Phân Tích Chí Phèo Thức Tỉnh [22+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất]

Phân Tích Chí Phèo Thức Tỉnh ❤️️ 22+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Những Bài Viết Đặc Sắc Và Ấn Tượng Nhất Về Nhân Vật Chí Phèo.

Dàn Ý Phân Tích Chí Phèo Thức Tỉnh

Lập dàn ý phân tích Chí Phèo thức tỉnh sẽ giúp định hướng cho các em học sinh bố cục và hệ thống luận điểm chính để triển khai bài viết, tham khảo mẫu dàn ý chi tiết như sau:

I. Mở bài phân tích Chí Phèo thức tỉnh:

  • Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo
  • Đưa ra vấn đề cần phân tích: Sự thức tỉnh của Chí Phèo:

II. Thân bài phân tích Chí Phèo thức tỉnh:

1.Khái quát về hoàn cảnh Chí Phèo trước khi gặp Thị Nở:

  • Chí Phèo đã từng là một người nông dân lương thiện
  • Sau khi bị Bá Kiến hãm hại, Chí Phèo bị bắt vào tù
  • Nhà tù Thực dân đã biến Chí từ một người nông dân 20 tuổi lương thiện trở thành một người thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính:
  • Làm tay sai cho Bá Kiến
  • Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo bị coi là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”

2.Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở:

-Hoàn cảnh gặp gỡ:

  • Không ai đáp lại lời chửi của Chí Phèo nên “hắn” rẽ vào nhà Tự Lãng uống rượu
  • Khi đã hả hê, Chí Phèo lảo đảo ra về
  • Hắn gặp một người đàn bà ngủ quên ở bờ sông gần nhà (Thị Nở)
  • Trong cơn say, Chí Phèo ăn nằm với Thị Nở và ngủ say dưới trăng

-Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã đem đến những biến chuyển tâm lí rõ nét trong Chí Phèo

3.Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở:

a. Phân tích quá trình Chí Phèo thức tỉnh – sau khi tỉnh rượu: Lần đầu tiên Chí Phèo thực sự “tỉnh”

  • Chợt nhận ra ở trong cái lều ẩm thấp của Chí sẽ thấy “chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”
  • Bâng Khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài
  • Tỉnh để cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn”
  • Cảm thấy “sợ rượu” – dấu hiệu của sự thức tỉnh rõ ràng nhất
  • Cảm nhận những thanh âm của cuộc sống: âm thanh của tiếng chim hót, tiếng người cười nói…
  • Hắn đủ tỉnh để nhận thức hoàn cảnh của mình, để thấy mình cô độc
  • Cuộc gặp với Thị đã làm Chí Phèo thực sự tỉnh táo sau những cơn say triền miên

b. Phân tích quá trình Chí Phèo thức tỉnh – niềm vui, hi vọng, ước mơ quay trở về:

  • Niềm hi vọng của thời trẻ quay trở lại: mong muốn một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải; nuôi lợn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng
  • Khi thấy bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo ngạc nhiên và thấy “mắt mình như ươn ướt” ⇒ xúc động vì lần đầu tiên có người chăm sóc
  • Thấy Thị Nở có duyên, cảm thấy vừa vui vừa buồn
  • Hắn muốn làm nũng với Thị, thấy lòng thành trẻ con
  • Chí Phèo thèm lương thiện: Tình yêu của Thị Nở làm hắn nghĩ bản thân có cầu nối để trở về
  • Tình yêu với Thị Nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình: “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”
  • Gặp Thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến niềm vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy

c. Phân tích quá trình Chí Phèo thức tỉnh – thất vọng, đau đớn: Tình yêu bị ngăn cấm bởi bà cô thị Nở, bởi vậy, khi Thị Nở từ chối, Chí Phèo thất vọng và đau đớn

  • “Ngẩn người”, “ngẩn mặt”: Thái độ biểu thị sự hiểu ra, nhận thức được tình cảnh của mình ⇒ đáng thương
  • Thoáng thấy hương cháo hành: hồi tưởng về tình yêu đã trải qua
  • Hành động: Nắm lấy tay Thị ⇒ mong muốn níu kéo hạnh phúc
  • Hắn tìm đến rượu rồi “ôm mặt khóc rưng rức”
  • Mong muốn trở về làm người lương thiện không còn nữa, Chí đau đớn, tuyệt vọng

d. Phân tích quá trình Chí Phèo thức tỉnh – phẫn uất:

  • Mong muốn quay trở lại làm người lương thiện không thể thực hiện được, niềm phẫn uất trong Chí đẩy lên cao
  • Hắn quyết định đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó”.
  • Nhưng “hắn không rẽ vào nhà thị Nở mà thẳng đường đến nhà Bá Kiến và nói thẳng với Bá Kiến: niềm phẫn uất đã khiến Chí Phèo xác định đúng kẻ thù của mình
  • Hành động tự kết liễu thể hiện sự phẫn uất và tuyệt vọng đến tột cùng

III. Kết bài phân tích Chí Phèo thức tỉnh:

  • Khái quát lại quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
  • Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân.

Ngoài phân tích Chí Phèo thức tỉnh, tại SCR.VN còn có 🌺 Tóm Tắt Chí Phèo 🌺 21 Bài Tóm Tắt Tác Phẩm Truyện Hay

Bài Văn Phân Tích Cảnh Chí Phèo Thức Tỉnh – Mẫu 1

Tham khảo bài văn phân tích cảnh Chí Phèo thức tỉnh dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được phương pháp làm bài cụ thể nhất.

Truyện ngắn “Chí Phèo” là một thành công lớn của Nam Cao. Đọc xong tác phẩm dường như hình ảnh Chí Phèo luôn để lại những sự ám ảnh nhất định trong lòng bạn đọc. Tác phẩm nói về cuộc đời của nhân vật Chí Phèo, và có lẽ quá trình thức tỉnh, hồi sinh của nhân vật luôn luôn là một điều mà bạn đọc hướng tới và cần phân tích để hiểu rõ.

Chí Phèo được biết đến là nhân vật từng là một đứa trẻ bị bỏ rơi. Sau đó một anh thả ống lươn một ngày nhặt được hắn “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp bên cái lò gạch bỏ không“. Có thể nói tuổi thơ của hắn qua tay hết người này đến người khác và khi Chí Phèo lớn lên thì làm canh điền cho Lí Kiến. Chí Phèo đã bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù, sau bảy tám năm, nhà tù thực dân dã man kia đã biến anh canh điền chất phác trở thành một thằng lưu manh.

Khi Chí Phèo ra tù, hắn tìm đến nhà Bá Kiến để trả thù. Dường như bản chất của một thằng lưu manh, biến chất thể hiện trong cách chửi rất “bài bản”, thật là ngoa ngoắt: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời có hề gì trời có của riêng nhà nào…”.

Từ cái dáng hình nom thật đáng sợ: “trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Người đọc sao có thể quên được các hình ảnh “hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những vết chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế, trông gớm chết”…

Cho đến cách ăn vạ thật đáng sợ là cách mà hắn lấy mảnh chai vỡ mà cào vào mặt, vừa cào vừa lăn lộn. Từ một thằng đã lưu manh, chế độ phong kiến mà đại diện ở đây chính là Bá Kiến đã hoàn thành nốt quá trình tha hoá để biến Chí thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Và cùng với những chuỗi ngày dài chìm trong men say của hơi rượu là những ngày hắn đã phá đi biết bao ngôi nhà hạnh phúc bình dị, làm chảy máu và nước mắt của biết bao người lương thiện. Dường như hắn đã làm tất cả những việc đó trong khi say, hắn cũng không nhận thức được rằng mình đã và đang trượt dài xuống vực thẳm và người ta đang lảng tránh hắn như lảng tránh một con vật đáng sợ nào đó.

Có thể nói cuộc đời Chí tưởng cứ thế diễn ra, tối tăm, mù mịt. Không ai có thể tin hay nghĩ rằng có thể một lần nữa con quỷ dữ ấy lột xác trở lại thành con người. Vậy mà dường như điều kì diệu đó đã xảy ra, dù ngắn ngủi, dù bất thường nhưng vẫn là một điều kì diệu vĩ đại, điều kì diệu cũng có thể thay đổi một con người.

Trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa Chí Phèo và Thị Nở không chỉ đơn giản là một cuộc đụng chạm về xác thịt. Đó đơn giản chỉ là khởi đầu, buổi tối bên bờ sông, dưới ánh trăng sáng kia như chỉ làm khơi dậy thứ tình yêu mang tính bản năng con người. Có thể nói chính sự thức tỉnh của nhân vật thực sự bắt đầu vào những giờ phút sau đó.

Và lần đầu tiên, Chí như đã cảm nhận được âm thanh của cuộc sống “Mặt trời đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài đủ biết… Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ”.

Ta như đều biết rằng những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…”. Và dường như đây cũng lần đầu tiên, sau những ngày say triền miên kia, hắn biết thế nào là buồn và đó là cái buồn mơ hồ mà lại thật thấm thía. Và ở đây một người bắt đầu biết suy nghĩ về cuộc sống có nghĩa là cũng đã biết tự chiêm nghiệm về chính bản thân mình. Và Chí Phèo dường như thật đau đớn khi nhận ra rằng hắn chính là một kẻ trắng tay không hơn không kém.

Khi mà đã đứng ở bên kia dốc cuộc đời, hắn biết mình đã già, “Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn“. Chàng canh điền hiền lành chất phác ngày nào cũng đã từng ước mơ có một gia đình giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, giờ đây nhìn thấy trước số phận mình. Chí Phèo “đói rét, ốm đau và cô độc” và chi tiết này rõ ràng là trong Chí Phèo đã có một sự chuyển biến lớn trong tâm hồn của hắn.

Có thể nói sự chuyển biến ấy đánh thức bản năng ham sống, muốn sống của hắn nhưng chưa chỉ ra cho hắn biết rằng phải làm thế nào để có thể được sống lại lần nữa đúng với hai từ con người. Và con đường thực sự đã mở ra vào ngày hôm sau khi Thị Nở đã mang sang cho Chí Phèo một bát cháo hành.

Một người đàn bà dở người như Thị Nở lại có thể nấu cháo hành ngon đến vậy hay đó là bởi vì Chí lần đầu tiên được người ta cho, và cũng là lần đầu tiên được ăn cháo hành nên mới cảm thấy cháo hành ngon mà dường như hương cháo hành cứ ám ảnh Chí mãi không thôi. Có thể khẳng định rằng bát cháo hành là tình cảm chân thành, thứ tình người lương thiện đầu tiên mà hắn được cho, một cách hoàn toàn tự nguyện. Điều ấy dường như đã làm Chí xúc động sâu sắc.

Thị Nở cho dù là người có xấu đến ma chê quỷ hờn nhưng ở Thị lại mang một tình người đẹp thánh thiện, thứ tình người trong sáng, một sự chân thành không một chút vụ lợi và tính toán. Có thể thấy được tình người ấy, cùng với hương cháo hành như cũng đã dẫn dắt tính người quay trở lại trong hình hài của một con quỷ dữ, như đã đánh thức ước mơ thời trai trẻ, đánh thức khát khao lương thiện tưởng chừng như đã lụi tắt trong Chí Phèo từ lâu.

Và quan trọng hơn nữa là nó như đã đánh thức niềm hi vọng ở Chí, khát khao được trở về với cuộc sống của loài người. Khao khát được họ đón nhận. “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị Nở cũng có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được.

Và giờ đây họ sẽ nhận thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận Chí Phèo vào cái xã hội bằng phẳng và rất thân thiện của những người lương thiện kia. Dường như chính tình thương yêu con người chân thành đã có sức mạnh cảm hoá vĩ đại, không chỉ thế, nó như còn mang lại cho con người sự sống và sức sống mới, và ngay khi ở cả những kẻ tưởng chừng là “vô phương cứu chữa” như Chí Phèo. Chí Phèo lúc này đã thức tỉnh thực sự.

Tuy rằng cho đến cuối cùng, cánh cửa trở về với xã hội loài người đã được mở ra bởi tình thương yêu con người, nhưng đó lại là của một người đàn bà dở người. Và trong một xã hội tăm tối đến ngột ngạt kia đã vội vàng đóng chặt. Và khi nhân tính trở về, Chí lại như không thể tiếp tục cuộc đời của một tên quỷ dữ, nhưng lại cũng không thể trở lại làm người được nữa.

Dường như tấn bi kịch đó đã được đẩy lên đỉnh điểm chỉ còn một cách giải quyết cuối cùng là cái chết. Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến và cũng tự kết liễu đời mình. Khi không có tình yêu thương, cuộc sống sẽ chỉ còn là tối tăm và bất hạnh biết bao nhiêu.

Có thể nói rằng tình thương yêu là hạnh phúc của con người cũng như tâm hồn con người giống như một vườn cây mà ở đó tình yêu thương là những trận mưa tưới mát đã làm cho vườn cây tươi tốt hơn, và như đã vươn dậy đầy sức sống, dù cho trước đó đã có lúc nó lụi tàn, héo úa. Và ta cũng đã thấy có biết bao câu chuyện cảm động về sức mạnh của tình yêu thương…

Tình yêu thương giúp con người ta chiến thắng được số phận. Và trong cơn khó khăn như sự thức tỉnh của Chí Phèo. Và chỉ khi có tình yêu thương con người trong sáng không vụ lợi mới luôn toả sáng. Tình yêu thương không chỉ giúp thay đổi quan niệm mà còn có sức cảm hoá ghê gớm, bẻ gãy tất cả những gì là bóng đêm, là trở ngại để con người sống gần với con người hơn.

Tình yêu thương ở đời cũng cần thiết như ánh sáng, như không khí trên Trái Đất này vậy. Dường như con người không thể sống mà không có tình thương yêu. Ý thức được điều đó thì trong mỗi chúng ta cần bồi dưỡng cho mình một trái tim nhân hậu, bao dung. Và phải bồi dưỡng tình yêu thương dành cho mọi người, để được cho và được nhận. Hãy để tình yêu thương trong sáng và chân thành được bao bọc khắp thế gian và mỗi con người sẽ được sống trong ngập tràn yêu thương.

Nhân vật Chí Phèo là một trong những nhân vật hiện lên có sức ám ảnh nhất, đặc biệt là quá trình từ một anh nông dân hiền lành cho đến khi bị cự tuyệt quyền làm người sẽ còn lay động, còn để lại cho người đọc biết bao nghĩ suy. Qua đó nói lên khả năng bậc thầy trong việc miêu tả phân tích tâm lý nhân vật của Nam Cao.

Bên cạnh phân tích Chí Phèo thức tỉnh, giới thiệu cùng bạn 🍀 Sơ Đồ Tư Duy Chí Phèo 🍀 11 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay

Phân Tích Chí Phèo Thức Tỉnh Hay Nhất – Mẫu 2

Đón đọc dưới đây bài văn mẫu phân tích Chí Phèo thức tỉnh hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dành cho các em học sinh.

Trong các tác phẩm của dòng văn học hiện thực Việt Nam, người ta thường nhắc nhiều đến những cái tên như chị Dậu, lão Hạc, … Nhưng có lẽ quen thuộc và nổi tiếng nhất, điển hình nhất là nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao – một người nông dân nghèo bị tha hóa trở thành kẻ lưu manh và chết đi khi chớm thức tỉnh, chết đi trong nỗi khát khao được trở lại làm người lương thiện.

Trong tác phẩm, người ta không chỉ ấn tượng về hình dáng, về cuộc đời của Chí mà còn thấm thía cái diễn biến tâm trạng vô cùng sâu sắc và đầy đau khổ của một con người khi rơi vào tận cùng của tăm tối của cuộc đời.

Viết Chí Phèo, Nam Cao đã lấy chất liệu từ chính làng quê của mình, từ vùng nông thôn nghèo đói trước Cách mạng tháng Tám với những ám ảnh về sự tăm tối, bức ép, ngột ngạt. Chí Phèo – đại diện cho tất thảy những người nông dân trong xã hội ấy, bị đẩy vào bước đường cùng bi kịch mà tha hóa trở lên lưu manh.

Trước đây, hắn cũng đã từng có những ước mơ đời thường về cuộc sống gia đình dù nghèo đói nhưng vẫn bình yên và hạnh phúc, thế nhưng ước mơ ấy chẳng có ngày thành hiện thực vì hắn đã sớm bị xã hội, bị những định kiến, những cường quyền tước đi linh hồn của một con người.

Không như những tác phẩm khác cùng đề tài thường phản ánh về sưu cao, thuế nặng khiến người nông dân lâm vào bước đường cùng như Tắt đèn – Ngô Tất Tố hay lão Hạc, Nam Cao lại chọn một cách khác để thể hiện những nỗi thống thiết trong cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Đây là cách thể hiện vô cùng mới mẻ và thể hiện được cách nhìn đa chiều của Nam Cao với đời sống của người nông dân.

Vậy chúng ta có biết Chí Phèo là người như thế nào? Cuộc sống của hắn ra sao, diễn biến tâm lý của hắn thế nào mà hắn lại trở thành con người điển hình cho lớp người nông dân thời kì này trong văn học Việt Nam?

Nhắc đến Chí Phèo thì người ta nhớ ngay đến từ “ăn vạ” và nhớ ngay ra cái cách mà hắn xuất hiện trong câu chuyện của Nam Cao, cái đặc trưng riêng của Chí, đó là “vừa đi vừa chửi”. Chí xuất hiện không hoành tráng, không ba hoa, không có từ ngữ miêu tả dáng hình nhưng lại khiến người ta thật khó lòng không nhớ.

Hắn xuất hiện với tiếng chửi, với dáng người xiêu vẹo của một tên nghiện rượu. Cái chửi của hắn chẳng nhắm vào ai mà chỉ bâng quơ giữa đường, nào là “chửi trời”, rồi “chửi đời”, “chửi cả làng Vũ Đại”, “chửi đứa nào không chửi nhau với hắn”, và cuối cùng là “chửi đứa nào đã đẻ ra hắn”.

Như những người bình thường khác, cha mẹ thân sinh công ơn tựa trời biển, nào ai dám mắng chửi, đem ra nhục mạ thế, nhưng Chí Phèo lại khác. Bởi hắn là một kẻ chẳng cha chẳng mẹ, bị bỏ rơi giữa cái “lò gạch cũ” giữa đói rét, cha mẹ đã vứt bỏ hắn “trần trường và xám ngắt trong một cái váy đụp cũ cạnh lò gạch bỏ hoang” để mặc hắn tự sinh tự diệt.

Có thể nói, số phận hắn từ khi lọt lòng đã bi thảm vô cùng và nỗi bi thảm ấy càng tăng gấp bội khi hắn bị đẩy vào tù trong oan ức. Cuộc sống của Chí lênh đênh, tội nghiệp là thế, hắn bơ vơ giữa dòng đời, không một chốn dung thân. Hắn cũng như bao người nông dân khác trong xã hội đương thời ấy, phải sống bơ vơ, lạc lõng như thế giữa cuộc đời, người đi ở đợ, kẻ buôn ngược bán xuôi, người lại tha phương cầu thực chỉ mong giữ lại sinh mệnh của mình giữa cuộc đời.

Có lẽ chính vì thế mà sau khi ra tù, Chí “trông khác hắn”, thay đổi hẳn. Nếu ngày xưa, Chí tuy mồ côi nhưng vẫn chăm chỉ làm ăn, kiếm sống bằng làm thuê làm mướn, rồi đi làm canh điền cho nhà Lý Kiến cốt để kiếm cái ăn trong sạch thì giờ đây, hắn chỉ chìm đắm trong những cơn say lướt khướt.

Từ Bá Kiến, và tiếp sau là nhà tù thực dân đã tiếp tay biến Chí trở thành một con nghiện rượu, một kẻ lưu manh, tha hóa, đầu đường xó chợ. Chính cái thói dâm dục người đàn bà mang tên bà Ba, cùng cường quyền và thói lọc lõi của cụ Bá đã khiến Chí trở thành một con người “trông gớm chết” như hôm nay. Chí tìm đến rượu và say lướt khướt suốt như thế phải chăng là để quên đi cái phần lương thiện còn sót lại trong người, để trở lên thành “kẻ mạnh”, để không ai còn có thể bắt nạt được hắn được nữa?

Sau khi bị dồn vào tù bởi Bá Kiến, rồi ra tù, Chí biến thành một con người khác “trông đặc thằng săng đá. Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết!”. Hắn không chỉ mất đi nhân hình mà còn mất luôn cả nhân tính của con người. Bởi trước đây, hắn hiền lành, lương thiện bao nhiêu, tự ý thức được nhân cách của mình, “thấy nhục”trước những lời lẳng lơ của bà Ba bao nhiêu, thì giờ đây, hắn lưu manh, bặm trợn bấy nhiêu.

