng, tạo ra một cảm xúc bâng khuâng, nhung nhớ đến khó tả

Tiếp theo mạch cảm xúc nhớ thương, nhà thơ Quang Dũng đã viết:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Miêu tả rừng núi Tây Bắc nhà thơ đã gợi tả ra độ cao trắc trở thông qua từ “ngàn thước”, cảm giác chông chênh, một tấc như chạm tay đến trời. Câu thơ thứ hai giống như miêu tả sự tưởng tượng của những người chiến sĩ sau 1 buổi hành quân mệt mỏi, đứng trên cao họ nhìn xa xa, thấy sương mù ẩn hiện là thấp thoáng ngôi nhà của những người dân. Người chiến sĩ như hóa thân thành người nghệ sĩ thả hồn vào điệu nhạc thiên thiên và của chính tâm hồn mình. Cảm giác phiêu lãng, nhẹ nhàng sau chuyến đi hành quân vất vả.

Đang trong mạch cảm xúc nhẹ nhàng, phiêu lãng nhà thơ Quang Dũng đột ngột rẽ sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng, hoài niệm.

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Kỉ niệm gợi nhớ của nhà thơ bắt đầu từ khung cảnh “chiều sương ấy”. buổi chiều luôn gợi ra cho lòng người đọc nỗi buồn. Nỗi buồn ấy có khi là nỗi nhớ nhà, nhớ người thương hoặc có thể là sự vu vơ trước 1 ngày tàn. Nhưng với nhà thơ đó là sự trống trải, luyến tiếc về hình ảnh không rõ sự xác định là ai, theo ý thơ thì đó là “hồn lau”, “dáng người” người đọc cảm nhận được 1 không gian vắng lặng đượm buồn mênh mang.

Các từ như “có thấy, có nhớ” giống như 1 lời gợi nhớ gợi nhắc tha thiết ân tình. Hình ảnh đối lập “nước lũ” và “hoa đong đưa, một bên là sự dữ dội , một bên là sự nhẹ nhàng. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn cộng miêu tả để gợi hoài niệm nỗi nhớ về hình ảnh thiên nhiên Mộc Châu.

Để khắc họa hình tượng chân dung người lính, nhà thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái hiện thực bi thương mà rất đỗi phi thường của người lính Tây Tiến tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

Đoàn “binh không mọc tóc” có lẽ đây là sự thật trần trụi nhất mà nhà thơ Quang Dũng đã từng viết, các chiến sĩ Tây Tiến họ bị rụng tóc, da dẻ xanh xao vì căn bệnh sốt rét rừng hoành hành. Ốm đau, bệnh tật là vậy nhưng khí thế họ vẫn mang nét “dữ oai hùm” tạo nên âm hưởng hoành tráng, khí thế sẵn sàng của người lính kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Khí thế hùng dũng là vậy, tâm hồn những người lính Tây Tiến thật mộng mơ. Nếu như ban ngày họ phải chiến đấu hết mình, “mắt trừng” là cái nhìn thẳng, sâu xa, thể hiện cái nhìn của ý chí, quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Ban đêm khi cuộc chiến đã kết thúc, thì tâm hồn của người lính lại mơ mộng nhớ về Hà Nội, nơi mà có những người mà họ yêu thương nhất. Nỗi nhớ ấy như tiếp thêm sức mạnh, nghị lực chiến đấu. Đọc câu thơ này ta lại chợt nhớ đến câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi :

“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”.

Thêm một lần nữa nhà thơ lại viết về sự hi sinh,nhưng lần này cái chết được viết nên anh hùng, cao cả hơn,

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Viết về đau thương của cái chết nhưng không hề bi lụy, ai oán mà ngược lại đầy dũng khí,hùng tráng. Giọng thơ hùng tráng xong mang đậm nét buồn của sự hi sinh, trên con đường hành quân ấy, lòng họ không thể không cảm thấy xót thương trước những nấm mồ viễn xứ của những người chết trong chiến trận. Họ ra đi vì Tổ quốc nên không hề hối tiếc, kể cả đó là thời xuân xanh.

Tác giả mượn khéo hình ảnh “Áo bào” để gợi tả sự ra đi của người lính. Nó gắn liền với sự trang trọng, thiêng liêng, giảm bớt nỗi buồn bi lụy. Sông Mã một chứng nhân lịch sử, đã tấu lên “khúc độc hành” khúc ca tiễn các anh về với đất mẹ. Động từ “gầm” là 1 biện pháp nhân hóa, nỗi nhớ thương của lòng người như vang vọng, đau đáu trong lòng những người ở lại.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

Câu thơ đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ nhưng vẫn mang âm hưởng bi tráng. Nói về li biệt nhưng vẫn hùng tráng, mãnh liệt. Mong mỏi một ngày được gặp lại, nỗi nhớ như tràn ngập cả không gian và thời gian, lời thơ như nhắn nhủ, ước hẹn tha thiết, ân tình. Câu thơ cuối như lời hứa quyết tâm, nỗi nhớ về đoàn binh đã in hằn sâu trong kí ức. Tây tiến trở thành một kỉ niệm xương máu trong cuộc đời nhà thơ Quang Dũng.

Qua bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa nên bức chân dung, hình tượng bi tráng của người lính Tây Tiến trong cuộc cách mạng vệ quốc, vừa chân thực vừa lãng mạn tiêu biểu cho sức mạnh dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Nghị Luận Tây Tiến 🍀 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Phân Tích Vẽ Đẹp Người Lính Tây Tiến Hay Nhất – Mẫu 2

Đón đọc bài văn mẫu phân tích vẽ đẹp người lính Tây Tiến hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.

Quang Dũng – một nhà thơ, người nghệ sĩ đa tài và ông cũng đã từng là một người chiến sĩ cách mạng (đại đội trưởng của đoàn quân Tây Tiến). Quang Dũng sáng tác bài thơ “Tây Tiến” tại Phù Lưu Chanh, khi Quang Dũng rời binh đoàn Tây Tiến, chuẩn bị đến nhận công tác ở một đơn vị khác, “Tây Tiến” đối với nhà thơ là một thời đáng nhớ, một thời kì gian khổ nhưng rất đỗi anh hùng. Và “Tây Tiến” còn gắn liền với những đồng đội của ông, đó là những chiến binh Tây Tiến hào hoa, bi tráng.

Không khó để người đọc có thể nhận ra vẻ đẹp hào hùng, oai phong và hiên ngang của những người lính Tây Tiến. Bởi ngay từ những câu thơ đầu tác giả đã nói về hoàn cảnh sống và chiến đấu của chiến sĩ, những người lính Tây Tiến sống và chiến đấu trong điều kiện đầy gian khổ, khắc nghiệt, trải qua và đương đầu với vô vàn khó khăn thử thách. Đó là sự khắc nghiệt của địa bàn hoạt động hiểm trở

“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”

Tác giả đã sử dụng các từ láy có sức gợi rất hiệu quả “khúc khuỷu” diễn tả con đường nhỏ vắt qua những sườn núi cao chênh vênh, đường đi ngoắt ngoéo, gập ghềnh, “thăm thẳm” mô tả độ cao của con dốc và độ sâu của vực núi, thêm vào đó là không gian “heo hút” hoang vu, quạnh quẽ thiếu bóng dáng con người. Điệp từ “dốc” lặp lại giống như diễn tả những con dốc cứ liên tiếp hiện ra tương ứng với những thử thách đối với người lính. Không chỉ địa hình khắc nghiệt mà thời tiết nơi miền núi Tây Bắc cũng khắc nghiệt:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Trong hoàn cảnh bị bệnh tật hoành hành đặc biệt là bệnh sốt rét rừng khiến cho các chiến sĩ bị rụng tóc, ốm yếu xanh xao như màu lá, hơn thế lại luôn phải đối mặt với thú dữ rình rập. Khắc nghiệt là vậy nhưng người lính Tây Tiến vẫn giữ vững tư thế hiên ngang bất khuất trước những thử thách “Mường lát hoa về trong đêm hơi” là hình ảnh tưởng tượng của người lính tô đậm tâm hồn lãng mạn của người lính, “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” cho thấy thái độ ngạo nghễ, hiên ngang đối mặt với những thú rừng nguy hiểm.

Có thể nói người lính đã hoà nhập vào cuộc sống hoang dã nơi này, hoà nhập với thái độ chủ động, tinh thần lạc quan, yêu đời. Quang Dũng mang đến cho chúng ta một cái nhìn thật mới mẻ và độc đáo về người lính, đó không chỉ là vẻ đẹp kiêu hùng, bất khuất còn là sự hào hoa lãng mạn, tâm hồn thơ mộng.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ”

Trước vẻ đẹp của con người và văn hoá miền Tây Bắc Tổ quốc đã khiến những người lính Tây Tiến ngây ngất đắm say. Doanh trại là nơi gắn liền với những quy định, kỉ luật nghiêm khắc nhưng nay lại tràn ngập ánh sáng và màu sắc lãng mạn với hội đuốc hoa. Hình ảnh các thiếu nữ vùng sơn cước xúng xính trong những bộ váy xiêm y khiến người như bị choáng ngợp trong những cảm xúc lãng mạn. Người lính không chỉ ngỡ ngàng mà còn đắm say thưởng thức vẻ đẹp ấy với trí tưởng tượng của tình yêu, cuộc sống.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Trong tâm hồn người lính có mộng và mơ, mộng là giấc mộng công danh, khát vọng lập công xuất phát từ lòng yêu nước. Còn mơ ấy là giấc mơ gửi về mảnh đất quê nhà, gửi đến các thiếu nữ hà thành duyên dáng mang khát vọng về tình yêu đôi lứa xuất phát từ khát vọng hạnh phúc của tuổi trẻ. Như vậy người lính Tây Tiến mang khát vọng tình yêu đôi lứa vẫn luôn hướng tới khát vọng hoà bình của dân tộc.

Có lẽ chẳng ai nói về người lính mà lại nhắc đến cái chết nhiều như Quang Dũng, nhưng chính điều đó đã khẳng định vẻ đẹp đậm chất bi tráng của người lính Tây Tiến:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

“Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Mặc dù cái chết là điều khắc nghiệt nhất của chiến tranh nhưng tác giả không những không né tránh mà còn đề cập rất nhiều lần. Phải chăng với Quang Dũng cái chết đã không còn là thảm hoạ ám ảnh nữa mà trở thành nhiệm vụ tất yếu thiêng liêng và cao cả. “Không bước nữa” không phải không bước được nữa, “bỏ quên đời” không phải bị đời bỏ quên mà là chủ động dừng bước, chủ động đón nhận cái chết với tư thế sẵn sàng, coi như hoàn thành nhiệm vụ tất yếu.

Những từ Hán Việt như “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ”, “áo bào”, “khúc độc hành” cùng nói đến một thực tế rằng người lính khi hi sinh phải gửi thân mình dưới lòng đất với những nấm mồ vô chủ rải rác nơi biên cương hoang lạnh. Đó là sự bất hạnh và khốc liệt của chiến tranh và tác giả gửi vào đó sự kính cẩn nghiêng mình trước sự ra đi cao cả của đồng đội. Người lính khi đối diện với cái chết hoàn toàn bình thản, chủ động “Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh”.

