Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Vội Vàng ❤️️ 36+ Bài Văn Hay Nhất ✅ SCR.VN Tuyển Chọn Những Bài Viết Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Nhất Dành Cho Học Sinh.
Dàn Ý Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Vội Vàng Của Xuân Diệu
Dựa vào dàn ý phân tích 2 khổ cuối bài Vội vàng của Xuân Diệu dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được những luận điểm cơ bản để triển khai bài viết.
1.Mở bài phân tích 2 khổ cuối bài Vội vàng:
- Giới thiệu về tác giả: Xuân Diệu vốn được mệnh danh là ông hoàng thơ tình, nên thơ của ông viết về mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ luôn rất tình cảm, nồng nàn và đầy nhiệt huyết
- Giới thiệu về nội dung cần phân tích: Vội vàng là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Xuân Diệu, đặc biệt 2 khổ thơ cuối đã thể hiện rõ nét triết lý sống của nhà thơ.
2.Thân bài phân tích 2 khổ cuối bài Vội vàng:
a. Đoạn thơ “Của ong bướm…cặp môi gần”:
-Bức tranh thiên nhiên mùa xuân thật đẹp:
- Ong bướm say mê trong “tuần tháng mật”
- Hoa rực rỡ trong màu “xanh rì” của đồng nội
- Cành tơ phơ phất đùa vui với gió xuân
- Âm thanh rộn rã, náo nhiệt như khúc nhạc “tình si” của cặp yến anh
- Tất cả đều có đôi có cặp, khiến ta liên tưởng đến một tình yêu hạnh phúc, ngọt ngào, say mê.
-Hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi” là sự liên tưởng đến ánh nắng lọt qua rèm mi của cô gái trẻ in bóng trên gương mặt xuân sắc, đây là hình ảnh nhiều sức gợi.
-Chuyển đổi cảm giác từ thị giác, thính giác sang vị giác, cảm nhận tháng giêng, mùa xuân tựa một món ăn thật mỹ vị, cảm giác căng tràn sức sống mịn màng từ đôi môi của người con gái trẻ tuổi đang đắm chìm trong tình yêu.
b. Đoạn thơ “Tôi sung sướng…cả đất trời”:
- Nỗi hoang mang sợ mùa xuân qua đi của Xuân Diệu ngay chính giữa mùa xuân
- Phát hiện quy luật của thời gian của tạo hóa, mùa xuân tuần hoàn, nhưng cuộc đời chỉ có một.
- Hờn trách cuộc đời, tuổi xuân của con người quá ngắn, không đủ cho Xuân Diệu được tận hưởng.
- Nỗi tiếc nuối sâu sắc về những vẻ đẹp của mùa xuân, của cuộc sống, “tiếc cả đất trời”.
c. Đoạn thơ “Mùi tháng năm…chẳng bao giờ nữa…”:
- Không chỉ riêng mình Xuân Diệu phải chịu sự khắc nghiệt của quy luật thời gian, của tạo hóa mà cả vũ trụ đều nằm trong nỗi buồn ấy.
- Mùa xuân đi qua mang theo tuổi thanh xuân của con người, quy luật mang tính tác động tiêu cực.
- Cảm xúc của nhà thơ: bâng khuâng, tiếc nuối
d. Đoạn thơ “Mau đi thôi…cắn vào ngươi!”:
- Chân lý sống mới của Xuân Diệu, chạy đua với thời gian, sống “vội vàng” để tận hưởng.
- Những khao khát mãnh liệt thể hiện trong điệp cấu trúc “Ta muốn…”, trong những động từ mạnh, lạ: “ôm, riết, thâu, cắn”.
3.Kết bài phân tích 2 khổ cuối bài Vội vàng:
- Vội vàng của Xuân Diệu là một bài thơ xuất sắc về bức tranh thiên nhiên, cuộc sống và tình yêu.
- Thể hiện những khao khát thật mãnh liệt, có khi thật ngông cuồng về ước muốn tận hưởng trọn vẹn mùa xuân tươi đẹp, đó là mùa xuân thiên nhiên và cũng là mùa xuân của cuộc đời.
- Quan điểm thật sâu sắc về cuộc sống, về thời gian cũng được Xuân Diệu tinh tế lồng ghép thật khéo léo trong từng vần thơ của mình.
Đọc nhiều hơn 🌻 Dàn Ý Vội Vàng Xuân Diệu 🌻 Bài Ôn Tập Môn Ngữ Văn
Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Vội Vàng Hay Nhất – Mẫu 1
Đón đọc bài văn mẫu phân tích 2 khổ cuối bài Vội vàng hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Trong nhóm Tự lực văn đoàn ngoài những cái tên chủ chốt như Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam thì cái tên Xuân Diệu cũng được nhiều người biết đến. Thậm chí cái tên Xuân Diệu còn nổi hơn cả tự lực văn đoàn. Với phong cách thơ tiếp thu những mặt tích cực của thơ Pháp và chủ đề mùa xuân tình yêu thơ Xuân Diệu đã chinh phục được biết bao nhiêu trái tim người đọc.
Người ta nhìn thấy ở thơ ông sự nhiệt huyết yêu đời, cái tôi bản ngã, đôi mắt xanh non biếc rờn. Đặc biệt trong tất thảy những sáng tác của ông thì người ta nhớ đến nhiều nhất là tác phẩm Vội Vàng được trích trong tập Thơ Thơ (1938). Bài thơ như một minh chứng điển hình cho phong cách thơ cùng với quan điểm sống của thi sĩ.
Thơ Xuân Diệu là thơ rất hiện đại vì thế cho nên nhà thơ không bao giờ cố định hay gò bó mình vào hình thức thơ nhất định. Ngay trong bài Vội Vàng thể thơ thi sĩ chọn vẫn là sự tự do. Và có lẽ đây chính là sự lựa chọn sáng suốt trong việc thể hiện cảm xúc quan điểm sống với cuộc đời này của nhà thơ.
Nếu như bốn câu thơ thể hiện mong muốn của nhà thơ thì bảy câu thơ tiếp theo như lời giải thích tại sao nhà thơ lại yêu cuộc sống này đến mức muốn đoạt quyển tạo hóa:
“Của ong bướm này đây tuần trăng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Và với những hình ảnh đẹp Xuân Diệu đã bày ra trước mắt ta một thiên đường trên mặt đất một bữa tiệc trần gian. Đầu tiên là hình ảnh tuần tháng mặt với ong bướm rập rìu. Nói ong bướm nhưng cũng chính là nói những người đang yêu nhau, đó là đôi vợ chồng mới cưới và cùng nhau hạnh phúc trong tuần trăng mặt hạnh phúc êm đềm. Nào là hoa của đồng nội xanh rì hay lá của cành tơ phơ phất.
Điệp từ “này đây” như mời gọi tất cả mọi người hãy cùng thưởng thức bữa tiệc ấy còn từ “của” lại thể hiện sự sở hữu của thiên nhiên. Những hình ảnh ấy rất đỗi thân quen trong cuộc sống đời thường thế nhưng sao khi qua hệ thống ngôn từ mượt mà của Xuân Diệu lại trở nên tươi đẹp đáng yêu đến thế. Màu của bức tranh ấy là màu xanh bình yên, mộc mạc, màu của hạnh phúc lứa đôi.
Không chỉ thế bức tranh thiên nhiên còn có âm thanh của những cặp yến anh với những khúc tình si ngọt ngào. Nói yến anh hay chính là khúc nhạc của tình yêu đôi lứa. Ánh sáng là một thứ không thể thiếu để tạo nên một bức tranh thiên nhiên hoàn hảo xứng đáng là một thiên đường trên mặt đất. Đó là ánh sáng bình minh hiện lên cùng hình ảnh người thiếu nữ thức giấc sau một đêm mộng mị.
Bình minh đến trên rèm mi rợp mắt. Người con gái xinh đẹp thức dậy mang đầy ánh sáng bình minh trên ánh mắt của mình. Đặc biệt là hình ảnh “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” luôn là hình ảnh được nhiều người yêu thích và công nhận sự táo báo mới mẻ trong thơ Xuân Diệu. Nhà thơ có cái nhìn quả là xanh non biếc rờn.
Tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân khi ấy đất trời đang đà chuyển đổi, sinh sôi nảy nở, những chồi non của cây cối được sinh ra, mùa của con người vui niềm vui sum họp. Nhà thơ không ví sự đẹp đẽ ấy với hình ảnh thiên nhiên như thơ cũ mà nhà thơ ví như đôi môi căng mộng của người con gái. Có lẽ tháng giêng giống như đẹp trong trĩnh căng mọng như bờ môi thiếu nữ vậy.
