Phân Tích Khổ 4 Đoàn Thuyền Đánh Cá ❤️️22+ Mẫu Hay Nhất ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Bài Văn Đặc Sắc Phân Tích Ngắn Gọn Và Đầy Đủ Đoạn Thơ Tại SCR.VN.
Dàn Ý Phân Tích Khổ 4 Đoàn Thuyền Đánh Cá
Việc lập dàn ý phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá rất quan trọng trong quá trình làm bài giúp các em học sinh nắm được những luận điểm trọng tâm. Tham khảo mẫu dàn ý sau đây:
I. Mở bài phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá:
- Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.
- Giới thiệu về nội dung cần phân tích – khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá
II. Thân bài phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá:
a. Phân tích khổ thơ:
- Nhà thơ đã liệt kê những loài cá quý của biển: cá nhụ, cá chim, cá đé cho thấy sự phong phú và quý giá của biển
- Biển không chỉ giàu mà còn đẹp thơ mộng: màu sắc lấp lánh của muôn loài cá (lấp lánh, đen hồng, vàng chóe) tất cả tạo nên tổng thể bức tranh sơn mài tuyệt đẹp của tạo hóa
- Nhân hóa “Cái đuôi e quẫy” kết hợp với các tính từ chỉ màu sắc: làm cho lời thơ thêm sinh động
- Phép so sánh “đuôi cá” với “ngọn đuốc”: hình ảnh so sánh thú vị giàu liên tưởng
- Nhà thơ gọi cá bằng một cách gọi rất dịu dàng-“em” ẩn chứa sự yêu mến với cá và biển cả quê hương
- “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”: Màn đêm trước biển như một sinh mệnh
- Đêm ở biển được miêu tả sống động, mang hơi thở của cuộc sống
- Thiên nhiên trên biển đêm thực sự rực rỡ sắc màu như một bức tranh sơn mài
- Như vậy tầm vóc của người và đoàn thuyền được nâng lên, hòa nhập vào kích thước của thiên nhiên, vũ trụ.
b. Đặc sắc nghệ thuật:
- Âm điệu mê say, phóng khoáng ngợi ca cuộc sống
- Xây dựng hình ảnh thơ bằng sự liên tưởng phong phú
- Cảm hứng lãng mạn xen lẫn hiện thực.
III. Kết bài phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá:
- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật trong khổ thơ.
- Nêu cảm nhận của bản thân.
Tham khảo trọn bộ ☀️ Sơ Đồ Tư Duy Đoàn Thuyền Đánh Cá ☀️ 11 Mẫu Vẽ Tóm Tắt
Phân Tích Khổ 4 Đoàn Thuyền Đánh Cá Hay Nhất – Mẫu 1
Tham khảo bài văn mẫu phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá hay nhất dưới đây để trau dồi và nâng cao kỹ năng nghị luận văn học.
Huy Cận là một trong số những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Trước Cách mạng thơ Huy Cận thường giàu chất triết lí và ngập tràn nỗi sầu nhân thế. Nhưng từ khi Cách mạng tháng Tám thành công thì thơ ông là bài ca dào dạt niềm vui về cuộc đời, là bài thơ mến yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống.
Ra đời năm 1958, trong chuyến đi thực tế của nhà thơ ra vùng mỏ Quảng Ninh, “Đoàn thuyền đánh cá” là một tác phẩm mang cảm xúc như thế. Bài thơ miêu tả một chuyến đi khơi của đoàn thuyền đánh cá; là một khúc ca lao động tập thể, khúc ca về vẻ đẹp của thiên nhiên; là niềm vui, niềm ngưỡng mộ của tác giả trước con người và cuộc sống mới. Để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc là vẻ đẹp của biển cả, của đoàn thuyền và con người được thể hiện qua khổ thơ thứ 4.
Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc “đen hồng”, “vàng chóe”… đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên. Mỗi loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé/Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Như có một hội rước đuốc trong lòng biển đêm sâu thẳm.
Mỗi khi: “Cái đuôi em quẫy”, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như sống động hẳn lên. Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa” – nghĩa là trong thơ có hình có ảnh. Quả đúng như thế, mỗi loài cá ở đây là bức kí họa thần tình. Chúng đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con người. Với họ – những người ngư dân này – cá là bạn, là “em”, là niềm cảm hứng cho con người trong lao động, và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ cho thi ca.
Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh. Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm:
“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Tiếng sóng vỗ dạt dào dâng cao hạ thấp là nhịp thở trong đêm của biển. Thế nhưng nhà thơ lại viết “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”. Thật ra, là sóng biển đu đưa rì rào va đập vào mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay của sao trời đang “lùa nước Hạ Long”. Đó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật.
Có thể nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên, vũ trụ. Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực của những hình ảnh lãng mạn trên. Bởi thế, bài thơ như một khúc tráng ca mà Huy Cận sáng tác để ca ngợi những con người lao động mới hay chính những con người lao động tự cất lên, tự viết lời cho khúc ca lao động của mình.
Khổ 4 trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã tái hiện thành công vẻ đẹp trù phú của biển cả quê hương và cuộc sống lao động đầy hăng say của nhân dân trong thời kỳ mới. Bên cạnh đó, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá còn là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động tập thể của người dân chài trong công cuộc xây dựng và tái thiết đất nước, đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào, lòng yêu nước của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên đất nước giàu đẹp.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá 🍀 15 Bài Hay
Phân Tích Khổ 4 Đoàn Thuyền Đánh Cá Ngắn Gọn – Mẫu 2
Đón đọc bài văn phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá ngắn gọn dưới đây với những ý văn súc tích và giàu ý nghĩa biểu đạt.
Đoàn thuyền đánh cá được coi là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống mới. Tác giả Huy Cận sau chuyền đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ có nhiều đặc sắc về mặt nghệ thuật. Bài thơ có hình ảnh tráng lệ về thiên nhiên và con người lao động thể hiện sự hòa giữa thiên nhiên và con người. Trong đó phải kể đến khổ thơ thứ 4 đặc sắc trong tác phẩm.
Không chỉ tinh tế về cảm xúc thẩm mĩ mà còn phong phú về vốn sống, Huy Cận hiểu khá tường tận về công việc của những người đánh cá. Đoàn thuyền đã tìm thấy đúng bãi cá và lưới đã được buông xuống khổ thơ thứ 4:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
Bằng nghệ thuật tưởng tượng lãng mạn, biển trời với bao nhiêu loài cá mang bao nhiêu màu sắc lung linh trở nên thật kì ảo dưới ánh trăng. Bằng biện pháp liệt kê và điệp từ “cá”, tác giả đã kể tên nhiều loài cá quý, thể hiện sự phong phú và đa dạng về chủng loại, bổ sung về chủng loại cá ở đoạn thơ tả đàn cá thu “dệt biển”.