Người lính dứt khoát, không đắn đo hay lưu luyến, tiếc nuối điều gì, không ham sống sợ chết mà sẵn lòng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “anh về đất” coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, chết cũng giống như bao nhiệm vụ khác.

Để làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp độc đáo và mới lạ tác giả đã tận dụng tối đa sức biểu đạt của phép tương phản giữa hoàn cảnh chiến đấu với thái độ, tư thế và phẩm chất người lính. Bên cạnh đó việc sử dụng từ chỉ địa danh đã gợi tả vùng đất xa xôi, gợi kỉ niệm về một thời chiến đấu gian khổ. Ngoài ra còn rất nhiều những từ láy tượng hình tô đậm vẻ đẹp người lính, phép điệp từ, điệp vần và hình ảnh nhân hoá.

Trong bài thơ “Tây Tiến” Quang Dũng đã có những tái hiện đầy tinh tế về vẻ đẹp của hình tượng người lính, những câu thơ nói về người lính vừa lãng mạn, vừa đậm chất sử thi mang âm điệu hào hùng rắn rỏi. Nhờ đó mà hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong lòng người đọc trở nên đẹp lí tưởng, vừa hào hùng, hào hoa lại đậm chất bi tráng.

Đừng bỏ qua 🔥 Bình Giảng Tây Tiến 🔥 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến Ngắn Gọn – Mẫu 3

Bài phân tích ngắn gọn về hình tượng người lính Tây Tiến dưới đây sẽ giúp bạn hiểu hơn về hình ảnh của những anh chàng sinh viên Hà Thành rời phồn hoa đô thị để đi bảo vệ bình yêu tổ quốc.

Bài thơ ‘Tây Tiến’ đã như được hình thành từ một nỗi nhớ. Nỗi nhớ da diết về những người đồng đội và những ngày tháng. Nỗi nhớ ấy quả thật cũng như đã đánh thức mọi ấn tượng,. Đó là cả những kí ức để kết tinh tập trung trong bức chân dung người lính Tây Tiến.

Quang dũng chính với bút pháp lãng mạn mà không thoát li hiện thực. Bài thơ đã khắc họa được hình ảnh như thật là sừng sững bức tượng đài người lính trường tồn. Bất tử mãi mãi với không gian, thời gian hùng vĩ của núi rừng của đất trời.

Trước hết, người đọc như thấy được đó chính là nét gân guốc. Lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Ta dường như cũng đã từng thấy một “Tiểu đội xe không kính” dí dỏm trong thơ Phạm Tiến Duật thì nay người đọc lại có thể như thấy một “đoàn binh không mọc tóc” trong thơ Quang Dũng.

Ta như thấy được sự ẩn sau ngoại hình ấy là sức mạnh nội tâm là tâm hồn, khí phách của những người lính Tây Tiến:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Nếu chính ở những câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chữ “mộng”. Thì dường như ở chính câu thơ thứ hai nhấn mạnh chữ “Mơ” hơn rất nhiều. Người đọc như thấy được chính câu thơ dường như cũng đã mang vẹn nguyên cả ước vọng. Và điểm đến cuối cùng của đời lính Tây Tiến.

Có thể thấy được chữ “trừng” được sử dụng khá độc đáo. Người đọc chúng ta lại như có cảm tưởng như mọi ước mơ khao khát tận đáy lòng đã trào dâng.Và nó còn như đong đầy trong ánh mắt người lính. Tứ thơ ấy như đã khéo léo như gợi nhắc đến hình ảnh thơ quen thuộc:

Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

{Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

Ta như biết được chính cái đích đến cuối cùng của những người lính luôn là hạnh phúc. Qủa thật rằng chính nỗi nhớ của họ hướng cả về “dáng kiều thơm”. Những bóng hình giai nhân yêu kiều Nhưng cũng thật là thướt tha, thanh lịch nào đó ngoài cuộc đời.

Họ dường như cũng đã ra đi chiến đấu vì tự do, độc lập của đất nước. Nhưng trước hết đó còn chính là vì cuộc sống tương lai hạnh phúc mà họ khao khát bấy lâu nay. Có lẽ chính vì vậy mà “dáng kiều thơm” cũng như đã trở thành điểm tựa. Đó cũng chính là một niềm hi vọng để tiếp thêm cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng.

Người đọc làm sao có thể quên được những người lính Tây Tiến. Sống anh dũng mà hi sinh cũng anh hùng.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời;
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh;
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Có tới ba lần tác giả Quang Dũng nhắc tới sự hy sinh. Nhưng lần nào cũng là hình ảnh ẩn dụ để tránh đi từ “chết”. Dường như ta như thấy được khi người lính Tây Tiến cũng như đã ngã xuống chỉ là khi anh tạm nghỉ chân trước cuộc đời.

Cái chết của người lính cũng đã không đồng nghĩa với ngừng chiến đấu. Vì tâm hồn, vì ước nguyện của anh sẽ vẫn mãi mãi trường tồn với thời gian với năm tháng. Những người lính như đã ngã xuống nhưng vẫn kịp trao ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục con đường cách mạng vinh quang.

Ta như thấy được cả những sự hi sinh của các anh làm người đọc không khỏi nghẹn ngào. Đó chính là những câu thơ “Rải rác biên cương mồ viền xứ”. Chữ “rải rác” dùng rất đắt nó như được đảo lên đầu câu. Nhấn mạnh cho sự quạnh quẽ, lạnh lẽo. Gợi lên được cả những sự hoang vắng gợi cảm giác xót xa đau đớn.

Hình tượng người lính Tây Tiến quả thật như đã trở thành bất tử với muôn đời. Có thể thấy được rằng theo dòng lịch sử có thể đổi thay. Nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đẽ nhất, tinh tế nhất.

Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Tây Tiến 🔥 Tuyển Tập Những Bài Hay Nhất

Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến Ngắn Nhất – Mẫu 4

Bài văn phân tích hình tượng người lính Tây Tiến ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập cho bài viết trên lớp.

Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng là một trong những tác phẩm đặc sắc với hình tượng người lính cụ Hồ. Chân dung người lính cách mạng trong thời kì kháng chiến chống Pháp huy hoàng của dân tộc được hiện lên một cách bi tráng và oai hùng. Nhà thơ Quang Dũng viết về người lính Tây Tiến – đơn vị quân đội thành lập năm 1947 với nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt – Lào – cùng sự kiêu hãnh và niềm tự hào với tất cả tình cảm chân thành của ông.

Chiến sĩ Tây Tiến phần lớn là thanh niên, học sinh sinh viên Hà Nội. Họ là những người biết đến chiến trường khắc nghiệt, nguy hiểm và thiếu thốn kể từ khi đi lính. Bài thơ Tây Tiến là kỉ niệm, hoài niệm của tác giả thay cho lời muốn nói của những người chiến sĩ kiên cường và đồng thời là lời của đồng bào dân tộc ta. Hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ mang những nét phẩm chất đặc trưng của người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Người lính Tây Tiến mang một vẻ đẹp rất mực hào hùng, hào hoa giữa môi trường chiến đấu khắc nghiệt. Xuất thân là những chàng trai Hà Nội lãng mạn, những người lính nhìn đời bằng con mắt mơ mộng và đầy tinh thần lạc quan của tuổi trẻ. Ngoài thiên nhiên khắc nghiệt, khó khăn chồng tiếp khó khăn với đoàn quân khi mà những người lính trẻ tuổi còn phải đối mặt với bệnh tật. Bệnh sốt rét làm “đoàn binh không mọc tóc”, tóc rụng và nước da xanh xao như “màu lá”.

Thế nhưng tinh thần của họ không bao giờ là bi ai tuyệt vọng. Họ vẫn đứng lên chiến đấu với tâm thế “dữ oai hùm”, “mắt trừng”. Họ vẫn mơ mộng về “Hà Nội dáng kiều thơm”. Họ vẫn là những chiến sĩ trẻ tuổi lãng mạn trong tình yêu và lạc quan trong cách sống. Sự lạc quan ấy như tiếp thêm sức mạnh cho họ trở nên kiên cường và gan dạ dù có khó khăn đến mấy, dù điều kiện môi trường có khắc nghiệt đến nhường nào. Thiên nhiên hoang vu hiểm trở đến thế, tư thế vượt qua của người lính Tây Tiến thật oai phong lẫm liệt và đầy khí phách:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Những con dốc nguy hiểm “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” có thể lấy mạng người chiến sĩ bất cứ lúc nào. Vượt qua muôn trùng hiểm trở, tư thế của người lính thật ngang tàn và hùng dũng biết bao “súng ngửi trời”. Người lính tay cầm cao cây súng hiên ngang bảo vệ non sông đất nước. Giữa thiên nhiên vắng vẻ hiểm trở đến “heo hút”, chân dung người lính cụ Hồ vẫn sừng sững kiên cường và trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Người lính Tây Tiến mang trong mình triết lí sống cao đẹp thấm đượm tình người. Bên cạnh những đôi mắt “trừng” đương đầu với kẻ địch bên bến bờ sinh tử, bên cạnh tư thế hiên ngang hùng dũng chống chọi với thiên nhiên vô tình, những người lính ấy còn có một đời sống tinh thần nồng nàn tình thân với đồng bào dân tộc.

Họ trở về là những chàng trai thành thị vui đùa với những cô gái Lào duyên dáng thướt tha. Họ chìm đắm trong cảm xúc nhung nhớ về ngày tháng gắn bó với con người và miền đất nơi đây. Đằng sau tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh của họ là tâm hồn yêu thiên nhiên, đất nước và con người sâu đậm.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Nét đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của giới trẻ thời kì kháng chiến. Công cuộc bảo vệ đất nước dài đằng đẵng và khó khăn biết mấy, hòa bình đánh đổi bằng mồ hôi xương máu và muôn vàn sự hy sinh. Đã có biết bao người lính trẻ đã ngã xuống giữa đất trời Tây Bắc.

Thân xác các anh nằm lại nơi biên cương “viễn xứ”. Thế nhưng họ vẫn hùng dũng kiên cường cầm súng bảo vệ tổ quốc mà “chẳng tiếc đời xanh”. Cho đến khi ngã xuống, thân xác họ chỉ có chiếc chiếu quý như chiếc “áo bào”, chôn “rải rác”. Những cái chết ấy vừa bi thương vừa tráng lệ, để đời sau cảm phục biết bao trước sự hy sinh bất khuất của những người lính Tây Tiến anh hùng.

Qua bút pháp lãng mạn của nhà thơ Quang Dũng, hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp độc đáo ngang tàng, oai hùng trong mọi hoàn cảnh và mọi tâm thế. Chân dung người lính Tây Tiến chói ngời trong vẻ đẹp lí tưởng, sẵn sàng hi sinh cho độc lập dân tộc. Chúng ta đang được hưởng nền độc lập từ xương máu ông cha ta và các thế hệ đi trước hy sinh mà thành. Ta cảm phục, tự hào và biết ơn sâu sắc những người lính Tây Tiến – người lính cụ Hồ.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Cảm Nhận Bài Thơ Tây Tiến 🍀 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Văn Mẫu Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến Chi Tiết – Mẫu 5

Bài văn mẫu phân tích hình tượng người lính Tây Tiến chi tiết dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được những ý văn hay.

Nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 là một nền văn học nổi bật với khuynh hướng đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn với sự trưởng thành của nhiều nhà văn, nhà thơ bước ra từ chiến trường cùng nhiều các tác phẩm văn học xuất sắc. Trong đó phải kể đến các tác giả nổi bật như Tố Hữu, Chính Hữu, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Đình Thi, Phạm Tiến Duật, Chế Lan Viên,…

Đặc biệt khi nói về sự vất vả, ác liệt của chiến trường biên giới phía Bắc những năm đầu kháng chiến chống Pháp thì nổi bật có sự xuất hiện của cây bút tài hoa, đại diện cho những người lính xuất thân từ tầng lớp trí thức Hà thành lên đường ra chiến trận. Tây Tiến được viết bằng giọng thơ hào hùng, bi tráng mang đậm cảm hứng lãng mạn, hào hoa và khuynh hướng sử thi, với hình tượng người lính Tây Tiến oai hùng, mạnh mẽ, hiên ngang vượt qua mọi sự khắc nghiệt của chiến trường miền Tây Bắc, một lòng chiến đấu và hy sinh cho Tổ quốc.

Binh đoàn Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947, với lực lượng chủ yếu là các thanh niên Hà thành, nhiều nhất là các học sinh, sinh viên vừa rời ghế nhà trường tiến thẳng ra tiền tuyến khốc liệt. Binh đoàn được phân công một nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới phía Bắc đồng thời đánh tiêu hao lực lượng của thực dân Pháp tại đây, với địa bàn hoạt động rất rộng lớn dường như bao quát cả vùng biên giới phía Bắc, thậm chí mở rộng sang cả vùng Sầm Nứa của nước bạn.

Có thể thấy rằng đó là một điều kiện chiến đấu vô cùng khắc nghiệt, đặc biệt trong những năm đầu kháng chiến, đất nước giành được chính quyền không bao lâu thế nên hầu như quân tư trang rất thiếu thốn, thuốc men và cả vũ khí đều vô cùng eo hẹp. Giữa chốn rừng thiêng nước độc, những cơn sốt rét rừng kinh hoàng, số lượng chiến sĩ hy sinh vì bệnh tật thậm chí còn nhiều hơn là vì đạn, bom của giặc thù, cả một vùng biên giới phía Bắc nơi nào cũng in dấu xương máu của các anh ngã xuống.

Thế nhưng dẫu có nhiều vất vả, gian lao nhưng người lính Tây Tiến vẫn một lòng chiến đấu và hy sinh cho Tổ quốc, cho dân tộc, đặc biệt là ở họ vẫn luôn giữ cho mình chất lãng mạn và hào hoa trong tâm hồn. Tây Tiến được sáng tác vào cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa phương hiền hòa bên cạnh dòng sông Đáy thuộc tỉnh Hà Đông cũ.

Bài thơ là dòng hồi tưởng của nhà thơ Quang Dũng về một thời Tây Tiến đã qua, lắm oai hùng nhưng cũng nhiều gian lao vất vả, đặc biệt thông qua đó hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên với nhiều những nét đặc sắc, bao gồm nỗi nhớ, vẻ đẹp tâm hồn và quan trọng nhất là tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất.

Đầu tiên hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong nỗi nhớ về vùng núi rừng Tây Bắc xa xôi, lắm gian nan hiểm trở.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”

Sự hồi tưởng về quá khứ của tác giả thông qua một loạt các địa danh nổi tiếng như Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát gợi ra cho độc giả về một cung đường hành quân rộng lớn bao la, ẩn chứa nhiều những khó khăn vất vả của đoàn quân Tây Tiến. Thế nhưng không phải vì sự mệt mỏi, khắc nghiệt mà người lính nỡ lòng bỏ quên đi những kỷ niệm xưa cũ mà ngược lại những kỷ niệm ấy đã trở thành ký ức đáng quý không thể xóa nhòa.

Để mỗi khi nhắc về đó luôn là một nỗi nhớ “chơi vơi”, mang cảm giác trơ trọi, chống chếnh, hẫng hụt khi phải xa nơi chiến trường mà một thời mà các anh đã từng gắn bó, đã từng bỏ lại máu xương của đồng đội, từng để lại nước mắt mồ hôi của chính bản thân và cả những dấu chân quân hành đầy bi tráng, hiên ngang. Những ấn tượng sâu đậm về sương và dốc núi đã mở ra cho người đọc về những khó khăn vất vả mà người lính Tây Tiến phải vượt trong hơn một năm chiến đấu ở chiến trường Tây Bắc.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”, hình ảnh sương ấy gợi liên tưởng về những câu thơ của Chính Hữu “Đêm nay rừng hoang sương muối/Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/Đầu súng trăng treo”, sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc được diễn tả bằng hình ảnh sương mù vừa lạnh vừa mờ mịt chắn tầm nhìn.

Trước quang cảnh ấy, thực tế rằng không có con người nào mà không cảm thấy mệt mỏi, chùn bước chân, thế nhưng trong tầm mắt lãng mạn và tinh thần lạc quan thì người lính Tây Tiến lại nhìn ra một vẻ đẹp rất đặc biệt “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, hình ảnh sương kéo đến ùn ùn kết thành hình những bông hoa trắng ngay giữa núi rừng hùng vĩ tạo nên một cảm giác thơ mộng, trữ tình và tinh thần của người lính lại càng thêm phấn chấn, hăng hái trước cảnh nên thơ, bất chấp những khó khăn đang chờ.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Ngoài hình ảnh sương thì hình ảnh dốc cũng là một đặc trưng lớn nhất của chiến trường Tây Bắc, địa hình quanh co khúc khuỷu, lên xuống chập chùng “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” nhiều lần làm bước chân của người lính chiến rã rời, đặc biệt sự heo hút, vắng lặng của chốn rừng thiêng nước độc lại càng thêm thách thức tinh thần của đoàn quân Tây Tiến.

Thế nhưng giữa cái vắng lặng, hiểm trở người lính chiến vẫn nhận ra, hoặc đúng hơn là chính tinh thần lạc quan, tươi trẻ của những người con xứ Hà thành đã đủ sức biến chứng thành cảm hứng lãng mạn, có chút hồn nhiên, dí dỏm trong mấy từ “súng ngửi trời”. Hơn thế nữa họ vẫn luôn tìm cho mình chút hơi ấm của đất nước, của con người, cảm nhận sự yên bình trong bão tố bằng hình ảnh xóm làng, nhà cửa thân thuộc trong câu “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, để từ đó lần nữa vực dậy tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, vì nhân dân vì đất nước.

Không chỉ vậy, những cảm hứng lãng mạn trong chặng đường hành quân gian khổ đã làm vơi bớt đi phần nào sự mệt mỏi, điều kiện khắc nghiệt của chiến trường những năm đầu kháng chiến. Vẻ đẹp của người lính trong nỗi nhớ là nằm ở chỗ đó, tuy không quá rõ ràng nhưng độc giả vẫn có thể cảm nhận được bằng những vần thơ rất đỗi tài hoa.

Tuy nhiên Quang Dũng sẽ không chỉ đem mình cảm hứng lãng mạn vào thơ, nếu như vậy thì hình tượng người lính lại trở nên tầm thường và không có gì đặc sắc, ông tiếp tục khắc họa người lính chiến trong nỗi nhớ bằng những hình ảnh bi tráng, bằng những nỗi sợ thực tế ở chiến trường.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Quang Dũng viết rất nhẹ nhàng “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, có người từng cho rằng có lẽ là hình ảnh người lính chiến ngủ sau những chặng đường khó khăn gian khổ, nhưng nhìn vào thực tế khốc liệt của chiến trường miền tây thì đó là sự hy sinh của một người lính Tây Tiến, anh ra đi trong giấc ngủ ngàn thu, tay vẫn ôm lý tưởng chiến đấu là súng và mũ.

Nhà thơ đã tìm những cái cách nói giảm nói tránh để giảm bớt đi sự đau thương, mất mát trong chiến đấu, cũng như khắc họa một vẻ đẹp khác của người lính Tây Tiến ấy là xem cái chết nhẹ tựa lông hồng.

Không chỉ vậy hình ảnh oai hùng, anh dũng của đoàn quân Tây Tiến còn ẩn hiện sau tiếng gầm thét của thác nước, của những loài hùm beo hổ báo ngự trị nơi núi rừng, bởi dẫu có gặp biết bao những nguy hiểm rình rập thì người lính Tây Tiến vẫn vững bước hành quân, vẫn giữ cho mình một tinh thần thép, họ vẫn đi hết chiến trường miền Tây Bắc, sang cả vùng Sầm Nứa của Lào, rồi vòng về vùng tây Thanh Hóa, có gì có thể cản được bước chân oai hùng ấy đâu.

Và giữa những tháng ngày hành quân gian khổ người ta không chỉ thấy được vẻ đẹp của người chiến sĩ trong lúc hành quân gian khổ, mà còn thấy hình tượng của người lính trong những lúc sinh hoạt đời thường. Mà ở đó vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, hồn nhiên của những chàng thanh niên Hà thành, mang theo hành trang còn thơm mùi mực bút được thể hiện một cách rõ ràng và tinh tế bằng cảm hứng lãng mạn sâu sắc.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Bên cạnh cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt thì họ cũng có một cuộc sống tinh thần rất sôi nổi, dù rằng điều này không thường xuyên diễn ra, ở đó ta thấy hiện lên hình ảnh người lính chiến tạm quên đi những khổ cực, những hy sinh mất mát, những đớn đau trong chiến đấu để hòa mình vào cuộc vui, say sưa nhảy múa bên đống lửa bập bùng.

Họ cũng là những con người có cảm xúc, cũng ham thích sự náo nhiệt, rộn ràng, đặc biệt những người lính Tây Tiến lại xuất thân từ thủ đô thế nên trong tầm suy nghĩ, họ luôn có cái gì đó rất hào hoa và lãng mạn. Người lính chiến cũng buông lỏng tinh thần, thấy yêu đời, thấy trẻ trung khi được tiếp xúc với những cô gái vùng cao xinh đẹp duyên dáng, trong những điệu múa, những nụ cười trong trẻo, điệu bộ “e ấp”, trong tiếng nhạc, tiếng khèn dân tộc vừa đầm ấm, vừa có phần mới mẻ.

Cuộc vui lễ hội sau những ngày tháng chiến đấu kiên cường vất vả đã để lại trong trái tim người chiến sĩ những niềm vui, niềm hạnh phúc sung sướng khó tả, đó là cảm giác lâng lâng, thi vị, hồn người bỗng hóa thơ. Và người lính Tây Tiến lại mang trong mình một nỗi nhớ khác, nỗi nhớ thi vị và trữ tình không chỉ với con người mà với cả thiên nhiên thơ mộng trong những câu thơ rất lãng mạn.

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?”