Câu thơ tiếp theo như thể hiện hết những cũng bậc cảm xúc của nhà thơ khi cảm nhận được những điều tuyệt vời của cuộc sống:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”
Về mặt hình thức chúng ta thấy có một dấu chấm ngắt câu giữa dòng thơ. Có thể nói nhà thơ không đặt dấu chấm vào đó cho vui tay cho lạ mà là cả một ý đồ nghệ thuật nhằm thể hiện cảm xúc của mình. Dấu chấm ấy đã tách riêng biệt hay cũng chính là thể hiện sự đối lập mâu thuấn trong tâm trạng của nhà thơ.
Trước thiên đường trên mặt đất ấy nhà thơ sung sướng tận hưởng nhưng lại cảm thấy lo lắng và vội vàng. Đó cũng chính là sự đối lập tiêu biểu trong thơ của Xuân Diệu: yêu cuộc đời đến cuồng nhiệt nhưng lại hồ nghi và cô đơn. Đặc biệt vế “tôi sung sướng” là sự quy nạp cho cảm xúc về bức tranh thiên nhiên như bữa tiệc trần gian kia còn “Vội vàng một nửa” lại là luận điểm để cho những diễn dịch về sau sẽ giải thích tại sao nhà thơ lại vội vàng.
Những câu thơ tiếp theo nhà thơ lý giải cho việc vội vàng của mình. Nguyên nhân khiến cho trạng thái của thi si như thế là do sự đối lập giữa tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ:
“Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”
Nhà thơ không thể chờ nắng hạ mới hồi xuân, lòng khát khao sống hòa nhập với cuộc đời khiến cho nhà thơ như vội vàng cuống quýt. Lý giải về sự vội vàng của mình Xuân Diệu đưa ra quy luật khác nghiệt của tự nhiên. Điệp từ “nghĩa là” giống như tác giả đang định nghĩa về thời gian màu xuân và tuổi trẻ, tình yêu.
Bằng hàng loạt các từ đối lập nhau “đương tới”, “đương qua”; “non”, “già” nhà thơ đã thể hiện được quan niệm thời gian là tuyến tính một đi không trở lại. Ngày hôm nay xuân mới đến đấy nhưng ngày hôm sau xuân đã đi và có nghĩa là thời gian trôi thì con người sẽ già không còn tuổi trẻ và tình yêu nữa. Thời gian luôn là kẻ thù của tuổi trẻ và tình yêu. Thi sĩ Hồ Xuân Hương từng viết:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Lòng khao khát tuổi trẻ và tình yêu của Xuân Diệu thì vô cùng lớn còn lượng trời thì hẹp. Tuổi trẻ nhân gian chỉ có thời ròi cũng qua đi như những mùa xuân kia nhưng khác một chỗ là không thể trở lại thêm một lần nào nữa. Chính vì thế nhà thơ nhìn đâu cũng thấy sự phai tàn và chia phôi.
Từ nhận thức bước đi nghiệt ngã của thời gian ấy, Xuân Diệu không thể nào không vội vàng được. Nhìn mọi thứ như sắp phai tàn và chàng thi sĩ của chúng ta gấp gáp để tận hưởng những gì tốt đẹp của cuộc sống:
“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
–Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Có thể nói cả bài Vội Vàng đều hay những đoạn thơ này càng làm nên sự hấp dẫn của thi phẩm này. Nhà thơ giục giã gấp gáp để bắt kịp dòng thời gian, nhà thơ như muốn đi trước cả thời gian để tận hưởng cho hết những thanh sắc cuộc đời này. Hàng loạt các động từ mạnh như “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn” cùng những hình ảnh đầy hấp dẫn như “mây đưa”, “gió lượn”, “cánh bướm với tình yêu”, “hôn nhiều” được nhà thơ sử dụng triệt để nhằm thể hiện rõ khao khát tận hưởng cuộc sống mến thương này.
Không những thế các tính từ như “chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê” thể hiện được sự tận hưởng đến viên mãn tròn đầy. Động từ “cắn” một lần nữa khẳng định khát khao mãnh liệt ấy.
Như vậy, trong khổ thơ 2 và 3 bài Vội vàng, Xuân Diệu đã phô bày trước mắt chúng ta những hình ảnh thân quen nhưng lại đầy hấp dẫn của cuộc sống này. Thi sĩ quả thật đúng với bao lời khen của biết bao người. Đọc thơ Xuân Diệu ta như được tưới thêm nguồn sống, thêm yêu đời và yêu cuộc sống này biết bao. Tuy nhiên khát khao sống hòa nhập với đời nhưng cũng không nên sống quá vội vàng vì cuộc sống nếu quá vội vàng sẽ xảy ra hậu quả không tốt.
Cùng với phân tích 2 khổ cuối bài Vội vàng, gợi ý cho bạn ☔ Sơ Đồ Tư Duy Vội Vàng Xuân Diệu ☔ 14 Mẫu Tóm Tắt Hay
Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Vội Vàng Ngắn Gọn – Mẫu 2
Tham khảo bài văn phân tích 2 khổ cuối bài Vội vàng ngắn gọn dưới đây với những ý văn súc tích và cô đọng nội dung.
Nhà thơ Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. “Vội vàng” được đánh giá là một bài thơ “rất Xuân Diệu”.
Ở khổ thơ thứ 2, Xuân Diệu đã phát hiện ra cả một thiên đường trên mặt đất với bao màu sắc, âm thanh và ánh sáng:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Bức tranh cuộc sống hiện ra tựa như một bữa tiệc trần gian với chân thức sẵn bày, mời gọi hấp dẫn. Hai chữ “Này đây” được nhắc đến nhiều lần không gợi sự thừa thãi trong câu chữ, mà tô đậm không gian và thời gian thơ, đó là ngay lúc này và ở tại đây.
Nơi đây – nơi cuộc sống trần thế với bao điều hấp dẫn, chính là cái phần ngon nhất mà nhà thơ muốn ôm trọn vào lòng. Nơi có bướm ong dập dìu, yến anh tình tự. Nơi có màu xanh đồng nội, màu lá phất phơ. Nơi có âm thanh của khúc tình si, có ánh sáng của bình minh tựa như hàng mi chớp dịu. Tất cả đều gợi ra một bức tranh thiên nhiên ngồn ngộn sự sống, dạt dào sắc xuân.
Qua lăng kính luyến ái của thi sĩ, mọi thứ đều hiện lên có đôi có lứa, tươi ròng sự sống. Chính Xuân Diệu chứ không phải ai khác, đã “đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới”, người “xây lầu thơ trên một tấm lòng trần gian”, luôn gắn bó sâu sắc với cuộc đời trần thế.
Không “thoát lên tiên” mơ theo cảnh bồng lai như Thế Lữ, không tìm về chốn thôn quê để ủ mình trong yên bình như Nguyễn Bính, không lẩn trốn vào quá khứ nơi có những “bóng ma sợ soạng” như Chế Lan Viên, trong mắt Xuân Diệu, thế giới đẹp nhất là cuộc sống trần thế, tại đây và ngay lúc này. Chẳng thế mà từng có lần nhà thơ tự bộc bạch:
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất
Nhưng có lẽ cái đặc sắc và để lại ấn tượng sâu nhất trong mỗi người là câu thơ: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” – một câu thơ “hoàn toàn Xuân Diệu”. Thi sĩ đã hữu hình hóa cái vô hình, đã vật chất hóa một khái niệm thời gian bằng vị cảm. Và còn đặc biệt hơn, cái điều thi sĩ cảm được từ tháng giêng lại là một cặp môi gần của phụ nữ – nó vừa quyến rũ, vừa tươi hồng, vừa mời gọi.
Chính niềm say mê tha thiết với hương sắc trần thế mà trong thi sĩ đã nảy sinh cảm xúc lo sợ thời gian trôi sẽ làm nhạt phai thanh sắc của đời. Bởi thế mà ngay sau những câu thơ tươi vui kia, mạch thơ chuyển ngay sang những điệu thơ trầm lặng, trĩu nặng suy tư:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Xuân Diệu bằng nhãn quan tinh nhạy của mình, đã nhìn thấy cái đương qua ngay trong cái đương tới, cái sẽ già ngay trong cái còn non. Không phải ngẫu nhiên mà thi sĩ có những cảm xúc ấy.
Người xưa quan niệm thời gian tuần hoàn, lấy sinh mệnh vũ trụ để tính vòng đời, họ tin đời người là kiếp luân hồi, đi rồi sẽ trở lại. Còn Xuân Diệu nhìn thời gian trong sự tuyến tính để có những nhận thức đúng đắn về đời người. Vậy là xét cho cùng, tiếc nuối thời gian âu cũng là một biểu hiện khác của lòng yêu cuộc sống. Và đúng như Hoài Thanh nói: “khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”.