Hình ảnh cá song là một nét vẽ tài hoa, vẩy cá đen, hồng lấp lánh trên biển nước lấp loáng ánh trăng như những ngọn đuốc giữa biển đêm thăm thẳm. Cái “quẫy đuôi” làm cho bức tranh thật sinh động cùng với nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho đoạn thơ đẹp như một bức tranh sơn mài vô cùng rực rỡ. Thiên nhiên được nhân hóa “thở”, cùng với cách gọi cá là “em” thể hiện tình yêu quê hương đất nước và tình yêu biển sâu nặng của tác giả.
Có thể nói, khổ thơ thứ 4 và cả bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một khúc ca vừa hào hứng, vừa phơi phới và khỏe khoắn, mạnh mẽ, kết hợp với sự vận động tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ khiến bài thơ bước khởi đầu trong cảm hứng mới về thiên nhiên đất nước và niềm tin ở cuộc sống mới đang sôi động đương thời. Bài thơ khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
Gợi ý cho bạn 🌳 Cảm Nhận Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌳 15 Bài Hay Nhất
Phân Tích Khổ 4 Đoàn Thuyền Đánh Cá Nâng Cao – Mẫu 3
Bài văn phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá nâng cao dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Huy Cận là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam, đặc biệt là trong phong trào Thơ mới. Thơ của ông luôn có một phong cách rất riêng với những nhà thơ khác. Tiêu biểu cho các tác phẩm của ông trong thời kì mới là bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Bài thơ là lời ca ngợi thiên nhiên và con người lao động Việt Nam thời kì đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đoàn thuyền đánh cá có những hình ảnh thơ vô cùng đẹp đẽ, đặc biệt là ở khổ thơ thứ 4.
Bài thơ là sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn. Thế nên, khi viết về biển cả, Huy Cận đã ca ngợi sự trù phú và giàu đẹp của thiên nhiên. Đến khổ thơ thứ 4, người đọc chúng ta thấy được Huy Cận dẫn tới một bức tranh khác. Bức tranh ấy vẫn là chủ đề thiên nhiên, thế nhưng thiên nhiên trong đó không chỉ có mỗi ánh trăng vàng, mặt biển xanh mà giờ đây nó còn lấp lánh đầy sắc màu khác nữa. Đó là sắc màu của những loài cá biển:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Quả là một bức tranh rực rỡ sắc màu và thật sống động. Nào là màu lấp lánh, “vàng chóe”, nào đen, nào hồng,… đủ màu đủ sắc, đủ thanh âm, thật đặc sắc biết chừng nào! Khổ thơ mở đầu bằng một loạt tên của những loài cá biển vốn là những loài cá đặc biệt chỉ có của vùng biển Hòn Gai, Quảng Ninh. Nào cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song – toàn là những loài cá đặc sản, thế mới thấy được biển cả Việt Nam giàu có, phong phú đến nhường nào! Không chỉ vậy, biển cả còn hiện lên thật đẹp khi:
“Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”
Cá song – một loài cá đặc sản của vùng biển Việt Nam, với đặc trưng là chiếc đuôi đen đỏ, giờ đây trong con mắt đa tình của người thi sĩ, nó bỗng trở thành một bó đuốc giữa lòng biển khơi. Bó đuốc ấy thắp sáng lên cả một vùng biển rộng tăm tối, để vùng biển ấy vụt sáng lên, óng ánh lên thứ ánh đuốc đen hồng. Chưa từng có trong thi ca một hình ảnh so sánh mĩ miều đến vậy!
Phải là người có trí tưởng tượng thật phong phú, đôi mắt quan sát thật tinh tường thì Huy Cận mới có thể nhận ra được cái thứ đặc trưng đặc sắc này của mỗi loài cá biển. Không chỉ thắp lên một ánh đuốc sáng bừng cả đại dương, trong mắt Huy Cận, những chú cá biển ấy như những cô em gái lém lỉnh, tinh nghịch, đang quẫy thật mạnh chiếc đuôi lóng lánh của mình trên mặt nước.
Và thế là, giữa mặt nước mênh mông, ánh trăng “vàng chóe” bắn lên không trung vừa đẹp lóng lánh, lại tươi mát lạ lùng. Ở đây Huy Cận đã dùng một tính từ tả màu sắc rất nổi bật “vàng chóe” – thứ ánh vàng vừa óng ánh lại vừa đặc biệt, nó đã làm câu thơ bật lên nghe rất âm vang. Kết lại khổ thơ, Huy Cận viết:
“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Đây là một hình ảnh nhân hóa, nhưng lại độc đáo một cách thật thú vị. Màn đêm đang thở, đang dùng những nhịp thở của mình để thổi vào không gian tĩnh mịch của biển cả bao la. Cái tiếng thở ấy của đêm phải chăng là âm thanh của tiếng nước thủy triều đang nhấp nhô nâng hạ? Từng đợt thủy triều cuốn vào bờ cát rồi lại chạy thật nhanh ra xa và Huy Cận như cảm thấy như màn đêm đang phập phồng hơi thở: sao lùa nước Hạ Long?
Những miền, những chiều không gian khác nhau nhưng lại được Huy Cận nối lại thành một cách liền mạch. Không gian của đêm, của biển, của sao trời và ánh trăng đã nối thành một điểm và ở giữa điểm đó là hình ảnh của những con người lao động đang miệt mài với công việc của mình.
Cả khổ thơ là lời ca ngợi của Huy Cận đối với sự giàu có của biển cả mênh mông. Bằng con mắt của nhà thi sĩ yêu đời, Huy Cận đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên cùng muôn vàn loài cá khác nhau thật đẹp đẽ. Bức tranh ấy vừa đầy màu sắc, nhưng lại không kém phần lung linh, sinh động biết bao.
Có thể nói, trong khổ thơ thứ 4, Huy Cận đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc. Cùng với đó, nghệ thuật mà Huy Cận sử dụng trong đoạn thơ trên như so sánh, liệt kê, nhân hóa cũng góp phần tạo nên đặc sắc cũng như thành công cho đoạn thơ.