Đó là về hình tượng người lính trong nỗi nhớ chiến trường, trong đời sống sinh hoạt tinh thần, nhưng có lẽ nổi bật và đáng chú ý nhất về hình tượng người lính Tây Tiến thì phải kể đến những câu thơ còn lại. Mà ở đó khuynh hướng sử thi trong tạo hình nhân vật trở nên nổi bật và đặc sắc hơn cả, kết hợp với cảm hứng lãng mạn đã làm cho hình tượng người lính Tây Tiến trở thành tượng đài bi tráng và bất tử của nền văn học Việt Nam những năm 1945-1975.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Bằng hai nét vẽ “không mọc tóc” và “quân xanh màu lá” nhà thơ Quang Dũng đã tái hiện được một cách chân thực và sống động hiện trạng quân đội ta những năm đầu kháng chiến đầy gian khổ. Bệnh tật, những cơn sốt rét rừng khủng khiếp đã hành hạ những người lính chiến, để lại một hình ảnh có vẻ hơi kỳ dị “đoàn quân không mọc tóc”, cùng với làn da xanh xao, xám ngắt như màu lá lạnh lẽo chốn núi rừng hoang vu.

Có thể nói rằng Quang Dũng thường phát huy cảm hứng lãng mạn trong thơ mình một cách dày đặc thế nhưng chỉ riêng những nét vẽ này Quang Dũng lại thẳng thắn, không trốn tránh sự thật mà phơi bày ra cái khắc nghiệt của chiến trường miền Tây Bắc những năm 1947-1948.

Mà sự khắc nghiệt này cũng đã nhiều lần được các nhà thơ cùng thời tái hiện, ví như Chính Hữu “Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh/Rét run người vầng trán ướt mồ hôi” hay Tố Hữu với vần thơ “Giọt mồ hôi rơi trên má anh vàng nghệ”, đó là ký ức không thể nào quên đối với người lính Tây Tiến.

Và trong cái hiện thực vẫn tồn tại cái lãng mạn, Quang Dũng không để hình tượng người lính chiến ở vị trí bị động trước khó khăn thay vào đó bằng bút pháp lãng mạn, phóng khoáng ông đã đặt hình ảnh người lính Tây Tiến vào tầm vóc chủ động. Không phải là sốt rét đến nỗi không mọc tóc (dù đó là sự thực) mà bằng ngòi bút tinh tế ông đã vẽ lại một nét thành “không mọc tóc”, đoàn quân chủ động không mọc tóc để tạo cho mình một hình hài đặc biệt, dữ dằn đương đầu với chiến sự.

Màu xanh xám của da dẫu là vì bệnh tật hành hạ thế nhưng nó vẫn ẩn chứa một vẻ mạnh mẽ, kiên cường, oai hùng, khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ. Hiện thực đau thương nhưng bằng đôi mắt tài hoa, phóng khoáng, lãng mạn của Quang Dũng, nó đã khoác lên mình một vẻ hào hùng, bi tráng và mang tầm vóc sử thi của thời đại. Ẩn chứa bên trong cái ngoại hình bi tráng, dữ dằn ấy là sức mạnh nội tâm của người lính chiến, bắt nguồn từ hình ảnh “đoàn binh” gợi sự đông đúc, tinh thần đoàn kết, khí thế ra trận mạnh mẽ.

Bên cạnh những nét vẽ về một tâm hồn kiên cường, bất khuất thì tượng đài người lính Tây Tiến còn được khắc họa bằng những nét vẽ về một tâm hồn mộng mơ, giàu sức trẻ. Trong những đêm ôm súng không ngủ trên đất khách, người lính chiến đã hướng tầm mắt, hướng tâm hồn mình về với Tổ quốc thân yêu, về với quê hương Hà thành nơi các anh đã gửi lại bao kỷ niệm về một thời áo trắng, bút vở thân yêu.

Và ở đó còn có cả bóng dáng những cô gái Hà Nội dịu dàng, duyên dáng, là tình yêu, là nỗi nhớ của những chàng thanh niên xa quê hương chiến đấu.

Xét thấy đây là một câu thơ rất tinh tế và nó phản ánh đúng bản chất của con người, không phân biệt là tiểu tư sản hay là nông dân thì trong tâm hồn mỗi một người đều có những nhu cầu tình cảm, nhu cầu hạnh phúc, cũng chính vì lẽ đó thì ngoài tình yêu quê hương, yêu đất nước thì tình cảm cá nhân cũng chính là một trong những nguồn động lực to lớn để thúc đẩy và nâng cao tinh thần chiến đấu đấu, chứ không phải là làm suy sụp hay gieo rắc tính ủy mị trong lòng quân như những quan niệm trước đây.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Hình tượng người lính Tây Tiến tiếp tục được khắc họa bằng những nét vẽ về lý tưởng và khát vọng chiến đấu cao đẹp, bất chấp sự hy sinh, mất mát để giành về cho Tổ quốc thân yêu sự độc lập và tự do. “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” đó là hiện thực tàn khốc của chiến trường, nhưng bằng việc dùng những từ Hán việt trong câu thơ của mình thì ý thơ trở nên trang trọng, cổ kính hơn hẳn, bớt đi cái sự thê lương, ảm đạm, kéo về sự hào hùng, bi tráng nhưng không bi lụy trong chiến đấu.

Đọc câu thơ tiếp “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, nó như là một lời thề sắt son, quyết tâm vì Tổ quốc mà hy sinh cả đời trai trẻ, họ đã xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, điều đó càng tô đậm nên vẻ đẹp sử thi anh hùng của người lính Tây Tiến.

Đặc biệt hình ảnh hy sinh mất mát lại càng làm nổi bật nên hiện thực và sự oai hùng trong chiến đấu của bộ đội ta “Áo bào thay chiếu anh về đất”, nó xuất phát từ việc những người lính lần lượt nằm xuống trên chiến trường, thế nhưng vì hoàn cảnh thiếu thốn, họ buộc phải ở lại nơi đất lạ cùng với một manh chiếu bó thây.

Tuy nhiên với ngữ điệu thơ nhẹ nhàng, trầm thấp Quang Dũng không đem đến nỗi đau thương, bi lụy mà thay vào đó là cảm giác tự nguyện, tự nghĩa của những người anh hùng, họ đến và chiến đấu hết mình rồi về với đất mẹ thiêng liêng với một tâm thế thanh thản, hiên ngang vì hoàn thành sứ mệnh trả nợ nước, trả nợ cho đời, họ chẳng còn gì nuối tiếc.

Hình ảnh “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” tựa như là khúc nhạc hùng tráng, tiễn đưa người lính chiến về với thế giới bên kia, con người cố kìm nén nỗi đau, thế nhưng thiên nhiên là chứng nhân lịch sử đã chứng kiến biết bao đau thương mất mát đến giờ phút này cũng phải bật ra tiếng thét bi tráng, vang vọng cả đất trời.

Hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ đã được Quang Dũng khắc họa một cách tài tình bằng những nét vẽ đậm nhạt khác nhau, kết hợp tính nhạc cùng với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, tạo nên một tượng đài bi tráng và bất tử của nền văn học Việt Nam hiện đại.

Qua đó ta thấy được vẻ đẹp của những người con anh hùng trong kháng chiến thông qua nhiều khía cạnh khác nhau, từ sự kiên cường trong điều kiện đấu tranh gian khổ, tâm hồn tươi trẻ, mơ mộng, đến lý tưởng và sự hy sinh vĩ đại trong cuộc kháng chiến anh hùng của cả dân tộc.

Có thể bạn sẽ thích 🌼 Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Lính Tây Tiến 🌼 13 Mẫu Hay

Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến Học Sinh Giỏi – Mẫu 6

Gửi bạn tham khảo cách phân tích tác phẩm văn học Tây Tiến với hình tượng người lính oai hùng nhưng cũng đầy lãng mạn.

Một trong những bài thơ hay mà cho tới tận hôm nay, những vần thơ ấy vang lên vẫn giống như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng trong thơ Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Những câu thơ mang một vẻ hào hoa, mang một phong cách hồn hậu, phóng khoáng. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.

Câu thơ mở đầu như một khúc nhạc dạo cứ ngân dài mãi, khúc nhạc ấy nhắc tới hình ảnh Sông Mã, Tây Tiến ngay ở câu mở đầu cũng được ưu ái với một cách gọi thân thương “Tây Tiến ơi” . đây chính là một trong tiếng gọi trở về những năm tháng kề vai sát cánh bên nhau trong hành quân chiến đấu. Sông Mã hào hùng như minh chứng cho một thời oanh liệt đã qua, cứ ồ ạt cuốn nước chảy tới vô bờ. Vẻ đẹp của những anh hùng tây tiến cũng từ đó hiện ra, vẻ đẹp của những con người đã in dấu chân trên những con đường hành quân.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Một thời đạn bom đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến đấu. Cách hiệp vần ở những chữ cuối mỗi câu khiến cho câu thơ càng vang xa,ngân mãi trong đêm: “ơi, vơi, hơi”. Nó giống như lúc những anh lính tây tiến trút hơi thở mệt mỏi sau một ngày hành quân. Hai địa danh Sài Khao và Mường Lát hiện lên khắc sâu vào nỗi nhớ của tác giả.

Hai địa danh ấy gắn với những cuộc hành quân của đoàn quân tây tiến. “đêm hơi” khiến cho độc giả nghĩ tới nhiều sự vật kì vĩ, đêm hơi có thể là đêm đầy sương và hơi sương, đêm hơi còn là đêm của không khí lạnh của rừng sâu, nhưng cũng có thể là sự di chuyển nhẹ nhàng của những chiến sĩ đoàn quân tây tiến hay chính là những hơi sương trong đêm hành quân ấy thể hiện những khó khăn vất vả của đoàn quân. Những khó khăn của những người lính tây tiến lại trở nên đẹp đẽ và nên thơ trong những vần thơ của Quang Dũng.

Đó là những gian nan mà những người lính phải trải qua, chính những gian nan đó lại càng tô đậm vẻ đẹp bi tráng của họ những triền dốc khiến người ta mới nhìn đã thấy ngại, hai từ thăm thẳm trong câu thơ khiến độ hun hút của những con dốc lại càng trở nên nguy hiểm biết bao nhiêu.chưa dừng lại đó,những hình ảnh hun hút, đầu súng của những người lính đang đùa giỡn với mây trời.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Những độ cao độ sâu ấy được tính bằng ngàn thước, mục đích của nó nhằm nhấn mạnh vào những gian khổ mà đoàn quân phải vượt qua. Nhưng đến câu thơ cuối thì một dòng toàn thanh bằng lại được xuất hiện như bù lại cho những câu thơ mang nhiều thanh trắc. Sự bằng ấy mang đến cho chúng ta một cảm giác thật sự yên bình. “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Những lúc mưa gió, đoàn quân nghỉ ngơi và nhìn ra những cơn mưa như trút nước xuống, khiến một vùng trắng xóa như những mặt nước trắng xóa vậy.

Những gian nan khó khăn ấy mở nguồn cho hình ảnh đẹp vi tráng của những người lính ấy. Cũng có những lúc sự hồn nhiên của người lính được thể hiện qua những giây phút mệt mỏi, gục lên ba lô và ngủ, bỏ lại sau đó những khó khăn vất vả, những hiểm nguy của kháng chiến. Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu không bước nữa là một hình ảnh đẹp.

Câu thơ nhằm nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những người chiến sĩ ấy. Đó là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia là bi nhưng trong cái bi ấy ta lại thấy một cái tráng lệ vô cùng. Họ có thể hi sinh nhưng trong một tư thế rất nhẹ nhõm, “bỏ quên đời” những kí ức về những lúc dừng chân mệt mỏi, những kỉ niệm với những buổi chiều và ban đêm với những con thú dữ gầm rú lên, nhớ những đêm mùa nếp xôi ở Mai Châu.