Trước dòng đời ngược xuôi trôi dạt, đôi mắt tinh nhạy của người nghệ sĩ nhìn đâu cũng thấy chia li xa cách:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng buồn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…
Tháng năm được cảm nhận qua mùi, qua vị. Mùi và vị của nó chính là chia phôi. Câu thơ được chuyển đổi cảm giác, sự tương giao giữa các giác quan khiến cho ta tưởng như người thi sĩ nhìn đâu cũng thấy chia lìa, đi đâu cũng thấy chia phôi. Cả đoạn thơ man mác bâng khuâng, ngậm một nỗi tiếc nuối bùi ngùi.
Tất cả hiện vật, sự vật trên thế gian đều không được vẹn tròn ngày vui. Núi sông thì buông lời than tiễn biệt, gió chim thì đều mang nỗi nợ phải bay đi, phải lìa tổ. Quả thật mọi cuộc vui đều có lúc tàn. Cảm nhận rất rõ được điều ấy, thi sĩ thốt lên trong sự tiếc nuối: “Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…”, để rồi ngay sau đó là lời giục giã: “Mau đi thôi. Mùa chưa ngả chiều hôm”.
Sau những tiếc nuối ngậm ngùi, nhà thơ bộc lộ một khao khát mãnh liệt – khao khát được giao cảm tận độ với đời, hưởng trọn thanh sắc của thời tươi, khao khát tận hưởng và tận hiến:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Ba chữ “Ta muốn ôm” đứng biệt lập ở giữa đoạn thơ, gợi tư thế chủ động, tâm thế sẵn sàng của một chủ thể đang đứng giữa đất trời, dang rộng vòng tay đón trọn hương đời. Từ đó, một loạt cụm từ “ta muốn” xuất hiện trong mỗi dòng thơ – một cách bộc bạch lòng mình trực tiếp của một thi sĩ thơ mới có xúc cảm luôn nồng nàn. Những gì thi sĩ muốn là được giao cảm với thiên nhiên, với sự sống: từ mây, gió, cánh bướm đến tình yêu, cỏ cây, non nước. Mức độ giao cảm cũng dần mãnh liệt hơn: từ ôm, riết, đến say, thâu, và sau cùng là cắn.
Dường như thi sĩ muốn ôm cho hết, say cho tận, thâu cho cùng mọi điều đẹp nhất của cuộc đời, để được hưởng cảm giác “chếnh choáng, đã đầy, no nê”. Câu thơ cuối cùng như một sáng tạo đặc biệt, gợi cảm giác mạnh như một nốt vĩ thanh vút lên ở cuối bài trong một thi phẩm tràn trề cảm xúc cảm giác: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. “Xuân hồng” vừa gợi màu, vừa gợi vị, vừa đập vào thị giác, vừa tác động đến cảm giác.
Một lần nữa thi sĩ hữu hình hóa cái vô hình, coi xuân hồng như phần tươi ngon nhất của cuộc đời, muốn cắn và nuốt trọn nó. Một cái kết mạnh đã cho Xuân Diệu tổng kết triết lý nhân sinh của mình: Vì lẽ cuộc đời trôi đi không đứng đợi mà con người cần sống tận hưởng và tận hiến trong từng giây phút cuộc đời, nhất là khi còn đang ở tuổi trẻ. Đó là triết lý bất diệt với thời gian, mang giá trị nhân sinh cao cả.
Với 2 khổ thơ cuối nói riêng và bài thơ Vội vàng nói chung, Xuân Diệu lại một lần nữa góp vào thi đàn Việt Nam một tuyệt phẩm. Bên cạnh những vần thơ rất hay về tình yêu, còn có những vần thơ nhân sinh sâu sắc. Vội vàng xứng đáng được coi là một tuyệt tác cho mọi thời.
Giới thiệu đến bạn 🍀 Phân Tích Vội Vàng 🍀 Bài Văn Mẫu Hay
Phân Tích 2 Khổ Thơ Cuối Bài Vội Vàng Ngắn Nhất – Mẫu 3
Chia sẻ bài văn phân tích 2 khổ thơ cuối bài Vội vàng ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài viết trên lớp.
Trước cách mạng tháng tám, hồn thơ của Xuân Diệu là hồn nhiên yêu đời, yêu cuộc sống, say mê với cái đẹp, nhạy cảm với sự trôi chảy của thời gian. Nhưng càng yêu say, Xuân Diệu càng sợ cuộc sống sợ tình yêu và vẻ đẹp sẽ bỏ mình và bay đi mất. Chính vì thế mà ta thường gặp trong thơ ông những trạng thái hốt hoảng, lo âu, yêu – sống một cách tham lam, cuống quýt, vồ vập. “Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu cho trạng thái cảm xúc ấy của Xuân Diệu.
Trong cái nhìn của Xuân Diệu sự sống quen thuộc quanh ta bỗng trở nên vô cùng hấp dẫn, điều này được thể hiện rõ nét trong khổ thơ thứ 2:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa
Cảnh thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu hiện ra như một khu vườn ngập tràn hương sắc thần tiên, như là ở một cõi nào xa lạ, chứ không phải là của cõi trời trần tục này. Cũng vẫn là thiên nhiên non nước ngàn năm ấy thôi nhưng Xuân Diệu phát hiện ra bao vẻ đẹp bất ngờ, đáng yêu đang say đắm.
Xuân Diệu đã nhìn đời bằng cặp mắt “xanh non”, “biếc rờn” vui say, rộn ràng tận hưởng những vẻ đẹp diệu kì mà trời đất đã ban cho mỗi cuộc đời, mỗi con người. Những từ ngữ “này đây” san sát nhau đã phô diễn sự phong phú dường như bất tận của thiên nhiên, đã bày ra một khu vườn địa đàng ngay giữa chốn trần gian – một “thiên đàng trần thế”.
Người ta nói tháng giêng đẹp, tháng giêng vui, còn Xuân Diệu lại thấy “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Văn học trung đại lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người. Còn Xuân Diệu thì lại lấy vẻ đẹp của con người ở giữa tuổi xuân và tình yêu làm chuẩn mực cho cái đẹp.
Thơ xưa ngại nói đến những biểu tượng của các vị giác còn Xuân Diệu đã không ngần ngại trộn lẫn và huy động tất cả mọi giác quan của mình để thưởng thức được trọn vẹn những vẻ đẹp của thiên nhiên. Đang vui say, Xuân Diệu bỗng chốc lại buồn ngay vì nhận ra một sự thật nghiệt ngã.
Xuân đang đến nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân đã già
Trước Xuân Diệu, chưa bao giờ có những câu thơ định danh như vậy. Điệp ngữ “nghĩa là” vang lên khô khốc diễn tả một bi kịch trong tâm hồn con người không cách gì nếu giữ được thời gian đang trôi qua. Nỗi nuối tiếc vì ngày vui ngắn ngủi qua mau đó, với Xuân Diệu là đau đớn đến tột cùng. Nhà thơ cho rằng mình sẽ chết đi cùng với mùa xuân khi mà vẻ đẹp của cuộc đời không còn nữa.
“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”. Chính cái ý thức thời gian xuôi chảy một dòng, một đi không trở lại, thời gian là tuyến tính chứ không phải tuần hoàn, định lượng chứ không phải định tính đã chi phối cái nhìn cuộc đời của Xuân Diệu. Do chưa có cái nhìn biện chứng về thời gian nên Xuân Diệu thấy thời gian là một dòng suy biến và tàn phai, ở cuối con đường là sự già nua và chết chóc.
Thời gian lấy đi của con người tuổi trẻ và tình yêu mang trả con người tuổi già và cái chết. Ý nghĩ đó là cho Xuân Diệu cảm nhận đất trời như cũng đối kháng với con người.
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Đời người thì hữu hạn mà thời gian thì lại vô cùng. Tâm hồn con người ta cứ mãi trẻ trung, cứ đầy khao khát nhưng thể xác thì phải già nua theo ngày tháng, không thể nào cứ qua đi rồi lại vòng trở lại như mùa xuân.
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Xuân Diệu buồn biết bao nhiêu khi nhận ra cái bi kịch khủng khiếp ấy của kiếp người. Chính vì sợ ngày vui ngắn ngủi qua mau, sợ vẻ đẹp sẽ tàn phai nên toàn bộ thiên nhiên tươi sáng ở trên kia đến đây cũng mất dần tính tự nhiên, vô tư của nó. Xuân Diệu dường như cảm nhận được mùi vị của tháng năm, nhưng đó là mùa vị đem đến cho nhà thơ sự nuối tiếc xót xa “vị chia phôi”.