Chỉ bằng khổ thơ ngắn ngủi, nhưng nó vẫn làm hiện lên thật rõ bút pháp tài hoa của Huy Cận. Nó đã thể hiện niềm cảm xúc dào dạt của ông trước cuộc sống mới của những người dân sau bao năm tháng chiến tranh. Ông thật xứng đáng là một trong những nhà thơ hiện đại tài năng bậc nhất nền thi ca Việt Nam.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Khổ 4 Đoàn Thuyền Đánh Cá Học Sinh Giỏi – Mẫu 4
Tham khảo bài văn phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Có ai đó từng cho rằng: một trong những nguồn gốc quan trọng cùa thơ ca chính là đời sống lao động của nhân dân. Điều đó hẳn đúng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. Bài thơ thực sự cẩt lên từ nhịp sông lao động hăng say, khoáng đạt của những người dân vùng chài. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp và mối giao hòa giữa con người và thiên nhiên trên cái nền lộng lẫy, tráng lệ của vũ trụ biển cả. Đoạn thơ thứ 4 trong bài thơ tiêu biểu cho điều đó:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Bài thơ được sáng tác trong chuyến đi công tác của Huy Cận tại vùng mỏ Hòn Gai, Quảng Ninh năm 1958 và được bắt nguồn từ cảm hứng ngợi ca công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của miền Bắc tự do độc lập. Với ý nghĩa đó, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là khúc tráng ca, ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất nước.
Khổ thơ nằm giữa bài thơ. Mở đầu bài thơ là hình ảnh hoàng hôn trên biển và những con thuyền đánh cá ra khơi. Người dân chài đến với biển lớn bằng một tinh thần lao động hăng say và tâm hồn khỏe khoắn “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Và biển cả bao la giàu có phóng khoáng dang tay đón họ. Hát khi ra khơi, hát cho cuộc hành trình và những người lao động còn hát để ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Các loài cá được kể tên: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đã nói lên sự phong phú, giàu có của biển. Không chi giàu mà biển còn rất đẹp. Cá song lấp lánh đuốc đen hồng. Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé. Dưới ánh trăng, cá song quẫy mặt nước. Thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyển động dưới ngọn đuốc.
Hình ảnh ấy cũng từng gợi hứng cho nhà thơ Chế Lan Viên viết nên câu thơ kì tài: “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”. Có thể nói, với hình ảnh cá song, hai nhà thơ không chỉ gặp nhau ở sức liên tưởng mà còn “cùng chí hướng” ở cảm hứng sáng tác: nghệ thuật bắt nguồn từ hiện thực, từ đời sống lao động của quần chúng nhân dân.
Đoạn thơ mang nhiều sắc ánh sáng: ánh sáng đen hồng, lấp lánh cùa cá song, ánh sáng vàng choé của trăng vỡ trên mặt nước. Những gam sắc ánh sáng hoà cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu. Trong niềm xúc động, nhà thơ như thấy đâu đây hình ảnh những nàng tiên cá thần kì và do đó, Huy Cận đã viết một câu thơ thật thi vị, hữu tình: “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”. Hình ảnh ấy càng được tôn lên bội phần bởi một liên tưởng tài tình:
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
Hình ảnh nhân hoá thật độc đáo. Đêm vẫn thư giãn và thủy triều lên xuống tạo ra hơi thở của đêm. Những đốm sao bạt ngàn in trên mặt nước, trôi dạt trên đầu những ngọn sóng triều đập vào bãi cát được ví như: “lùa nước Hạ Long”. Sao với nước cũng xuất hiện và tồn tại trong nhịp thỏ của đêm. Nối những miền không gian lại với nhau, thiên nhiên như bức tranh sơn mài tráng lệ và kỳ ảo.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kỳ miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung.
Đoạn thơ thứ 4 ngợi ca vẻ đẹp hùng tráng và thơ mộng của biển khơi, ngợi ca cuộc sống tưng bừng niềm vui xây dựng, bài thơ thực sự là tiếng hát cất lên từ hồn thơ Huy Cận để dâng tặng cuộc đời. Mang trong mình cả phong vị cổ điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cảm hứng vũ trụ hoà cùng dòng cảm hứng lãng mạn, bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa.
Tiếp theo tham khảo 🌹 Mở Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌹 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Khổ 4 Đoàn Thuyền Đánh Cá Facebook – Mẫu 5
Chia sẻ dưới đây bài phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá Facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
Nếu như trước cách mạng tháng Tám thơ Huy Cận chìm đắm vào nỗi sầu vương nhân thế thì sau cách mạng, thơ ông tràn ngập niềm yêu cuộc sống, ngợi ca cuộc đời và con người mới. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được tác giả sáng tác trong một lần đi thực tế tại Quảng Ninh là một tác phẩm như thế. Vẻ đẹp huy hoàng, kỳ vĩ của thiên nhiên cùng những người lao động mạnh mẽ, lạc quan tạo nên một bức tranh cuộc sống hài hoà, đẹp đẽ. Khổ thơ thứ 4 trong bài đã thể hiện rõ nhất bức tranh ấy.
“Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”
Phải chăng thiên nhiên cũng thấu hiểu được sự vất vả của con người mà thương họ, bạn phát cho họ nguồn cá tôm dồi dào đến thế. Thủ pháp liệt kê được tác giả vận dụng để thể hiện sự phong phú, đa dạng của các loài cá trên biển: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song,….. Ta như thấy được niềm vui của người lao động khi bắt gặp luồng cá đông đến vậy.
Trong màu sắc dịu dàng của ánh trăng đêm giữa biển khơi, những chú cá hiện lên thật lung linh, đẹp đẽ. Cá song “lấp lánh đuốc đen hồng” nổi bật trong làn nước của biển đêm. Nghệ thuật nhân hoá “em” như một cách gọi đầy trìu mến và thân thương của người lao động dành cho bao chú cá biển khơi.
Động từ “quẫy” kết hợp với cụm danh từ “trăng vàng choé” càng làm cho khung cảnh lao động trong biển đêm thêm sinh động, nên thơ. Ánh trăng đêm rẽ nước cùng thuyền vượt biển, trăng mang ánh sáng huyền diệu xua tan tăm tối của biển đêm, sáng soi cho con người lao động. Trăng cùng cá tôm vẽ nên nét đẹp lung linh, mơ màng của biển cả.
“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Nghệ thuật nhân hoá một lần nữa được tác giả vận dụng để miêu tả thiên nhiên “đêm thở”, “sao lùa”. Cho thấy sự liên tưởng phong phú và cảm xúc dạt dào toát ra qua ngòi bút của người thi sĩ.