Ở đoạn thơ tiếp theo người lính hiện ra với vẻ hồn nhiên, có một đời sống tinh thần cũng vô cùng vui vẻ lạc quan, những hình ảnh liên hoan đời thường, cùng với cô gái Viêng Chăn xinh đẹp kiều diễm với tình dân quân thân thiết đẹp sao. Bỏ qua những vất vả những người lính hiện ra với vẻ đẹp oai hùng mà cũng hồn.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Hình ảnh có thấy dáng người trên độc mộc và hoa đong đưa tạo nên một hình ảnh có đôi có cặp, hình ảnh hoa xoáy vào dòng nước càng tạo nên vẻ đẹp thơ mộng nơi đây.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật và nơi khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút giấu diễm, sự thiếu thốn hay những căn bệnh như sốt rét, khiến cả binh đoàn bị rụng hết tóc, quang Dũng đã khai thác một vẻ đẹp hết sức chân thực của người lính Tây tiến, dù khó khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến đấu chưa bao giờ kết thúc. Hình ảnh quân xanh màu lá là những hình ảnh gầy gò ốm nhưng không hề yếu mà vẫn dữ oai hùm.

Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây tiến. Những ánh mắt hiện lên lửa hi vọng và tinh thần chiến đấu oai hùng, không một chút phó mặc cho số phận, cũng có thể đó chính là sự thức trắng không ngủ được vì lo cho biên giới hoặc mở mắt để nhớ những bóng kiều thơm kia. Đó sự hi sinh của những người chiến sĩ ấy, họ phần lớn là những trí thức Hà Thánh ngày đêm nghĩ đến quê nhà với những bóng hồng mà không bao giờ mờ nhạt trong lòng họ.

Đó chính là cái bi của vẻ đẹp người lính. Nhưng nó lại rất tráng vì người ta chết đi vì lí tưởng cao cả của mình thì đó chính là cái chết đẹp. Thay vì chiếu đắp lên, sự ra đi của các anh được ví như sự ra đi của những người được những người khác tôn trọng và biết ơn. Những áo bào thì thay bằng chiếu thể hiện sự giản dị của những người lính.

Chiến trường khắc nghiệt làm cho anh phải ra đi chỉ có mảnh chiếu che thân. Đất mẹ chính là nơi các anh sinh ra cũng là nơi mà các anh về, đất mẹ che chở cho các anh mãi mãi yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã hiện ra, gầm lên khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh, không phải là sự chơi vơi nữa mà là tiếng gầm, nó càng tạo nên chất tráng cho bài thơ.

Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây Tiến vừa hồn hậu,giản dị lại hết sức khí phách. Qua đây ta cũng thấy được những vẻ đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng thêm yêu hơn những con người vì quê hương đất nước. Hình tượng các anh vẫn mãi sống trong lớp lớp thế hệ.

Tham khảo trọn bộ ☀️ Phân Tích Khổ 1 Tây Tiến ☀️ Mẫu Phân Tích Đoạn 1 Hay

Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến Nâng Cao – Mẫu 7

Tham khảo bài văn phân tích hình tượng người lính Tây Tiến nâng cao dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử.

Ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian:

“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hnội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

“Tây Tiến” của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà “đời vẫn cứ tươi” như ở 14 dòng thơ đầu tiên.

Và Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dtộc.

Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:

“Tây Tiến đoàn quân… khúc độc hành”

Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi “

hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói).

Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống.

Bởi vì câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc”. Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. 2 chữ “đoàn binh” âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ “Tây Tiến” mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây.

Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn “động vật hoá” người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ

“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu”

Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:

“Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân”

Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lsử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dtộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.

Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:

“Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”

Người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam.

Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc – những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa.

Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.

Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây Tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ.

Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.

Có thể thấy câu thơ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi “viễn xứ”. Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ “rải rác” dễ gợi sự hoang lạnh, lại là “rải rác” nơi “viễn xứ”, những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Trong Chinh phụ ngâm:

“Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”

Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng.

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.

Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ

“Áo bào thay chiếu anh về đất”

Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong “Viếng bạn” cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế

” Ở đây không manh ván
Chôn anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cứa Ngàn
Tặng tôi ngày sơ tán”

Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính.

Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp.

Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.

Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Đoạn 2 Tây Tiến 🍀 Mẫu Văn Hay Chọn Lọc

Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến Trong Đoạn Thơ Thứ 3 – Mẫu 8

Gửi bạn cách phân tích hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ thứ 3 hay và ý nghĩa nhất. Cùng tham khảo ngay nhé!

Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng.

Chân dung đoàn binh Tây Tiến được chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng. Để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai hùm”.

Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ. Như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến.

Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc. Nhưng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa. Ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.

Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành.

“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đường hành quân. Nhưng không thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu:

“áo bào thay chiếu anh về đất”

Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã. Con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công.Và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng. Chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn. Làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ.

Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Khổ 3 Tây Tiến 🌳 Mẫu Phân Tích Đoạn 3 Hay

Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến Trong Đoạn 3 Ngắn Hay – Mẫu 9

Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến đoạn 3 là nội dung nghị luận văn học đặc sắc xoay quanh tác phẩm. Tham khảo bài văn mẫu phân tích hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn 3 ngắn hay dưới đây:

Quang Dũng là một trong những nghệ sĩ rất đa tài. Ông có thể vẽ tranh, làm thơ, ông còn biết sáng tác nhạc. Thơ ca của Quang Dũng nổi bật với một hồn thơ lãng mạn, hào hoa, thắm đượm nghĩa tình và tinh thần dân tộc. Bài thơ Tây Tiến là một trong những bài thơ thể hiện cái tình đó của Quang Dũng

Lúc đầu bài thơ có tên “Nhớ Tây Tiến”. Sau bỏ “nhớ” giữ lại “Tây Tiến” vì Quang Dũng cho rằng bài thơ vốn đã tràn đầy nỗi nhớ, người đọc sẽ cảm thấy. Bài thơ được nảy sinh trong những năm tháng không thể nào quên, từ một môi trường sống và chiến đấu không thể nào quên của cuộc đời người lính

Bài thơ được viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây), khi ông đã chuyển sang đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ là đoàn quân Tây Tiến. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ của tác giả về kỉ niệm với thiên nhiên Tây Bắc và đơn vị cũ của mình. Trong tác phẩm, hình tượng những người lính Tây Tiến được thể hiện rất rõ trong đoạn thơ thứ 3 của bài thơ:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành!

Đoàn quân Tây Tiến nơi lưu giữ trong trái tim Quang Dũng những tư tưởng tốt đẹp nhất của thời thanh xuân là đơn vị được thành lập năm 1947, Quang Dũng là đại đội trưởng. Đoàn quân có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào.

Các chiến sĩ trong đội quân chủ yếu là những học sinh, sinh viên, dân lao động thành thị thuộc mọi ngành nghề khác nhau hợp thành một đội quân rất đoàn kết. Cuộc sống nơi chiến địa gian khổ, thiếu thốn vô cùng nhưng trong họ vẫn luôn ngời sáng phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ với tinh thần lãng mạn, lạc quan, không sợ gian khổ. Hình tượng người lính Tây Tiến xuất hiện với một vẻ đẹp đậm chất bi tráng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hình ảnh “không mọc tóc” gợi ra sự thật nghiệt ngã của hoàn cảnh sống và chiến đấu của các chiến sĩ Tây Tiến nhưng mang đậm chất khí chất ngang tàng. Hình ảnh “Quân xanh màu lá” với nghệ thuật đối lập “Không mọc tóc”, “quân xanh” – “dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ xanh xao tiều tụy vì căn bệnh sốt rét. Tuy nhiên, hơn hết từ trong sâu thẳm con người họ vẫn toát lên dáng vẻ oai như những con hổ chốn rừng thiêng, làm nổi bật tính cách dũng cảm của người lính.

Sự oai phong lẫm liệt còn được thể hiện qua ánh mắt. “Mắt trừng” chính là ánh mắt dữ dội, rực cháy căm hờn, mang mộng ước giết kẻ thù. Họ rất anh dũng, kiên cường, đứng trước mũi súng quân thù vẫn hiên ngang nhưng nét đẹp lãng mạn vẫn rất rõ nét, sâu sắc trong tâm tưởng họ: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, Quang Dũng đã không tiếc lời, ông đã dành những từ ngữ vô cùng trang trọng khi nói về vẻ đẹp các cô gái Hà Nội: bên trong cái dáng vẻ oai hùng, dữ dằn là trái tim, là tâm hồn khao khát với cuộc đời:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Là những câu thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp về sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Các từ Hán Việt cổ kính, trang trọng “biên cương, mồ viễn xứ” tạo không khí trang trọng, âm hưởng bi hùng làm giảm đi hình ảnh của những nấm mồ chiến sĩ nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, hoang vu. Vẻ đẹp bi tráng còn được thể hiện qua khí phách người lính, lí tưởng anh hùng lãng mạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, quyết tâm hiến dâng sự sống cho đất nước:

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Từ ngữ ước lệ “áo bào” gợi lên vẻ đẹp bi tráng của sự hi sinh: nhìn cái chết của đồng đội giữa chiến trường thành sự hy sinh rất trang trọng của người anh hùng chiến trận. Biện pháp nói giảm: “anh về đất” làm vơi đi sự bi thương khi nói về cái chết của người lính Tây Tiến. Biện pháp cường điệu: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” để nói lên rằng thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc hùng tráng đưa tiễn người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến ra đi trong khúc nhạc vĩnh hằng.

Bằng những câu thơ mang âm hưởng bi tráng, đoạn thơ khắc họa chân dung người lính từ ngoại hình đến nội tâm, đặc biệt là tính cách hào hoa lãng mạn bi mà không lụy. Những con người đã làm nên vẻ đẹp hào khí của một thời. Họ mang phẩm chất chung của người lính cụ Hồ.

Bài thơ là khúc ca bi tráng và tinh thần lãng mạn về hình tượng người lính Tây Tiến trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tuy gian khổ, thiếu thốn mà vẫn gợi lên phẩm chất anh hùng hào hoa, lãng mạn.

SCR.VN tặng bạn 💧 Cảm Nhận Khổ 3 Tây Tiến 💧 Hình Tượng Người Lính Tây Tiến

Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến Khổ 3 Đầy Đủ – Mẫu 10

Tham khảo bài văn phân tích hình tượng người lính Tây Tiến khổ 3 đầy đủ dưới đây để chắt lọc cho mình những ý văn hay.

Văn học Việt Nam viết về chủ đề kháng chiến luôn sáng ngời lên bởi hình tượng những người lính. Hơn ai hết, những con người đổ máu xương, dũng cảm hi sinh thân mình vì độc lập của dân tộc luôn xứng đáng được ngợi ca và tôn vinh như thế. Những áng thơ viết về họ luôn thấm đẫm lòng cảm phục và thương mến.

Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm tiêu biểu, bài thơ đã đưa chúng ta về những tháng ngày đấu tranh gian khổ, đặc biệt hình tượng đoàn quân với những người lính hiên ngang được khắc hoạ với vẻ đẹp đậm chất trữ tình lãng mạn và chất thép hùng hồn. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua đoạn thơ:

” Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
….
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Chân dung người lính đậm chất trữ tình bởi sự nhẹ nhàng, tươi vui, thơ mộng với những tâm hồn đầy yêu thương, rộng mở. Trong ánh lửa bập bùng của đêm hội văn nghệ, những người lính dẫu gian khổ vẫn mang trong mình niềm yêu đời, hội liên hoan như sáng bừng sức sống bởi ánh đuốc, bởi tình đoàn kết, bởi tình yêu thương. Tiếng khèn ngân vang trong bầu không gian ấm áp, nét duyên dáng của người thiếu nữ e ấp khiến bao người vừa ngạc nhiên vừa đắm say.

Ánh sáng lung linh, tưng bừng nhộn nhịp rộn rã của ngày hội, tiếng khèn, tiếng điệu, tiếng nhạc hồn thơ tạo nên vũ khúc đầy sinh động, đưa tâm hồn con người bay bổng, mộng mơ, tạo một bầu không khí đầy lãng mạn. Mọi người dường như đang say mê, đung đưa cơ thể theo từng điệu nhạc, dẻo dai.

Những cô gái trung tâm của đêm hội hiện ra trong những bộ xiêm áo vô cùng lộng lẫy, vừa dẻo dai, vừa tài năng, duyên dáng tạo nên sức hấp dẫn của người con gái miền núi với bao cuốn. Quang Dũng bằng cách mô tả những nét đẹp trong văn hoá miền núi với những bản sắc đẹp đẽ của người Tây Bắc đã cho thấy được một tâm hồn yêu đời, trẻ trung, đầy nhiệt huyết, yêu cuộc sống và tình cảm thắm thiết, chân thành của các chiến sĩ với người dân nơi đây.

Người đi châu mộc trong buổi chiều sương mỏng, êm đềm ấy có bóng dáng của ánh lau nơi bến bờ đang phất phơ trong gió nhẹ. Có dòng nước hoa đong đưa trôi lặng lờ tạo nên khung cảnh đầy yên bình, có nét hoang sơ nhưng đầy gợi cảm. Thiên nhiên dường như mang dáng dấp của nỗi niềm bâng khuâng, thương mến dành cho những con người đi qua.

Bóng dáng những người lính nhỏ bé trên đường hành quân giữa thiên nhiên hùng vĩ. Họ tuy nhỏ bé nhưng mang trong mình một sức mạnh phi thường họ có khí phách của người hùng dân tộc.

” Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Dẫu trong bao hiện thực đầy hiểm nguy, gian nan thì tâm hồn những người lính thành niên trẻ vẫn đầy tài hoa với trái tim lãng mạn, tin yêu. Đó là những tình cảm riêng đẹp đẽ trong tâm hồn bao người thanh niên trẻ đáng được trân trọng.

Không chỉ là những tâm hồn lãng mạn mà ở những người lính Tây Tiến còn đậm tinh thần thép với sự kiên cường, dũng cảm, vẻ đẹp đầy hào hùng, bị tráng. Không chỉ phải vượt qua bao sự khó khăn của địa bàn rừng núi hiểm trở, những chiến sĩ còn phải chịu đựng những đau đớn của bệnh tật, nơi ” ma thiêng nước độc” ấy thật bao hiểm nguy, bao nỗi khổ phải gánh gồng. Đó là những cơn sốt rét rừng hành hạ từng ngày bòn rút từng chút sức lực khiến làn da xanh xao đi vì thiếu máu.

Tuy không trực tiếp đặc tả những điều đó, nhưng qua những hình ảnh được tác giả viết nên, ta thấy được sức mạnh can trường của những chiến binh dũng mãnh Tây Tiến, khí phách phi thường, hùng dũng. Họ vẫn vang vọng khúc quân hành, vẫn bước tiếp những chặng đường chiến đấu mới bằng tinh thần thép, sức mạnh vững bền.

Đoạn thơ như một nốt nhạc hoan ca, ngợi ca tâm hồn những chiến sĩ trẻ bản lĩnh. Đoạn thơ có nhạc, hoạ tạo nên vẻ đẹp chân dung những người lính với hình mẫu lí tưởng, tài hoa, đại diện cho vẻ đẹp của người lính thời đại.

Tiếp tục tham khảo 💕 Cảm Nhận Đoạn Thơ Tây Tiến Đoàn Binh Không Mọc Tóc 💕 10 Mẫu

Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến Trong Đoạn Thơ Sau Tây Tiến Đoàn Binh Không Mọc Tóc – Mẫu 11

Với đề văn yêu cầu phân tích hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, các em học sinh cần đi sâu phân tích hình ảnh thơ. Tham khảo bài văn mẫu phân tích hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc dưới đây:

Quang Dũng (1921-1988) tên thật là Bùi Đình Diệm, quê ở làng Đan Phượng, xứ Đoài, Hà Tây nay là Hà Nội.

Ông nổi tiếng là một nghệ sĩ đa tài, ông không chỉ là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến mà bên cạnh đó ông còn là một họa sĩ với những bức vẽ đẹp, là một nhạc sĩ với những sáng tác rất hay, có lẽ chính vì sự đa tài ấy mà thơ của Quang Dũng lại càng đặc sắc với sự cộng hưởng của cả hội họa và âm nhạc là nên những vần thơ rất lãng mạn, rất tài hoa nhưng cũng không kém đi tính hiện thực sâu sắc khi ông khắc họa thiên nhiên Tây Bắc và cuộc chiến.

Không chỉ vậy Quang Dũng còn là một người lính xuất sắc, từng tham gia các chiến trường khốc liệt nhất, thế nên thơ ông luôn chân thực và nóng hổi hơi thở của chiến trường, của thời đại, có sức truyền cảm mạnh mẽ và giá trị hơn rất nhiều. Phong cách thơ Quang Dũng có thể tóm gọn bằng mấy từ phóng khoáng, lãng mạn, hào hoa và hồn hậu.

Có thể nói Tây Tiến là đứa con đầu lòng tráng kiện và hào hoa không chỉ của riêng nhà thơ Quang Dũng mà lả của cả nền thơ ca kháng chiến sau cách mạng tháng tám, đặc biệt là những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp nhiều gian khổ, nhưng vô cùng hào hùng của dân tộc ta với cảm hứng chủ đạo là tinh thần bi tráng và cảm hứng lãng mạn. Trong đó hình tượng người lính Tây Tiến được thể hiện vô cùng đặc sắc trong khổ thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Tây Tiến là bài thơ viết về cuộc kháng chiến những năm đầu sau cách mạng theo một cách rất đặc biệt hào hoa, lãng mạn và cũng không kém phần bi tráng, anh hùng. Sau lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến vào ngày 19/12/1946 của Hồ Chủ tịch, quân dân ta lại bước vào thời kỳ đấu tranh mới mà có vẻ trận chiến này sẽ còn nhiều ác liệt và khó khăn đang chờ phía trước.

Trong hoàn cảnh loạn lạc này, bi quan đồng nghĩa với cái chết, thế nên quân dân ta luôn giữ cho mình một niềm hy vọng mạnh mẽ, giữ vững tinh thần đấu tranh tới cùng và đặc biệt những người thanh niên Hà thành đang chiến đấu trong Trung đoàn Thủ đô lại càng có ý thức sâu sắc hơn về điều đó.

Khi trận chiến có nhiều biến đổi, những người con Hà thành không thể cứ mãi yên vị ở mảnh đất thủ đô, dù đó có là quê hương của họ, bởi ở một nơi khác, nơi chiến trường biên giới phía Bắc cũng cần họ. Mực nghiên đã xếp, hành trang đã đủ, việc nhà cũng tạm yên, họ lên đường đi chiến đấu với niềm hy vọng cháy bỏng chỉ một thời gian ngắn thôi đất nước lại được trả lại cái vẻ yên bình vừa mới bắt đầu. Những ngày tháng đầu tiên Tây Bắc quả thực là một thế giới đầy bí ẩn đối với những thanh niên xứ Hà thành.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Ngoài vẻ hiểm trở gian nan gập ghềnh khúc khuỷu vẫn được họ dùng sức trẻ, tinh thần lãng mạn thi vị hóa, khiến nó trở nên đỡ hung hiểm thì có lẽ những cơn sốt rét rừng kinh hoàng trong điều kiện thiếu thốn thuốc men mới chính là nỗi ám ảnh to lớn của những người lính Tây Tiến.

Quang Dũng là nhà thơ chiến sĩ hào hoa ưa lãng mạn, nhưng không có nghĩa là ông lảng tránh hiện thực chiến đấu khắc nghiệt, ông đã họa những nét rất đậm về một đoàn binh “không mọc tóc”, một đoàn binh chỉ gồm những chàng trai trong bộ quân phục màu xanh lá với màu da cũng xanh gần như áo.

Đó là hậu quả của căn bệnh sốt rét ở chốn rừng thiêng nước độc này mà Chính Hữu cũng chẳng thể bỏ qua trong thơ mình “Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh/Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” hoặc Tố Hữu đặc tả người lính với “Giọt mồ hôi rơi trên má anh vàng nghệ”. Không chỉ vì căn bệnh sốt rét mới khiến người lính xanh xao, vàng nghệ như thế mà đó còn là hệ quả của những đêm trường hành quân không ngủ, cuộc sống chiến đấu thiếu thốn quân nhu, lương thực,… đã hành hạ người lính đến mức xơ xác, tiêu điều.

Mặc dù hiện thực đã hiện ra trước mắt nhưng chưa bao giờ Quang Dũng để hình tượng người lính yếu đuối một cách bị động như thế, trên chiến trường, ông đã dùng cái tư duy lãng mạn của mình để thêm một vài nét chấm phá nhỏ nhưng cũng đủ khiến câu thơ trở nên khác biệt.

Giữa việc bị bệnh lâu ngày đến nỗi tóc mọc không nổi so với việc người lính “không mọc tóc” rõ ràng là hai phạm trù khác nhau, một bên thiên về bị động, một bên lại là người lính chủ động khiến bản thân không mọc tóc, để tự vẽ cho mình một hình hài dáng vẻ khác biệt, trông vừa dữ dằn vừa có khí thế uy hiếp quân thù trong chiến đấu.

Tương tự, hình ảnh “quân xanh màu lá”, đôi lúc nó lại là điều tốt, càng xanh thì càng trông khí thế, càng dễ dàng ẩn nấp, ngụy trang, đặc biệt với cái hình hài kỳ dị vừa không có tóc, vừa xanh lét ấy lại ẩn chứa trong mình sức mạnh của chúa sơn lâm, làm chủ núi rừng Tây Bắc.

Hơn thế nữa, Quang Dũng cũng không để bệnh tật làm giảm đi khí thế của người lính, ông chọn hình ảnh “đoàn quân” để gợi ra cái sức mạnh tập thể, sự đoàn kết trong chiến đấu, khí thế thời đại của một đoàn quân với dáng vẻ kỳ lạ đang trùng trùng điệp điệp hướng ra chiến trường ác liệt khiến quân thù cũng phải e dè, sợ hãi.