Những hợp âm rì rào nghe như lời than thầm vang lên khắp sông núi. Cả đến cơn gió xinh cũng dỗi hờn, chim chóc cũng “đứt tiếng reo thi” vì sợ “độ tàn phai sắp sửa”. Kết thúc tâm trạng ấy là tiếng thở dài ngao ngán.“Chẳng bao giờ, ôi! chẳng bao giờ nữa”Vì nhận thấy sự nghiệt ngã của thời gian nên nhà thơ lại dậy lên một nỗi khát khao sống hết mình, trọn vẹn.
Chính trái tim trẻ tuổi, yêu đời, tràn đầy nhiệt huyết đã không cho phép nhà thơ buông xuôi, phó mặc. Nhà thơ như giục giã chính mình “Mau đi thôi ! mùa chưa ngả chiều hôm”. Nhà thơ muốn tận hưởng cuộc sống, tận hưởng những vẻ đẹp của đất trời khi nó còn đang trong độ xanh tươi mơn mởn.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Điệp ngữ “ta muốn” một lần nữa được lấy lại dồn dập để bày tỏ một khát khao lớn lao muốn ôm cả sự sống vào lòng.
Cho chếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Đấy là một tình yêu nồng nhiệt tới tột độ đối với cuộc sống. Tình yêu ấy đã xua tan đi cái ủ rũ u sầu, làm sống lại cái sinh khí vốn có của một chàng trai trẻ. Kết thúc bài thơ là hình ảnh chàng trai trẻ Xuân Diệu đang hét vang lên niềm đắm đuối, say mê của mình trước thiên nhiên tươi đẹp.“Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”.
2 khổ thơ cuối bài “Vội vàng” thể hiện niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống, một nỗi buồn bã, đơn côi khi nhận ra quy luật nghiệt ngã của đất trời. Tất cả rồi sẽ tàn phai nhưng vượt lên trên tất cả, nỗi khát khao yêu đời vẫn tràn đầy, mãnh liệt. Nó kích thích bạn đọc trẻ tuổi niềm đam mê cuộc sống.
Tiếp theo phân tích 2 khổ cuối bài Vội vàng, khám phá thêm 💕 Cảm Nhận Về Bài Thơ Vội Vàng 💕 10 Bài Văn Mẫu Hay
Phân Tích 2 Khổ Cuối Vội Vàng Chi Tiết – Mẫu 4
Bài văn mẫu phân tích 2 khổ cuối Vội vàng chi tiết dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
“Vội vàng” là một tác phẩm đặc sắc của nhà thơ Xuân Diệu đã tạo nên một ấn tượng đặc biệt đối với bạn đọc bao thế hệ. Thi phẩm là minh chứng rõ ràng về hồn thơ của Xuân Diệu luôn có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và hiện đại trong tư tưởng và tình cảm thẩm mỹ, vừa mang một phong cách rất Tây gợi mở và nồng nàn, nhưng sâu kín lại là tâm hồn dân tộc đầy sâu sắc.
Tác phẩm đã nêu lên quan niệm sống độc đáo đầy mới mẻ. Bởi đã lí giải thật thuyết phục những nguyên nhân để con người có ý thức sống, biết yêu trần thế; biết trân trọng tuổi trẻ và tình yêu; biết sống chủ động trước sự vận động, biến chuyển không ngừng của thời gian và tạo vật trong vũ trụ.
Xuân Diệu thu được thành công ở nhiều lĩnh vực nhưng nổi bật hơn cả là trong thơ ca. Trong những sáng tác tuyệt vời mà Xuân Diệu để lại cho đời, những bài thơ tình của ông chính là những kiệt tác về một thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý của con người, có lẽ vì lẽ đó mà ông được mệnh danh là “ông hoàng của thơ tình”.
Và có một lời nhận xét dành cho Xuân Diệu rằng “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” (Nhà phê bình văn học Hoài Thanh). Đó là lời nhận xét đầy thiện cảm và cũng có cơ sở rõ ràng khi chúng ta có thể tìm thấy sự mới mẻ đó của ông trên nhiều phương diện như: cảm xúc, quan niệm sống và sự cách tân nghệ thuật.
Vội vàng đã thể hiện một tâm hồn yêu đời và ham sống đến cuồng nhiệt của “cái tôi” hiện đại cùng với một quan niệm mới về thời gian, tuổi trẻ một đi không bao giờ trở lại của nhà thơ. Sự sáng tạo độc đáo về nghệ thuật trong bài thơ của Xuân Diệu: đó là nghệ thuật dùng từ, sáng tạo trong việc đặt câu, cùng với hình ảnh thơ; là sự kết hợp giữa mạch cảm xúc say mê, cuồng nhiệt, dồi dào và mạch luân lí chặt chẽ trong một hình ảnh thơ mới mẻ đầy táo bạo.
Khi cảm nhận về bài thơ Vội vàng, ta nhận thấy trong trong khổ thơ thứ 2, tác giả đã gửi gắm câu trả lời của mình vào trong đó:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa.”
Những câu thơ đã giúp Xuân Diệu vẽ ra một bức tranh thiên nhiên và cuộc sống tươi đẹp. Đó là những ngày tháng hạnh phúc của ong bướm đương tuần tháng mật; là sự tươi tắn, tràn đầy sức sống của hoa đồng nội; là lúc non xanh của cành tơ phơ phất; là khúc hát rộn rã, say đắm của yến anh; là cái cái dịu dàng, trong sáng của buổi sớm bình minh như cái chớp mắt của người thiếu nữ. Đó chính là những khoảnh khắc tuyệt diệu nhất của tạo vật thiên nhiên.
Với những hình ảnh thơ gợi cảm, những động từ và phép liệt kê linh hoạt thông qua điệp ngữ “này đây”, thiên nhiên hiện lên vừa sinh động, gần gũi, thân quen, vui tươi lại vừa tình tứ, quyến luyến. Cảm nhận về bài thơ Vội vàng, ta nhận thấy nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên rồi thổi hồn vào đó một tình yêu ngây ngất, đắm say.
Thiên nhiên xuất hiện trong thơ Xuân Diệu tựa hồ như đang bày ra trước mắt một bữa tiệc thịnh soạn của trần gian để mời gọi, quyến rũ con người. Cũng thông qua đây, nhà thơ gửi gắm quan niệm mới mẻ về cuộc sống, về tuổi trẻ và hạnh phúc:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
Theo quan niệm của nhà thơ thì thế giới này đẹp nhất là vì có tuổi trẻ con người và sự hiện hữu của tình yêu. Nếu như thời gian mở đầu cho một năm là tháng giêng với biết bao niềm tin, hi vọng về những gì đẹp đẽ, tươi mới thì thời gian quý nhất của đời người là tuổi trẻ và hạnh phúc quý nhất của tuổi trẻ là tình yêu.
Cũng với những câu thơ này, tác giả đã bộc bạch tâm trạng của một người thi sĩ: trân trọng thời gian nên mới có hình ảnh so sánh táo bạo kết hợp với sự chuyển đổi cảm giác độc đáo (“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”) và tự hạ quyết tâm là:“Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Đó thật sự là một cảm xúc mới mẻ và là niềm khao khát đến cháy bỏng về tình yêu, hạnh phúc và tuổi xuân. Có những cảm xúc ấy, nhà thơ cũng đồng thời không thể giấu đi tâm trạng sung sướng nhưng cũng rất vội vàng khi đón nhận tất cả những gì đẹp nhất của cuộc sống với một nỗi sợ luôn thường trực: sợ mùa xuân, tình yêu rồi có lúc sẽ qua mất.
Theo cái nhìn của tác giả, trong sự vận động của vũ trụ, thời gian sẽ vẫn mãi chảy trôi mà cuộc đời con người một khi đã qua đi thì sẽ không bao trở lại, mỗi một phút giây trôi qua là nó đang mất đi vĩnh viễn:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,
Và xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”
Cũng có một chân lí mà con người buộc phải thừa nhận mặc dù là sự thừa nhận trong tiếc nuối: “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Đối với nhà thơ, mỗi khoảnh khắc trôi qua là lại có một sự mất mát, chia lìa. Mọi sự vật trong vũ trụ đang từng phút, từng giây ngậm ngùi chia ly, tiễn biệt một phần đời của mình:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?”
Các động từ “rớm”, “than”, “hờn” đã tập trung thể hiện sự ngậm ngùi xót xa, vừa là cảm xúc tiếc nhưng cũng vừa là cảm giác đau. Mọi sự cảm nhận về bước đi của thời gian đều có sự chuyển biến sang cảm giác và đã có lúc phải thốt lên đầy ngậm ngùi:
“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”
Có lẽ, từ xuất phát điểm là sự thức tỉnh sâu sắc về “cái tôi” cá nhân trong sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên cuộc đời. Cùng với đó là sự nâng niu, trân trọng từng phút giây được sống, nhất là những năm tháng của tuổi trẻ nên Xuân Diệu đã có những cảm nhận về thời gian và sợ thời gian trôi nhanh như thế.