Và cái đặc sắc nhất của Chí là thói ăn vạ đời, ăn vạ người. Bất kì khi nào, hắn cũng có thể lấy mảnh chai cào vào mặt để “ăn vạ” người ta, để cướp giật những thứ hắn cần. Và Chí càng hung hăng, độc ác, lún sâu vào con đường tội lỗi hơn khi hắn trở thành tay sai cho Bá Kiến.

Ở đây, Nam Cao đã tinh tế khi phát hiện ra con đường lưu manh hóa của người nông dân, không còn dừng ở việc phân tích đời sống khốn cùng của những người nông dân nữa. Ông đã đào sâu vào cuộc sống đau khổ của họ và nhận ra rằng đằng sau sự lưu manh hóa, tha hóa của những người nông dân lương thiện, chất phác kia là những con quỷ nắm trong tay cường quyền cùng thủ đoạn độc ác và thói đời lọc lõi của chúng mà điển hình ở đây là Bá Kiến.

Về Chí Phèo, hắn chỉ chợt ý thức được cuộc đời của mình, về số kiếp của mình sau khi hắn bắt gặp Thị Nở, bắt gặp những quan tâm đầu tiên hắn nhận được trong đời. Và từ đó, tâm trạng hắn nảy sinh những diễn biến vô cùng phức tạp mà lại vô cùng thấm thía với chúng ta.

Trước khi gặp Thị, Chí Phèo chỉ là một kẻ nghiện rượu, cô độc, là một kẻ lưu manh, một con quỷ của làng Vũ Đại. Hắn không có suy nghĩ, không có ước mơ, chẳng ý thức được sự sống của mình, hắn cứ vật vờ từ ngày này qua tháng khác. Có chăng điều duy nhất thôi thúc trong tâm thức hắn là được giao tiếp với con người, đó là lý do hắn luôn đi “chửi” thiên hạ, bởi hắn mong mỏi có một con người nào đó cho hắn được một lời nói, dù là lời chửi bới thôi cũng được.

Thế nhưng, sau khi gặp Thị Nở, cuộc đời hắn trở sang một trang mới và Thị Nở chính là ánh sáng soi rọi vào tâm hồn đen tối của Chí và tâm hồn hắn nảy sinh những diễn biến phức tạp, khó hiểu.

Chí Phèo gặp Thị Nở sau khi uống rượu say, còn Thị – một người đàn bà ngẩn ngơ và ế chồng, đi gánh nước và ngủ quên ở cạnh bờ sông, lối về cái lều rách của Chí. Trong cơn say, Chí Phèo đã ăn nằm với Thị và sau đó, Thị đã đưa hắn vào lều, đắp chiếu rồi ra về. Những tưởng câu chuyện chỉ có thế, nhưng không, Nam Cao đã thật nhân đạo khi để hai con người bất hạnh ấy đến với nhau bằng một tình yêu thật nên thơ.

Sau đêm ấy, Chí tỉnh rượu, Chí nhận thấy “trời sáng đã lâu. Mặt trời chắc đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ”. Lần đầu tiên, Chí nhận biết được thời gian, nhận thức được thế giới xung quanh mình. Tỉnh dậy, Chí thấy người bâng khuâng, lòng hắn vu vơ những “mơ hồ buồn”. Chí tỉnh rượu, và khi tỉnh rượu thì Chí nhận ra được nhiều điều.

Đầu tiên, Chí thấy mình “sợ rượu như những người ốm sợ cơm”, rồi hắn thấy những âm thanh rộn rã bên ngoài căn lều của mình. Tiếng chim hót say sưa, tiếng gõ thuyền, tiếng người cười nói khi đi chợ, tất cả những âm thanh nhộn nhịp ấy lần đầu hắn mới được nghe thấy “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá.”

Tất cả những âm thanh ấy “quen thuộc ngày nào chả có” nhưng đến hôm nay “hắn mới nghe thấy”. Tỉnh rượu, hắn thức tỉnh luôn cả con người, thức tỉnh cả những giác quan mọi khi bị bịt kín. Những âm thanh ấy náo nức, thế nhưng lòng hắn lại buồn “chao ôi là buồn!”.

Hắn buồn bởi hắn nhận ra những câu chuyện của những người đàn bà đi chợ kia “nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi”. Chạy qua tâm trí hắn là từng dòng kí ức của ngày kia, khi mà hắn vẫn còn là một tên canh điền hiền lành, hắn đã từng có những ước mơ giản dị như những con người bình thường khác, hắn mơ “có một gia đình nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”.

Ước mơ ấy tầm thường quá, giản dị quá, vậy mà với hắn là một cái gì đó thật xa xôi. Phải chăng lương tri trong Chí đang thức tỉnh, phải chăng ý thức con người đang dần trở về với hắn để hắn lại có những bồi hồi mơ ước như con người bình thường?

Và có lẽ cái ý thức ấy lại càng sống dậy trong hắn mạnh mẽ hơn khi hắn nhận ra được những nỗi khốn khổ của cuộc đời mình. Trước đây, hắn không có ý thức về thời gian, về tuổi tác thì giờ đây, hắn nhận ra “hắn già mà vẫn còn cô độc”. Hắn đã bước chân sang “cái dốc bên kia của cuộc đời” mà vẫn còn một mình. Hắn bắt đầu nghĩ về tương lai “trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc”.

Nếu trước đây, Chí Phèo chưa từng suy nghĩ về những điều ấy, bởi hắn chẳng bao giờ tỉnh rượu và cũng bởi hắn chưa từng ý thức được cuộc sống của con người, bởi hắn đã sống vật vờ như một con quỷ dữ. Giờ đây, hắn thức tỉnh, hắn nhận ra cuộc đời của mình, và nhận ra những cảm xúc rất đời thường. Hắn có những nỗi sợ vẩn vơ, những nỗi sợ đói rét, cô độc, ốm đau rất thường của con người. Sự thức tỉnh ấy đã làm lương tri trong hắn trở về rồi, sự lương thiện đang trở về với Chí rồi!

Nhận được sự quan tâm của Thị Nở, Chí Phèo lần đầu tiên biết tới yêu thương, biết tới tình yêu của một người đàn bà. Sự chăm sóc của Thị Nở, bát cháo hành với những cái lườm nhưng đầy tình tứ, yêu thương của Thị đã khiến bừng lên trong hắn cái ước mơ được trở lại như xưa, trở lại làm người lương thiện.

Thị Nở đến bên Chí với bát cháo hành còn đang bốc khói khiến Chí ngạc nhiên hết mức “thằng này rất ngạc nhiên”. Cũng phải thôi, Chí đã bao giờ được tận hưởng cảm giác yêu thương, tận hưởng sự chăm sóc, hay “được một người đàn bà cho”, vậy nên hắn ngạc nhiên lắm và “hắn thấy mắt hình như ướt”. Sự xúc động đến từ trái tim đã bật thành giọt nước mắt trên bờ mi, Chí xúc động lắm, rồi Chí thấy Thị thật có duyên, cái duyên không phải đến từ hình dáng mà đến từ tâm hồn tràn đầy yêu thương, nhân từ của Thị.

Hắn lần đầu tiên được ăn cháo, lần đầu tiên được cảm nhận yêu thương và lần đầu tiên hắn mong ước được trở lại làm người lương thiện. Bừng lên trong hắn là khát khao được quay lại cuộc sống bình thường như trước. Và hắn đã nghĩ “Thị sẽ là người mở đường cho hắn”.

Hắn sẽ trở lại với cuộc sống bình thường, với những con người lương thiện, hắn muốn “làm hòa với mọi người”, và “họ sẽ thấy hắn cũng có thể không làm hại ai. Họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Thế nên, Chí đã mở lời tỏ tình với Thị Nở bằng một cái giọng “phong tình” rằng “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”.

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở không chỉ giúp Chí thức tỉnh mà còn mang đến cho Chí những cảm xúc đời thường như tình yêu, sự chăm sóc. Và Chí mong ước được yêu thương, được chăm sóc, được trở thành người lương thiện, để được yên ổn làm ăn, được sống với một gia đình nhỏ hạnh phúc.

Tâm trạng của Chí đến đây đã bước sang một trang mới, không còn vô cảm, không còn vô hồn nữa mà tràn đầy yêu thương, khao khát được trở lại làm con người. Chí đã rất vui mừng rằng Thị Nở sẽ mở đường giúp hắn, giúp hắn làm lại cuộc đời.

Thế nhưng, niềm vui đến với Chí chẳng được bao lâu thì sự tuyệt vọng, đau đớn lại dồn tới. Chí đã những tưởng được làm lại từ đầu và Thị Nở sẽ là người mang tới cơ hội đó cho Chí nhưng không, định kiến xã hội đã giết chết cái mơ ước, khát khao ấy của Chí.

Bà cô Thị Nở đã chì chiết và đay nghiến Thị khi biết chuyện Thị với Chí Phèo, bà dùng những định kiến của xã hội mà ngăn cấm Thị Nở “Ngoài ba mươi tuổi … ai lại còn đi lấy chồng?”, “lấy ai không lấy, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một cái nghề là rạch mặt ăn vạ”. Phải, và thế là ái định kiến ấy đã lấy đi của Chí tất cả những gì vừa mới chớm nở hôm qua. Khi Thị Nở tới và “trút vào mặt hắn tất cả những lời của bà cô” thì Chí đã “hình như hiểu”.

Ban đầu, Chí có phần “ngạc nhiên” thế rồi hắn “nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu, hắn bỗng nhiên ngẩn người”. Hắn đã hiểu rằng hắn bị ngăn cản, bị Thị Nở từ chối, và hắn chẳng thể quay trở lại con đường lương thiện được nữa. Hắn “sửng sốt” và bất lực trước bi kịch của cuộc đời mình.

Chạy dọc trong tâm trí hắn là những yêu thương, là sự chăm sóc, là “hơi cháo hành”, hắn muốn níu kéo Thị, níu kéo con đường duy nhất và cuối cùng để hắn trở về làm người. Hắn níu lấy tay Thị “hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay”, nhưng đáp lại hắn chỉ là cái “gạt tay” của Thị và thị còn “giúi thêm cho một cái. Hắn lăn khoèo xuống sân”.

Tất cả những gì hắn mong muốn đều không thể có được nữa, hắn tuyệt vọng vô cùng, tuyệt vọng nên hắn tìm tới rượu. Hắn không muốn tỉnh nữa, hắn muốn trở lại làm “kẻ mạnh” như trước kia. Thế nhưng, lương tri của hắn, ý thức của hắn đã trở về, hắn chẳng còn say được nữa, hắn “càng uống càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn. Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành”. Đến đây, không còn chịu đựng được nữa, hắn “ôm mặt khóc rưng rức”.

Giọt nước mắt của Chí Phèo không chỉ là giọt nước mắt buồn tủi khi bị Thị Nở từ chối mà còn là giọt nước mắt của đau khổ, tuyệt vọng, của bi kịch cuộc đời khi hắn muốn trở lại làm người thì lại bị đẩy ra khỏi xã hội, và con đường duy nhất lại bị tước đoạt, cắt đứt bởi định kiến. Đau khổ, tuyệt vọng và phẫn uất biết bao!

Trong cơn tuyệt vọng, bi phẫn đến tột cùng, Chí Phèo đã xách dao đi, miệng lảm nhảm “Tao phải đâm chết nó! Tao phải đâm chết nó!”. Nó ở đây là ai, ban đầu thì là Thị Nở và bà cô nhưng “hắn lại quên rẽ vào nhà thị Nở”. Hắn xách dao “xông xông đi vào” nhà cụ Bá. Tại đây, hắn đã “trợn mắt, chỉ vào cụ” mà đanh thép lên tiếng đòi lại quyền sống cho mình. “Tao muốn làm người lương thiện” – câu nói của Chí như cắt vào lòng người đọc một vết cắt thật sâu, muốn làm người lương thiện mà còn phải đi đòi người khác hay sao?

Thế nhưng, ai đọc được tác phẩm của Nam Cao cũng sẽ hiểu cái điều mà Chí Phèo yêu cầu, mong muốn duy nhất và cuối cùng của hắn trong cuộc đời mình. Bởi lẽ, tỉnh rượu, ngẫm nghĩ, hắn mới hiểu mọi nguồn cơn của hắn đều xuất phát từ Bá Kiến – từ tay kẻ lọc lõi đời, biết cách điều khiến người khác bằng thứ quyền lực trong tay mình.

Câu nói cuối cùng của Chí “Ai cho tao lương thiện?” trước khi vung dao đâm chết Bá Kiến có lẽ là câu hỏi ám ảnh nhất trong văn học Việt Nam. Câu hỏi đó được hỏi bằng tất cả sự đau khổ, tuyệt vọng, bi phẫn hoàn toàn của một con người bị tha hóa, lưu manh hóa bởi cái xã hội thực dân phong kiến, bởi những kẻ ác bá cường quyền.

Tóm lại, Chí từ một kẻ không xúc cảm, không suy nghĩ, không có ý thức về cuộc đời, tương lai của mình, đến khi gặp Thị Nở, trở thành một người tỉnh táo với ý thức về số phận của mình, hạnh phúc khi được tận hưởng niềm yêu thương, chăm sóc, tận hưởng tình yêu và khao khát được trở lại làm người lương thiện đến nỗi bi phẫn, đau khổ, tuyệt vọng khi bị từ chối quyền làm người. Diễn biến ấy vừa tràn đầy hạnh phúc lại vừa bi thương, bi kịch vô cùng, tất cả được viết lên dựa trên niềm cảm hứng và lòng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao.

Qua đó, ta thấy được số phận của một người nông dân nghèo bị đẩy tới bước đường cùng, tha hóa, lưu manh hóa, nhưng sâu thẳm trong họ vẫn là khát khao được trở lại làm người, được trở lại và sống giữa một xã hội “bằng phẳng và thân thiện của những người lương thiện”.

Nam Cao đã vô cùng tài năng khi dựng lên bức chân dung tâm trạng của Chí Phèo và phát hiện ra những điều mới mẻ trong nhân cách những người nông dân nghèo. Ông không hề khiến họ xấu đi mà ngược lại còn tôn lên nhân phẩm của họ và khẳng định rằng cái nhân phẩm ấy sẽ chẳng bao giờ bị mất đi dù xã hội có chà đạp, vứt họ xuống tận bùn đen tăm tối.

Nam Cao với ngòi bút miêu tả nội tâm xuất sắc của mình đã khiến chúng ta phải rung cảm trước chân dung nội tâm của một kẻ bị coi là quỷ dữ, bị cả xã hội xa lánh. Ông đã khiến người đọc phải cảm động mà đồng cảm, thương xót cho số phận của nhân vật của mình. Tài năng của Nam Cao thật khiến cho những thế hệ sau chúng ta phải nể phục và trân trọng.

Cùng với phân tích Chí Phèo thức tỉnh, đừng bỏ qua 🔥 Cảm Nhận Về Nhân Vật Chí Phèo 🔥 12 Bài Văn Hay Nhất

Phân Tích Chí Phèo Thức Tỉnh Ngắn Gọn – Mẫu 3

Tham khảo dưới đây phân tích Chí Phèo thức tỉnh ngắn gọn để trau dồi cho mình cách hành văn súc tích và giàu ý nghĩa biểu đạt.

Nam Cao là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam ở cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám.Ông là một nhà văn có quan điểm nghệ thuật tiến bộ,có tấm lòng đôn hậu,chan chứa tình thương, gắn bó sâu nặng với quê hương và những người nông dân nghèo khổ. Đặc biệt, đến với truyện ngắn “Chí Phèo”, một trong những truyện ngắn viết về đề tài người nông dân nghèo trước CMT8 của Nam Cao, chúng ta không thể không cảm động trước quá trình hồi sinh của Chí Phèo – một người đã tưởng đã là quỷ dữ của làng Vũ Đại ..

Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề được biết đến một bàn tay chăm sóc của phụ nữ nếu không gặp thị Nở… Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến.

Sau một thời gian dài hoàn toàn bị tha hóa, Chí Phèo sống triền miên trong những cơn say, không ý thức được hành động và cuộc sống của chính mình.Cho đến khi Chí Phèo gặp Thị Nở, Chí đã thật sự được hồi sinh. Có thể nói, đây là giai đoạn quan trọng nhất trong cuộc đời của Chí với những thời khắc bừng sáng ngắn ngủi và hạnh phúc, để rồi sau đó tắt ngấm ngay.Chí lại rơi vào bế tắc và thảm kịch đã xảy ra: đâm chết Bá Kiến rồi tự sát.

Sau một tối say rượu, Chí đã tình cờ gặp Thị Nở.Họ ăn nằm với nhau.Thế rồi nửa đêm, Chí đau bụng, nôn mửa. Sự xuất hiện của nhân vật thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma chê quỷ hờn” ấy lại là nguồn ánh sáng đã rọi vào chốn tối tăm của Chí Phèo, thức tỉnh, gọi dậy bản tính người của Chí Phèo, thắp sáng một trái tim qua bao tháng ngày bị hắt hủi.

Bắt đầu là tỉnh rượu : Sáng hôm sau, Chí tỉnh dậy khi “trời đã sáng lâu”. Kể từ khi mãn hạn tù trở về, đây là lần đầu tiên “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” đã hết say, hoàn toàn tỉnh táo. Chí thấy lòng “bâng khuâng, mơ hồ buồn”.Lần đầu tiên, Chí nghe thấy bản nhạc rộn ràng của cuộc sống lao động : đó là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá; tiếng trò chuyện của những người đàn bà đi buôn vải về…

Những âm thanh ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay Chí mới cảm và nghe được, vì hôm nay Chí đã hết say. Phải chăng, những âm thanh ấy là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống Chí đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tình cảm và nhận thức.

Sau đó là tỉnh ngộ: Khi tỉnh táo, Chí đã “ngộ” – nhận thức , nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai :

Đầu tiên là hắn “nao nao buồn” nhớ về một thời hắn đã từng mơ ước “có một gia đình nho nhỏ…”.Đấy là quá khứ, còn hiện tại? Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “ hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”,và cơ thể thì đã “hư hỏng nhiều”. Tương lai đối với hăn, còn đáng buồn hơn, không chỉ buồn mà còn lo sợ , bởi hắn đã “trông thấy trước “ quá nhiều điều bất hạnh : “tuổi già, đói rét và ốm đau”, nhất là “cô độc”.Sau những tháng ngày sống gần như vô thức,Chí đã tỉnh táo và suy nghĩ về cuộc đời mình.

Như vậy , với sự trở lại của khả năng nhận thức ngoại giới và nhận thức chính mình ( lý trí), cùng những tình cảm , cảm xúc rất con người, Chí đang thức tỉnh một cách tòan diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người.

Đúng lúc Chí đang “vẩn vơ nghĩ mãi” thì thị Nở mang “một nồi cháo hành còn nóng nguyên” vào.Việc làm này của thị khiến hắn hết sức “ngạc nhiên”.Rồi từ chỗ “ngạc nhiên”, Chí thấy “mắt hình như ươn ướt” ( xúc động).

Bởi vì một lẽ hết sức đơn giản, đây là lần đầu tiên “hắn được một người đàn bà cho”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà, mà đàn bà – trong ý niệm của hắn bề bà ba – chỉ là sự nhục nhã, đau đớn. Nay thì khác, thị Nở không chỉ đem cháo cháo đến cho hắn mà còn múc ra bát “giục hắn ăn nóng”. Hắn “húp xong rồi, thị Nở đỡ lấy bát cháo và múc thêm bát nữa”.

Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy của thị đã khiến Chí “ăn năn”,”.Hắn thấy “lòng thành trẻ con” và “muốn làm nũng với thị như với mẹ”.Lúc này, hắn hiền lành đến khó tin “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt ăn vạ và đâm chém người?”. Cái “bản tính ngày của hắn, ngày thường bị lấp đi” đã trỗi dậy mạnh mẽ. Chí đã đã sống đúng với con người thật của mình, trở lại nguyên hình của anh canh điền ngày xưa.

Chí mong muốn được trở lại làm người , làm một người dân hiền lành, lương thiện ở làng Vũ Đại “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện , hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!…Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”.

Cùng với mong ước cháy bỏng được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”- “cứ thế này” là thế nào? Đó là cứ được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị…được như thế thì “thích nhỉ”- tức là sung sướng, hạnh phúc nào bằng.

“Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” – tức là về sống chung một nhà, hình thành một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc.Câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với thị Nở – một lời cầu hôn “rất canh điền”, chất phác, giản dị.