Khổ thơ thứ 4 trong bài Đoàn thuyền đánh cá mang cả những yêu thương, ước vọng và niềm tin của tác giả dành cho người dân chài nói riêng và dành cho quê hương, đất nước nói chung. Hồn thơ khoẻ khoắn, khoáng đạt của Huy Cận đã mang đến cho người đọc bao cảm xúc tự hào về con người và thiên nhiên Việt Nam.
Chia sẻ 🌼 Kết Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích 4 Khổ Đầu Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 6
Phân tích 4 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá là một trong những nội dung đặc sắc của tác phẩm. Tham khảo bài văn mẫu phân tích 4 khổ thơ đầu Đoàn thuyền đánh cá dưới đây để chắt lọc những ý văn hay.
Nhà thơ Huy Cận sinh ra tại một vùng quê nghèo Hà Tĩnh, trong cuộc đời của mình ông đã cống hiến trọn vẹn cho công cuộc chiến đấu của đất nước và dành tình yêu thiết tha cho thơ ca dân tộc. Bởi vậy mà Huy Cận được xem là một tác giả tiêu biểu của nền văn học Việt Nam.
Nếu trước cách mạng, thơ ông mang nặng nỗi buồn da diết, nỗi sầu nhân thế của những kiếp người nhỏ bé lênh đênh thì sau cách mạng, thơ ông mang sức sống mới với những hy vọng, tin yêu, những cảm quan đẹp đẽ, tích cực hơn với đời sống, đặc biệt với những người dân trong cuộc sống lao động.
Bài thơ ” Đoàn thuyền đánh cá” in trong tập ” Trời mỗi ngày lại sáng” là một tác phẩm và thể hiện rõ phong cách thơ ông sau cách mạng được nhiều người biết đến, tác phẩm được viết nhân một dịp Huy Cận có chuyến đi thực tế ở vùng đất mỏ Quảng Ninh, vào những ngày miền Bắc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đây được xem là một bài thơ đầy ánh sáng, đó là ánh sáng của thiên nhiên của vũ trụ bao la, ánh sáng của sự trù phú, thịnh vượng của biển cả, là ánh sáng của niềm tin, của ý chí và nghị lực phi thường bền dẻo của những người lao động. 4 khổ thơ đầu tác phẩm như một khúc ca khải hoàn về những người dân chài miệt mài lao động, dẫu khó khăn vẫn hăng say trong công việc của mình.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Khi màn đêm dần buông xuống, thiên nhiên cũng nghỉ ngơi sau ngày dài lao động, cũng là lúc những người dân chài ra khơi, công việc thường ngày quen thuộc. Lúc này đây, vũ trụ, biển cả là ngôi nhà thứ hai của họ, dang tay chào đón những con người lao động vượt sóng, vượt gió ra khơi. Cánh buồm căng cùng gió mang theo câu hát tâm tình, câu hát cho bao hy vọng, bao niềm thương của người với biển cả
“Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”
Lời hát cất cao giữa trời biển mênh mông, tiếng hát hào sảng ngợi ca sự giàu có của mẹ biển cũng là khúc hát mời gọi từng đàn cá đến dệt lưới, cầu mong cho một chuyến đi bội thu với trời yên ,biển lặng. Trong câu hát gửi gắm tất cả bao nỗi niềm của người dân, sự phấn chấn, hứng khởi và cả những niềm vui lao động trong công cuộc chinh phục thiên nhiên của con người.
Dường như trong những lời ca ấy chất chứa “muôn luồng sáng” tuyệt diệu nhất dệt những làn sóng biển thành muôn vàn điều đẹp đẽ. Một khí thế ra khơi đường hoàng, hăm hở, hứa hẹn một chuyến đi đầy bội thu với đầy ắp những cá tôm trở về.
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Giữa biển cả mênh mông, cánh buồm thuyền tuy nhỏ bé nhưng không vì thế mà yếu ớt, bị gió biển làm lụng lay. Bằng sự điều khiển, bằng sức mạnh của người lao động, thuyền và người làm chủ trước thiên nhiên kỳ vĩ. Thuyền bây giờ đây không công nhỏ bé ,đơn độc mà trở nên lớn lao, hài hoà, sánh ngang với vũ trụ bao la. Thuyền lướt băng băng trên từng đợt sóng, lòng người phơi phới hăng say trong công cuộc kiếm tìm những luồng cá của mình.
Những người dân chài ra khơi xa, bằng kinh nghiệm của mình, dàn đan những thế trận hiểm nguy lùa cá vào lưới, một công việc chứa đựng những vất vả và cần sự tỉ mỉ, vượt khó, tập trung cao độ. Họ làm việc không ngừng nghỉ và hăng say cho thấy cuộc chinh phục thiên nhiên của những người nghệ sĩ chốn biển cả thật đáng khâm phục.
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
Biển cả quê hương giàu đẹp và trù phú với biết bao loài cá. Giữa ánh trăng sáng cùng mặt nước long lanh, những nàng cá thoả sức vẫy vùng, phô trọn nét đẹp uyển chuyển của cơ thể mình. Cá song lấp lánh như ánh đuốc hồng, cái đuôi quẫy tung tăng trong làn nước óng ánh, tiếng đêm như thở theo từng nhịp làm việc của người lao động, theo từng nhịp của thời gian.
Trăng, nước, mây trời, và lòng người như hoà làm một, cùng nhau lao động, cùng nhau tâm tình, tất cả tạo nên một vẻ đẹp đầy sức sống, dù vất vả nhưng ta không hề thấy sự mệt mỏi hay tiếng thở than nào, điều đó thực, quá đỗi quý giá biết bao. Dường như, ta còn thấy được ở đây là những sự biết ơn, sự trân trọng của người lao động đối với mẹ thiên nhiên, biển cả cũng như lòng mẹ vậy, bao dung, chở che cho ta vượt những hiểm nguy, mang đến cho ta bao cá tôm, nuôi lớn bảo thế hệ dân chài lưới.
4 khổ thơ đầu đã vẽ nên một bức tranh đoàn thuyền đánh cá của những người làm động làm chủ cuộc sống mới đầy ý vị và giàu chất suy tưởng. Giọng điệu đoạn thơ vừa khoẻ khoắn vừa lãng mạn, bay bổng, hào hứng mang đến cho người độc những dòng xúc cảm khó tả, thêm tin yêu cuộc sống, tin yêu những chân giá trị vững bền của đời sống lao động.