Triết lý sống vội vàng, nồng nhiệt và hồ hởi
Càng sợ bao nhiêu, nhà thơ càng giục giã, vội vàng và cuống quýt tận hưởng cho kịp tình yêu và cuộc sống:
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều”
Cảm nhận về bài thơ Vội vàng, ta nhận ra những câu thơ được viết với giọng điệu sôi nổi, điệp ngữ “tôi muốn” liên tiếp xuất hiện ở đầu câu cùng với hàng loạt động từ, tính từ gợi cảm theo chiều tăng tiến như “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn” “chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê”:
“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;”
Những tính từ, động từ đã góp phần diễn tả sâu sắc hơn tâm trạng cuồng nhiệt của một niềm khát khao, sôi nổi và cháy bỏng: muốn tận hưởng niềm hạnh phúc của tuổi xuân, của tình yêu và sự tinh túy của đời sống mà mỗi người được ban tặng. Điệp ngữ “tôi muốn” ở đoạn thơ đầu có sự chuyển biến thành “ta muốn” như một lời nhắn nhủ rằng tất cả mọi người hãy sống thật nồng nhiệt, thật hết mình với cuộc đời trần thế.
Đến cuối cùng, niềm khát khao vô bờ đã được đẩy lên tột đỉnh thành ước muốn “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”, sự nhân hóa thiên nhiên này đã trở thành một bệ phóng đẩy niềm khát khao về cuộc đời và tuổi trẻ được thăng hoa. Có thể thấy, khi cảm nhận về bài thơ Vội vàng đã giúp người đọc thấy được quan niệm sống đầy mới mẻ, đầy táo bạo cuồng nhiệt của thi nhân.
Qua “Vội vàng”, Xuân Diệu đã chuyển tải vào trong đó quan niệm thẩm mĩ mới mẻ và quan niệm nhân sinh thấm đẫm tinh thần nhân văn. Đây cũng là một đại diện tiêu biểu của “cái tôi” thơ mới và cũng mang những phong cách rất riêng của hồn thơ Xuân Diệu.
Nhà thơ đã cho thấy tài năng của mình ở một số phương diện: biến đổi linh hoạt câu chữ để thể hiện sự biến chuyển trong tâm trạng, cảm xúc; hình ảnh thơ gần gũi, quen thuộc nhưng cũng rất mới mẻ, sáng tạo; ngôn từ táo bạo chứa đựng cảm xúc dồi dào, mãnh liệt cùng với đó là sự kết hợp khéo léo giữa mạch cảm xúc và những triết lí sâu xa về cuộc sống.
2 khổ cuối trong bài thơ “Vội vàng” đã thể hiện tư tưởng nhân văn sâu sắc: lòng yêu đời, yêu màu xuân, yêu tuổi trẻ; sự thích sống và thèm sống đến mãnh liệt… Chính vì thế mà “lúc vui hay lúc buồn, Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng cái giọng yêu đời thấm thía”.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Bài Vội Vàng 2 Khổ Cuối Đầy Đủ – Mẫu 5
Tham khảo bài văn phân tích bài Vội vàng 2 khổ cuối đầy đủ dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
Xuân Diệu là nhà thơ lớn của văn học hiện đại Việt Nam. Ông để lại hàng chục tập thơ với trên dưới 1000 bài thơ thấm thía tình yêu cuộc sống nồng nàn. Một trong số những bài thơ tiêu biểu cho thơ Xuân Diệu là bài Vội vàng in trong tập Thơ thơ-tập thơ được sáng tác trong những năm mười tám đôi mươi của của nhà thơ. Vội vàng là bài thơ thể hiện tình yêu nồng nàn của Xuân Diệu đối với cuộc sống tươi đẹp mà nhà thơ tự thấy phải gấp gáp nhận lấy.
Trong khổ thơ thứ 2, nhà thơ thấy rằng trong cuộc sống, mọi thứ đều kì diệu, mỗi sự vật dù nhỏ bé đến đâu cũng đều dâng hiến cho đời những vẻ đẹp tinh tuý nhất của mình:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất,
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Bướm ong thì có tuần tháng mật đầy ngọt ngào, cuốn hút, đồng nội thì có vẻ đẹp của màu xanh mơn mởn và muôn hoa rực rỡ , cành tơ non thì có muôn lá rung rinh, ánh sáng bình minh như cái chớp mi của người đẹp…Những câu thơ có nhịp điệu thật nhanh, thật gấp gáp, sử dụng phép liệt kê, điệp ngữ, rất nhiều tính từ, cách liên tưởng táo bạo, đa tình. Cuộc sống trần gian hiện lên qua đó thật sống động, tươi tốt, đáng yêu, đáng sống, tràn ngập âm thanh, màu sắc tươi sáng, khai mở ra một thiên dường tồn tại chính trên cõi trần này.
Với Xuân Diệu, cuộc đời lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, mỗi ngày mới đến là niềm vui cũng gõ cửa ùa vào theo:
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Niềm vui như một vị thần độ lượng, ban phát hạnh phúc cho từng người. Phải nói rằng trong thơ Việt Nam, chưa ai có cách cảm nhận cuộc sống, mùa xuân như cách cảm nhận của Xuân Diệu:
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần
Xuân Diệu chẳng lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp khi so sánh với con người như thơ cổ mà lại lấy con người làm chuẩn mực để so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nếu Nguyễn Du so vẻ đẹp của Thuý Vân-Thuý Kiều “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” thì Xuân Diệu lại liên tưởng “ Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. Một cách so sánh rất riêng, rất táo bào, đầy tình yêu đời nồng nhiệt rất Xuân Diệu.
Ông thấy mùa xuân với bao vẻ đẹp sinh động của nó giống như cặp môi đỏ mọng của thiếu nữ đang kề gần. Cách so sánh này chứa đựng bao rung động tận đáy lòng, vừa có sự khao khát, thèm muốn, háo hức rất thiêng liêng mà cũng rất trần tục. Nhà thơ yêu cuộc sống đến si mê, cháy bỏng!
Có một cuộc sống đẹp như thế để sống, có bao hương sắc tuyệt diệu như thế để tận hưởng, con người ta sẽ sung sướng biết bao. Nhưng, tựa như một cung nhạc đang vút cao, đến đây bỗng chùng xuống:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui sướng không được trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Xưa nay, người ta chỉ tiếc những kỉ niệm khi nó đã trở thành quá khứ, tiếc xuân khi nó đã không còn. Ở đây, Xuân Diệu với sự nhạy cảm lạ lùng của nhà thơ yêu cuộc sống đến đắm say, ông tiếc mùa xuân ngày khi mùa xuân vẫn còn đang phơi phới. Vì nhà thơ biết rằng thời gian sẽ trôi qua nhanh, mà với những gì quý giá, với những vẻ đẹp, thời gian còn tàn nhẫn trôi nhanh hơn gấp bội, nhanh đến khủng khiếp, phũ phàng. Cái non trẻ, thắm tươi rồi sẽ chẳng mấy mà già nua, héo úa. Điều ấy lại ảnh hưởng vô cùng to lớn đến Xuân Diệu:
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Câu thơ đầy cảm giác buồn bã. Nhà thơ phát hiện ra một điều bi thảm cho mình: mùa xuân trôi qua, tuổi trẻ sẽ trôi qua. Mà khi tuổi trẻ đã trôi qua thì cuộc đời nào còn ý nghĩa gì nữa. Bởi quý giá nhất của cuộc đời, đất trời là mùa xuân, quý giá nhất của con người là tuổi trẻ.
Con người khao khát vẻ đẹp tồn tại vĩnh cửu, nhưng cuộc đời lại có những quy luật vô cùng chặt chẽ và nghiệt ngã:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Thời gian thì vô hồi vô hạn, nhưng đời người thì hữu hạn. Con người trong cái hữu hạn ấy trở nên thật nhỏ bé, tội nghiệp và mong manh. Bao người lí luận rằng xuân đi xuân đến, nhưng với Xuân Diệu, ông chẳng thể tự an ủi mình mà trái lại, càng xót xa hơn:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Mùa xuân của đất trời đẹp lắm, quý giá lắm, nhưng mùa xuân chỉ quý giá, chỉ đẹp khi con người biết hưởng, được hưởng vẻ đẹp của nó. Khi con người chẳng còn trẻ mà tận hưởng mùa xuân thì xuân cũng mất hết ý nghĩa. Những câu thơ của Xuân Diệu vì thế mà chuyển sang giọng điệu buồn bã:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Tất cả đều buồn bã, đều mất hết ý vị, chỉ còn “rớm vị chia phôi”, chỉ biết “than thầm tiễn biệt”, chỉ còn “hờn dỗi phải bay đi”, chỉ “sợ độ phai tàn sắp sửa”. Trong thơ Việt Nam, ít ai có giọng thơ nuối tiếc thời gian, thương tiếc cuộc sống thiết tha dường ấy. Cũng vẫn gió lá hoa như đoạn đầu nhưng đoạn trên rạo rực náo nức, đoạn này lại buồn thương ngậm ngùi, xót xa biết bao nhiêu. Nhà thơ kêu lên một cách tuyệt vọng:
Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa!