Có thể nói đoạn văn viết về quá trình hồi sinh của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đoạn văn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn….và giá trị nhân đạo của tác phẩm: Nhà văn miêu tả số phận bất hạnh và cảm thông sâu sắc với bi kịch của người nông dân. Đồng thời ông còn khẳng định sức sống bất diệt của thiên lương.

Lương thiện, khát khao hạnh phúc là bản tính tự nhiên, tốt đẹp và mạnh mẽ của con người. Không thế lực bào tàn nào có thể hủy diệt. Từ đó, nhà văn kêu gọi mọi người hãy luôn tin vào con người, tin vào bản chất tốt đẹp của mỗi người và cùng nhau xây đắp phần Người trong mỗi con người để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Phân Tích Chí Phèo Thức Tỉnh Chi Tiết – Mẫu 4

Bài văn mẫu phân tích Chí Phèo thức tỉnh chi tiết dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm vững nội dung và kiến thức của tác phẩm một cách đầy đủ.

Nam Cao – một trong những cây bút xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực, phê phán trước Cách mạng tháng tám. Ông nổi tiếng với các sáng tác về đề tài người nông dân và người trí thức tiểu tư sản. Tiêu biểu cho đề tài về người nông dân là tác phẩm “Chí Phèo “.
Với nhân vật tên Chí. Một con người bất hạnh nàm trong vòng xoáy bi kịch cự tuyệt quyền làm người.

Khác hẳn với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, trong tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao không đi sâu vào miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ… của người nông dân, mặc dù trong thực tế, đó cũng là hiện thực phổ biến. Nam Cao trăn trở, băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn bức xúc hơn cả đói rét bần cùng, đó là hiện thực về sự tha hóa, một mối đe dọa thảm khốc trong xã hội đương thời, về nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp bởi một bộ máy thống trị tàn bạo.

Vấn đề nhâm phẩm, vấn đề quyền con người được đặt ra, chi phối cảm hứng sáng tạo trong nhiều sáng tác của Nam Cao, trong đó Chí Phèo là tác phẩm thể hiện trực tiếp, tập trung mãnh liệt hơn cả.

Mở đầu tác phầm là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng trong cơn say:

“Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì trời nào của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại, ai cũng tự nhủ “Chắc nó trừ mình ra!”Tức thật! ờ thế này thì tức thật tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp!Thế có phí rượu không? Thế có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này. Đẻ ra cái thằng Chí Phèo “.

Đây là mội tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng nhiều khi vô thức,con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi thức.

Qua tiếng chửi của Chí Phèo ta cảm thấy như đang đối diện với một người – vật quái gở và đơn độc ở tận cùng của sự đau khổ của mình. Và cũng qua lời chửi của Chí Phèo ta cảm thấy được 3 thái độ khác nhau, đó là thái độ hằn học thù địch của Chí Phèo, thái độ khinh miệt dửng dưng của người đời đối với Chí, thái độ phẫn uất của tác giả thể hiện qua giọng văn vừa xót xa vừa tàn nhẫn. Trước kia Chí rất lương thiện.

Chỉ sau khi ở tù về, hắn mới hóa thành một con người khác hẳn, bị tước mất cả nhân tính với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết ” sau khi ở tù về hắn đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại mà không tự biết.

Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say triền miên… Hắn ăn và ngủ trong cơn say, đập đạu rạch mặt chửi bới trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận… Trong tác phẩm “Chí Phèo” Nam Cao đã chỉ ra rằng Chí Phèo không phải là một ngoại lệ. Cùng với hắn còn có Binh Chức, Năm Thọ. Đó là kết quả tất yếu cho một logic, một khi đã có Bá Kiến, Lí Cương, Đội Tảo… thì ắt sẽ có Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ.

Đó không phải chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà thậm chí còn là phương tiện tối cần thiết để thống trị. Như thế xã hội không chỉ đẻ ra Chí Phèo mà còn tiếp tục nuôi Chí Phèo, biến những người như Chí Phèo thành công cụ thống trị của chúng. Những người dân lương thiện ấy bị biến thành công cụ, phương tiện thống trị cho kẻ thù mà không tự biết.

Nam Cao đã chỉ ra hậu quả của sự soi sáng vào quá trình miêu tả một cảm hứng nhân văn sâu sắc. Nhưng điều đặc sắc ở tác giả là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến tận cùng, ông vẫn phát hiện ra chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn có, chỉ cần một chút tình thương khẽ chạm vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết.

Vì vậy, sự xuất hiện của Thị Nở – con người dường như hội tụ đủ tất cả yếu tố bất lợi cho một người phụ nữ, có một ý nghĩa thật đặt sắc. Con Người xấu “ma chê quỷ hờn” ấy, kì diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất dọi vào chốn tăm tối của Chí Phèo, thức tỉnh, gợi dậy bản tính người bên trong Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã bị ngủ mê qua bao ngày tháng bị vùi dập và hắt hủi.

Sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo được tập trung miêu tả qua tâm trạng bi kịch. Đó là một buổi sáng thật trong lành, bao nhiêu âm thanh êm đềm, bình dị,thân thiết dã dội vào lòng thức tỉnh của con người trong Chí Phèo. Tất cả những hình ảnh đấy, âm thanh đấy gợi nhác những giấc mơ xa xôi một thời đã làm cho Chí Phèo cảm thấy cô độc, nhất là sự cô độc khi tuổi già, cái này còn sợ hơn đói rét bệnh tật.

Như vậy tình yêu thương mộc mạc của Thị Nở đã đánh thức được cái bản chất lương thiện của Chí Phèo, sau bao ngày chìm đắm trong cơn say, sau bao ngày hung dữ, hoang dại như một con thú mang hình người. Khi Thị Nở bưng bát cháo hành tới, nhìn bát cháo hành bốc khói mà lòng Chí xao xuyến bâng khuâng “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn được làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền! Hắn thèm lương thiện – Hắn khao khát được làm hòa với mọi người”.

Từ một con quỷ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn là nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự chở lại làm con người, với tất cả nhưng năng lực vốn có của con người là yêu thương, cảm xúc, ao ước. Hóa ra chỉ cần một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi,bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí… cũng đủ làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí.

Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu đến mức nào! Bằng chi tiết này Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ, nhà văn như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông, chia sẻ những giây phút hạnh phúc thật hiếm hoi của Chí Phèo. Nhưng bi kịch và đau đớn thay, ngay cả Thị Nở cũng không thế gắn bó với Chí Phèo. Và thật khắc nhiệt, khi bản tính nơi Chí trỗi dậy, Chí hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa.

Chí uống rượu và càng uống lại càng tỉnh và hắn thấm thía nỗi đau thân phận con người, càng thấm thía nỗi đau đã cướp đi cái quyền làm người của hắn, cướp đi cả bộ mặt lẫn tâm hồn người. Vậy nên, thay vì đến nhà Thị Nở, Chí Phèo đã đến nhà Bá Kiến vì lòng căm thù bấy lâu nay cháy bùng lên làm cho Chí Phèo vô cùng tỉnh táo. Hành động này quá bất ngờ đối với Bá Kiến, với cả làng Vũ Đại. Ai cũng coi đây là vụ giết người dữ dội của con quỷ dữ Chí Phèo. Nhưng hôm nay, tâm hồn người trở về, mọi người cũng không nhận ra.

Nam Cao miêu tả bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo hết sức tinh tế và sâu sắc như là một quá trình tự vận động của tính cách. Từ lương thiện biến thành lưu manh. Từ một kẻ đâm thuê chém mướn bỗng thèm lương thiện, bị cự tuyệt quyền làm người thì trả thù kẻ làm hại đời mình rồi tự sát. Nam Cao vừa vạch trần cái xã hội thối nát, độc ác vừa lên tiếng đấu tranh cho những người nông dân lương thiện bị đẩy vào con đương tha hóa, lưu manh hóa.

Truyện Chí Phèo là một truyện ngắn độc đáo, thấm nhuần tinh thần nhân đạo. Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say. Chí chết nhưng đọng lại trong ta hình ảnh Chí đòi quyền sống, quyền được lương thiện và Chí chết trong bi kịch của sự đau đớn. Đây không phải hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống.

Ngoài phân tích Chí Phèo thức tỉnh, tiếp tục đón đọc 🌳 Cảm Nhận Về Nhân Vật Thị Nở 🌳 15 Bài Văn Hay Nhất

Phân Tích Chí Phèo Thức Tỉnh Học Sinh Giỏi – Mẫu 5

Tham khảo bài văn mẫu phân tích Chí Phèo thức tỉnh học sinh giỏi dưới đây với những ý văn phân tích chuyên sâu và đặc sắc.

Không hiểu sao mỗi khi đọc tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao tôi luôn luôn hình dung ra một con đường in bóng hình những bước chân loạng choạng, ngật ngưỡng đầy phẫn uất của một Chí Phèo say – tỉnh. Và trên con đường – hành trình đời – đầy nỗi đau và bi kịch ấy,những giây phút hạnh phúc, những cử chỉ yêu thương mà Chí được hưởng thật hiếm muộn như những giọt nước trên sa mạc mênh mông.

Song dù chỉ là một giọt nước giữa sa mạc đời bao la thì bát cháo hành của thị Nở vẫn làm tròn nhiệm vụ của một nguồn nước mát lành góp phần thức tỉnh tâm hồn Chí sau bao tháng năm đọa đày trong kiếp sống của quỷ dữ. Cùng với những ám ảnh về bi kịch nhân sinh của con người, hương cháo hành trong Chí Phèo mãi còn vương vấn trong lòng người đọc như một biểu tượng của tình cảm nhân đạo sâu sắc.

Hình ảnh “bát cháo hành” mà thị mang cho Chí trong truyện gắn liền với mối tình “đôi lứa xứng đôi” Chí Phèo – thị Nở. Trước khi gặp thị, Chí đã từng là một người nông dân lương thiện,hiền lành như cục đất. Con người ấy dù có tuổi thơ bất hạnh, bị chuyền tay như một món hàng nhưng vẫn giữ trọn những vẻ đẹp tâm hồn cao quý, thiêng liêng của một đời lương thiện, biết phải trái, đúng sai, biết tự trọng.

Nhưng bàn tay của bọn cường hào phong kiến (đại diện là Bá Kiến) và cái nhà tù thực dân không cho con người ấy sống đời lương thiện.Chúng vào hùa với nhau, tước đi của Chí cả nhân hình, nhân tính của người nông dân, để biến anh thành thằng Chí Phèo, biến anh canh điền hiền lành, chăm chỉ thành kẻ lưu manh có mỗi một nghề là rạch mặt ăn vạ. Sau 7, 8 năm đi khỏi làng Vũ Đại, Chí Phèo hồi hương trong tình cảnh vô sản.

Sự hiện hữu của Chí Phèo ở làng Vũ Đại là một con số “không” tròn trĩnh, không nhà không cửa, không bạn bè người thân, không một tấc đất cắm dùi và đặc biệt là không được thừa nhận là một con người. Đó là cái bi kịch đau đớn của kẻ cô đơn đi giữa đồng loại.Chí chửi mong nhận được sự hồi đáp – dù là sự hồi đáp thấp hèn nhất nhưng cũng không có.

Chẳng ai cho Chí chút quan tâm, chẳng ai coi hắn là người. Hắn chửi vào khoảng không bao la của sự vô tình, lạnh lẽo. Hắn chửi thì tai gần miệng đấy, hắn lại nghe. Chỉ còn một thằng say rượu cùng ba con chó dữ. Còn gì thê thảm hơn thân phận đó.

Sau lần đầu tiên ra tù rồi đến nhà Bá Kiến chửi đổng hình như Chí Phèo đã lờ mờ nhận ra kẻ thù đã dìm mình xuống vũng bùn tha hóa. Nhưng ở cái mảnh đất “quần ngư tranh thực” này,trước một Bá Kiến gian xảo, “khôn róc đời”, Chí Phèo thật thảm hại biết bao. Chí không những không trả thù được mà còn trở thành tay sai cho Bá Kiến – kẻ thù của mình, tiếp nối đời Năm Thọ, Binh Chức. Từ đó Chí Phèo trượt dài trên con dốc tha hóa, xuống đáy vực của nó để thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Người ta tránh hắn, sợ hắn vì hắn chỉ biết cướp bóc, đốt phá, làm chảy máu và nước mắt của bao người lương thiện. Hắn làm tất cả những việc ấy trong men rượu, trong cơn say triền miên, vô tận, đến nỗi chính hắn không biết về chính bản thân mình. Điều đó đã khiến con đường trở về của Chí cụt lối. Cánh cửa của xã hội lương thiện đã đóng sầm trước mặt hắn khi hắn hồi hương thì đến nay nó lại càng được cài then đóng chốt, im ỉm như một khối băng. Chí hiện diện như một bóng hình hắc ám đi bên lề cuộc sống của làng Vũ Đại.

Thế nhưng, phía cuối đường hầm vẫn còn chút ánh sáng le lói để Chí hy vọng. Trong cái làng Vũ Đại ấy vẫn còn một con người nhìn đến Chí, không sợ Chí Phèo và luôn đi qua vườn nhà Chí để kín nước. Đó là một người đàn bà đã chịu nhiều thiệt thòi, khổ đau – thị Nở. Chao ôi!Sao Nam Cao lại dùng những lời văn lạnh lùng đến tàn nhẫn, mỉa mai để tả người đàn bà khốn khổ ấy?

Đã mang một dung nhan “xấu ma chê quỷ hờn”, thị lại còn dở hơi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích”, mà thị lại còn nghèo nữa. Chưa hết, thị Nở còn có dòng giống mả hủi nên người ta vẫn tránh xa thị như tránh một con vật rất tởm. Ngoài 30 tuổi thị vẫn chưa lấy chồng trong khi ở cái làng Vũ Đại người ta kết bạn từ lúc lên tám, lên chín, có con từ lúc 15, không đợi đến năm hai mươi đẻ đứa con thứ nhất.

Ông trời nhiều khi run rủi, thương người nhưng thực sự ở trường hợp này ta có thể nói ông thương hay ông ác, gây nghịch cảnh trớ trêu? Hay trách Nam Cao sao không tác thành cho mối tình “đôi lứa xứng đôi” ấy? Song làm sao mà tác thành được, ai cho phép họ đến với nhau. Cả một xã hội với bao định kiến không cho họ đến với nhau, không cho họ hạnh phúc trọn vẹn.

Xét đến cùng ta mới thấy Nam Cao thương người, nếu không có ngòi bút của ông thì những kẻ tha hóa như Chí Phèo, những người đàn bà khốn cùng như thị Nở chẳng bao giờ được biết đến chút ít hạnh phúc của tình ái. Họ đã gặp nhau trong một đêm “gió mát, rười rượi ánh trăng ở vườn chuối cạnh bờ sông mà những tàu chuối bị gió bay lại giãy lên đành đạch như là hứng tình”. Khung cảnh lãng mạn đang tác thành cho họ.

Chí Phèo uống rượu ở nhà Tự Lãng đã say từ nửa đường; thị Nở đi kín nước cũng hớ hênh tựa vào gốc chuối ngủ trong cái gió mát như quạt hầu. Hai con người dị dạng, hai số phận trớ trêu đã trải qua một đêm tình lãng mạn. Nam Cao dựng lên mối tình “người – ngợm” này để làm tỏa sáng tình người, tình yêu thương và sự chăm sóc ấm áp của một người đàn bà xấu xí ngoại hình nhưng lại có một tấm lòng nhân hậu.

Đêm tình ấy khiến Thị Nở xao xuyên suy nghĩ nhiều, đặc biệt về Chí Phèo, về trận ốm của Chí. Thị về nhà sau cuộc tình, sau khi dìu Chí vào nhà và trằn trọc không sao ngủ được. Thị nghĩ “thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc nhừ”. Và thị thấy phải cho hắn ăn một tí gì mới được, “Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà”. Thế là vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo để nấu cháo cho Chí. Hành thì nhà thị may lại còn.

Nam Cao đã miêu tả chiều sâu tâm lý nhân vật với những rung cảm, nhưng suy tư tinh tế. Tâm lí của thị Nở vừa rất ngô nghê lại vừa sâu sắc. Đó là rung cảm, những tình cảm tha thiết của một người đàn bà, nhất là một người đàn bà đang yêu và muốn chăm sóc cho người yêu của mình. Thị không dở hơi mà ta thấy thị rất lo cho Chí, lo với tình cảm của nhân tình, nhân ngãi. Thị nghĩ: “mình bỏ hắn lúc này cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau như “vợ chồng”. Tiếng “vợ chồng” thấy ngường ngượng mà thinh thích…”.

Thiên tính nữ, thiên chức của người đàn bà thức dậy trong thị. Thị khao khát hạnh phúc, tình yêu như mọi người,dù chỉ là làm vợ của Chí Phèo. Cho nên bát cháo hành của thị Nở đem cho Chí không chỉ là trách nhiệm mà còn là cả một tấm lòng. Hơn tất cả những người đẹp đẽ ở làng Vũ Đại, thị có một tấm lòng nhân hậu, chân thành và cao cả.

Trong thâm tâm của thị, thị lo cho Chí, một nỗi lo thực sự của những người thân yêu dành cho nhau. Thị còn thấy thương Chí: “cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình”. Đồng thời bát cháo ấy còn có tình yêu: “Thị thấy như yêu hắn: đó là cái lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người chịu ơn”.

Cho nên, thị đem cho Chí nồi cháo hành còn nóng nguyên để hắn ăn cho khỏi ốm. Hơn một chi tiết nghệ thuật, bát cháo hành của Thị Nở đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật, một hình mẫu trong văn học Việt Nam hiện đại. Bát cháo ấy do thị Nở nấu có thể chẳng mấy ngon nhưng quan trọng là nó chứa đựng tình thương, tình yêu, tình người ấm áp. Nó là sự chăm sóc ân cần mang theo những nỗi lo âu thực sự của tấm lòng thị Nở dành cho Chí.

Đặt trong quãng đời dài dặc đầy bi kịch của Chí, trong hoàn cảnh dưới đáy xã hội của Chí, bát cháo ấy là tình người hiếm hoi mà Chí nhận được, là hạnh phúc tình yêu muộn màng, quý giá vô ngần mà lần đầu tiên trong đời hắn được hưởng. Hương vị cháo hành – hương vị tình yêu tỏa sáng, vượt lên hoàn cảnh, vượt lên trên mọi định kiến của xã hội. Nó mãi mãi còn thoang thoảng, lan tỏa theo suốt cuộc đời của Chí. Một điều độc đáo ở đây là Nam Cao đã miêu tả quá trình diễn biến tâm lý nhân vật Thị Nở rất tinh tế, rất sâu sắc theo một tiến trình.

Cách miêu tả tâm lý ấy cộng hưởng cùng nghệ thuật đối lập (giữa ngoại hình và tâm hồn nhân vật Thị Nở) khiến mỗi người đọc cũng xúc động rưng rưng cùng nhân vật. Hóa ra Nam Cao không thóa mạ, hay hạ thấp con người bằng những nét vẽ ngoại hình trần trụi, mà ngược lại, ông đề cao, tôn vinh con người.

Vẻ đẹp cao quý nhất của con người là vẻ đẹp tâm hồn, là tình người, là tấm lòng cao cả. Đó là tiêu chuẩn, là thước đo giá trị người của con người. Nhìn ở góc độ đó, ta sẽ thấy Thị Nở là người phụ nữ đẹp nhất làng Vũ Đại và đẹp nhất trong văn học Việt Nam.

Nói Thị Nở đẹp không hề quá đáng bởi bát cháo hành kia đâu chỉ là tình thương, tình yêu, là sự chăm sóc ân cần mà nó có tác dụng diệu kỳ – cảm hóa con người, thức tỉnh phần người, phần nhân tính bị vùi lấp bao lâu nay trong Chí. Nói đúng hơn là thị Nở đã thức tỉnh Chí, cứu vớt Chí, làm hồi sinh tâm hồn, nhân tính trong Chí. Điều đó không phải ai cũng làm được. Và như thế, ta thấy chi tiết bát cháo hành quả thực không thể thiếu trong tác phẩm. Nó thể hiện tình cảm, tư tưởng nhân văn sâu sắc của nhà văn Nam Cao.

Ông luôn luôn băn khoăn, trăn trở về vấn đề nhân tính của con người. Ông luôn mang trong mình niềm tin mãnh liệt vào con người, vào phần lương thiện thiêng liêng, quý báu trong mỗi người. Thiên lương ấy không bao giờ bị mất đi, không một thế lực nào giết được. Nó như một thứ lửa luôn âm ỉ cháy trong trái tim của con người, kể cả những con người ở giữa vũng bùn lầy của sự tha hóa như Chí không còn chút nhân hình, nhân tính nào nữa – theo cái nhìn từ bên ngoài, từ người ngoài.