Giới thiệu tuyển tập 🌹 Phân Tích Đoàn Thuyền Đánh Cá Huy Cận 🌹 19 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích 4 Khổ Giữa Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 7
Khi viết phân tích 4 khổ giữa bài Đoàn thuyền đánh cá, các em học sinh cần nắm được những giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. Gợi ý phân tích 4 khổ tiếp bài Đoàn thuyền đánh cá sẽ là nội dung tham khảo cần thiết trong quá trình làm bài. Đón đọc văn mẫu phân tích 4 khổ giữa Đoàn thuyền đánh cá dưới đây:
Huy Cận (1919-2005), tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê tại làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông có rất nhiều tác phẩm xuất sắc, trước cách mạng, ông là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới, sánh ngang với các ngôi sao chói lọi nhất trên thi đàn lúc bấy giờ như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính,…
Các tác phẩm chính phải kể đến bao gồm tập thơ Lửa thiêng, Vũ trụ ca hay Kinh cầu tự, nội dung bao trùm là nỗi buồn có tầm vóc vũ trụ, mênh mang, bao la, bát ngát có phần xa rời với đời sống. Sau cách mạng tháng 8, Huy Cận dần hòa nhập với cuộc sống mới, hăng hái cho ra đời những tác phẩm tập trung ca ngợi vẻ đẹp của con người trong lao động, con người làm chủ xã hội, làm chủ hoàn cảnh, làm chủ thiên nhiên với âm hưởng vui tươi, lạc quan, phấn chấn, say mê. Tác phẩm chính phải kể đến Trời mỗi ngày lại sáng.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác vào tháng 10/1958 sau khi nhà thơ có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng biển Hạ Long, Quảng Ninh. Tác phẩm về sau được in trong tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng (1858). Nhịp bài thơ là hành trình của đoàn thuyền đánh cá theo nhịp tuần hoàn của vũ trũ từ lúc hoàng hôn cho đến lúc bình minh.
Có thể nhận xét rằng nếu như Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là bài ca về tinh thần quả cảm, về ý chí và trái tim thiết tha đối với miền Nam của những người lính chiến trên tiểu đội xe không kính, thì Đoàn thuyền đánh cá lại là khúc ca hùng tráng về công cuộc lao động của con người trong quá trình xây dựng và đổi mới đất nước ở miền Bắc trong những năm đầu sau giải phóng. Trong bài thơ, một trong những hình ảnh đẹp và ấn tượng nhất đó là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng.
Nếu ở hai khổ thơ đầu bài là tình cảm náo nức say mê của con người trước cảnh đoàn thuyền giăng buồm biển ra khơi thì ở bốn khổ thơ tiếp theo tác giả Huy Cận tập trung thể hiện khúc ca đánh cá trên biển thật lãng mạn, vừa thi vị vừa hào hùng, mạnh mẽ với hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ngập ánh trăng vàng soi.
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng,
Lướt giữa mây cao với biến bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Cảm hứng của nhà thơ đã men theo hình ảnh đoàn thuyền đánh cá để bộc lộ vì vậy nó rất chân thực, Huy Cận đã nhập thân vào những người lao động đánh cá để cùng bày tỏ nỗi niềm suy nghĩ và nội tâm của mình. Cách nói “Thuyền ta” bao hàm cả niềm tự hào của nhà thơ về sự gắn bó thân thiết với con thuyền, về cảm giác được làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống. Con thuyền mà nhà thơ miêu tả có những nét hết sức kỳ vĩ, lớn lao, thơ mộng và thi vị, đó là con thuyền được lái bằng sức gió, lấy ánh trăng làm buồm.
Cứ tưởng tượng rằng đoàn thuyền ra khơi vào một đêm trăng sáng, trên trời có ánh trăng sáng tỏ phủ xuống đoàn thuyền một cái màu nhàn nhạt tươi mát như dát vàng, lấp lánh trên cánh buồm, khiến nhà thơ có cảm nhận cánh buồm của đoàn thuyền được dệt nên từ ánh trăng. Gió vừa là động lực để khiến buồm căng đẩy thuyền ra khơi xa vừa đóng vai trò là người cầm lái cho con thuyền.
Dường như con thuyền ấy không còn lướt trên mặt biển mà đang lướt giữa “mây cao với biển bằng”, động từ “lướt” khiến ta liên tưởng đến tốc độ đi của con thuyền, cái nhịp đi ấy là một nhịp đi khá thanh thản, nhẹ nhàng và nhanh chóng. Vốn dĩ khi ra trước biển khơi mênh mông con thuyền sẽ trở nên mong manh nhỏ bé nhưng chỉ bằng vài dòng thơ Huy Cận đã đưa con thuyền lên tầm vóc mới, là con thuyền nổi bật giữa thiên nhiên, mượn sức thiên nhiên mà tiến về khơi xa trong phong thái hiên ngang, hùng dũng.
Đoàn thuyền ra giữa biển khơi “dò bụng biển” cho thấy con người đang tìm kiếm khai thác nguồn tài nguyên vô tận của thiên nhiên, đoàn thuyền và con người đang được làm chủ thiên nhiên hùng vĩ, đang nắm nó trong lòng bàn tay mà định đoạt. Biển cả lúc này đây không còn mênh mông, bao la, đáng sợ nữa mà trở thành nơi để con người lao động, là nơi cung cấp nguồn sống cho con người.
Trong đêm trăng thơ mộng ấy, đoàn thuyền đánh cá “Dàn dan thế trạn lưới vây giăng” trong đôi mắt nhìn của Huy Cận, thì công cuộc lao động không đơn giản chỉ là những công việc tay chân bình thường mà nó là cả một cuộc chiến, đòi hỏi cân sức cân tài, thi triển binh pháp, chiến đấu với thiên nhiên để thu được những thành quả tốt đẹp nhất.
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
Tác giả dùng thủ pháp liệt kê tên các loài cá nhằm khơi gợi cho ta liên tưởng về sự giàu có, phì nhiêu nơi biển cả, cùng với đó là vẻ đẹp của thiên nhiên biển khơi đầy màu sắc rực rỡ. Câu “Cá đuôi em quẫy trăng vàng chóe” là một thủ pháp nghệ thuật nhân hóa để qua đó làm nổi bật vẻ đẹp lấp lánh ánh trăng đang phát ra từ đuôi của những con cá đang quẫy, một mặt lời thơ gợi được cái ánh trăng lấp lánh, mặt khác lại gợi được vẻ đẹp của những con cá.
Trong dòng thơ cuối “Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long”, màn đêm vẫn tĩnh tại, vô hình bỗng trở nên có sức sống có linh hồn qua cái hơi thở của con người cũng hồi hộp, cũng bồi hồi, vì vậy cảnh thơ càng trở nên thi vị và lãng mạn biết mấy. Hóa ra những con người lao động trên biển cả mênh mông ấy không chỉ biết vùi mình vào công việc mà họ cũng tinh tế để cảm nhận được cái vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng như hơi thở của thiên nhiên vào buổi đêm trăng sáng.