Với hai câu thơ như thế, tượng đài người chiến sĩ bất tử dường như đã xây dựng được một nửa, một nửa với vẻ đẹp của tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất, vẻ đẹp của sức mạnh tâm hồn chống lại mọi điều kiện khắc nghiệt trong đấu tranh. Một nửa bức tượng còn lại được Quang Dũng dựng lên bằng vẻ đẹp mộng mơ, lãng mạn trong tâm hồn người lính chiến.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Hai câu thơ trên là hai câu thơ được đánh giá là bay bổng lãng mạn và thu hút nhất trong cả bài thơ, thế nhưng đã có một khoảng thời gian rất dài vì nó mà Tây Tiến không được phép lưu hành. Sở dĩ có chuyện vậy là do theo một số tư tưởng phê bình văn học cũ thì câu thơ trên mang nặng tinh thần tiểu tư sản, làm cho bài thơ trở nên ủy mị, gây suy sụp tinh thần chiến đấu.

Thú thực nhận định này nó chẳng khác nào quan niệm cổ hủ và lạc hậu của các nhà nho cũ khi xem tình yêu, chuyện nữ nhi tình trường đối với bậc nam như là có hại, người nào vướng vào liền bị phê phán là nhu nhược, không xứng là đáng mày râu chí ở bốn phương. So với quan niệm Nho học có lẽ những nhận định cũ về Tây Tiến đều có chung một đặc điểm là khống chế tình cảm và hạnh phúc của con người.

May mắn sao, sau năm 1986 dưới những đổi mới trong cách nhìn nhận văn học cuối cùng Tây Tiến đã lấy lại được đúng vị trí và giá trị của nó, trở thành đứa con tinh thần bất hủ của cả nền thơ ca kháng chiến. Và đặc biệt hai câu thơ đã từng bị chỉ trích bỗng nhiên lại trở thành điểm nhấn cả bài thơ, khắc họa rất sống động và chân thực tâm hồn của người lính chiến xuất thân từ thủ đô.

Với những đêm trường không ngủ trên mảnh đất xa lạ, thì trái tim tâm hồn của người chiến sĩ không khỏi có những xúc động khi nhớ về thủ đô, nhớ về mảnh đất quê hương thân thuộc, nơi in dấu biết bao kỷ niệm tươi đẹp, bút nghiên, trường lớp, bạn bè, và cả gia đình những con người thân thương nhất. Đặc biệt cảm hứng lãng mạn còn đưa tâm hồn người lính Tây Tiến mộng tưởng về những “dáng kiều thơm”.

Hình ảnh người con gái Hà Nội dịu dàng, thướt tha và duyên dáng là niềm mơ ước, say mê của bao chàng trai trẻ, bởi hầu hết họ còn thanh xuân phơi phới, còn một trái tim nồng nàn khao khát về tình yêu và hạnh phúc. Họ đi chiến đấu hôm nay trong tình cảm chung vì lý tưởng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương thì còn bao hàm cả tình cảm cá nhân, mục đích là bảo vệ giấc mơ, bảo vệ hạnh phúc của riêng họ.

Như vậy đâu phải tình cảm cá nhân, lãng mạn tiểu tư sản làm lùi bước chân của người chiến sĩ, mà trái lại nó đã trở thành nguồn động lực to lớn bên cạnh lý tưởng chung của cả dân tộc khiến người lính càng thêm quyết tâm, mạnh mẽ và kiên cường trong chiến đấu. Và thực sự hình tượng người lính Tây Tiến chỉ hoàn chỉnh khi nó kết hợp cả hai vẻ đẹp nội tâm kiên cường, bất khuất và vẻ đẹp tâm hồn mộng mơ, lãng mạn, bởi “20 tuổi, người ta không toàn là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt” (trích lời Nam Cao).

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Nếu tượng đài của người lính chiến chỉ được nêu ra bằng hai vẻ đẹp cốt lõi kể trên thì có lẽ vẫn còn chưa đủ vững chắc, thế nên Quang Dũng đã bổ sung cho hình tượng của người lính chiến bằng hai yếu tố lý tưởng chiến đấu và sự hy sinh. Hình ảnh “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” lại tiếp tục là một hiện thực khốc liệt mà nhà thơ muốn chỉ ra, đối với Quang Dũng lãng mạn nhưng phải thực tế, trong chiến đấu hy sinh là chuyện chẳng thể tránh khỏi.

Bằng giọng thơ cổ kính, trang trọng với các từ Hán việt “biên cương”, “viễn xứ” dường như đưa độc giả trở về với thời cổ đại, sự ngã xuống của các bậc anh hùng lúc nào cũng bi tráng và oanh liệt, thì người lính Tây Tiến cũng vậy, các anh đã hy sinh một cách anh hùng, mang đậm hơi thở sử thi của thời đại, bi thương nhưng không hề bi lụy.

Bởi đó là sự hy sinh cho lý tưởng cao đẹp vì đất nước, vì nhân dân quên mình, hy sinh vì một lời thề “Đời chưa hết giặc là ta chưa về”, các anh đã chẳng màng sống chết, dâng hiến thanh xuân cho sự nghiệp giải phóng đất nước, hát lên khúc anh hùng ca vĩ đại.

Để đến khi buông súng, nằm vào lòng đất mẹ, các anh vẫn mang một dáng vẻ hiên ngang, ra đi trong thanh thản, yên bình “Áo bào thay chiếu anh về đất”, như người anh hùng đã làm xong nhiệm vụ, không còn gì tiếc nuối “Trả món nợ non sông trước mắt/Mặc đời sau thiên hạ luận bàn”.

Từng câu chữ của Quang Dũng vẫn nằm trong khuôn khổ của cảm hứng lãng mạn, luôn nói về chết chóc, hy sinh một cách nhẹ nhàng không hẳn là để giảm bớt đau thương, mà thực tế là để làm nổi bật lên tầm vóc của người lính trong chiến đấu “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Nếu họ chết mà non sông sống thì cái chết quả thực rất xứng đáng, chẳng có gì để nuối tiếc, người lính chiến luôn thấy tự hào vì được hy sinh cho Tổ quốc, cho dân tộc. Chiến trường khắc nghiệt, không quan tài, không kèn trống, manh chiếu bó thây có khi còn không có đủ, và cuối cùng chỉ có tiếng gầm dữ dội của con sông Mã như thay tiếng nhạc tiễn đưa. Hình tượng người lính Tây Tiến trở thành bất tử là ở những ấn tượng đầy sâu sắc đó.

Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc mang hào khí lãng mạn của thời đại mà ở đó nổi bật chính là hình tượng người lính chiến với một tinh thần thép, sẵn sàng vượt qua mọi điều kiện khó khăn gian khổ để hòa mình vào cuộc chiến, đồng thời ở họ cũng hiện lên những vẻ đẹp mơ mộng của tuổi trẻ nhiều nhiệt huyết, lý tưởng cách mạng cao cả, sẵn sàng hy sinh tất cả vì Tổ quốc thân yêu.

Đón đọc tuyển tập 💧 Phân Tích Tây Tiến Đoàn Binh Không Mọc Tóc 💧 10 Bài Mẫu Hay

Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến Trên Chặng Đường Hành Quân Được Thể Hiện Qua Đoạn Trích – Mẫu 12

Tặng bạn mẫu phân tích hình tượng người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân đầy khó khăn nhưng lại hiện lên rõ nét oai vệ.

Thơ ca cách mạng là một chủ đề lớn trong kho tàng thơ ca Việt Nam. Nhà thơ Quang Dũng cũng góp vào kho tàng ấy một tiếng thơ đẹp Tây Tiến về hình ảnh người lính xuất thân là những người thanh niên trí thức Hà thành.

Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên trong trang thơ trước tiên là sự hào hoa lãng mạn. Điều đó được thể hiện ban đầu ở cái nhìn háo hức, say mê với cảnh sắc đẹp đẽ của thiên nhiên và con người Tây Bắc:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Những người lính xuất thân từ Hà thành cũng háo hức. Và say mê vẻ đẹp của buổi chiều lãng đãng mây bay:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
……….
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Người lính Tây Tiến hòa mình vào làn sương chập chờn bên núi của buổi “chiều sương ấy”, vào những “hồn lau” đang phất phơ theo chiều gió nơi bến bờ. Và cái nhìn lãng mạn của các anh còn thấy được vẻ đẹp trong từng bông hoa rừng rực rỡ như hoa mai, hoa mận, hoa ban… đang “đong đưa” bên “dòng nước lũ”.

Chính vẻ đẹp dịu dàng, e ấp, vẻ đẹp của những ngọn đuốc hoa rực rỡ, lung linh cùng tiếng khèn, điệu nhạc khiến cho tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ nảy nở, chắp cánh cho những vần thơ tuyệt vời. Tâm hồn thơ ca của những người lính Tây Tiến quả là một nét độc đáo, tài hoa.

Người lính Tây Tiến hiện lên không chỉ đẹp bởi sự hào hoa, mà còn mang một vẻ đẹp dũng cảm, kiên cường. Dù chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ các anh vẫn luôn cố gắng vượt qua.

Không chỉ có vậy, nơi núi rừng hoang vu, sương muối ấy, người lính còn phải đề phòng những loài thú dữ đáng sợ đầy nguy hiểm:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Đâu chỉ có núi rừng hoang sơ, hoang dại hiện lên thật dữ dội và ghê rợn, người lính Tây Tiến còn đối mặt với những trận sốt rét, dịch bệnh khiến tóc không thể mọc, làn da héo hon, xanh xao như tàu lá “đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”.

Sau khi vượt qua những đỉnh núi cao chót vót, đứng trên đỉnh núi cao chạm tới mây trời, người lính vẫn vô tư, hiên ngang ví von “súng ngửi trời”. Dù đối chọi với ốm đau bệnh tật, người lính vẫn ngang tàng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
…………..
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”

Người lính ví von “đoàn binh không mọc tóc” như thể tóc cũng không thèm mọc. Cách nói cho thấy sự bình thường hóa việc không mọc tóc, không mọc tóc thì có hề chi. Với các anh, dù da có xanh thì lại càng oai phong, hiên ngang, “dữ oai hùm” như thể hiện một ý chí sắt đá, hiên ngang, giữ vững ý chí và tinh thần chiến đấu.

Hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên đặc sắc nhất là vẻ đẹp bi tráng, hào hùng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
……………..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nhà thơ đã nhìn thẳng vào sự thật mà không hề né tránh cái chết, cái sự thật không thể tránh khỏi của chiến tranh khốc liệt. Nhưng sự hi sinh ấy hiện lên đậm chất bi tráng, sử thi như những tráng sĩ ngày xưa tòng quân ra trận.

Đọc bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp người lính Tây Tiến thật hào hoa, lãng mạn cùng sự gan dạ, can trường, hiên ngang và đặc biệt là vẻ đẹp bi tráng, hào hùng.

Khám phá thêm 🌟 Phân Tích 14 Câu Đầu Bài Tây Tiến 🌟 11 Mẫu Cảm Nhận Hay

Văn Mẫu Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến Trong Đoạn Trích Trên Chọn Lọc – Mẫu 13

Bài văn mẫu phân tích hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn trích trên được chia sẻ dưới đây sẽ giúp các em học sinh vận dụng hoàn thành tốt bài viết.