Những dòng Nam Cao miêu tả Chí Phèo ăn cháo hành có thể nói là những dòng văn sâu sắc,xúc động nhất tác phẩm. Nhìn thấy bát cháo hành “Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì…”.

Chí đi từ ngạc nhiên đến xúc động nghẹn ngào. Đây là lần đầu tiên trong đời hắn khóc sau những năm tháng bị đọa đày và cũng là lần thứ nhất trong đời hắn nhận được một thứ người ta cho, cho vô tư, không tính toán. Hắn không phải dọa nạt hay cướp giật mà vẫn có được. Quan trọng hơn, đây là lần đầu tiên trong đời Chí được một người đàn bà quan tâm, săn sóc, dành tình cảm cho; cũng là lần đầu tiên sau khi ra tù Chí được nhìn nhận như một con người, đối xử theo cách con người dành cho nhau.

Và hắn thấy thị có duyên bởi trong mắt kẻ si tình người yêu của mình bao giờ cũng đẹp. Để rồi sau đó, Chí Phèo tỉnh, tỉnh để suy tư, chiêm nghiệm. Chí thực sự đã tỉnh rượu, đã tỉnh ngộ và ý thức được về cuộc sống sau những tháng năm say triền miên, vô tận, say để không biết có sự hiện hữu của mình trên cõi đời. “Hắn thấy vừa vui, vừa buồn. Và một cái gì nữa giống như là ăn năn”.

Chí cảm nhận được tất cả vị thơm ngon của nồi cháo hành: “Trời ơi cháo mới thơm sao! Chỉ khói xông lên mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng: Những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành rất ngon…”. Hơi cháo hành, bàn tay chăm sóc và tình cảm của thị Nở đã làm cho Chí tỉnh, tỉnh để mà nhận ra mình, nhận thức về những việc mình đã làm. Hơi cháo làm Chí nhẹ người, chí khỏi ốm để ăn năn, sám hối.

Hơn lúc nào, Chí cảm thấu tình cảnh thê thảm, bi đát của mình cho nên hắn vừa vui lại vừa buồn. Vui vì tình yêu, hạnh phúc, dù muộn nhưng đã đến; buồn vì thân phận, vì cuộc sống quá loài vật của bản thân. Cháo hành rất ngon nhưng “tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo?”. Hắn hỏi rồi hắn tự trả lời: “có ai nấu cho mà ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Thê thảm quá! Bi kịch quá! Xót xa quá! Một chút gì như cay đắng nghẹn lòng nữa!

Chí nghĩ đến những tháng ngày nhục nhã bị bà ba nhà Bá Kiến – “con quỷ cái” cứ hay gọi hắn đấm lưng, bóp chân “mà lại cứ bắt bóp lên trên, trên nữa”. Hắn thấy nhục chứ sung sướng gì.”Hai mươi tuổi người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. Người ta không thích những cái người ta khinh…”.

Rõ ràng đến đây, Chí hiện lên là một chân dung con người đầy đủ, vẹn toàn có cả quá khứ, hiện tại, có những suy nghĩ sâu xa, những tâm trạng phong phú, ý thức đầy đủ về bản thân. Người nông dân lương thiện trong Chí đang trở về sau những năm tháng dài bị đày đọa. Nhưng có ai nhận thấy đâu, họa chăng chỉ có thị Nở vì thị thấy Chí rất hiền, “ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người?”

Nam Cao vốn là một nhà văn có cái nhìn đời thấu suốt, tinh tế. Ông không dừng lại ở sự thức tỉnh của Chí Phèo nhờ bát cháo hành mà ông còn đưa người đọc đi xa hơn đến chân trời ước mơ, hy vọng của Chí. Ước mơ quá khứ sống dậy, ước mơ trong hiện tại bùng cháy thiêu đốt tâm can, Chí đã thực sự hồi sinh, là một con người hoàn toàn theo đúng nghĩa.

Bát cháo húp xong, Thị Nở đỡ lấy bát và múc thêm bát nữa. Hắn thấy đẫm bao nhiêu mồ hôi, những giọt mồ hôi to như giọt nước. Chí biết mình đã đến cái dốc bên kia của cuộc đời và chí thấy “thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn sao người khác không thể… Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Hạnh phúc chớm nở và hy vọng được nhen lên rồi bùng cháy mãnh liệt. Chí khao khát cuộc đời lương thiện, muốn làm hòa với mọi người.

Thị Nở chính là cầu nối, là hy vọng, mở ra cánh cửa của thế giới lương thiện vẫn đóng im ỉm cho Chí. Bát cháo hành của tình yêu, tình người đã làm tươi lại, thanh lọc tâm hồn Chí. Cái ước mơ của Chí rất giản dị mà thiêng liêng biết bao. Nó mang tư tưởng nhân văn sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao. Bởi đã là con người, dù dị dạng, dù tha hóa nhưng họ vẫn có quyền được sống lương thiện, vẫn không thôi ước mơ,không hết sự khát thèm cuộc đời bình dị trong hạnh phúc và tình yêu.

Song xã hội lương thiện mà Chí Phèo thấy bằng phẳng kia không hề bằng phẳng. Nó còn bao định kiến, bao sự cách ngăn, bao điều nghi kỵ. Tất cả đã không cho Chí một cơ hội nào trở về cuộc đời bình thường như bao người bình thường. Bị thị Nở cự tuyệt, hắn phẫn uất,cùng cực tìm đến rượu. Nhưng hắn “càng uống lại càng tỉnh ra”. “Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành”. Hơi cháo hành ấy là dư âm của bát cháo kia xuất hiện lần cuối để giữ Chí tỉnh táo, để hắn tự ngấm, tự thấm bi kịch nhân sinh cuộc đời.

Tất cả hy vọng của Chí đã tan biến theo làn khói hành mong manh, hư ảo. Nhưng hắn không thể sống như trước nữa vì hắn đã tỉnh, hắn vẫn không thôi ước mơ. Chí khóc rưng rức trong tuyệt vọng,trong những vết cứa, vết xước của tội ác trong tim, hắn biểu hiện lên khuôn mặt dị dạng của hắn vĩnh viễn không thể mất đi. Tất cả đưa Chí Phèo đến kết cục bi thảm, cùng cực khiến người đọc bao không thôi day dứt trong ám ảnh về những câu nói của Chí: “Ai cho tao lương thiện?… Tao không thể làm người lương thiện nữa…”

Mỗi một tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, song chỉnh thể ấy chỉ có được từ sự phối hợp hài hòa các yếu tố nhỏ hơn, thậm chí chỉ là một chi tiết. Một chi tiết nhiều khi mang sức nặng, chứa toàn bộ tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm.

Chi tiết bát cháo hành mà nhân vật thị Nở mang cho Chí Phèo trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao thật ấn tượng, mang nhiều ý nghĩa nghệ thuật sâu sắc. Nó thúc đẩy sự phát triển, tạo bước ngoặt cho câu truyện, đồng thời cũng để khắc họa sắc nét, tinh tế thế giới tâm hồn, diễn biến tâm trạng phong phú, phức tạp của các nhân vật.

Từ đó, chi tiết làm bật nổi tính cách và bi kịch của các nhân vật ấy như những hồi chuông gióng giả, vang vọng đầy ám ảnh về con người. Bát cháo hành của thị Nở có thể không thể toàn vẹn, thơm tho như chính con người nhân vật nhưng nó là bát cháo của tình yêu thương, của tình người ấm áp, của tình cảm nhân đạo sâu sắc và mối quan hoài thường trực mà nhà văn Nam Cao dành cho con người, nhất là những người có số phận bi kịch. Chính cái nhỏ nhoi, bình dị ấy là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên tầm vóc kinh điển cho kiệt tác Chí Phèo.

Mời bạn tham khảo 🌜 Phân Tích Diễn Biến Tâm Trạng Chí Phèo 🌜 15 Bài Mẫu Hay

Bài Phân Tích Đoạn Trích Chí Phèo Thức Tỉnh Đặc Sắc – Mẫu 6

Đón đọc bài phân tích đoạn trích Chí Phèo thức tỉnh đặc sắc dưới đây giúp các em học sinh trau dồi cho mình những ý văn hay và giàu ý nghĩa.

Tình yêu – một chủ đề quen thuộc nhưng không bao giờ cũ trong văn chương. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ lấy tình yêu làm cảm hứng sáng tác cho mình. Họ ca ngợi, họ tôn vinh tình yêu như những thiên thần có cánh. Nhưng Nam Cao lại khác, với tình yêu nghiệt ngã của Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” viết về người nông dân trong xã hội cũ, ông đã cho mọi người chứng kiến một sự thức tỉnh lương tri đầy nhân văn.

Ở đó hạnh phúc có, khổ đau cũng có. Nhưng trên hết, tình yêu ấy còn là thông điệp sâu sắc mà nhà văn muốn nhắm đến cả một giai cấp, một tầng lớp người trong xã hội. Tình yêu ấy, đẹp thật đẹp mà đau cũng thật đau khiến cho người trong cuộc là Chí Phèo đã vật lộn và cuối cùng đi đến cái chết. Nhưng ít nhất, trước khi chết, Chí Phèo cũng đã kịp hưởng thụ hương vị của tình yêu dù chỉ là trong những ngày ngắn ngủi và thức tỉnh lương tri con người.

Chí Phèo chỉ là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ được dân làng nuôi nấng. Lớn lên Chí làm người ở cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị bà ba dâm đãng hãm hại khiến Bá Kiến ghen đẩy vào tù. Những năm tháng tù đày cùng với lòng thù hận đã khiến Chí từ một chàng thanh niên hiền lành tốt tính trở thành một con qủy dữ khi trở về làng.

Chí đắm mình trong những cơn say. Cho đến một ngày Chí gặp Thị, tình yêu sét đánh gắn kết hai con người với nhau. Nhưng trong lúc đang lâng đang hạnh phúc thì Thị nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí khiến Chí một lần nữa rơi vào tuyệt vọng. Lòng hận thù trong Chí lại nổi lên và Chí quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình để được làm người lương thiện.

Những diễn biến trong cuộc đời Chí chẳng khác nào tấm bản đồ lúc lên lúc xuống. Và trong đó, những phút giây được ở cạnh Thị Nở chính là đoạn đường đẹp nhất, sáng nhất trong cả tấm bản đồ chằng chịt những nét đứt gãy khúc khuỷu, gập ghềnh.

Cuộc gặp gỡ của Chí và Thị chỉ là sự tình cờ giữa hai con người mê muội. Chí lúc tỉnh lúc say, mà hầu như là chẳng tỉnh bao giờ. Còn thị cũng ngù ngờ, dở hơi. Đã thế, nhà văn lại ban cho ả một “nhan sắc” “kinh tởm” mà ông tóm gọn trong mấy từ “xấu ma chê quỷ hờn”. Ấy vậy mà khi gặp nhau, cái xấu ấy lại làm một cho một người đàn ông chết mê chết mệt.

Có thể vì bản năng, vì dục vọng thể xác mà họ ngã vào nhau. Nhưng sau khi thỏa mãn, họ lại dành cho nhau những thứ tình cảm thật “lạ lùng”. Lạ đến mức người đàn bà dở hơi ấy đã xác định được đây chính là cuộc sống “vợ chồng”. “Hai từ vợ chồng nghe ngường ngượng nhưng mà thinh thích”. Đây đúng là tâm lý của kẻ mới yêu, đang yêu và đang hạnh phúc.

Còn Chí, sau trận ấy, Chí bị ốm. Một trận ốm nặng mà nếu không có Thị, Chí sẽ chết mất. Thị dù có dở hơi, nhưng tấm lòng vẫn thánh thiện khi dành cho Chí một bát cháo hành với ý nghĩ giúp Chí mau khỏe mạnh. Có lẽ Thị là người cuối cùng còn sót lại trong xã hội này còn nhìn nhận đến Chí. Hoặc do thị ngù ngờ nên không phân biệt được đâu là người, đâu là quỷ dữ nên mới chấp nhận con người Chí. Nhưng dù gì đi chăng nữa, những ân cần săn sóc của Thị cũng đã mang một làn gió mới đến với cuộc đời Chí.

“Bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan hắn lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!”.

“Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến.

Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Những dòng suy nghĩ của Chí cho thấy rằng Chí hoàn toàn rất khôn ngoan, rất có ý thức sống. Chỉ là do trước đây vì đắm chìm trong men rượu nhiều quá nên Chí không còn nghĩ ngợi tới nữa. Một con người đã trải qua quá nhiều biến cố trong cuộc đời, dòng suy nghĩ hẳn là chín chắn và thấu đáo hơn rất nhiều.

Chí biết tiếc cuộc sống, biết nhận ra cuộc đời mình lúc này đang ở trong tình trạng như thế nào và mình cần phải sống ra sao. Chí buồn vì đã để cuộc đời chìm trong cơn say quá nhiều. Và cũng hận khi đã tự chôn vùi đời mình trong thù hận. Những dòng suy nghĩ ấy làm Chí bừng tỉnh và sống lại ước mơ nhỏ bé nhưng giản đơn và thánh thiện ngày nào của mình. Chí ước có một gia đình nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn. Vợ dệt vải thêu thùa. Cuộc sống ấy tuy nghèo, tuy thiếu thốn nhưng sẽ hạnh phúc biết bao.

Và giờ đây Chí muốn tiếp tục thực hiện ước mơ ấy cùng Thị Nở. Chí sẽ làm lại từ đầu, làm hòa với mọi người. Chí đang rất tỉnh. Nếu lúc trước Chí say và ngã vào Thị vì Chí không biết rằng người đàn bà ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hơn.

Nhưng lúc này, khi hoàn toàn tỉnh táo, Chí không những chấp nhận thị mà còn yêu thị. Bởi chỉ có tình yêu mới khiến con người ta cảm hóa những cái xấu thành cái đẹp. Chí thấy thị có duyên lắm. Và Chí đang rất vui khi được ở cùng thị. Chí đâu có say. Chính vì Chí tỉnh nên Chí mới cảm nhận được những hương vị của cuộc sống, của tình yêu.

Những chi tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nữa của Chí. Đó là lòng nhân hậu lớn lao vô cùng. Bởi trong làng ai cũng nhìn Thị bằng con mắt khinh thường và cho rằng Thị chỉ là một người dở hơi. Mà đúng là thị dở thật. Cũng chính vì dở nên Thị mới để cho Chí ngã vào. Nhưng khi tỉnh táo, tình thế đã đảo ngược lại. Lúc này Chí là người khôn ngoan và hoàn toàn bình thường. Nhưng Chí không hề chê bai Thị, cũng chẳng xua bỏ thị. Mà ngược lại, Chí còn muốn gắn bó cả đời với thị, cùng thị xây dựng ước mơ ngày nào còn dang dở của mình.

Nhưng rồi, hạnh phúc ấy chẳng được bao lâu, những dự định của Chí cũng vụt tắt khi Thị trở về nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí. Chí một mình ở lại trong căn lều in dấu bao kỷ niệm về tình yêu của mình. Thất vọng, khổ đau và lòng thù hận lại nổi lên. Nhưng lần này, Chí tỉnh rồi, Chí không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Chí đến thẳng nhà Bá Kiến để đòi lại quyền sống của mình.

Sống nhưng lại là chết. Chết để giữ được bản chất lương thiện của bản thân. Chí giết Bá Kiến rồi cũng tự kết liễu cuộc đời mình. Phải đi đến quyết định ấy, hẳn là Chí đau khổ lắm. Nhưng với Chí lúc này, đó là cách duy nhất để không quay lại cuộc sống nghiệt ngã như trước kia nữa.

Như vậy, sau khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí đã liên tiếp xảy ra hai biến cố lớn. Một là tỉnh – tỉnh dậy sau những cơn say dài triền miên. Tỉnh để sống, để yêu và hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy không được bao lâu thì biến cố thứ hai lại xảy đến khi thị trở mặt với Chí, khiến Chí tiếc nuối khôn nguôi. Trong cơn tuyệt vọng Chí giết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình. Không phải vô tình mà Nam Cao lại dàn dựng nên những dòng tâm lý trắc ẩn cho Chí, mà trong đó là những thông điệp sâu xa mà ông muốn gửi gắm đến người đọc.

Thứ nhất là hình ảnh về người nông dân nghèo khổ, bất hạnh bị xã hội đẩy đưa đến bước đường cùng. Đến ngay cả cái hạnh phúc của bản năng con người họ cũng không có được. Cho đến khi có được thì lại nhanh chóng vụt bay cũng chỉ vì định kiến xã hội.

Thứ hai, nhà văn muốn đề cao nhân phẩm, phẩm chất của con người. Chí dù say, nhưng khi tỉnh hắn vẫn luôn mang một tâm hồn trong sáng với tấm lòng nhân hậu tinh khiết. Đặc biệt, là Thị Nở – bên trong người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ấy lại chính là một tâm hồn cao cả. Suýt chút nữa Thị cũng đã bị vùi dập giống như Chí. Hai cong người cùng chung cảnh ngộ ngã vào nhau, cùng làm cho nhau tìm lại chính bản thân mình.

Thứ ba, Nam Cao đã đưa người đọc đến với một tầm cao mới của tình yêu. Đó là tình yêu không chỉ dừng lại ở xác thịt mà ở tình yêu còn là sự đồng điệu của hai tâm hồn. Yêu không vì vẻ bề ngoài, cũng không vì vật chất cao sang. Yêu chỉ vì yêu, vì trái tim. Nhưng dù yêu đến thế nào đi nữa, tình yêu cũng không thể vượt qua giới hạn của thực tế. Ở đây, thực tế của Chí Phèo – Thị Nở chính là những định kiến nghiệt ngã về một tên quỷ dữ đội lốt người mang tên Chí Phèo.

Thứ tư, là sự minh mẫn, sự thức tỉnh trong tình yêu. Tình yêu dù vui buồn hay hạnh phúc, những thứ mà con người ta cần phải giữ vững là tinh thần, là trí óc. Ở đây, sau khi thức tỉnh, Chí vẫn giữ vững tình cảm của mình với thị. Ngay cả sau khi bị Thị chối từ, Chí vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Chính vì thế Chí mới đi đến quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.

Như vậy, chỉ bằng một đoạn văn ngắn kể lại diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, nhà văn đã gửi gắm những thông điệp có ý nghĩa sâu xa tới người đọc. Nam Cao không còn, và cuối tác phẩm Chí Phèo cũng chết nhưng những dòng xúc cảm của một con người lần đầu tiên tỉnh rượu đã đánh động tâm hồn mọi người tự ý thức mình, tự nâng niu, trân trọng những gì mình đang có trong cuộc sống cũng như trong tình yêu.

Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích Chí Phèo Trước Khi Vào Tù 🌹 10 Bài Văn Hay Nhất

Phân Tích Chí Phèo Thức Tỉnh Nâng Cao – Mẫu 7

Với bài phân tích Chí Phèo thức tỉnh nâng cao dưới đây, các em học sinh có thể luyện tập nắm vững phương pháp phân tích nhân vật văn học.

Cùng với “Đời thừa”, “Giăng sáng” thì “Chí Phèo” là một trong những tác phẩm thành công của nhà văn Nam Cao. Ngòi bút hiện thực phê phán cùng với tinh thần nhân đạo sâu sắc được thể hiện rõ nét qua nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm. Chí Phèo được biết đến là con quỷ dữ của làng Vũ Đại – người bị cuộc đời cự tuyệt của cuộc đời. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy một người tưởng chừng bất hạnh ấy vẫn mong ước về cuộc sống rất “đời thường” với những hạnh phúc nhỏ nhoi.

Chí Phèo là một đứa trẻ bị bỏ rơi, sau đó được một anh đi thả ống lươn nhặt được ở cái lò gạch cũ. Tuổi thơ Chí qua tay hết người này đến người kia và lớn lên trở thành một anh canh điền cho Bá Kiến. Sau đó bị vợ Bá Kiến dụ dỗ rồi khiến hắn ghen mà đẩy vào tù. Và một thằng lưu manh ra đời từ một anh nông dân sau bảy tám năm trong nhà tù thực dân.

Khi ra tù thì Chí đã tìm đến nhà Bá Kiến nhằm trả thù. Lúc này thì bản chất của một tên lưu manh biến chất được thể hiện trong cách chửi rất bài bản ngoa ngoắt của hắn “…Hắn vừa đi lại vừa chửi, bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn lại chửi. Hắn chửi trời có hề gì vì trời đâu có của riêng nhà nào…”.