“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”
Việc sử dụng liên tục đại từ nhân xưng “ta” cho thấy Huy Cận đã thực sự nhập mình vào những người ngư dân, trở thành một phần không thể thiếu được của đoàn người đang hối hả say mê lao động trên biển cả.
Dường như cảnh lao động ấy giống như một bài ca đầy đắm say, nhịp nhàng, ngay cả thiên nhiên cũng như đang hòa nhịp ngân vang, thế nên nhà thơ mới viết câu “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao” tưởng tượng như ánh trắng chiếu xuống mặt biển dập dềnh sóng nước, sóng lại vỗ vào mạn thuyền như cánh trăng đang gõ vào mạn thuyền để xua cá vào lưới, đây là hình ảnh giàu chất thơ, chất thi vị và cũng giàu nhạc tính.
Hai câu thơ tiếp theo “Biển cho ta cá như lòng mẹ/Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”, thể hiện sự biết ơn sâu sắc đối với nguồn tài nguyên mà biển cả đã ban tặng cho con người, ông ví biển cả như lòng mẹ bao la yêu thương con người như những đứa con, chắt chiu từng chút tinh hoa quý giá để nuôi nấng con người.
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Từ “sao mờ” gợi tả cảnh đêm đã sắp tàn, điều đó thôi thúc những người ngư dân nhanh chóng thu lưới để trở về đất liền. Hình ảnh “kéo xoăn tay chùm cá nặng” là biểu hiện của một ngày kéo lưới bội thu. Lúc này đây bình minh đã rạng đông, những người lao động thu lưới, xếp buồm để trở về nhà cho kịp trời sáng. Những câu thơ giàu tính nhạc họa, thi vị, trong đó chất chứa niềm vui, niềm hân hoan với mẻ cá đầy, nặng của người lao sau một đêm dài vất vả đã được Huy Cận tái hiện một cách tinh tế và đặc sắc.
Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trong đêm trăng trong các khổ thơ 3, 4, 5 và 6 là một hình ảnh duy mỹ và thi vị mà thông qua đôi mắt nhìn lãng mạn, lạc quan đầy vui tươi của Huy Cận, ta đã thấy một khung cảnh lao động hùng tráng của con người. Con người lao động mạnh mẽ dường như đã hòa chung một nhịp với thiên nhiên tươi đẹp và được thiên nhiên chở che, bao dung như tình cảm của người mẹ đối với những đứa con bé bỏng.
Mời bạn khám phá thêm 💕 Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 💕 10 Mẫu Ngắn Gọn Và Chi Tiết
Phân Tích 4 Khổ Cuối Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 8
Để hoàn thành tốt đề văn phân tích 4 khổ cuối bài Đoàn thuyền đánh cá, các em học sinh cần trau dồi cho mình những ý văn hay. Tham khảo bài văn mẫu phân tích 4 khổ cuối đoàn thuyền đánh dưới đây:
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam, đồng thời cũng là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới. Thơ ông dồi dào cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ, và con người lao động. “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những bài thơ đặc sắc của Huy Cận, khi bằng bút pháp lãng mạn bay bổng, thi phẩm đã tái hiện sự hài hòa của vẻ đẹp thiên nhiên và con người lao động, qua đó bộc lộ niềm tự hào, niềm vui của tác giả trước cuộc sống mới. “Đoàn thuyền đánh cá” quả thực đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
“Đoàn thuyền đánh cá” ra đời vào năm 1958 in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”, khi đó miền Bắc đang bắt tay vào xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi này hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước và con người lao động, niềm vui trước cuộc sống mới.
Bài thơ có bảy khổ thơ, được triển khai theo hành trình một chuyến ra khơi. Đó là cảnh đoàn thuyền ra khơi, tiếp nối là cảnh đánh cá trên biển và cảnh đoàn thuyền trở về. Hoạt động đánh bắt cá trong đêm trăng và cảnh đoàn thuyền trở về khi rạng đông được khắc hoạ sinh động qua 4 khổ cuối trong bài thơ.
Công việc lao động nhọc nhằn của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy hứng khởi giữa thiên nhiên. Và người lao động vừa hăng say làm việc vừa chiêm ngưỡng vẻ đẹp của biển cả với bao loài cá:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Nghệ thuật liệt kê “cá chim, cá nhụ, cá đé, cá song” đã phát huy triệt để tác dụng để ngợi ca sự giàu có, thật nhiều tài nguyên của biển khơi đất nước. Biển cả không chỉ giàu mà còn rất đẹp, với ngọn “đuốc đen hồng” cá song đang lao đi trong biển cả dưới ánh trăng lấp lánh. Tác giả đã rất tinh tế khi phát hiện ra chấm tròn đen, hồng trên thân cá song tựa như những ngọn đuốc rực rỡ. Tô thêm vẻ đẹp nơi biển cả, chính là ánh trăng vàng chóe, ánh trăng như dát vàng trên mặt nước để cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra.
Trí tưởng tượng của Huy Cận là vô hạn với tiếp một hình ảnh nhân hóa, “đêm thở”, “sao lùa”. Sao trên trời in hình xuống dòng nước, những con sóng đánh lên, mà tưởng như sao đang lùa dưới đáy đại dương như một sinh vật đang di chuyển, tiếng rì rào của sóng biển chính là tiếng thở của đêm.
Sau khi thả lưới và đợi chờ, người ngư dân bắt đầu gõ thuyền, dồn cá vào lưới trong tiếng hát ngân vang:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”
Đó là tiếng hát khỏe khoắn, vang xa đầy sự lạc quan, niềm vui phấn khởi đã tạo động lực cho người dân chài gọi cá đến mắc lưới. Thiên nhiên dường như cũng thức dậy góp phần sức lực trợ giúp con người. Trong đêm trăng sáng, vầng trăng in mình trên mặt nước, sóng xô bóng trăng vào mạn thuyền khiến nhà thơ tưởng tượng mặt trăng đang giữ nhịp cho tiếng gõ thuyền đều đặn. Hòa với khúc ca lao động, người dân chài cũng cất khúc ca biết ơn, tri ân với biển cả:
“Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Biển được nhân hóa như lòng mẹ ân nghĩa, thủy chung bao la. Biển cho con người cá, đem đến cuộc sống ấm no bao đời nay, lời hát đã thể hiện tình cảm biết ơn chân thành, sâu sắc của người ngư dân với biển cả quê hương.. Khi sao mờ dần, màn đêm dần dần nhường chỗ cho ánh sáng của một ngày mới thì cũng là lúc người ngư dân bắt đầu kéo lưới, thu hoạch thành quả:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
Chi tiết đặc tả “ta kéo xoăn tay” đã khắc họa trực tiếp vẻ đẹp khỏe khoắn của con người lao động miền biển. Con người như đang khẩn trương chạy đua với thời gian, những động tác kéo lưới rất căng, rất khỏe, kéo thật mạnh, thật đều tay để thu hoạch được những thành quả tốt nhất. Thành quả ấy chính là “chùm cá nặng”, một hình ảnh tượng trưng cho mùa cá bội thu, một thành quả vô cùng xứng đáng với công sức của những người ngư dân.