Nỗi đau đớn của Xuân Diệu phải sâu sắc lắm, cắt cứa lắm, thấm thía lắm thì mới bộc phát thành tiếng than kêu thống thiết dường ấy. Thời gian cứ mênh mông nhưng mùa xuân và tuổi trẻ của con người cứ ngắn ngủi.
Con người chẳng thể làm được gì để biến cái hữu hạn của đời người thành cái vô hạn trường tồn cùng vũ trụ. Chỉ còn mỗi cách, đó là phải hối hả, phải đắm say mãnh liệt hơn, phải vội vàng thâu nhận đến mức độ cao nhất, nhiều nhất những vẻ đẹp nhân gian, những thứ ưúy giá của đời sống, của tuổi trẻ, mùa xuân. Xuân Diệu giục giã:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đàu mơn mởn,
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
Những câu thơ mạnh bạo, gấp gáp, giục giã như một dòng suối ào ạt tuôn chảy, tưởng chừng ngôn từ xô đẩy vào nhau, chen lấn nhau để cho kịp mạch cảm xúc đang bừng lên sôi nổi của nhà thơ. Những tiếng “ta muốn” láy đi láy lại mãi như một điệp khúc bất tận để khẳng định niềm khao khát cháy bỏng muốn sống đến tận cùng cảm giác của Xuân Diệu.
Một loạt điệp từ được sử dụng theo mức độ tăng dần của khao khát: muốn ôm – muốn riết – muốn say – muốn thâu – muốn cắn thể hiện tam trạng si mê đến cuồng nhiệt. Trong một câu thơ mà có đến ba hư từ “và” chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc dang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế với Xuân Diệu mới thực là sống, mới đi đến tận cùng của niềm hạnh phúc được sống.
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc. Tận hưởng cuộc đời chính là có dược cảm nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất. Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chuếnh choáng”, “đã đầy”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi
Câu thơ là đỉnh cao của những khao khát sống, của tình yêu sống rạo rực trong con tim nồng cháy của Xuân Diệu.
2 khổ cuối bài thơ Vội vàng thể hiện tam trạng đắm say bồng bột của một tấm lòng ham sống mãnh liệt. Bài thơ còn thể hiện một quan niệm sống sống gấp gáp vội vàng tận hưởng những hạnh phúc trần thế, một quan niệm sống lành mạnh và tích cực so với đương thời.
Bài thơ là một sáng tác tiêu biểu cho phong cách thơ trẻ trung tươi mới của “nhà thơ của tình yêu”, bài thơ rất tự do, hình ảnh giàu sức gợi, giàu nhạc điệu và cách liên tưởng rất hiện đại. Tâm trạng yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt trong tác phẩm khẳng định tư tưởng nhân văn của nhà thơ. Cho đến nay, nội dung thúc giục mọi người sống có nghĩa trong cuộc sống thực tại của bài thơ vẫn còn bao ý nghĩa với thế hệ trẻ.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Mở Bài Vội Vàng Xuân Diệu ☀️ 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích 2 Khổ Cuối Vội Vàng Học Sinh Giỏi – Mẫu 6
Đón đọc bài văn phân tích 2 khổ cuối Vội vàng học sinh giỏi dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.
Có thể nói, động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tên Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự hạch, tự hoạ của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình.
Thực ra, cái điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là kết cục không thể tránh khỏi mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kì diệu. Mà sống là phải tận hưởng và tận hiến ! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.
Hãy xem cách Xuân Diệu diễn tả vồ vập về một thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân tình trong khổ thơ thứ 2:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Có lẽ trước Xuân Diệu, trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giông mơn mởn tơ non đầy một sức sống thanh tân kia sao mà quyến rũ – tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình rạo rực, trinh nguyên.
Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái lô gích luận lí ngầm của nó. Thi sĩ muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió” chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho một trần thế như thế này đây. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là vẻ đẹp, là cái nhan sắc của nó. Tất cả chi rực rỡ trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi.
Và thế là mảng thơ thứ ba của phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì trong sự sống và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, “ngon” nhất là ở độ xuân ; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái “ngon” kia khi còn trẻ thôi. Trong khi đó, cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Con người thời trung đại lấy sinh mệnh vũ trụ để đo đếm thời gian. Nên hình như họ yên trí với quan niệm thời – gian – tuần – hoàn, với cái chu kì bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Hết một vòng, thời gian lại quay về điểm xuất phát ban đầu. Con người hiện đại lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian. Nên họ sống với quan niệm thời – gian – tuyến – tính. Thời gian như một dòng chảy vô thuỷ vô chung mà mỗi một khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định :
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !
Không chỉ dùng sinh mệnh cá thể, Xuân Diệu còn đo đếm thời gian bằng cái quãng ngắn ngủi nhất của sinh mệnh cá thể: tuổi trẻ. Tuổi trẻ đã một đi không trở lại thi làm chi có sự tuần hoàn.
Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người quá là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời ;
Không chỉ quan niệm, mà ngay cả cảm giác cũng hết sức mới lạ. Xuân Diệu đã đem đến một cảm nhận đầy tính “lạ hoá” về thời gian và không gian:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” correspondance) của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới, trước hết là thời gian và không gian. Có những câu thơ mà cảm giác được liên tục chuyển qua các kênh khác nhau. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác : “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu được làm bằng hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn “buộc gió lại” ư – hương bay đi là thời gian trôi mất, là phai lạt, phôi pha !
Một chữ “sớm” cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ “vị” liền đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một thứ vị hoàn toàn phi vật chất : “vị chia phôi” ! Thì ra chữ “rớm” và chữ “vị” đều từ một hình ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ là giọt lệ chia phôi đó. Giọt lệ thường long lanh trên khoé mắt người trong giờ phút chia phôi. Giọt lệ thành hiện thân, biểu tượng của chia phôi.
Vì sao thời gian lại mang hương vị – hình thể của chia phôi? Ấy là những cảm giác chân thực hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép “tương giao” ? Thực ra cái tinh tế của Xuân Diệu là ở chỗ này đây. Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn.
Trên mỗi thời khắc đều đang có một cuộc ra đi như thế, thời gian đang chia tay với con người, chia tay với không gian và với cả chính thời gian. Tựa như một phần đời của mỗi cá thể đang vĩnh viễn ra đi. Từng phần đời đang chia lìa với cá thể. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than triền miên bất tận : “than thầm tiễn biệt”. Không gian đang tiễn biệt thời gian ! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kì này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi !
Và, một điều rất đáng nói đã bộc lộ đây đó trong thi phẩm này là : do dùng tuổi trẻ để đo đếm thời gian, nên ở Xuân Diệu đã xuất hiện một ý niệm thời gian khá đặc biệt, đó là thì sắc. Thời gian được nhìn ở phía nhan sắc, gắn với nhan sắc của sự vật. Vì thế mà với hồn thơ này, thời gian, về thực chất không có ba thì phân lập rành rẽ với quá khứ – hiện tại – tương lai, mà chỉ có hai thì luôn tranh chấp và chuyển hoá thôi, đó là thời tươi và thời phai.
Nó không phải là hai mùa. Không phải Xuân Diệu lược quy bốn mùa vào hai mùa. Mà là hai thì của mỗi một tạo vật thiên nhiên. Thời tươi: vạn vật thắm sắc, thời phai : vạn vật phôi pha, phai lạt. Vật nào trong trần thế này cũng trải qua hai thì ấy. Tất cả những ý niệm thời gian khác như năm tháng, mùa vụ, phút giây,… dường như đều tan trong cái ý niệm “thì – sắc” tổng quát đó. Mà ta thấy ở đây, nó hiện diện trong sự đối lập của “độ phai tàn”(thời phai) và “thời tươi”:
-Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?
-Cho no nê thanh sắc của thời tươi ;
Có thể nói ý niệm thì – sắc này đã chi phối toàn bộ nhỡn quan Xuân Diệu đối với việc cảm nhận vẻ đẹp của thế giới trong sự trôi chảy vô thuỷ vô chung của nó.
Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có một cách thực tế nhất, khả thi nhất là chạy đua với thời gian, là tranh thủ sống :
Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm.
Đến đây, phần luận giải của tuyên ngôn vội vàng đã đủ đầy luận lí !
Phần cuối của bài thơ là lúc tuyên ngôn được hiện ra thành hành động, ấy là vội vàng trong hình thái sống của cái tôi cá nhân cá thể này. Bài thơ được kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những ham muốn mỗi lúc mỗi cuồng nhiệt, vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống trào cuốn của mình :
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
-Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi, bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa, song song, thành những đợt sóng vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. Câu thơ “Ta muốn ôm” chỉ có ba chữ, lại được đặt ở vị trí đặc biệt: chính giữa dòng thơ, là hoàn toàn có dụng ý.
Xuân Diệu muốn tạo ra hình ảnh một cái tôi đầy ham hố, đang đứng giữa trần gian, dang rộng vòng tay, nới rộng tầm tay để ôm cho hết, cho khắp, gom cho nhiều nữa, nhiều nữa, mọi cảnh sắc mơn mởn trinh nguyên của trần thế này vào lòng ham muốn vô biên của nó. Cái điệp ngữ “Ta muốn” được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn : ôm – riết – say – thâu – cắn.
Có thể nói, câu thơ ” Và non nước, và cây, và cỏ rụng” là không thể có đối với thi pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với người xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên từ “và” đến thế ? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu.
Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc ham hố, tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời của thi sĩ !
Câu thơ :
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê hương sắc của thời tươi ;
cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ “cho” điệp lại với nhịp độ tăng tiến, nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thỏa thuê: chểnh choáng – đã đầy – no nê. Sóng cứ càng lúc càng trào dâng, cao hơn, vỗ mạnh hơn, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:
-Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhuỵ đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi sĩ như một tình lang trong một cuộc tình chếnh choáng men say.
Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc, phải sống vội vàng. Thế là, Vội vàng chính là cách duy nhất để đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc và dường như cũng là cái giá trả cho hạnh phúc vậy! Xuân Diệu quả đã mang trong mình nguồn sống trẻ. Xuân Diệu là thi sĩ của nguồn sống trẻ. Ta hiểu vì sao, khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ!
Đừng bỏ qua 🔥 Kết Bài Vội Vàng 🔥 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất
Phân Tích Vội Vàng 2 Khổ Cuối Nâng Cao – Mẫu 7
Tham khảo dưới đây bài văn mẫu phân tích Vội vàng 2 khổ cuối nâng cao với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Cuộc sống cứ nhẹ trôi như một bản nhạc không lời, có lúc cao trào, có lúc lại trầm bổng, du dương làm tâm hồn ta miên man trong những dòng suy nghĩ. Liệu thời gian của đời người có tuần hoàn như thời gian của vạn vật hay chỉ là tuyến tính, một khi đã đi qua sẽ không bao giờ trở lại nữa?
Cứ bâng khuâng trong dòng xúc cảm của câu hỏi ấy, chúng ta lại chợt nhớ tới thi phẩm “Vội vàng” của tác giả Xuân Diệu. Cùng lạc vào “xứ sở cái đẹp” và chạm ngõ những vần thơ đâm sắc màu của chàng thi sĩ “say men sống” ấy, ta sẽ có câu trả lời đúng đắn.
Nhà thơ Thế Lữ đã từng nhận xét về Xuân Diệu: “Nhà thi sĩ ấy là một chàng trai trẻ hiền hâu và say đắm, tóc như mây vướng trên đài trán thơ ngây, mắt như bao luyến mọi người và miệng cười mở rộng như một tấm lòng sẵn sàng ân ái. Chàng đi trên đường thơ, hái những bông hoa gặp dưới bước chân mình, những hương sắc nẩy ra bởi ánh sáng của lòng chàng”.
Có lẽ, ai đã từng một lần lật mở ngưỡng cửa văn chương của Xuân Diệu đều trót yêu cái “hồn thơ luôn rộng mở, chẳng bao giờ để lòng mình khép kín- một hồn thơ tha thiết, rạo rực, băn khoăn”. Phải chăng, chính sự giao thoa của miền đất Hà Tĩnh hiếu học với quê mẹ Quy Nhơn (Bình Định)- nơi có những bãi biển trải dài vô tân đã tôi luyện nên một Xuân Diệu với phong cách rất riêng, rất độc đáo.
Ông là một cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào và bền bỉ. Vì thế ông xứng đáng với danh hiệu “một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn”. Thi sĩ đã sáng tác bài “Vội vàng” năm 1938, được in trong tập “Thơ Thơ”- tập thơ đầu tay tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.
Trong khổ thơ thứ 2, ta thấy rằng với Xuân Diệu, thế giới này đầy tươi đẹp, hương sắc. Thể hiện qua sự tuôn trào mãnh liệt của tâm trạng với những câu thơ kéo dài hơn:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Trước mắt ta bây giờ, bức tranh thiên nhiên giống như một thiên đường trên mặt đất. “Của ong bướm”, “Của yến anh”- một cách nói rất độc đáo khiến cho câu thơ được Tây hóa, đầy sáng tạo, mới mẻ. Biện pháp điệp ngữ “này đây” đã một lần nữa nhấn mạnh, giúp người đọc cảm nhân và hình dung thái độ trầm trồ, thán phục, thích thú của thi nhân khi mỗi bước đi đều được chiêm ngưỡng vẻ đẹp say đắm của thiên nhiên, vạn vật. Bức họa ấy được thêu dệt từ những nét vẽ hết sức điêu luyện.
Hình ảnh “ong bướm”, “yến anh” – những cặp đôi gắn kết, không thể tách rời lại được gắn với thời gian ” tuần tháng mật”- câu thơ này đã khiến bao người băn khoăn, suy ngẫm. Tôi tự nhủ, liệu đây có phải là tuần mà ong bướm đi tìm hoa kiếm mật, hay đây là thời gian đẹp đẽ, ngọt ngào nhất của cuộc đời con người?- Dù hiểu theo cách nào thì đây vẫn là khoảng thời gian tươi đẹp, hạnh phúc nhất của tình yêu say đắm. Thoáng hiện lên trong bức họa còn có chiếc “lá của cành tơ phơ phất”, cho ta thấy được cái non tơ, mãnh liệt, mơn mởn.
Tất cả thiên nhiên, vạn vật đầy sức sống, gợi cảm, nồng nàn, quyến rũ như đang chào mời, vẫy gọi. Thì ra nhà thơ đã nhìn mọi vật bằng cặp mắt xanh non biếc rờn, bằng lăng kính của tình yêu nên cảnh sắc thiên nhiên được gợi tả, hình dung trong mối quan hệ với người đang yêu như tình yêu của lứa đôi tươi trẻ, đắm say, si mê. Quả thực, “thơ Xuân Diệu đã nói lên bao nỗi niềm riêng của thanh niên”.
Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian và dường như ông đang “tính sổ với cuộc đời mình từng giây, từng phút”. Sự bồng bột ấy của ông hoàng thơ Mới làm “từng câu chữ phải chơi vơi, ý văn phải xô đẩy, khuôn khổ thơ bị lung lay”. Tất cả mọi cảnh vật hiện lên trong mắt ông đều rất đẹp, rất quyến rũ:
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sáng thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Ánh sáng của buổi bình minh thanh tân đẹp rực rỡ qua cái “chớp mi” của người thiếu nữ. Và nếu thơ ca Trung đại lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp:
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua tham liễu hờn kém xanh
Thì với Xuân Diệu thiên nhiên ấy vẫn đẹp nhưng phải nhường chỗ gì vẻ đẹp của con người giữa tuổi trẻ và tình yêu- đây mới là thước đo, đỉnh cao cho cái đẹp của thế giới. Nhà thơ lại một lần nữa xuất hiện trong sự táo bạo, mới lạ qua từ “ngon” đầy cảm giác nhục thể, hình ảnh so sánh đầy sức gợi, tháng giêng được đặt trong sự tương xứng với “cặp môi gần” của người thiếu nữ đầy gợi cảm, quyến rũ.
Cách ví von hấp dẫn, đem đơn vị thời gian trừu tượng với vẻ đẹp của con người kết hợp với chuyển đổi cảm giác để diễn tả sự căng tràn sức sống, tươi mới của thiên nhiên vạn vật xung quanh.