Từ dáng hình gớm ghiếc đáng sợ của hắn cho đến cách rạch mặt ăn vạ đều cho thấy cuộc sống “khác người” của hắn. Chính xã hội phong kiến mà đại diện chính là Bá Kiến đã hoàn thành nốt quá trình lưu manh hóa để biến Chí Phèo thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Thức tỉnh nhưng cũng chính là lúc hắn phải chịu thêm một bi kịch mới, đó là chính là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy lần đầu tiên hắn tỉnh dậy sau một cơn say dài thì điều đầu tiên là “lòng mơ hồ buồn”. Hắn bắt đầu nhận thức, hắn bắt đầu tỉnh táo dần. Nhưng nỗi buồn ấy có phần mông lung, chưa rõ ràng.

Tiếp đến đó chính là “chao ôi là buồn”. Đây là một nỗi buồn có phần thấm thía day dứt đối với hắn. Nếu ở trên nỗi buồn chưa có nguyên nhân thì ở đây nỗi buồn ấy lại có nguyên nhân rõ ràng, đó là hắn đã nghe được tiếng chim hót “Tiếng chim hót ngoài kia sao vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…”.

Những âm thanh của cuộc sống bình dị nhưng đối với Chí Phèo thì những âm thanh ấy lại quý giá vô cùng. Chính âm thanh ấy đã đưa Chí Phèo về với thực tại.

Và tiếp theo thì hắn “lại nao nao buồn”, chính cái nao nao buồn ấy đã diễn tả tâm trạng xốn xao khiến hắn thôi thúc không ngừng suy nghĩ. Hắn bắt đầu nhớ về ước mơ của chính mình “nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như đã có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn làm thuê, còn vợ dệt vải. Chúng lại bỏ thêm một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm…”. Hắn chợt nhớ đến cái ước mơ bé nhỏ đến tội nghiệp.

Và hắn bắt đầu “buồn thay cho đời”, nỗi buồn ấy mang tính khái quát hơn, hắn buồn cho cuộc đời hắn, buồn cho kiếp làm người của hắn. Còn gì buồn hơn, đau đớn hơn khi chính mình lại buồn, lại chán chê cho chính cuộc đời mình. Và hắn đã biết sợ. Hắn sợ tuổi già, sợ đói rét, sợ ốm đau. Bởi lẽ hắn ý thức được cái nghề rạch mặt ăn vạ không thể kéo dài mãi.

Hắn thấy mình đã ở bên kia cái dốc của cuộc đời nhưng hắn vẫn chẳng có gì ở trong tay. Khi phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo, ta thấy nỗi sợ chính là dấu hiệu rõ ràng nhất chứng minh hắn đã bắt đầu trên những nấc thang đầu tiên để quay trở lại làm người. Nỗi sợ đã đánh thức phần người trong hắn.

Nối tiếp tâm trạng lần đầu tiên của Chí Phèo sau khi tỉnh dậy thì chính là tâm trạng khi thị Nở quay lại trong quá trình thức tỉnh của nhân vật. Đầu tiên, hắn ngạc nhiên. Ngạc nhiên khi thấy thị trở lại và trên tay bưng bát cháo hành. Vì lần đầu tiên trong cuộc đời hắn được người ta cho một thứ gì đó mà không phải dọa nạt hay cướp giật, lần đầu tiên trong cuộc đời hắn được chăm sóc.

Đó là lần đầu tiên trong cuộc đời hắn nhận được sự yêu thương và cũng là lần đầu tiên trong cuộc đời hắn nhận được sự quan tâm, săn sóc từ một người phụ nữ. Bởi ngay chính người mẹ sinh ra hắn cũng chưa một lần chăm sóc hắn. Hay chính bà Ba tìm đến hắn thì cũng chỉ để thỏa mãn dục vọng chứ không yêu thương gì hết.

Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy bát cháo hành thị Nở bưng đến cho hắn tuy giản dị nhưng xuất phát từ sự tự nguyện, chân thành. Vì vậy, nó đáng quý biết bao. Như bị lay động, hắn đã khóc. Mắt hình như hơi ươn ướt. Hắn vô cùng xúc động, giọt nước mắt ấy xuất phát từ tận đáy lòng của hắn. Giọt nước mắt ấy minh chứng cho sự trân quý tình người mà hắn mới vừa nhận được. Giọt nước mắt thức tỉnh, lấn át phần con trong hắn. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo mà Nam Cao muốn truyền tải. Đó là niềm tin vào bản chất của con người.

Quá trình thức tỉnh của Chí Phèo không chỉ thể hiện qua tâm trạng, hành động và cảm xúc mà còn thể hiện qua cách hắn thưởng thức bát cháo hành mà thị Nở làm cho hắn. Đó là một chuỗi hành động nối tiếp, nhìn rồi cầm, sau đó ngửi và húp và ngon. Quá trình ấy được miêu tả một cách cụ thể, tỉ mỉ. Điều ấy cho thấy sự trân trọng của Chí Phèo đối với “bát cháo tình người” mà hắn mới vừa nhận được.

Hắn đã cảm nhận bát cháo bằng tất cả giác quan. Và sau này, mùi cháo hành ấy có lẽ sẽ theo hắn suốt cả cuộc đời. Bởi vì bát cháo hành ấy không đơn thuần là bát cháo giải rượu mà đó chính là biểu tượng cho tình thương, sự chăm sóc, quan tâm cho tình yêu, tình người mà hắn vừa nhận được. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy đối với người bình thường nhận được tình yêu thương cũng không dễ dàng gì, thì đối với Chí Phèo, đó là một món quà vô giá. Vì vậy, đó là một ký ức không thể nào quên, như một sự nhắc nhở về thiên lương trong hắn vậy.

Hắn đã tỉnh, vì hắn đã trở lại nên biểu hiện tiếp theo được thể hiện rất rõ ràng đó chính là khát khao mong muốn được lương thiện của Chí Phèo. Hắn như muốn trở thành đứa trẻ thơ. Còn có cả “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn lại muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ là người mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được.” và rồi “Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng và thân thiện của những người lương thiện.”

Có thể thấy những suy nghĩ ấy đã thể hiện ước muốn quay trở lại làm người lương thiện của hắn. Lúc này, hắn khát khao trở về cuộc sống bình thường. Chính tình yêu thương của thị đã vực dậy tình cảm, tình người trong hắn bấy lâu đã bị vùi lấp bởi bộ mặt con quỷ dữ. Thị đã làm hồi sinh bản chất lương thiện trong Chí Phèo và mở ra cho hắn một hy vọng, một ý nghĩa trong cuộc sống tăm tối của hắn. Qua đó, Nam Cao đã đề cao giá trị nhân đạo ở đây chính là niềm tin vào bản chất, thiên lương của con người.

Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo, ta thấy khi Chí bị cự tuyệt quyền làm người thì một trong những nguyên nhân chính là thời điểm thị rời bỏ hắn.

Dường như đó chính do xuất phát từ lời nói của bà cô thị Nở rằng “Cũng có lẽ bà tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cuộc đời dài dằng dặc của bà, không có chồng, rồi bà thấy chua xót lắm. Bà uất ức, uất ức mà không ai không biết” và “Ai đời lại còn đi lấy chồng! Ừ! Mà có lấy thì lấy ai chứ?… Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại đâm đầu vào đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có cái nghề là rạch mặt ra ăn vạ.”.

Thông qua lời nói cho thấy lời nói của bà cô thị Nở gay gắt là đại diện cho định kiến xã hội, cho những quan niệm cổ hữu, hà khắc đã ăn sâu vào suy nghĩ của những con người lạc hậu, ích kỷ, hẹp hòi. Bà cô không muốn cho thị Nở đến với Chí Phèo là Chí Phèo không có gia đình, không có công việc ổn định. Không chỉ vậy, bà ngăn cản tình yêu giữa Chí Phèo và thị Nở còn vì sự ganh tị. Tình thương đã mong manh dễ tan vỡ, không dễ gì có được đã bị định kiến kia làm vỡ vụn tình yêu thương.

Thị Nở như chiếc phao cứu sinh cuối cùng mà hắn là người chết đuối vừa níu được nên hắn tìm mọi cách để níu giữ cơ hội mong manh để quay trở lại làm người lương thiện. Hắn lại đi uống rượu. Hắn tìm đến men rượu để quên đi cảm giác lúc này. Nhưng càng uống hắn chỉ càng cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng. Càng uống hắn lại càng tỉnh và càng cảm thấy buồn…

Hắn thoáng thấy hương cháo hành và thế là hắn ôm mặt khóc. Lần này hắn khóc không phải vì bát cháo hành mà là vì hắn tiếc nuối cho tình cảm, tình yêu thương mà hắn nhận được, đó cũng là giọt nước mắt bất lực, chính xã hội ấy đã đẩy hắn vào con đường bi kịch này. Đến khi hắn muốn quay trở lại thì cũng chính xã hội ấy lại không chấp nhận hắn. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy nguyên nhân chính khiến hắn thành ra như hôm nay chính là cái mà người ta hay gọi là giai cấp thống trị – bá Kiến.

Tác giả đã khắc họa đặc sắc tâm trạng của Chí Phèo khi hắn trên đường đến nhà bá Kiến, để đòi lương thiện. Trong cơn say, Chí Phèo muốn đi đến nhà thị Nở nhưng trong vô thức hắn lại đi thẳng đến nhà bá Kiến. Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiếm bởi lẽ dường như Chí cũng ý thức được rằng chính bá Kiến là nguyên nhân đẩy hắn vào bước đường này.

Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy hắn tìm đến nhà bá Kiến trong một tư thế rất cao ngạo. Nhưng bá Kiến lại tưởng Chí Phèo đến xin tiền nên “ném bẹt năm hào xuống đất”. Nhưng Chí Phèo không đến đây xin tiền mà đến để đòi lương thiện, đòi lại quyền làm người của hắn. Hắn muốn trở lại Chí Phèo như trước kia. Đó chính là lý do vì sao hắn lại cao ngạo đến thế.

Vì vậy, khi bá Kiến ném cho hắn năm hào, hắn cảm giác rất tức tối. Hắn đã dõng dạc mà nói “Tao muốn làm người lương thiện” – câu nói mang tính khẳng định ước muốn quay trở về làm con người bình thường, trở về làm người lương thiện như trước đây. Càng xót xa hơn khi “Ai cho tao lương thiện?” được cất lên – câu hỏi đầy đau đớn và chua xót…

“Tao không thể là người lương thiện nữa”. Và chính Chí Phèo cũng ý thức rõ rằng hắn không thể quay về được nữa. Bởi chính vì không thể tiếp tục làm con quỷ dữ, hắn lại càng không thể quay trở về làm chàng trai Chí Phèo hiền lành của trước đây, nên hắn đã giải quyết bằng một con đường khác. Chí Phèo giết chết bá Kiến và tự sát. Hành động giết chết bá Kiến của Chí Phèo như một sự “trả thù” cho kẻ đã đẩy hắn vào bước đường cùng không lối thoát.

Và dường như cũng chỉ có Chí Phèo – kẻ say nhất, điên nhất của làng Vũ Đại mới dám làm điều đó. Và hành động tự sát của Chí Phèo vừa là cách giải thoát cho cuộc đời hắn, vừa thể hiện được một bi kịch đau đớn đến tuyệt vọng.

Bởi lẽ sau khi cảm nhận được tình yêu thương, sau khi ước muốn được làm người lương thiện trỗi dậy trong Chí thì hắn không thể nào quay về tiếp tục trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại nữa. Hắn cũng chẳng còn có thể làm người lương thiện một lần nữa nên cái chết đối với hắn là cách giải quyết tốt nhất cho cuộc đời Chí Phèo trong hoàn cảnh xã hội.

Cái chết ấy còn cho thấy sự tuyệt vọng, đau đớn và đầy bất lực bởi khi Chí Phèo chết đi dường như không ai đau xót cho hắn mà họ còn cảm thấy mừng thầm “Trời có mắt đấy, anh em ạ!” , “Thằng nào chứ hai thằng ấy chết thì không có ai tiếc!”. Bởi lẽ họ cảm thấy chính cái chết của hắn như một sự giải thoát cho cả làng Vũ Đại. Nên họ chỉ đứng đó nhìn Chí Phèo “đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi.”.

Thật vậy, lúc hắn thức tỉnh cũng chính là lúc hắn phải biến mất. Lúc hắn muốn làm người cũng chính xã hội đã ép hắn điên cuồng khao khát lương thiện. Nhưng đổi lại hắn lại nhận được những cái nhìn thờ ơ của bao người. Không một ai chấp nhận cho hắn tồn tại trong xã hội này nữa, và cũng không một ai quan tâm đến cái khát khao được sống của hắn.

Quá trình thức tỉnh diễn ra lại là mở đầu cho một bi kịch khác, đau đớn hơn, tàn nhẫn hơn. Nam Cao đã thật sự thành công trong việc mang đến cho người đọc những giá trị tư tưởng cao cả, mới mẻ và độc đáo thông qua nhân vật điển hình Chí Phèo.

Nam Cao đã thể hiện sự thương cảm và tấm lòng trân trọng sâu sắc với bi kịch của những người nông dân trong xã hội cũ. Bên cạnh đó, nhà văn cũng khẳng định sức sống bất diệt của thiện lương. Mong muốn một cuộc sống đời thường hạnh phúc chính là bản tính tự nhiên tốt đẹp của con người. Đây là khát khao mà không một thế lực nào có thể hủy diệt được.

Thông qua việc phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo, ta còn thấy Nam Cao đã nhắc nhở và kêu gọi mọi người hãy tin vào bản chất thiện lương tốt đẹp của mỗi người, đồng thời hãy xây đắp phần người trong mỗi con người để cuộc đời sẽ ngày một đẹp hơn.

Bài Phân Tích Chí Phèo Khi Thức Tỉnh Chọn Lọc – Mẫu 8

Bài phân tích Chí Phèo khi thức tỉnh chọn lọc và chia sẻ dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em học sinh trong quá trình làm bài.

Nguyễn Minh Châu đã có nhận xét về Nam Cao: “Cả đời cầm bút của Nam Cao ông chỉ đau đáu nhìn vào nhân cách của con người”. Điều này thể hiện rõ trong nhiều tác phẩm của Nam Cao. “Chí Phèo” là một ví dụ điển hình. Qua việc miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Chí Phèo từ lúc gặp Thị Nở đến khi kết liễu cuộc đời trong truyện ngắn cùng tên, tác giả đã thể hiện tài năng, bản lĩnh nghệ thuật của mình, đồng thời cũng bộc lộ rõ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của ông.

Trước khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí Phèo đã trải qua hai chặng đường: làm thuê cuốc mướn và ở tù rồi ra tù. Hắn vác cái mặt “cơng cơng, cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn” về làng, cam lòng làm tay sai cho kẻ thù – Bá Kiến đã gieo rắc tai họa kinh hoàng cho dân làng Vũ Đại. Và rồi vào đêm trăng định mệnh của số phận, hắn đã gặp Thị Nở, mở đầu cho một giai đoạn mới trong cuộc đời Chí.

Sau cái đêm ấy thì Chí ngã bệnh. Hắn chưa bệnh bao giờ. Thế mà giờ đây lại yếu đến thế. Buổi sớm mai thức dậy, tâm trạng của Chí được miêu tả thật tài tình qua ngòi bút của Nam Cao. Mở đầu là “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” và rồi “tiếng của anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, rồi những người đàn bà đi chợ Nam Định.

-Vải hôm nay bán mấy?

-Kém ba xu dì ạ.

Tất cả những cái đó đột nhiên vang vang trong lòng Chí. Tất cả rất quen mà với hắn, chợt trở nên mới, nên lạ. Vì hôm qua, hôm kia, cả bao hôm trước nữa. Chí có nghe những tiếng ấy bao giờ đâu khi đang chìm trong những cơn say bất tận của cuộc đời. Giờ đây, tỉnh lại, tiếng cuộc đời, tiếng con người đang lăn náo nức, cứ dội vang mãi trong lòng Chí. Phải rồi! Tiếng của cuộc đời lương thiện đang vang lên trong anh. Con quỷ dữ sau cơn ốm bệnh dường như đã lấy lại được một phần con người, một phần hiền lành lương thiện của anh Chí hôm nào.

Chí lắng nghe tất cả, thế rồi bỗng thấy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”, lát nữa lại buồn: “Buồn thay cho đời”. Một cảm giác lạ đang len lỏi trong lòng Chí Phèo. Tiếp sau nỗi buồn là nỗi lo sợ, sợ đói, rét, cô độc, “Cô độc ư?” Cái này còn đáng sợ hơn cái đói và cái rét. Chí đã dần nhận ra thảm cảnh của đời mình: bơ vơ, lạc lõng không ai thân thích, không ai nương tựa.

Trong nỗi sợ ấy, Chí cũng đang hình dung lại hình như ngày xưa hắn cũng có một ước mơ: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, lại có một con lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng”. Một ước mơ nhỏ nhoi thôi tầm thường lắm nhưng rất con người. Trước đây thì còn là một anh Chí “hiền như cục đất”, biết “nhục chớ yêu thương gì” khi bị bà Ba bắt lên bóp chân, ước mơ ấy hiện hữu trong anh. Trải qua những tháng ngày tăm tối, u mê, ước mơ đã tắt lịm hẳn, nhường chỗ cho cái ác, cái thú tính lên cao.

Giờ đây, sau cơn say khi một phần “người” đã trỗi dậy, ước mơ ấy đã lại trỗi dậy theo, tha thiết, cồn cào. Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo được Nam Cao khắc họa thật đậm nét. Buồn, lo sợ, ước mơ. Đó là những nét tính cách rất người, đặc biệt là ước mơ rất đời thường ấy. Trong lúc Chí Phèo đang ngổn ngang trong bao tâm sự, nỗi niềm thì chất xúc tác đưa hắn trở lại làm người xuất hiện. Đó là Thị Nở. Thị đến mang cho hắn bát cháo hành giải cảm. Và chính liều thuốc giải độc này góp phần thức tỉnh con người bấy lâu bị chìm lấp trong Chí Phèo.

Phải nói rằng Nam Cao đã rất dụng công khi miêu tả hành động Chí ăn cháo. Đầu tiên là hắn “ngạc nhiên” vì trước đây hắn chỉ toàn cướp “chứ có xin của ai hay ai cho bao giờ” lần này thì lại được “một người đàn bà cho ngạc nhiên”, rồi cảm động, “hắn thấy mắt mình như ươn ướt”.

Và rồi Chí đã đón nhận bát cháo từ tay Thị Nở như một báu vật. Hắn chưa vội vã ăn mà ngửi đã, sau đó mới “húp một húp” – cách thức hành động này của Chí Phèo đâu còn là ăn nữa mà là thưởng thức và tận hưởng, thưởng thức và tận hưởng hương vị của cuộc đời và của tình người. Sau đó, lần đầu tiên ta thấy Chí Phèo triết lí: “Những con người chưa bao giờ ăn cháo hành không biết cháo rất ngon”. Ngon cũng là phải vì Chí có được ăn bao giờ đâu “mà có ai nấu cháo Chí ăn”.

Chính vì thế, Chí Phèo đã rất trân trọng vật báu này. Bát cháo hành nồng đượm hương vị tình đời, tình người xuất hiện giữa mênh mông bao nhiêu là rượu trong cuộc đời Chí Phèo. Cũng như Thị Nở vậy, tình yêu giữa Thị xuất hiện như ánh chớp lóe lên giữa cuộc đời dày đặc những số không to tướng của Chí Phèo; không cha mẹ, không gia đình, không quá khứ, không hiện tại, không tương lai.

Nếu như đêm trăng ấy như một ý kiến đã nhận xét, Thị chỉ khơi dậy bản năng sinh vật trong con người Chí thì hôm nay, với bát cháo hành, Thị đã cứu rỗi tâm hồn Chí bằng tình yêu của mình. Ăn xong cháo, Chí thấy “thèm làm hòa với mọi người biết bao”, “thèm làm người lương thiện” biết bao, và Chí nhận ra rằng Thị chính là cái cầu nối nối hắn, giúp hắn quay trở lại với xã hội bằng phẳng của những con người lương thiện.

Thị Nở vừa là người tình, lại vừa như người mẹ soi đường cho hắn, vì thế hắn đã muốn “làm nũng với Thị như mẹ” đấy thôi. Và thế là hai con người khốn khổ khốn nạn đã kết hợp lại với nhau trong cái khát vọng hạnh phúc, và muốn làm người lương thiện, bình thường.