Cùng lúc ấy, từ phía chân trời bắt đầu bừng sáng, những con cá quẫy dưới ánh sáng rạng đông và lóe lên màu hồng gợi khung cảnh thật rực rỡ, huy hoàng. Phải chăng biển bạc, biển vàng đang ban tặng cho tinh thần lao động miệt mài, hăng say, không biết mệt mỏi của người dân làng chài?
Bài thơ kết thúc bằng cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về bến, sau một ngày lao động. trên biển tràn ngập âm thanh tiếng hát của những người ngư dân:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Câu hát vang lên như một điệp khúc suốt từ đầu tới cuối bài thơ, suốt hành trình của người ngư dân. Âm hưởng lời thơ trở nên mạnh mẽ hơn, khỏe khoắn hơn, vút cao bay bổng trong niềm hứng khởi khi tác giả thay chữ “cùng” thành chữ “với”. Tác giả sử dụng bút pháp nhân hóa kết hợp phóng đại khi đặt “đoàn thuyền” sánh ngang, tham gia vào “cuộc đua” với mặt trời. Trong cuộc đua ấy, hình ảnh con người được nâng cao, tầm vóc lớn lao sánh ngang vũ trụ.
Đây cũng chính là nét thay đổi trong phong cách sáng tác Huy Cận từ trước Cách mạng tháng Tám đến thời kỳ miền Bắc đã giành hòa bình, đang xây dựng xã hội chủ nghĩa. Khi con người về bến, mặt trời cũng bắt đầu một ngày mới. Những tia nắng hồng ban mai khiến mắt cá lấp lánh như những mặt trời nhỏ trải dài bờ biển đến muôn dặm. Bằng lao động, người dân làng chài đã viết nên bài ca chiến thắng, bài ca cuộc đời mới tươi đẹp.
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ đặc sắc thể hiện rõ phong cách của Huy Cận. Bằng bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, bay bổng, liên tưởng phong phú, sáng tạo, trong 4 khổ cuối của tác phẩm, nhà thơ đã ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hài hòa với vẻ đẹp con người lao động, tạo nên khúc tráng ca hùng tráng, mĩ lệ. Qua đó, Huy Cận đã thể hiện tấm lòng ca ngợi, niềm tự hào về con người mới, cuộc sống mới trong thời kì miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Khổ 3 Đoàn Thuyền Đánh Cá 🍀 12 Bài Văn Hay
Phân Tích Khổ 3 4 Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 9
Làm văn phân tích khổ 3 4 bài Đoàn thuyền đánh cá sẽ giúp các em học sinh đi sâu phân tích những hình ảnh và chi tiết thơ. Tham khảo bài văn mẫu phân tích khổ 3 4 Đoàn thuyền đánh cá dưới đây:
Huy Cận là một đại biểu xuất sắc của phong trào thơ mới và là một nhà thơ lớn của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông có nhiều tác phẩm như lửa thiêng, vũ trụ ca, hạt lại gieo… trong đó có bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc về thiên nhiên, vũ trụ với cảm xúc của người lao động.
Trong khổ thơ thứ 3, bằng tài năng sử dụng bút pháp lãng mạn kết hợp với độ liên tưởng phong phú của nhà thơ mà bức tranh lao động của con người hiện lên vừa thực lại vừa ảo:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Thiên nhiên, đất trời hòa quyện cùng với con người tạo nên một hình ảnh tuyệt đẹp trong liên tưởng của tác giả. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” là những hình ảnh đẹp mang đậm chất hiện thực. Mỗi một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá cũng như tham gia đánh trận, cùng phải dàn binh, bố trận, cũng phải có vũ khí, cũng phải thăm dò, cũng phải đối chọi với thiên nhiên đất trời nơi bão bùng, sóng lớn…
Một trận chiến với cá cũng khiến cho con người phải suy nghĩ, phải sống chiến đầu với thiên nhiên nhưng cũng phải hòa quyện cùng với thiên nhiên để tạo ra một tâm thế tốt, một cảnh sắc hài hòa và có nhịp điệu trong cuộc sống.
Trong khổ thơ nối tiếp cuộc sống lao động của người lao động, tác giả đã chuyển tiếp sang miêu tả cảnh biển giàu có nguồn cá.
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
Có rất nhiều loại cá: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song… biện pháp liệt kê đã nhấn mạnh sự giàu có của biển cả. Lòng đại dương mênh mông rộng lớn, là nơi chứa những nguồn hải sản quý giá. Những hình ảnh chân thực mà ảo diệu đến tinh tường, dưới ánh trăng lấp lánh, dưới mặt nước phản chiếu lung linh, những chú cá quẫy đuôi mình để vùng vẫy, để tự do bơi lội thoải mái cũng đã mắc giăng mẻ lưới của con người.
Tiếng “đêm thở”, tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa hình ảnh của màn đêm. Tiếng thở ấy, có lẽ là tiếng thở của chính những con người lao động vất vả trên mặt biển để mang về những sản phẩm sau một đêm dài lênh đênh nơi sóng nước. Màn đêm tĩnh mịch hòa cùng tiếng thở của con người tự như chính màn đêm đang thở vậy. Một hình ảnh rất đẹp mà lại rất gần gũi.
Với bút pháp nghệ thuật kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, tác giả đã khái quát hóa hình ảnh người lao động qua 2 khổ thơ 3 và 4 làm cho người đọc như đang chứng kiến cảnh lao động của người dân vùng chài. Hình ảnh đẹp và kỳ vỹ, giọng văn tinh tế và lôi cuốn, bài thơ đã tạo chất nhạc, đã tạo nên khí thế cho người lao động thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhà thơ đưa ta từ những hình ảnh này đến những hình ảnh khác vừa đẹp mà lại phong phú và hấp dẫn. Không khí lao động hang say cùng với cảnh đẹp của thiên nhiên đất trời mang lại một nguồn sống mới cho con người trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa. Bài thơ là động lực giúp cho người lao đọng vươn lên chính mình, vươn lên trong cuộc sống, xây dựng cuốc sống tốt đẹp, hạnh phú và gặt hái được nhiều thành công.