Đề tài, hình ảnh người lính nói chung là một nguồn cảm hứng cho rất nhiều tác giả, sáng tác ra nhiều tác phẩm vô cùng thi vị, để lại tên tuổi cho nhiều tác giả. Các nhà thơ viết về đề tài người lính với những niềm kiêu hãnh vô cùng tự hào giữa muôn vàn tác phẩm như vậy. Bài thơ Tây Tiến có một vị trí vô cùng quan trọng đặc biệt trong nền thơ ca Việt Nam.

Bài thơ “Tây Tiến” là một trong những bài thơ sáng tác từ rất sớm về đề tài người lính trong cuộc kháng giải phóng dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Binh đoàn Tây Tiến là một đơn vị quân đội được hình thành vào những năm sau cách mạng tháng Tám năm 1945, có nhiệm vụ phối kết hợp với binh lính Lào để nhằm bảo vệ biên giới Việt Lào. Địa điểm đóng quân và hoạt động của binh đoàn Tây Tiến khá rộng, bao gồm tất cả các tỉnh Lai Châu, Hòa Bình, Sầm Nưa, Thanh Hóa…

Họ đều là những người lính xuất thân từ thủ đô Hà Nội nơi được mệnh danh là những nho sinh yêu nước, có tâm hồn lãng mạn tinh tế, có học thức bởi trong đó chủ yếu là học sinh sinh viên. Mặc dù, trong quá trình chiến đấu có rất nhiều gian khổ, thuốc men với căn bệnh nguy hiểm như sốt rét rừng, làm cho đầu tóc bị rụng hết, thân thể gầy mòn, nhưng tâm hồn cuộc sống vô cùng lạc quan, tinh thần anh dũng quả cảm.

Nhiều người lính thủ đô đã đi vào cuộc kháng chiến bảo vệ dân tộc mang theo những vẹn nguyên của một trái tim đa cảm, lãng mạn, mang theo sự hào hoa của một người lính xuất thân từ Hà Thành.

Bài thơ Tây Tiến được hình thành từ những nỗi nhớ, những nỗi nhớ vô cùng da diết về tình cảm đồng đội trong những tháng ngày kháng chiến gian khổ. Nó là những kỷ niệm không thể nào quên của tác giả với binh đoàn Tây Tiến, gắn liền với vùng đất hùng vĩ gian khổ hiểm trở vô cùng thơ mộng lãng mạn.

Nỗi nhớ ấy đánh thức, làm bừng tỉnh trỗi dậy những ấn tượng vô cùng sâu sắc trong ký ức, thể hiện một nỗi nhớ chơi vơi tha thiết trong trái tim của người lính Tây Tiến.

Nhà thơ Quang Dũng chính là bút pháp vô cùng lãng mạn không hề xa rời thực tại, bài thơ khắc họa một bức tượng đài người lính vô cùng anh hùng, bi tráng trường tồn theo thời gian. Hình tượng người lính hiện lên với nhiều nét thô mộc, gân guốc, thể hiện sự giản dị, mộc mạc của người lính trong binh đoàn Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Chúng ta từng thấy một hình ảnh người lính anh dũng, hài hước, lạc quan trong bài thơ “Tiểu đội xe không kính” trong bài thơ vô cùng hài hước dí dỏm của tác giả Phạm Tiến Duật. Hay hình ảnh người lính mộc mạc, giản dị, trong bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu.

Nhưng trong bài thơ “Tây Tiến” hình ảnh người lính của hiện lên gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến đều hiện lên những chi tiết vô cùng sống động, chân thực, thể hiện một cuộc sống gian khổ nhưng kiên cường của người lính Tây Tiến. Hình ảnh người lính Tây Tiến có chút mộc mạc giản dị, với hình ảnh không mọc tóc, vừa khắc khổ vừa bi tráng, thể hiện những trận sốt rét rừng, không thuốc men, màu lá dữ oai hùm.

Tác giả Quang Dũng khi vẽ chân dung người lính Tây Tiến trong bài thơ đã không quên nhắc tới những hình ảnh vô cùng khắc khổ, thể hiện sự hiện thực của căn bệnh quái ác. Nhưng ẩn chứa sau ngoại hình giản dị, khắc khổ đó thể hiện một sức mạnh vô cùng nội tâm sâu sắc khí phách oai hùm của những người lính Tây Tiến.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hai câu thơ thể hiện sự nhấn mạnh của sự mơ mộng của những người lính Tây Tiến. Câu thơ mang hình ảnh vẹn nguyên về ước vọng của người lính trong trái tim, tâm hồn của người lính trẻ. Nó nói lên ước mơ khát vọng sâu xa trong tâm hồn của người lính Tây Tiến. Trong bài thơ này gợi nhắc tới ước mơ bình dị của người bình thường, khi tới tuổi yêu thương muốn có một người mộng mơ, để thương để nhớ.

Trong mỗi con người chúng ta ai cũng có những ước mơ về hạnh phúc riêng của mình. Họ mơ về một hạnh phúc lứa đôi, một mái ấm gia đình ấm áp vui vẻ có nhiều tiếng cười. Những hình bóng giai nhân yêu kiều, thể hiện sự thanh lịch. Những người lính ra đi vì sự tự do độc lập của tổ quốc, vì những người thân yêu mà họ luôn hướng tới. Họ muốn bảo vệ sự bình yên của người thân của quê hương.

Hình bóng “dáng kiều thơm” chính là điểm tựa tâm hồn, niềm hy vọng tiếp sức mạnh cho người lính Tây Tiến trên con đường hành quân gian khổ của mình.

Hình ảnh người lính Tây Tiến vô cùng anh dũng, hy sinh cũng thể hiện sự anh hùng, như một bức tượng đài bi tráng. Nhà thơ Quang Dũng không hề tránh né cuộc sống khắc nghiệt của người lính phải trải qua mà ông đã miêu tả nó sinh động nhất, khắc nghiệt, gian khổ nhưng không vì thế mà bi lụy đau thương.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời;
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh;
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Hình ảnh những người lính nằm xuống hi sinh nơi chiến trường vô cùng giản dị, thể hiện người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ khi anh đã nghỉ chân rồi lìa xa cuộc đời này, nhưng cái chết không đồng nghĩa với sự ngừng chiến đấu, bởi tâm hồn của những người lính thể hiện ước nguyện của người lính luôn tồn tại mãi với thời gian.

Những người lính ngã xuống nhưng vẫn kịp trao những trái tim ngọn lửa của trái tim tuổi trẻ của những người lính cách mạng vô cùng anh dũng, vinh quang. Thể hiện sự hy sinh của anh dũng của người lính Tây Tiến làm người đọc vô cùng nghẹn ngào.

Hai chữ rải rác, mồ viễn xứ… thể hiện việc người lính ra đi trong chiến tranh là rất nhiều, ở đâu cũng gặp. Đồng thời thể hiện sự xót thương, da diết của tác giả với những người lính khi nằm xuống nơi chiến trường.

Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” thể hiện sự kiên cường của tâm hồn người lính dù có hy sinh thân mình cũng không hề tiếc nuối thân thể của mình.

Hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến trở thành một hình tượng mạnh mẽ bất tử muôn đời, theo thời gian dòng lịch sử có thể thay đổi nhưng hình ảnh người lính Tây Tiến luôn là hình tượng đẹp đẽ bi tráng nhất. Những người lính Tây Tiến thể hiện sự đối mặt với gian nan, nguy hiểm nhưng lúc nào cũng lạc quan yêu đời, thể hiện niềm tin phơi phới vào tương lai.

Tiếp tục tham khảo 💧 Bình Giảng Đất Nước 💧 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến Khổ 4 – Mẫu 14

Giới thiệu đến bạn mẫu bài văn phân tích hình tượng người lính Tây Tiến đặc sắc nhất bên dưới.

Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống Pháp. Nhà thơ Quang Dũng từng hoạt động trong binh đoàn Tây Tiến nên ông có những trải nghiệm sâu sắc về những tháng ngày chiến đấu gian khổ nhưng đầy ắp kỉ niệm của người lính.

Năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ chuẩn bị nhận công tác ở đơn vị mới, ông đã viết bài thơ Tây Tiến. Bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến, về những tháng ngày đã qua đồng thời cũng thể hiện ý chí quyết tâm, và tinh thần hi sinh cao đẹp của của người lính, tinh thần ấy được thể hiện rõ nét qua khổ thơ cuối của bài thơ.

Hai câu thơ đầu, nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện quyết tâm, lí tưởng chung của những người lính trong binh đoàn Tây Tiến:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”

“Người đi không hẹn ước” là tinh thần chiến đấu tự nguyện, quả cảm. Những người lính ra đi vì lí tưởng cứu nước cao đẹp, họ sẵn sàng hi sinh cả tuổi xuân, cả mạng sống của bản thân cho lí tưởng ấy nên ra đi không hẹn ước ngày trở về. Những người lính hiểu được sự khốc liệt của chiến trường, sự cam go đầy khó khăn, mất mát của cuộc kháng chiến trường kì.

Lí tưởng cứu nước, tinh thần xả thân ấy thật đẹp đẽ, thật thiêng liêng biết bao, vì dân tộc, tổ quốc họ chấp nhận dâng hiến trọn vẹn mà không chút tính toán cho mình “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

“Đường lên thăm thẳm một chia phôi” bước chân của người lính Tây Tiến bước qua bao núi, bao đèo và cuộc hành quân càng tiến lên phía trước thì những bản làng mờ sương cũng mờ ảo và lùi dần về phía sau. Cuộc chiến đấu căng thẳng, khốc liệt lại thêm điều kiện sinh hoạt khó khăn, thiếu thốn khiến cho hành trình chiến đấu khó khăn, tử thần rình rập làm cho hi vọng trở về càng mong manh.

Hai câu thơ cuối càng khắc sâu hơn về tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của binh đoàn Tây Tiến:

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Mang theo mình tình yêu nước, lí tưởng xả thân cao đẹp, những người lính Tây Tiến muốn sống hết mình cho cuộc chiến đấu, cả khi hi sinh họ cũng mong muốn tan vào với hồn thiêng sông núi để lí tưởng, tình yêu ấy sẽ bất tử với thời gian. “Mùa xuân ấy” là mùa xuân năm 1947 khi binh đoàn Tây Tiến được thành lập, cũng có thể là mùa xuân sáng lạn của đất nước khi hòa bình.

“Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” những người lính dẫu hi sinh nhưng vẫn mang nguyện ước thật đẹp, hòa vào khí thiêng sông núi để mãi bảo vệ cho tổ quốc, non sông.

Nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng hàng loạt từ mang sắc thái trang trọng “không hẹn ước, chia phôi, hồn cùng giọng thơ nhẹ nhàng, mềm mại nên dù nói đến sự hi sinh, mất mát nhưng khổ thơ không gieo vào lòng người đọc những mất mát, bi lụy mà thấm đẫm chất lãng mạn, gợi ra niềm tin và tinh thần lạc quan.

Khổ thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về lí tưởng và tinh thần hi sinh cao đẹp của những người lính Tây Tiến đồng thời hoàn thiện cho bức chân dung đẹp đẽ, đáng trân trọng của những người lính trong kháng chiến.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Nghị Luận Việt Bắc 🌟 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Trên đây là tuyển tập những cách phân tích về hình tượng người lính Tây Tiến trong tác phẩm cùng tên của Quang Dũng! Cảm ơn bạn đã tham khảo tại scr.vn.

Viết một bình luận