Khác với Tràng trong Vợ Nhặt của Kim Lân, khi có được hạnh phúc, Tràng cảm thấy “nên người” hơn, còn Chí, người ta đã tước đoạt ngay hạnh phúc của anh. Sau những ngày yêu thương hạnh phúc. Nghe lời bà cô. Thị Nở đã bỏ rơi Chí không thương tiếc. Cái ao ước được “yêu khi tỉnh” sau những tháng ngày “ăn trong khi say, ngủ trong khi say” của Chí đã bị định kiến xã hội ngăn cản.

Đau đớn thay Chí Phèo, và anh lại tìm về với rượu. Thế nhưng “hơi rượu không sặc sụa mà thoang thoảng thấy hơi cháo hành” anh càng uống lại “càng tỉnh ra”, “tỉnh ra! Chao ôi, buồn” Chí đã nhận ra cái bi kịch cự tuyệt quyền sống quyền làm người của mình. Thế là anh vác dao đến nhà “con đĩ Nở, giết hết nó và cả con khọm già nhà nó” Thế nhưng, lí trí lại dẫn anh sang nhà Bá Kiến.

Những câu đối đáp của anh và Bá Kiến xốn xang lòng ta đến lạ: “Tao không có đến đây để xin năm hào. Tao muốn làm người lương thiện!” “Ai cho tao lương thiện”, “tao không làm người lương thiện nữa được rồi!”. Và Chí đã đâm Bá Kiến rồi tự tử. Bá Kiến chết vì đã đoán lầm Chí Phèo, đó không là một tên say nữa mà đó là một con người khát khao quyền sống, khao khát lương thiện.

Ai bảo Chí Phèo say khi đến nhà Bá Kiến? Say ấy chỉ say phần “con” để tỉnh thức phần “người”, mà chiến đấu với chính mình giành lương thiện. Chí Phèo gục ngã trước ngưỡng cửa cuộc đời nhưng khát khao sống ấy còn cháy mãi.

Có nhiều ý kiến nhận xét cách viết của Nam Cao là sắc, lạnh, tỉnh táo và đóng cũi tình cảm. Thế nhưng ta thấy ngòi bút của ông tràn đầy tính nhân đạo, không nhân đạo sao nhà văn lại thấy được những mơ ước, khao khát rất đời thường, lại đắm sâu trong tâm hồn của những con người đã bị tha hóa, biến dạng về cả nhân tính lẫn nhân hình.

Những trang văn Nam Cao viết mô tả lúc Chí Phèo vừa tỉnh dậy mới thấm đẫm tấm lòng thương người của ông biết bao! Và cả bát cháo hành mà Nam Cao đã dựng công miêu tả nữa. Nó xuất hiện bất chợt giữa cuộc đời Chí Phèo, mang lại cho anh chút hương vị của lòng người để lắng lại trong anh cái phần “con” độc ác, xấu xa, đồng thời thổi bùng lên ngọn lửa khát khao lương thiện làm người.

Trong những con người bị tha hóa đến cùng cực như Chí Phèo. Nam Cao vẫn thấy ở đó một khát khao mãnh liệt. Chính vì vậy ông đã để cho nhân vật của mình “vác dao đi đòi lương thiện”.

Còn một nét nhân đạo nữa đó là Nam Cao đã để cho nhân vật của mình được chết. Ông biết Chí Phèo sống không thể trở thành anh bộ đội cụ Hồ tự cứu lấy đời mình, cũng không để anh sống tù tội để rồi nhà tù thực dân phong kiến gắn thêm cho anh cặp sừng, cái đuôi, để anh thành con quỷ ác hơn, dữ hơn cái anh đã từng làm ở làng cũ Vũ Đại.

Cuộc hôn phối giữa “con quỷ dữ của làng Vũ Đại – Chí Phèo và một con vật gì rất tởm” – Thị Nở cũng là một cách nhìn hết sức nhân đạo của Nam Cao. Nhân đạo ở chỗ ông đã thấy cái mơ ước, khát khao được hạnh phúc của những con người cùng khổ.

Chí Phèo sống khổ mà chết vật vã cũng khổ. Qua bi kịch đó nhà văn tố cáo một xã hội đã đày đọa, tha hóa, bần cùng hóa con người, đẩy họ vào chỗ biến dạng cả nhân tình lẫn nhân hình. Nam Cao viết nhiều đến cái “đói” nhưng riết nóng nhất trong văn của ông là cái “đói người” trong sự giành giật của phần “con” và ông lớn tiếng đòi quyền sống cho phần “người” ấy.

Đọc xong truyện mà câu hỏi “Ai cho tao lương thiện” của Chí Phèo ám ảnh ta mãi. Quả thật với tấm lòng nhân đạo sâu sắc và tài năng của mình. Nam Cao miêu tả những vết thương trong nhân cách con người. Nhưng ông xoáy sâu mà tìm cách chạy chữa cho nó. Với những trang văn và những bi kịch điển hình như Chí Phèo, Nam Cao đã lớn tiếng đòi tự do, hạnh phúc cho con người, cũng như lời gọi: Hãy cứu lấy, bảo vệ cho nhân cách con người!

Với đề tài đã được khai thác tối đa như đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao với lưỡi xẻng ngôn từ và tài năng của mình, vẫn có thể “tìm tòi”, “khơi được những nguồn chưa ai khơi”, lật lên nhiều mảng khổ đau và mảng đẹp mới, trong tính cách, trong bản chất của người nông dân Việt Nam ở thời điểm đêm trước của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại.

Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Chí Phèo Bị Cự Tuyệt Quyền Làm Người 🌼 15 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất

Phân Tích Chí Phèo Thức Tỉnh Đạt Điểm Cao – Mẫu 9

Để viết phân tích Chí Phèo thức tỉnh đạt điểm cao, các em học sinh có thể tham khảo và vận dụng gợi ý làm bài dưới đây:

Có hạt cát vô tình rơi vào làm xót lòng trai. Tháng năm… năm tháng hạt cát không mang tên, không số phận. Hạt cát lại trở thành hạt ngọc quý giá cho đời. Có những tác phẩm ví như đứa con mang nặng đẻ đau qua chín tháng mười ngày của người mẹ: những nhà văn đầy tâm huyết và trách nhiệm với nghề Nam Cao với thiên chức cao cả đó và thai nghén nên đứa con tinh thần Chí Phèo, bên cạnh những Lão Hạc, Đời thừa, Sống mòn.

Chí Phèo, tên nhân vật được Nam Cao đặt thành tên tác phẩm (sau hai lần đổi tên), xuất hiện xuyên suốt tác phẩm với một tấn bi kịch “bị cự tuyệt quyền làm người”. Nghĩa là từ lúc chào đời Chí đã mang lấy cái bi kịch tội nghiệp của số phận! Nhưng có lẽ những diễn biến trầm trọng và hành động của Chí từ lúc gặp Thị Nở đến khi tự kết liễu cuộc đời là khúc ca ai oán nhất, có thể gọi là bi kịch nhất trong những thứ gọi là bi kịch của Chí.

Và Nam Cao, sự hóa thân hài hòa trong cuộc sống của người nông dân nghèo thời kì 1930-1945 với tấm lòng nhân đạo sâu sắc đã tạo nên giá trị của tác phẩm thông qua ngòi bút đầy tài năng của ông.

“Tài sản” duy nhất của một đứa trẻ bị vứt trong cái lò gạch hoang được người ta cứu vớt trước khi sắp chết chỉ là cái váy đụp “rách như tổ đỉa”. Đó là hình dạng nguyên vẹn của Chí Phèo lúc mới ra đời. Rồi Chí lớn lên, trở thành anh canh điền, sau mấy lần “thay cha đổi mẹ” mà cũng không phải như thế, Chí có được làm con của ai bao giờ đâu? Anh canh điền chân đất, chăm làm lụng ấy vì sự ghen tuông của Bá Kiến đã bị chế độ nhà tù đế quốc “đào tạo” mất đi lương tính sau ngày trở lại quê hương.

Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ xuống vì hắn. Chính Bá Kiến và uy quyền giai cấp thống trị mà hắn là đại diện cùng sức mạnh của đồng tiền đã tha hóa con người của Chí.

Chí mất hẳn nhân hình và nhân tính, hắn chỉ còn có men rượu làm bạn. Ai cũng trách hắn, hắn là kẻ cô đơn, nhất là chính bản thân hắn trong mê hồn trận của mình, hắn đã không cảm nhận được hay đôi khi cảm nhận nhưng không thể thay đổi được mọi việc mọi diễn biến xung quanh vì lúc nào hắn cũng say, rồi la hét, rạch mặt ăn vạ để đòi nợ cho gia đình tên Bá Kiến.

Hắn vẫn đương say, vẫn là “con quỷ dữ” cho đến cái đêm trăng ấy bên bờ sông. Hắn bắt gặp Thị Nở. Ả nằm ngủ ngon lành, bộ dạng “hớ hênh” làm thức tỉnh một cái gì đó trong hắn. Đó không phải là tình yêu, mà chỉ là “bản năng” song cũng chẳng phải bản năng của con người bình thường! Rượu điều khiển hắn chứ hắn không tự chủ được bản thân từ khi nhận năm hào của Bá Kiến nữa rồi.

Sau đêm ấy, hắn bị ốm liệt giường. Mọi sự chắc cũng sẽ diễn ra bình thường, hắn cũng sẽ say, sẽ có một mình trong túp lều ọp ẹp của hắn. Nhưng Thị Nở với một chút tình thương trong tâm hồn người phụ nữ đã đến với hắn. Thị mang cho hắn một bát cháo hành. Ôi lạ thật, Chí đã từ ngạc nhiên rồi đến xúc động nghẹn ngào.

Bát cháo là ân huệ từ trước đến nay hắn được nhận từ sự quan tâm, chăm sóc của một con người. Mắt hắn rưng rưng, đây là một sự thay đổi đầu tiên trong hắn, tự bao giờ có thấy hắn khóc bao giờ? “Ai chưa ăn cháo hành không biết là cháo rất ngon”. Phải chăng đời đã dành cho hắn chút ân tình? Và điều gì đã diễn ra ở con người ấy?

Hắn đã dần bỏ rượu, cứ nghe mùi rượu là hắn ớn, những phút yêu đương với Thị Nở chiếm hết thời gian của hắn. Hắn tưởng Thị Nở đã chấp nhận hắn thì mọi người ắt sẽ chấp nhận được hắn thôi.

Nhưng cánh cửa Thị Nở mở cho hắn về với cuộc đời vội khép lại. “Con mụ” dở hơi ấy vì “nhận ra mình còn một bà cô” nên đã “dừng yêu” về nhà hỏi cô. Bà cô là đại diện cho những hà khắc, những định kiến của xã hội cùng với tâm tính của một bà già còn “ở vậy” đã ngăn cấm cháu đến với Chí, một thằng suốt đời chỉ biết rạch mặt ăn vạ.

Chí Phèo nào biết mọi việc diễn ra theo chiều hướng xấu. Buổi sáng chờ Thị Nở đối với hắn thật là dài, và hắn thấy “Chao ôi! Buồn”. Mọi vật mà hằng ngày vì say mèm hắn quên để ý nên thứ gì cũng thấy mới mẻ. Hắn muốn uống rượu nhưng để có thời gian mà yêu, nên thôi. Diễn biến tâm trạng của hắn thật là khó diễn đạt. Có lẽ nào con người của ý chí, của lương tri đã sống lại trong hắn? Sự vật chung quanh bừng sáng, âm thanh mái chèo khuấy nước nghe là lạ.

“Chao ôi! Buồn”, có gì đâu mà chẳng buồn đối với hắn. Hắn chợt nhớ… những ước mơ thời tuổi trẻ một mái gia đình nghèo thôi chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, có chút ít vốn thì nuôi mấy con lợn trong nhà. Anh canh điền của tuổi đôi mươi chợt hiện về trong Chí. Chí khao khát được trở lại với cuộc sống, trở lại với cộng đồng và trong ý nghĩ của Chí thì Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối đưa hắn trở về với đồng loại.

Bao dự định tốt đẹp mà hắn với Thị Nở sẽ làm như mạch suy tưởng của anh Chí với khát vọng sống ngày xưa. Chí chờ Thị và thời gian như bỡn cợt hắn. Và rồi Thị đến, Thị đem đến cho hắn, nếu lần trước là bát hành nóng, thì hôm nay là gáo nước lạnh tạt vào mặt. Mọi sự bất ngờ quá. Hắn cứ tưởng Thị đùa nên lấy làm thú vị. Rồi hắn ngạc nhiên! Và hắn hiểu. Hiểu cái xô của Thị. Lần thứ hai Chí khóc. Không thể mô tả bản mặt của Chí lúc này, hắn rất đáng thương. Nam Cao cũng chỉ có thể nhìn nhận đấy là bản mặt của một con vật lạ khác mặt con quỷ trước đó.

Chí uống mọi lúc để có can đảm làm việc gì đó như đi đòi nợ, rạch mặt ăn vạ, hắn chỉ việc uống cho thật say. Quái, sao càng uống càng tỉnh, “những thằng điên và những thằng say không bao giờ làm những việc mà trước đó hắn định làm”. Chí Phèo định đến nhà để “giết chết con mụ khọm già”. Hắn nghĩ tại bà cô của Thị Nở. Hắn xách dao đi trong trạng thái không say cũng không tỉnh nhưng không phải đến nhà bà cô Thị Nở mà lối ấy đến nhà Bá Kiến.

Khi không còn gì, dường như lúc ấy người ta lại còn rất nhiều. Chí còn gì đâu, nhân hình đã mất, nhân cách cũng không còn, Thị Nở là điểm tựa là niềm ao ước duy nhất của Chí để đưa Chí trở về với cuộc sống của cộng đồng. Nhưng Thị Nở đã khép mất cánh cửa hi vọng của đời Chí. Chỉ còn mối thù ai đã xô Chí đến con đường này, tiến không được, lùi cũng không xong. Có lẽ mọi sự đã hết nhưng Chí phải làm cho xong một việc. Đòi lương thiện cho mình.

Lần thứ ba, Chí đến nhà Bá Kiến, kẻ mà ngày mới ra tù về làng Chí định sẽ đến đòi nợ. Lần này Chí không đến lấy mấy hào bố thí, không đòi đi tù mà đòi cái thiêng liêng, cao cả nhất của con người mà chính Bá Kiến đã trực tiếp tước mất của Chí.

“Tôi đến để đòi lương thiện”. Câu nói xuất phát từ tận đáy lòng con người đang đi đến mức đường cùng của bi kịch. Chí Phèo đã vung dao giết chết Bá Kiến và Chí tự kết liễu đời mình ngay ở ngưỡng cửa trở về. Câu hỏi nhức nhối đến đau thương sau cùng của Chí “Ai cho tao lương thiện” và những lần Chí hét “Thì đây… này” chính là câu trả lời của bản thân Chí.

Bằng cảm nhận, người đọc thấy cái lôgic tất yếu lời nói và hành động của Chí Phèo ở cuối tác phẩm là rất tự nhiên, rất phù hợp. Dĩ nhiên dù có những nghiệt ngã và bất ngờ – cái nghiệt ngã cái tự nhiên, cái lạ như quy luật cuộc sống! Thế nhưng, thử đọc lại và suy ngẫm, ta khó cắt nghĩa được thậm chí ta thấy đối ngược với ý niệm ban đầu: Tại sao Chí Phèo lại có thể nói như một nhà hiền triết?

Tại sao con người bản chất nông dân ưa nôm na mách qué và đã có một quá trình bị rượu u mê lại có thể đường hoàng dõng dạc và nói mạch lạc, minh triết đến sâu thẳm cái ước mong vô vọng của mình? Thực ra, cái dõng dạc cái vênh mặt kiêu ngạo, cái lắc đầu khi đứng trước Bá Kiến lần này là “thừa kế” những lần say đến đòi tiền nhà Đội Tảo, những lần chủ động hung hăng đến gây tai họa cho dân Vũ Đại.

Nhưng có lẽ cái hành động rất linh hoạt này, Chí đã “học” từ Bá Kiến bởi hàng ngày hắn lá mặt lá trái với con quỷ nham hiểm này. Còn lời nói? Cái từ “lương thiện” chẳng đã vang lên như điệp khúc khi Chí gần Thị Nở? Khi Chí khao khát, hắn thèm lương thiện (…) Họ sẽ nhận ra hắn vào (…) những người lương thiện. Mơ ước đôi lứa với Thị Nở, cái “lương thiện” trở thành một bào thai của hi vọng đang cựa quậy… Nhưng khi đối mặt với Bá Kiến cái tiếng ấy được “Cụ Bá” nhắc lại như nói với thằng say một điều mà hắn phải tỉnh:

-Ô tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ!

Khát khao cháy bỏng của Chí với cụ Bá lại chỉ là một việc vớ vẩn không đáng lưu tâm “Ồ tưởng gì” cái việc lấy lương thiện cũng dễ như cái việc uống rượu đòi nợ và ăn vạ. Dù hiểu đời đến mức lọc lõi Bá Kiến cũng không thể hiểu ước mơ của Chí nó quan hệ tới sinh tử. Thế giới quỷ có bao giờ hiểu thế giới – dù là đời thường nhất của người? Do đó lời “cụ Bá” muốn “tri kỉ” với thằng quỷ mà mình vắt nặn nên trở thành lời nhạo báng với anh Chí vừa rời lốt quỷ: Chí Phèo nói và day dứt nhiều tới lương thiện có lẽ là vậy.

Lời nói của Chí Phèo phản ánh một thực tế trần trụi đến thô bỉ: “Định kiến” người đời đã không thể cho Chí qua một cái con sào ngáng đường, mà điều này không khó lắm, bởi chỉ mình Thị Nở, Thị cũng có khả năng mở chốt nâng sào. Chí giận sôi sùng sục trong lời chất vấn mà kết án với Bá Kiến. Thực ra, Chí đang nói những ấm ức mà Thị Nở vừa “Trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô”.

Vậy là ngôn ngữ, giọng điệu thái độ có lẽ rất lạ của Chí đã có những yếu tố hiện thực tiềm năng trong quá khứ. Nó bất ngờ và vẫn tự nhiên là vì thế. Nhưng có lẽ tài năng của Nam Cao ở đây là ông đã mô tả một cách tuyệt vời những “vùng biên” tâm trạng rất vi tế thậm chí mơ hồ của con người, đâu là lời và hành động của Chí Phèo say? Đâu là anh Chí tỉnh? Thật khó rạch ròi. Cách phân tích là nên đọc lại và thêm một lần nữa khâm phục Nam Cao.

Vậy là Chí không còn con đường lựa chọn nào khác, xã hội đã không thừa nhận. Thị Nở cũng đã bỏ hắn, mà trở lại với cuộc sống lưu manh tha hóa, thì Chí không thể nhân tính hắn mất, nhưng phút cuối cùng nó lại trở lại với anh Chí.

Chí Phèo ngắc ngoải trên vũng máu, đây là hình ảnh mang sức tố cáo lớn. Nó tố cáo chế độ phong kiến, tố cáo nhà tù thực dân với sự nhơ bẩn của đồng tiền đã xô đẩy, tha hóa một con người. Giá trị nhân đạo của một tác phẩm qua ngòi bút của Nam Cao vừa đau đớn vừa như một nhát dao lạnh ông để lại cho thời đại cùng lên án một chế độ, về một cách cư xử khi nhìn người ta sung sướng thì ghen tuông vùi dập. Đó là hoàn cảnh với bao nhiêu sự cay độc, tàn ác đã chà đạp lên số phận con người.

Chí Phèo và tuổi thơ đã là một bi kịch xót xa ngậm ngùi nhưng Chí Phèo với bi kịch giằng xé trong tâm hồn và những hành động đã bị ép vào con đường cùng thì càng khiến người đọc đau ran vùng cay đắng, nhức nhối một niềm thương cảm hơn. Chí chỉ mơ ước một cuộc đời bình dị, một người vợ cũng bình thường trong xã hội.

Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao xây dựng Thị Nở xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn, có lẽ ông đã dụng ý của kì công khắc họa một nhân vật xấu nhất trong văn học Việt Nam xuất phát từ thành tâm đem đến cho Chí một người phụ nữ thích hợp. Khác với mô-típ xây dựng nhân vật của những nhà văn đi trước hoặc cùng thời, nhân vật xấu người đẹp nết hay ngược lại, đó đã là một khía cạnh thể hiện sự nhân đạo của Nam Cao.