SCR.VN tặng bạn 💧 Phân Tích Khổ 5 Đoàn Thuyền Đánh Cá 💧 13 Bài Văn Hay
Phân Tích Khổ 4 5 6 Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 10
Đón đọc bài văn phân tích khổ 4 5 6 Đoàn thuyền đánh cá dưới đây để nắm được cho mình những định hướng làm bài cụ thể nhất.
Năm 1958, trong không khí phấn khởi thi đua của toàn miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà thơ Huy Cận trong một dịp đi thực tế ở vùng biển Quảng Ninh đã sáng tác bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Với âm hưởng vừa khỏe khoắn, vừa sôi nổi lại vừa phơi phới bay bổng, bài thơ đã ca ngợi sự giàu đẹp của vùng biển quê hương và tinh thần lao động hăng say, phấn khởi của người lao động được giải phóng hăng hái làm việc cho đất nước.
Với đôi mắt quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và nghệ thuật điêu luyện, trong các khổ thơ 4, 5 và 6, nhà thơ đã vẽ ra một khung cảnh lao động hoà hợp với thiên nhiên tuyệt đẹp:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng của nhà thơ dẫn ta vào một cõi huyền ảo của biển trời với bao nhiêu loài cá mang màu sắc lung linh kì ảo dưới ánh trăng. Nghệ thuật liệt kê và điệp từ “cá” như khắc họa rõ từng đường nét, góp phần làm biển trở nên thơ mộng vô cùng. Cách diễn tả như vậy giúp ta cảm nhận được cái giàu đẹp của biển, vì tất cả ánh sáng, màu sắc đều là của cá và do cá tạo nên.
Con cá song là một nét vẽ tài hoa. Vảy đen, hồng, lấp lánh trên biển, chan hòa trong ánh trăng “vàng choé”. Cái đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối màu tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ.
Bầy cá như những nàng tiên trong vũ hội. Đêm được nhân hóa như một sinh vật của đại dương; “Đêm thở”. Nhịp thở của đêm là tiếng sóng vỗ rì rào, cao thấp. Sao phản chiếu lấp lánh trên từng đợt sóng “lùa”, mặt nước càng làm tiếng thở có vẻ kỳ ảo. Đó là một nét liên tưởng sáng tạo và vô cùng độc đáo. Lao động trong một khung cảnh nên thơ như vậy quả là thú vị.
Cùng với chất lãng mạn, bay bổng, người dân chài cất lời hát tả lại công việc lao động với niềm tự tin và yêu đời mãnh liệt:
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Bài hát căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi, bài hát lại vang lên trong công việc, biến lao động cực nhọc thành niềm vui. Lời ca gọi cá vào lưới nâng cao thêm chất thơ mộng của bức tranh. Người dân chài gõ thuyền xua cá vào lưới, ng đây không phải là con người mà ánh trăng: trăng in xuống dòng nước, sóng vỗ vào mạn thuyền thành hình ảnh “nhịp trăng” gõ thuyền.
Hiện thực được trí tưởng tượng sáng tạo thành hỉnh ảnh lãng mạn, giàu chất thơ. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển cả và con người là cái nhìn tươi tắn, lạc quan, ông như hòa nhập vào công việc, vào con người, vào biển cả. Từ đó, cảm xúc dâng trào, không thể không cất lên tiếng hát ca ngợi biển:
“Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”
Biển ta giàu đẹp. Biển ta bao dung. Biển đem hạnh phúc đến cho con người. Biển hào phóng cho con người nhiều tôm cá, muối, hải sản… Biển như lòng mẹ đã nuôi sống dân chài từ bao đời nay. Giọng thơ tự nhiên, tha thiết, chân thành có âm hưởng ca dao. Hình ảnh so sánh “như lòng mẹ” quen thuộc, có sức truyền cảm mãnh liệt, thể hiện tình yêu biển, yêu đời chan chứa của những con người gắn bó với biển từ bao đời, bao thế hệ.
Bóng đêm đang dần tàn, một đêm trôi qua thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say. Trên bầu trời, sao đã thưa và mờ. Ngày đang đến, nhịp độ lao động ngày càng khẩn trương, cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Nhịp thơ 2-2-3 phù hợp với nhịp lao động khẩn trương. Hình ảnh “kéo xoăn tay” miêu tả dáng người dân chài mạnh mẽ, nghiêng mình trụ vững, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn trông mới đẹp làm sao! Trong cái “chùm cá nặng”như có sức ẩn chứa bao niềm vui tươi, sung sướng của người ngư dân trước thành quả mà họ đã tốn bao công sức mới thu hoạch được.
Lưới kéo lên, những tia nắng sớm chiếu trên khoang” cá đầy làm lấp lánh màu sắc. Khoang thuyền đầy ắp cá. Màu của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá “lóe rạng đông”. Nghệ thuật dùng từ của tác giả thật điêu luyện, sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới ánh bình minh đều được miêu tả tuyệt đẹp . Những câu thơ có màu sắc rực rỡ, nó mang lại thi vị, vẻ hấp dẫn riêng cho việc kéo lưới bình thường. Câu thơ cuối nhẹ thơ gọn, dứt khoát kết thúc một cuộc hành trình gian nan.
Lời thơ giản dị biểu hiện niềm thư thái của con người: lưới xếp nghỉ, kéo buồm lên, trở về trong buổi bình minh. “Nắng hồng” không những khắc họa được vẻ đẹp tươi sáng của bầu trời mà còn thể hiện được lòng yêu đời, yêu thiên nhiên. Màu hồng của một ngày mới, một cuộc đời mới đang chào đón mọi người.
Đoàn thuyền đánh cá thể hiện nguồn cảm hứng lãng mạn ngợi ca biển cả lớn lao, giàu đẹp, ngợi ca nhiệt tình lao động vì đất nước giàu đẹp của những người lao động mới. Các khổ thơ 4, 5 và 6 đã khắc hoạ thành công hình ảnh đẹp đẽ, tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và người lao động, đồng thời bộc lộ niềm tự hào của tác giả trước sự hồi sinh của đất nước và cuộc sống con người.
Tiếp tục tham khảo 🌟 Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌟 10 Mẫu Đặc Sắc Nhất