Ông nhìn nhận sâu sắc bằng cả trái tim và tâm linh của người viết về cái phần hồn của mỗi người “Với con người phần hồn nặng hơn phần xác” (ý Nguyễn Minh Châu) Chí Phèo và Thị Nở, người thì mất cả nhân hình lẫn nhân tính. Người thì xấu xí lại ương dở “vô tư”. Nhưng chính Nam Cao đã phát hiện ra phần hồn được đánh thức của họ, xã hội đẩy đưa trong túm bọc thành kiến đã biến chất con người họ chứ như tự tâm hồn họ vẫn khát khao được sống được yêu như những người bình thường.

Hành động quyết liệt cuối cùng của Chí, tìm đến cái chết, có phải là hạn chế của Nam Cao cũng như nhân vật của chị Dậu của Ngô Tất Tố với cái “tiền đồ tối đen như mực”? Đây là điểm nhân đạo lớn của tác giả. Ông không muốn phải đứng về phía xã hội xưng hô với Chí bằng những tiếng “y” hay “hắn”.

Ông không muốn Chí phải trở về với con đường cũ, về với sự cách biệt của xã hội mà muốn con quỷ làng Vũ Đại về với cái anh Chí ngày nào và nếu có chết cũng phải cắt đứt cái đuôi “phèo” rất nặng để thăng hoa thành người. Chí Phèo đã rất tội, ngay từ mở đầu “hắn vừa đi vừa chửi”, đây là sự thèm khát được giao tiếp đến tột độ của nhân vật.

Tác phẩm đóng lại nhưng thực ra trong suy nghĩ của người đọc thì vẫn còn mở. Chị Dậu của Ngô Tất Tố về đâu với cái tiền đồ tối đen như mực? Còn Chí Phèo, cái chết là gì? Phải chăng đỉnh cao của bản cáo trạng tố cáo chế độ phong kiến thực dân là máu của Chí, là nhân mạng? Cái chết như là biểu dương nhân cách, nhân tính. Nó khuyên dụ và cảnh cáo.

Nam Cao ơi! Sao rơi chi nhiều nước mắt? Hẳn tác giả đã khóc như bao lần Nguyên Hồng đã òa khóc cho Huệ Chi: “Nó chết rồi”. Cả tác phẩm Chí Phèo vùi trong cơn say, trong những diễn biến tâm trạng khác nhau còn đối với người đọc, lại là những phút giận và những giờ thương. Không biết trong cái xã hội đen tối cũ, có bao nhiêu người bị đẩy vào bi kịch cả về tâm trạng lẫn hành động như Chí Phèo. Hỏi Nam Cao? Hỏi xã hội tấm lòng thương cảm của mỗi con người?

Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Phân Tích Chữ Người Tử Tù 🌟 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Chí Phèo Thức Tỉnh Ngắn Hay – Mẫu 10

Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích Chí Phèo thức tỉnh ngắn hay để các em học sinh cùng tham khảo và hoàn thành tốt bài viết của mình.

Sinh thời, khi cầm bút, Nam Cao hằng tâm niệm “Sáng tạo là yêu cầu sống còn của văn chương, nghệ thuật”. Vì thế, hường ngòi bút đến đề tài quen thuộc đó là cuộc sống khốn khổ của người nông dân trước cách mạng tháng 8 nhưng Nam Cao chọn cho mình một lối đi riêng.

Khác với nhân vật trong truyện ngắn của Thạch Lam là được đặt vào trong một khoảnh khắc nhất định, nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao thường là những nhân vật có tính cách điển hình và được đặt trong hoàn cảnh điển hình. Đặc biệt, nhắc đến Nam Cao người ta không thể không nhắc đến Chí Phèo – nhân vật bước vào trang văn, ngật ngưỡng với dáng diệu của một kẻ say. Những diễn biến tâm, lí của Chí Phèo khi đón nhận bát cháo hành của Thị Nở đã được Nam Cao diễn tả một cách chân thực, tài tình đến cảm động.

Chí Phèo đang vẩn vơ nghĩ về đời mình thì thị mang đến một nồi cháo hành. Sự quan tâm mộc mạc, giản dị chân tình ấy đã làm tâm hồn Chí đổi thay đến bất ngờ, mạnh mẽ. Lòng Chí trào dâng bao cảm xúc: bâng khuâng, ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vui mừng, xúc động rồi lại nuối tiếc, buồn tẻ, xót xa, lại có cái gì như là ăn năn hối hận nữa. Chí ngỡ ngàng ngạc nhiên, cảm động đến ứa nước mắt. Vì đây là lần đầu tiên hắn không phải dọa nạt, đâm chém mà vẫn có cái ăn.

Lần đầu tiên, hắn được một người đàn bà chăm sóc ân tình. Nhưng Chí không khỏi ngậm ngùi, cay đắng, buồn tủi, xót xa vì mãi đến tận bây giờ hắn mới được nếm mùi cháo. Cái hạnh phúc giản dị, đơn sơ khiến người ta thấy tội nghiệp sao lại đến với Chí muộn màng đến như vậy. Chí còn hối hận, ăn năn.

Hành động của Thị Nở đã làm Chí suy nghĩ nhiều và Chí bông ngộ ra một điều rằng: Chí có thể làm bạn được sao lại gây kẻ thù. Dù rất hiếm hoi nhưng trên cõi đời vẫn còn có những vòng tay yêu thương, vẫn còn những tấm lòng nhân ái, bao dung. Trong đoạn văn diễn tả sự hồi sinh của Chí Phèo khi đón nhận bát cháo hành của Thị Nở, chi tiết Chí Phèo khóc có lẽ là chi tiết ấn tượng nhất.

Có thể nói, Nam Cao luôn tin vào nước mắt của con người bởi một khi họ khóc có nghĩa là trong người họ vẫn còn chút lương thiện, nó chưa bị hủy hoại hoàn toàn mà vẫn sống âm thầm lặng lẽ. Vậy là chính tình người mộc mạc, giản dị của Thị Nở đã làm hồi sinh tình người trong Chí. Cái lốt quỷ dữ được lột bỏ, bản chất lương thiện đã hồi sinh trở lại.

Khi tính người trở về, lòng Chí nảy sinh tình cảm với Thị Nở. Trong khi ăn cháo, Thị Nở nhìn trộm Chí rồi lại toe toét cười. Trông Thị thế mà có duyên, tình yêu làm cho có duyên. Và chính tình yêu và chỉ có tình yêu mới làm cho cháo hành có hương vị thơm ngon, ngọt ngào chưa từng có.

“Hắn húp một húp và nhận ra rằng những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo rất ngon. Cháo được nấu bởi tay của Thị Nở mà vẫn thấy ngon. Chí có tình yêu và chính tình yêu mới làm nên điều đó”. Yêu thương, trân trọng Thị Nở bao nhiêu, Chí càng căm ghét con quỷ cái nhà bá kiến bấy nhiêu. Cái con quỷ lẳng lơ, đĩ thõa chỉ lợi dụng Chí chứ chưa bao giờ yêu Chí. Chí cảm thấy nhục chứ không thấy yêu đương gì.

Hương vị ngọt ngào của bát cháo hành, tình yêu thương ngày càng thấm sâu vào tâm hông Chí khiến chí như được lột xác, tái sinh. Chí thay đổi hoàn toàn cả về bộ dạng lẫn tâm tính. Nói chính xác hơn là Chí trở lại với diện mạo và tính cách của một người lương thiện. Chí còn muốn trở lại với cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện.

Chí đặt tất cả niềm tin hi vọng vào Thị Nở. Hơn thế nữa, Chí đã có hành động vô cùng táo bạo và lãng mạn: Chí tỏ tình và cầu hôn Thị Nở. Dĩ nhiên cách tỏ tình của Chí Phèo rất mộc mạc và chất phác. Được Thị Nở ưng thuận, Chí vô cùng sung sướng hạnh phúc. Từ đây, Chí sẽ có một tổ ấm gia đình, từ đây, Chí trở lại được làm người lương thiện. Đó là khát khao lớn nhất của Chí.

Như vậy, không chỉ dừng lại ở việc tả “cái bề ngoài của xã hội”, của cuộc sống con người, Nam Cao đã đi sâu vào nội tâm nhân vật. Với những trang văn sống động mà chân thực, Nam Cao đã đưa chủ nghĩa hiện thực Việt Nam lên đến trình độ mới, hội nhập với quốc tế: từ chủ nghĩa tả chân lên đến chủ nghĩa hiện thực tâm lí. Không chỉ bộc lộ cảm quan hiện thực sâu sắc, đoạn văn còn thấm đượm tình cảm sâu sắc, cao đẹp, tiến bộ của Nam Cao.

Có thể nói, đoạn văn diễn tả nội tâm của nhân vật Chí Phèo khí đón nhận bát cháo hành của Thị Nở là đoạn văn hay và để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc nhất. Ở đó, ta có thể thấy rằng dù con người có bị tha hóa và bị đẩy xuống vũng bùn đen đến đâu thì thẳm sâu trong tâm hồn họ, vẫn có một mầm non lương thiện đang sống âm thầm, lặng lẽ.

Nuôi dưỡng mầm cây non đó, Nam Cao đã dìu dắt Chí trở về với cõi thiện. Vậy là bằng ngòi bút chứa chan tình yêu thương con người, cũng như Thạch Lam, Nam Cao đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính.

Đón đọc tuyển tập 💕 Phân Tích Cảnh Cho Chữ 💕 15 Bài Văn Cảm Nhận Nhận Hay Nhất

Bài Văn Phân Tích Chí Phèo Thức Tỉnh Đơn Giản – Mẫu 11

Tham khảo dưới đây bài văn phân tích Chí Phèo thức tỉnh đơn giản với những ý văn ngắn gọn và súc tích để chuẩn bị cho bài viết trên lớp.

Truyện ngắn “Chí Phèo” là một kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại của nhà văn hiện thực và nhân đạo Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả đã vẽ nên một bức tranh thê thảm, đầy bi thương của những kiếp sống lương thiện nhưng đói nghèo đã bị tha hóa cả về thể xác lẫn linh hồn. Tiêu biểu cho những kiếp người đó chính là nhân vật “Chí Phèo” và những bi kịch mà hắn phải chịu đựng, nếm trải trong chặng đường đời của mình.

Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, người đọc dõi theo từng bước chân của Chí từ một người dân lương thiện bình thường cho đến khi trở thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại và cuối cùng là cái chết tuy bi thảm nhưng lại là cách giải thoát tốt nhất khỏi những bi kịch mà Chí đang phải chịu đựng.

Người đọc không thể quên hình ảnh của Chí lúc mới ở tù ra với “cái đầu trọc lốc, răng cạo trắng hớn, mặt đen lại”, “cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy trông gớm chết”. Để rồi từ đó, cuộc đời hắn chìm trong men rượu, trong cơn say hắn đã làm biết bao tội ác, hắn phá vỡ hạnh phúc của biết bao nhiêu gia đình, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người lương thiện.

Những tưởng cuộc đời hắn sẽ trượt dài trong tội lỗi nhưng rồi ở phần cuối của tác phẩm, Chí Phèo đã có ý thức vươn lên khao khát được làm người lương thiện, đỉnh điểm của khát khao đó là hành động xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện.

Khi nhận ra một sự thật đau khổ đến mức tuyệt vọng là hắn không thể trở lại làm người lương thiện được nữa thì hắn đã giết Bá Kiến – nguyên nhân chính tạo nên mọi bi kịch của cuộc đời Chí và tự kết liễu đời mình để giải thoát khỏi cuộc sống đau khổ hiện tại. Vậy động lực nào đã thúc đẩy Chí hoàn lương? Đó chính là tình thương của Thị Nở và bát cháo hành của Thị.

Bát cháo hành của Thị Nở tuy giản đơn, mộc mạc chỉ có một chút cháo trắng với hành nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự hồi sinh thức tỉnh của Chí. Bát cháo được nấu lên bằng tình yêu thương chân thành, sự cảm thông, thấu hiểu của Thị Nở dành cho Chí, chính vì vậy mà nó có sức lay động mạnh mẽ bản chất lương thiện vốn đã bị vùi sâu trong tâm hồn Chí.

Nếu như trước đây, hắn chỉ biết uống rượu, rạch mặt, ăn vạ, rồi gây nên biết bao nhiêu tội ác thì giờ đây sau khi ăn bát cháo hành của Thị Nở hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với Thị như với mẹ. Chưa bao giờ ta thấy hắn hiền như lúc này…Khi nhận được bát cháo hành từ tay Thị, Chí rất ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt. Vậy là Chí đã khóc, một con người đã lấy đi biết bao nhiêu nước mắt của người khác vậy mà giờ đây chính hắn lại khóc.

Hắn đã khóc, khóc vì đây là lần thứ nhất hắn được người ta cho, lại được cho bởi tay một người đàn bà. Trước đây, chỉ toàn là đi cướp giật của người khác, hắn thấy “xưa nay có thấy tự nhiên ai cho ai cái gì”. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng, vừa vui vừa buồn và một cái gì nữa giống như là ăn năn, hối lỗi…

Và đây cũng là lần đầu tiên Chí biết đến cái duyên của một người, đó là khi Thị Nở múc cháo “nhìn trộm hắn rồi lại cười toe toét. Trông Thị thế mà có duyên”. Nhìn Thị hắn nghĩ lại quá khứ khi mà hắn phải chăm sóc cho bà ba, phải làm những việc xấu xa hắn thấy nhục hơn là thích. Bát cháo hành của Thị Nở có sức mạnh thật kì diệu, nó đã làm cho một người như Chí phải suy nghĩ: “Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây thù?”.

Đồng thời, bát cháo ấy đã lấy lại sức khỏe cho hắn bởi vì hắn càng ăn mồ hôi lại càng ra nhiều. Và tất nhiên, điều này rất tốt đối với một người bị cảm gió như hắn. Tuy chỉ là bát cháo hành bình thường thôi nhưng nó đã giúp Chí khỏi bệnh, hắn thấy bát cháo mới thơm ngon làm sao, những người suốt đời không ăn cháo hành sẽ không biết rằng cháo hành ăn rất ngon… nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo, tự hỏi để rồi tự mình trả lời. Đó chính là bởi vì đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi tay một người đàn bà.

Sự gặp gỡ với Thị Nở như là một điều kì diệu đối với Chí, hình ảnh của Thị giống như một vị cứu tinh trong cuộc đời u ám, say triền miên với những chuỗi dài bi kịch của Chí Phèo. Điều đặc biệt hơn, đây là tình cảm đáng trân trọng giữa những con người có cảnh ngộ khốn cùng.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao 🍀 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Chí Phèo Thức Tỉnh Sau Khi Gặp Thị Nở – Mẫu 12

Gợi ý phân tích Chí Phèo thức tỉnh sau khi gặp Thị Nở dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những nội dung tham khảo hữu ích khi viết bài.

Số phận khốn khổ của người nông dân là đề tài quen thuộc của văn học hiện thực (1930-1945). Là một cây bút sáng tạo là yêu cầu sống còn của văn chương, Nam Cao có những tìm tòi, đổi mới đáng trân trọng. Không dừng lại ở nỗi khổ sưu cao thuế nặng như các tác phẩm cùng thời “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”, Nam Cao đi sâu vào hiện tượng người nông dân bị tha hóa, bị cự tuyệt quyền làm người.

Đồng thời, Nam Cao phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân bị tha hóa. Những sáng tạo của Nam Cao được kết tinh từ nhân vật Chí Phèo. Đặc biệt là trong những trang văn diễn tả sự thức tỉnh của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở.

Có thể nói, dấu mốc quan trọng nhất tạo nên bước ngoặt quyết định trong cuộc đời Chí Phèo đó là cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở, từ cố nông lương thiện, Chí bị đẩy xuống và nhấn chìm trong vũng bùn tha hóa. Sau khi gặp Thị, Chí đã vực dậy rũ bùn tha hóa, thức tỉnh hoàn lương. Vậy Thị Nở là ai? Là người như thế nào mà lại có tác động lớn lao đến cuộc đời Chí Phèo như vậy? Theo ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở là người xấu ma chê quỷ hờn, ngẩn ngơ như người đần trong truyện cổ tích.

Lại sinh ra trong gia đình nghèo truyền kiếp, có mả hủi. Thị chẳng khác gì con vật lạ. Nhưng Thị lại là người duy nhất trong làng Vũ Đại vô tình, vô cảm ấy đã tự nguyện kết thân yêu thương Chí chân thành. Dĩ nhiên, không phải ngay từ khi gặp Thị, tâm hồn Chí đã thức tỉnh, cái lốt quỷ dữ được lột bỏ. Là một nhà văn am hiểu sâu sắc tâm lí nhân vật, Nam Cao đã khám phá, miêu tả, phân tích diễn biến nội tâm của Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở một các chân thực, sống động và đầy xúc cảm.

Ban đầu, cuộc chung chạm với Thị Nở chỉ đánh thức bản năng gã đàn ông cho Chí Phèo. Nhưng sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã làm bản chất lương thiện trong con người Chí thức dậy. Tâm hồn Chí Phèo dần thức tỉnh rồi hồi sinh mãnh liệt. Nhưng ngay sau đó, Chí Phèo lại lâm vào bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời mình, là bi kịch từ chối, cự tuyệt quyền làm người.

Sau đêm ái ân với Thị Nở, Chí Phèo tỉnh dậy muộn, hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Sau bao nhiêu năm sống trong u mê dằng dặc, lần đầu tiên những cảnh vật, âm thanh của cuộc sống bỗng dội vào tâm hồn Chí tạo nên những vang động sâu xa. Chí thấy nắng rực rỡ, tiếng chim hót vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng anh thuyền chèo đuổi cá. Lòng Chí bâng khuâng, mơ hồ buồn.

Tỉnh rượu rồi Chí tỉnh ngộ, từ chỗ tê liệt ý thức, Chí bỗng ngộ ra bao điều về đời mình. Chí đã có cái nhìn chính xác về cuộc đời dằng dặc của mình từ quá khứ, hiện tại, tương lai. Nghĩ về những ngày xa xôi, Chí nao nao buồn. Hình như có một thời, Chí ao ước có một gia đình nho nhỏ , chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải… Nhưng ước mơ nhỏ bé giản dị ấy đã tuột khỏi tay Chí từ lúc nào, về phương trời xa xăm nào.

Ngẫm về hiện tại, Chí thấy buồn thay cho đời. Chí đã già, đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời mà vẫn cô độc, trắng tay. Chí không nhà, không cửa, không vợ, không con. Đời chí đâu chỉ là con số 0 tròn trĩnh mà còn là con số âm khủng khiếp, đời Chí chồng chất biết bao nhiêu là tội ác. Tương lai phía trước còn đáng buồn hơn. Chỉ có tuổi già đói rét, ốm đau và cô độc. Và Chí sợ nhất là sự cô độc, mà sợ cô độc nghĩa là Chí thèm khát tình người. Thèm khát tình người đồng nghĩa với việc là tính người đang trở lại trong Chí.

Có thể nói ‘‘Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí sau đêm gặp gỡ với Thị Nở là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của ngòi bút Nam Cao”. Không chỉ dừng lại ở đó, những diễn biến tâm trạng vô cùng phức tạp tinh vi của Chí Phèo đã được nhà văn phân tích và diễn tả chân thực, chính xác, tài tình đến cảm động. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm được bộc lộ sâu sắc mới mẻ và lớn lao.

SCR.VN chia sẻ 🍀 Phân Tích Nhân Vật Viên Quản Ngục 🍀 14 Bài Văn Hay Nhất

Phân Tích Chí Phèo Thức Tỉnh Vào Sáng Hôm Sau – Mẫu 13

Bài văn mẫu phân tích Chí Phèo thức tỉnh vào sáng hôm sau dưới đây sẽ giúp các em học sinh đi sâu phân tích những khía cạnh của nhân vật.

Chí Phèo là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao viết về những người nông dân nghèo. Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao không chỉ lên án hiện thực xã hội đen tối đã đẩy con người vào bước đường tha hóa mà còn thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc khi hướng con người.

Nhà văn đã dùng tình thương và tấm lòng cảm thông để phát hiện, bênh vực và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp bên trong Chí Phèo- người được coi là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Ta có thể thấy rất rõ điều này qua những miêu tả của nhà văn Nam Cao về quá trình thức tỉnh của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở.

Từ sau khi ra tù, Chí Phèo trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến, hắn triền miên trong những cơn say, trong những lần rạch mặt ăn vạ. Men rượu và những hành động lưu manh của một tay sai đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ” trong mắt mọi người. Có lẽ cuộc sống của Chí Phèo sẽ mãi mơ hồ, hắn sẽ mãi sống trong hơi rượu và tội ác nếu không có cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng cũng đẹp đẽ, hạnh phúc nhất với Thị Nở.

Thị Nở là người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn”, nhà lại có mả hủi, tính tình không được sáng suốt, nhanh nhẹn nên bị cả làng hắt hủi, coi thường. Cuộc gặp gỡ tình cờ không chỉ gắn kết giữa hai con người dưới đáy xã hội mà còn đánh thức phần nhân tính đã “ngủ quên”, giúp Chí Phèo hồi sinh sau một chuỗi ngày trượt dài trong tội ác.

Sáng hôm sau, khi Chí Phèo tỉnh dậy từ cơn say thì “trời đã sáng từ lâu”, đây cũng là lần đầu tiên từ khi ra tù mà hắn tỉnh táo. Giây phút tỉnh táo hiếm hoi này khiến Chí nhận thức được thế giới xung quanh, nhận thức được chính mình, gắn thấy “bâng khuâng, mơ hồ buồn”.

Chí nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng của mấy bà đi chợ về”. Đó là những âm thanh của cuộc sống lao động bình dị, những âm thanh ấy ngày nào cũng có, thế nhưng với Chí nó thật đặc biệt bởi đã lâu lắm rồi hắn không nghe thấy, vì hôm nay hắn đã hết say.

Cũng chính âm thanh của cuộc sống đã làm Chí nhớ về những ước mơ giản đơn thời trai trẻ “Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Chí từng là một anh canh điền hiền lành, hắn mơ ước có một gia đình nhỏ và sống lương thiện cả đời, thế nhưng chỉ vì sự lăng loàn của bà Ba và sự ghen tuông vô lí của Bá Kiến đã phá vỡ tất cả. Chí phải đi tù, ra tù lại bị Bá Kiến chi phối để rồi trở thành một tên lưu manh bị cả làng khinh ghét.

Trở về thực tại, Chí thấy cuộc đời mình thật đáng buồn, hắn không có gì trong tay “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”. Thế nhưng, với Chí tuổi già, đói rét, ốm đau không đáng sợ, điều đáng sợ nhất là sự cô độc. Sau cơn say dài, sau khi tỉnh rượu Chí đã nhận thức được thế giới xung quanh, hiểu được những khát khao và cả những nỗi sợ hãi mơ hồ sâu kín trong lòng mình. Chí đã dần tìm lại những tình cảm, nhận thức, lí chí của một con người, đây là dấu hiệu của sự hồi sinh.

Khi Chí đang đắm chìm trong những suy nghĩ miên man thì Thị Nở vào mang theo một nồi cháo hành nóng hổi. Sự xuất hiện bất ngờ cùng hành động quan tâm đầy ấm áp của Thị Nở khiến Chí xúc động, hắn thấy “mắt hình như ươn ướt”, bởi trong cuộc đời Chí, chưa có người đàn bà nào đối tốt với hắn như vậy “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà.

Trước hành động chăm sóc ân cần của Thị Nở, Chí thấy “lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ…”. Lúc này hắn cũng hiền lành, lương thiện như bất kì một người nông dân lương thiện nào khác, hắn hiền lành đến khó tin “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt ăn vạ, đâm chém người”. Có thể nói phần lương tri của Chí đã thức tỉnh, Chí đã tìm thấy con người thật của mình.

Nhân tính thức tỉnh, Chí nhận thức thấm thía khát khao cháy bỏng trong lòng mình, hắn muốn trở về cuộc sống lương thiện trước kia, muốn được bắt đầu một cuộc sống mới và thèm được làm hòa với mọi người “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao…”.

Không chỉ khát khao lương thiện, Chí Phèo còn mong muốn có một mái ấm gia đình đúng nghĩa. Hắn trân trọng và khát khao về một hạnh phúc bình dị, đơn sơ “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ”. Không chỉ ấp ủ trong lòng mà Chí đã bộc lộ trực tiếp với Thị Nở, lời bày tỏ “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” đã thể hiện được mong muốn, sự chân thành của Chí.

Qua việc miêu tả quá trình hồi sinh của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở, nhà văn Nam Cao đã thể hiện sâu sắc tình thương, tấm lòng cảm thông với những con người bất hạnh. Nhà văn không chỉ nhìn nhận họ ở diện mạo, hành động bên ngoài mà hướng ngòi bút khám phá phần người bên trong để thấy được những phẩm chất đáng trân trọng. Qua sự hồi sinh của Chí Phèo, Nam Cao muốn khẳng định vẻ đẹp, sức mạnh của sự lương thiện, đó là phần bản chất tự nhiên, tốt đẹp mà không có thế lực tàn bạo nào có thể hủy diệt.

Ngoài bài phân tích Chí Phèo thức tỉnh, xem nhiều hơn 🌟 Phân Tích Hai Đứa Trẻ Thạch Lam 🌟 18 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Quá Trình Thức Tỉnh Của Chí Phèo Facebook – Mẫu 14

Chia sẻ bài văn mẫu phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo Facebook dưới đây giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú.

Nam Cao là nhà văn chủ nghĩa hiện thực của văn học Việt Nam giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1945. Tác phẩm kiệt tác để lại tên tuổi của ông là “Chí Phèo” phản ánh nỗi thống khổ, cơ cực của người nông dân trong xã hội cũ. Nhân vật cùng tên truyện để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả đặc biệt là quá trình thức tỉnh của Chí sau khi gặp thị Nở – quãng thời gian hồi sinh ngắn ngủi nhưng giàu giá trị nhân đạo mà nhà văn dành cho nhân vật của mình.

Chí Phèo bản chất vốn là một người hiền lành, chất phác nhưng vô tình bị xã hội đẩy đến mức đường cùng, đại diện cho cường quyền ấy là Bá Kiến vì ghen với Chí được bà Ba “quý mến” mà tìm mọi cách cho hắn đi ở tù.

Bảy tám năm đi biệt khi quay trở về làng Vũ Đại Chí là một kẻ mất nhân hình lẫn nhân tính để cho thế lực hắc ám như cụ Bá hoàn thành nốt công đoạn biến thành con quỷ dữ mà mọi người đều ghê sợ và xa lánh, Chí trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến kể từ đó hắn chỉ chuyên hành nghề rạch mặt ăn vạ, cướp của giết người. Cuộc đời hắn chìm trong men say hết ngày này qua ngày khác chưa bao giờ hắn tỉnh để biết mình còn tồn tại có mặt ở trên đời.

Nam Cao không nhẫn tâm để nhân vật của mình sống mãi là kiếp thú vật nên đã cho thị Nở xuất hiện cùng bát cháo hành tình người và tình cảm chân thành đánh thức lương tri Chí sau những ngày bị vùi lấp. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp thị Nở chứng tỏ tài năng khám phá và phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao.

Hôm ấy, sau trận nôn mửa lúc nửa đêm khi đã ngủ cùng thị Chí Phèo tỉnh dậy sau một cơn say rất dài “hắn thấy miệng đắng, lòng buồn mơ hồ”. Lần đầu tiên kể từ ngày trở về hắn nghĩ đến rượu mới cảm thấy rùng mình “hắn sợ rượu cũng như những người ốm sợ cơm”.

Hắn cảm nhận được âm thanh của cuộc sống “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”… Những âm thanh ấy ngày nào cũng có nhưng đây là lần đầu tiên Chí tỉnh để nghe thấy và cảm nhận tiếng gọi tha thiết của sự sống.

Chí nhận thức được bản thân mình về quá khứ, hiện tại và tương lai. Tiếng bàn tán của người bán hàng gợi nhớ về quá khứ tươi đẹp của Chí từng ước mơ về một gia đình nho nhỏ “Chồng cuốc mướn, cày thuê vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó là ước mơ, là khao khát của anh canh điền hiền lành chất phác.

Nhưng éo le thay điều đó không thành hiện thực để rồi giờ đây trong hiện tại “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của đời”, cơ thể đã hư hỏng ít nhiều. Chí phèo cũng đã nghĩ về tương lai và “trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”.

Sau những ngày sống như vô thức qua một trận ốm Chí đã tỉnh dậy và suy nghĩ về cuộc đời mình. Như vậy với khả năng nhận thức về ngoại cảnh và nhận thức về chính mình Chí đã tỉnh dậy và hồi sinh trở về với kiếp người.

Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành và tình thương yêu dành cho Chí khiến hắn vô cùng ngạc nhiên, xúc động và trỗi dậy mong muốn được làm người lương thiện. Đây là đoạn văn mang nhiều giá trị nhân đạo nhất mà nhà văn dành cho nhân vật của mình.

Trưa hôm ấy Chí được săn sóc bởi đôi bàn tay của thị. “Hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Bởi vì lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho.” Bởi xưa nay hắn toàn phải cướp giật hoặc dọa nạt chứ nào ai cho không hắn cái gì ấy vậy mà thị lại giàu tình thương, sự cảm thông chia sẻ và quan tâm để làm điều đó cho hắn. Hắn cảm động vô cùng. Giọt nước mắt hạnh phúc được trở lại làm người đã chảy ra, hắn đã thực sự cảm nhận được mùi vị của tình người.

Thị chính là hiện thân của tình người với bát cháo hành là liều thuốc giải độc cho cơn sốt bất thường và chữa lành vết thương tâm hồn bị sứt mẻ, bị bóp méo bấy lâu của Chí. Hắn đối với thị hiền lành biết bao “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người?” Giờ đây hắn khao khát được làm người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được.”

Nhà văn đã cho ta thấy khao khát hoàn lương một cách khẩn thiết và rõ rệt trong con người Chí, hắn đã đặt tất cả hy vọng và niềm tin vào thị Nở.Thị chính là cầu nối để Chí hòa nhập với mọi người và trở về với xã hội của những tấm lòng lương thiện. Chí muốn quay lại làm một người bình thường sống cuộc sống bình dị như trước đây chấm dứt những tháng ngày đen tối và tội lỗi.

Cũng như bao người khác khi nhận thức được giá trị của bản thân Chí khao khát có một hạnh phúc gia đình “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?” đây là một lời gợi ý cho một cuộc sống mới cũng là một lời tỏ tình rất bình dị với sự bẽn lẽn của một anh canh điền hiền lành chất phác. Trong con mắt của kẻ say tình những điều xấu xí nhất của người đàn bà xấu xí như thị đối với Chí lại trở nên đáng yêu và có duyên “Xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu”.

Nam Cao để cho con mắt của một kẻ lưu manh tha hóa biến thành con quỷ dữ nay trở lại làm người lại nhìn thấy vẻ đẹp tiềm ẩn trong thị bị xã hội vùi lấp không nhìn thấy. Người đàn bà ấy tuy vẻ bên ngoài “Xấu ma chê quỷ hờn” bởi dòng giống con nhà mả hủi lại có tấm lòng nhân hậu và tình thương ngập tràn dành cho Chí.

Năm ngày bên nhau của đôi lứa ngắn ngủi trôi qua trong những phút giây hạnh phúc, Chí trong khoảng thời gian ấy được sống là chính mình. “Hắn không còn kinh rượu nhưng cố uống thật ít. Để cho khỏi tốn tiền, nhưng nhất là để tỉnh táo để yêu nhau.” Chí đã ý thức được rằng mình có gia đình và cần phải chăm lo cho điều ấy. Đáng tiếc thay thị lại là một người dở hơi đem câu chuyện tình về hỏi ý kiến của bà cô già gây ra bi kịch bị cự tuyệt làm người cho Chí bởi định kiến xã hội.

Như vậy tâm trạng nhân vật chí Phèo sau khi gặp thị Nở đã được nhà văn miêu tả chi tiết tỉ mỉ đi sâu vào ngóc ngách trong tâm hồn để khám phá ra những điều mới mẻ trong nhân vật. Nhưng giá trị nổi bật nhất của Nam Cao làm nên thành công của tác phẩm là ở chỗ: “Khi miêu tả người nông dân bị lưu manh hóa, Nam Cao không hề bôi nhọ người nông dân mà trái lại đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện và khẳng định nhân phẩm của họ, ngay trong khi họ đã bị xã hội cướp đi cả nhân hình, nhân tính”.

Nam Cao đã khéo lột tả nội tâm nhân vật Chí Phèo trong những ngày hồi sinh khi gặp thị Nở với cách sử dụng ngôn ngữ sinh động, giản dị nồng ấm hơi thở đời sống thường ngày của người nông dân để lại giá trị nhân đạo cao đẹp sống mãi với thời gian. Bản chất lương thiện và khát khao hạnh phúc là bản tính tự nhiên tốt đẹp của con người không bao giờ bị mất đi dù cho bị quỷ dữ tha mất linh hồn nhưng chỉ cần được thắp sáng bởi ngọn lửa tình người nó lại trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt.

Qua đó cũng cho ta bài học nhận thức rằng chỉ có tình thương mới cảm hóa được trái tim sắt đá, cô độc và mỗi chúng ta sống trong cộng đồng người hãy biết yêu thương, chia sẻ cảm thông cho nhau bởi “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương”.

Không chỉ có phân tích Chí Phèo thức tỉnh, SCR.VN tặng bạn 💧 Phân Tích Nhân Vật Liên 💧 15 Bài Văn Phân Tích Tâm Trạng Hay

Phân Tích Khát Vọng Hoàn Lương Của Chí Phèo – Mẫu 15

Để giúp các em học sinh hoàn thành tốt đề văn phân tích khát vọng hoàn lương của Chí Phèo, dưới đây chia sẻ bài văn mẫu hay với những luận điểm phân tích quá trình Chí Phèo thức tỉnh chi tiết.

Nam Cao là cây bút vàng trong làng truyện ngắn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Một trong hai đề tài quen thuộc và nổi tiếng của ông đó là hình ảnh người nông dân bị bần cùng hoá, lưu manh hoá. Chí Phèo của Nam Cao là một kiệt tác trong văn xuôi hiện đại được viết vào năm 1941.

Truyện là một chuỗi những bi kịch của cuộc đời Chí Phèo, như nổi trong đó là quá trình thức tỉnh hồi sinh, khát vọng hoàn lương và bi kịch cự tuyệt của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đoạn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm đáng được nhắc đến.

Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi không cha không mẹ được một ông đổ ống lươn nhặt ở lò gạch về rồi được dân làng nuôi lớn. Lớn lên, Chí vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng đã bị xã hội phong kiến bóc lột, đè nén, áp bức trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”.

Chính Bá Kiến vì những ghen tuông mù quáng đã đẩy một anh Chí vô tội vào tù, biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh, thành tay sai đắc lực cho hắn. Lúc ấy, anh bị xã hội ruồng bỏ, bị tước đi mất quyền làm người, bị mất đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và cứ thế Chí Phèo triền miên trong những cơn say. Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời.

Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống triền miên trong những cơn say, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó. Nhưng bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo có cơ hội để làm lại cuộc đời, để trở lại là một anh Chí lương thiện một lần nữa. Ông đã đem tình thương chạm đến tận đáy trái tim cô độc khát khao yêu thương của con người là người ta vẫn gọi là “con quỷ dữ làng Vũ Đại” đó.

Trong một đêm say, hắn tình cờ gặp Thị Nở – người đàn bà dở hơi xấu xí và ế chồng. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau như vợ chồng. Sự quan tâm chăm sóc mà Thị Nở dành cho hắn sau cái hôm ấy dường như đã đánh thức lương tri, đánh thức bản chất lương thiện vốn có đã ngủ quên từ lâu trong con người Chí. Chính là nhờ cuộc gặp gỡ ấy mà trong Chí đã khao khát được hoàn lương để có thể được sống như một con người.

Quá trình hồi sinh của con người trong Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở cho ta thấy khả năng phân tích tâm lý nhân vật xuất sắc của Nam Cao. Khi tỉnh rượu, Chí thấy lòng mình chợt bâng khuâng ”mơ hồ buồn”. Những lần trước, mỗi khi tỉnh rượu, hắn lại uống, vì thế say kế tiếp say. Còn lần này, Chí Phèo tỉnh rượu với trạng thái khác hẳn “người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình.

Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu như những người ốm sợ cơm”. Sau bao năm, lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Tỉnh rượu hay cũng chính là con người đã ngủ quên trong Chí bao lâu nay đã tỉnh lại. Hắn chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, hắn nghe thấy mọi âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về…

Những âm thanh quen thuộc ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay chỉ hôm nay Chí mới cảm nhận và nghe thấy. Âm thanh ấy chính như tiếng gọi thiết tha, thôi thúc của cuộc sống vang lên trong tâm hồn vừa được khơi dậy của Chí… Chí nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Cái ước mơ bình dị ngày nào ”có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…” bỗng dưng trở lại với Chí.

Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”. Tương lai đối với hắn, còn đáng buồn hơn, hắn còn lo sợ bởi hắn đã trông thấy trước “tuổi già, đói rét và ốm đau” và nhất là “cô độc”, hắn sợ cô độc. Cứ như vậy, Chí dần lí trí và có nhận thức về chính mình, về cuộc đời mình. Chí đang thức tỉnh một cách toàn diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người.

Khi Chí đang chìm trong những miên man bất tận khi nghĩ về cuộc đời mình thì ngay lúc ấy thì Thị Nở bưng đến cho Chí Phèo bát cháo hành đang nghi ngút khói. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Việc làm này của thị khiến hắn từ ”hết sức ngạc nhiên” đến xúc động ”thấy mắt mình như ươn ướt” bởi vì một lẽ hết sức đơn giản “lần đầu tiên hắn được người ta cho…”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà”. Hắn còn cảm nhận về hương vị cháo hành, nó thơm và ngon lắm.

Còn Thị Nở, Thị thấy Chí rất hiền. Bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Phần người dường như đã ngủ quên trong hắn dần hồi sinh tỉnh dậy. Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy làm tâm trạng Chí đi từ xúc động đến ăn năn, hồi tỉnh. Tình yêu của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao.. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”.

Cùng với mong ước được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. Và hắn nói “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Lúc này nội tâm của Chí đã bừng tỉnh, lương tri của hắn đã trỗi dậy. Hắn thật sự muốn ”thế này”, muốn được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị.. “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc, câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với Thị Nở.

Chí muốn sống như một con người đúng nghĩa, khao khát đc trở lại với cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở chính là người mở ra cánh cửa hoàn lương cho cuộc đời của hắn. Chính tình người của Thị Nở đã thức tỉnh hồi sinh tình phần trong Chí Phèo, thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu tới mức nào.

Phát hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành công trong nghệ thuật sắc của Nam Cao. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực thể, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo hiện nên ý nghĩa của sự hồi sinh là sự khẳng định sức sống của thiện lương, của lòng lương thiện.

Nhưng, phũ phàng thay thay, cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt Chí Phèo. Những định kiến của bà cô Thị Nở hay cũng như thành kiến mà xã hội này dành cho hắn như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo dập tắt ngọn lửa hoàn lương vừa nhen nhóm lên trong Chí. Rồi cả Thị Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng” rướn cái môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng”. Một bi kịch trong một chuỗi nhưng bi kịch của cuộc đời anh Chí.

Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện, bị cự tuyệt quyền làm người, bị gạt bỏ ra khỏi xã hội loài người. Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Định kiến xã hội thông qua bà cô thị Nở không cho hắn hoàn lương… Chí Phèo lại uống rượu trong nỗi tuyệt vọng, đau đớn tột cùng ”ôm mặt khóc rưng rức”.

Chí Phèo uống thật say, nhưng lần này không như mọi lần, càng say thì hắn lại càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Phẫn uất, tuyệt vọng Chí xách dao đi định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận trong vô thức Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hắn nhận ra ai mới là thủ phạm, ai mới là kẻ đẩy mình vào bước đường này. Không ai hết, đó chính là Bá Kiến.

Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người, đòi lương thiện ”Tao muốn làm người lương thiện!… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh vết chai trên mặt này?… Tao không thể làm người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách… biết không!” Đó là những câu hỏi không lời giải đáp đầy cay đắng. Câu hỏi chất chứa nỗi đau đớn đầy phẫn uất của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân.

Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Đó là sự thức tỉnh về quyền sống, không chấp nhận một cuộc sống của 1 con quỷ dữ nữa, anh muốn hoàn lương mà nhưng xã hội này không cho phép.

Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời tố cáo mãnh liệt cái xã hội vô nhân đạo, xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái chết ấy là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa làm lại cuộc đời.

Với hình tượng nhân vật Chí phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng, đó là bi kịch bị bần cùng hoá và lưu manh hoá cả người nông dân. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Tác phẩm mang nhiều ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo.

Tác phẩm Chí Phèo thông qua quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động.

Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và sự bế tắc của những khát vọng của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Tiếp theo phân tích Chí Phèo thức tỉnh, tham khảo thêm 🌹 Phân Tích Hạnh Phúc Của Một Tang Gia 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất

Viết một bình luận