Đọc Xuân Diệu có lẽ không ai cần đặt câu hỏi vẻ đẹp cuộc sống ở đâu, mà chỉ cần lật nhẹ từng trang thơ đã tìm thấy câu trả lời thỏa đáng. Nhưng thơ của chàng thi sĩ này không bao giờ bình yên vì luôn vấp phải nỗi đau. Mạch thơ đang dào dạt bỗng vấp phải một dấu chấm cắt giữa câu:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”,
khiến trái tim ta như có chút vấn vương, bồi hồi, luyến tiếc, buồn thương thay cho tâm trạng của thi nhân. Quả đúng như ai đó đã từng nói: “Thơ là tiếng nói của tình cảm” hay “Thơ là tiếng nói của trái tim đến trái tim”. Vì thế ta tìm thấy đâu đây sự đồng điệu của tâm hồn ta với Xuân Diệu, làm ngân lên bao khát khao, hoài bão, biết sống “toàn tâm, toàn ý, sống toàn hồn”.
Sự nhận thức về thời gian- đời người là vô cùng quan trọng:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Thời gian của đời người là hữu hạn, đặc biệt của tuổi trẻ thì rất ngắn ngủi. Có lẽ vì thế mà trong cái nhìn của nhà thơ, mới gặp gỡ đã có mầm li biệt, trong nở rộ đã có dấu hiệu của sự tàn phai. Chính điều ấy đã tạo nên hơi thở gấp gáp rất riêng trong thơ Xuân Diệu:
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Nỗi đau dường như thấm vào cả cơn gió, tiếng chim nhưng đau nhất là tuổi trẻ đang khát sống mà không thể thực hiện được. Cái hơi thở ấy vẫn mạnh mẽ mà bên trong đầy hụt hẫng, bất lực. Từng vần thơ nối nhau, đan xen trong ta trường cảm xúc thật lạ! – cảm xúc mà chỉ khi nếm trải thơ Xuân Diệu ta mới nhìn nhân được- một hồn thơ kết tinh của hai nen văn học Đông và Tây thực sự khiến bao người lĩnh hội rung động, nghẹn ngào.
Nếu “Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa thì Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Vâng! Xuân Diệu ” xua ai nấy về hạ giới” để gửi gắm quan niệm sống cao độ, sống hết mình cho từng phút, từng giây. Lúc này, giọng thơ bỗng trở nên sôi nổi, bồng bột, ta như nghe được tiếng đập gấp gáp của trái tim Xuân Diệu, những đợt sóng tình cảm như vồ chụp lấy người đọc, rủ rê người đọc cùng hành động. Điều ấy được khắc họa rõ nét qua sự thay đổi về đại từ nhân xưng:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều…
Một loại các động từ mạnh như “ôm, riết, thâu, say”, chỉ cảm xúc tuôn trào mãnh liệt, vượt qua cả khung cấu tứ thông thường kết hợp với điệp từ “và” tưởng như là thừa chữ nhưng lại chứa đựng dụng ý nghệ thuật của tác giả.
Đến đây tôi lại chợt nhớ tới những vần thơ cũng dạt dào cảm xúc như thế:
Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ
Phải nói yêu trăm bân mấy nghìn lan
Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm xuân
Cung bậc cảm xúc dâng trào là thế nhưng lên tới đỉnh điểm phải kể đến những vần thơ cuối trong “Vội vàng”:
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh săc của thời tươi
-Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Các tính từ “đã đầy”, “chếnh choáng”, “no nê” thể hiện cảm xúc đắm say khi thưởng thức vẻ đẹp thanh xuân quyến rũ của vạn vật thiên nhiên. Động từ “cắn” là một từ đắc địa, làm toát lên toàn bộ sức sống của bài thơ, đây là một hình ảnh vừa mang tính cụ thể nhưng cũng có trừu tượng cùng cách diễn đạt mới mẻ tạo ấn tượng sâu đâm trong tâm trí độc giả.
Dường như trái tim yêu của Xuân Diệu như muốn căng ra chứa hết vũ trụ để thỏa mãn tình yêu vạn vật, cuộc sống và làm nên “thương hiệu” riêng trong phong cách thơ của mình. Ngưỡng cửa văn chương của Xuân Diệu khép lại nhưng mở ra bao tình đời, tình người sâu sắc và ý vị: Hãy sống mãnh liệt, sống hết mình cho từng phút, từng giây của sự sống.
Có lẽ những trang thơ mang đâm ý vị cuộc sống được dệt nên từ sự thăng hoa của cảm xúc ấy sẽ mãi không bao giờ phai trong tâm trí ta. Bởi nó không chỉ hay ở ngôn từ mới lạ mà còn ở sức nặng ngữ nghĩa của từng câu chữ. Bên cạnh đó, còn có sự điêu luyện trong việc sử dụng nghệ thuật để dệt nên những vần thơ thực sự có giá trị.
Cảm ơn Xuân Diệu đã mở ra trong ta bao điều thú vị về cuộc đời, để từ đó có cái nhìn tinh tế, sâu sắc và toàn diện hơn về chặng đường mà mình sẽ trải nghiệm tiếp. Làm cho hành trình cuộc sống của mỗi người thêm tha thiết, dạt dào, đầy ý nghĩa.
“Thơ hay là cùng một lúc phải đạt được cả ba phẩm chất: giản dị, xúc động và ám ảnh”. 2 khổ thơ cuối nói riêng và bài thơ “Vội vàng” nói chung xứng đáng là một sáng tác hay như thế. Dù gấp trang sách lại, trong ta vẫn hiện hữu bao dòng cảm xúc nóng hổi như đang chạy đua với thời gian cùng Xuân Diệu. Những vần thơ ấy sẽ mãi lay động tâm trí ta và để lại bao dư âm, dư ba không bao giờ ngớt.
Ngoài phân tích 2 khổ cuối bài Vội vàng, tại SCR.VN còn có 🌺 Phân Tích Vội Vàng Khổ 1 🌺 Top 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Vội Vàng 2 Khổ Thơ Cuối Ngắn Hay – Mẫu 8
Bài văn mẫu phân tích Vội vàng 2 khổ thơ cuối ngắn hay dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý làm bài phong phú hơn.
“Vội vàng Xuân Diệu” là cái tôi đầy hân hoan, nồng nhiệt với từng dấu hiệu của sự sống nhưng lại đầy lo âu, phấp phỏng trước những bước đi thời gian của Xuân Diệu. Càng yêu cuộc sống bao nhiêu, Xuân Diệu càng lo sợ trước sự phai tàn của vẻ đẹp, của sự sống bấy nhiêu. Không thể thay đổi quy luật chảy trôi của thời gian nên người thi sĩ ấy đã chủ trương sống vội, sống gấp để tận hưởng trọn vẹn những khoảnh khắc của thời tươi.
Ở Xuân Diệu chúng ta thường bắt gặp một cá tính thơ khoáng đạt, khác biệt và đầy sáng tạo có thể nói “có một không hai” trong thơ ca Việt Nam. Bằng đôi mắt “xanh non biếc rờn” cùng tình yêu tha thiết đối với cuộc đời, ở khổ thơ thứ 2, nhà thơ Xuân Diệu đã phát hiện được những vẻ đẹp rực rỡ, tươi sáng nhất nơi trần gian:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”
Xuân Diệu đã mở ra bức tranh sự sống đầy sống động với cả hình ảnh, màu sắc, âm thanh và cả những chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế bên trong vạn vật. Điệp ngữ “này đây” gợi ra được cái háo hức, rạo rực của người thi sĩ khi giới thiệu về vẻ đẹp nơi trần gian – nơi người thi sĩ đắm say với một tình yêu mãnh liệt.
Hình ảnh ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, cành tơ, yến anh, ánh sáng là những hình ảnh đẹp đẽ, tươi non của cuộc sống thường nhật, nhưng qua lăng kính lãng mạn và tình yêu cuộc sống của nhà thơ thì những hình ảnh vốn quen thuộc ấy bỗng tươi sáng, hấp dẫn như cảnh sắc nơi thiên đường.
Thiên nhiên, sự sống trong thơ Xuân Diệu bao giờ cũng tươi tắn, mời gọi như vậy. Tuy nhiên nét đặc sắc nhất trong cảm nhận của người thi sĩ phải để đến cách so sánh “Tháng giêng ngon như cặp môi gần”. Vậy là trong cảm nhận của nhà thơ, mùa xuân cũng tươi ngon, hấp dẫn khó cưỡng như một cặp môi gần.
Lấy con người là chuẩn mực đánh giá cho những vẻ đẹp của tự nhiên không chỉ thể hiện cá tính sáng tạo của nhà thơ mà còn thể hiện quan niệm mới trong sáng tác. Nếu người xưa lấy thiên nhiên để làm thước đo cho vẻ đẹp của con người thì nay Xuân Diệu đã đi ngược lại với quan niệm bất thành văn ấy để đặt con người ở vị trí trung tâm của vũ trụ và khẳng định con người mới là chuẩn mực của mọi vẻ đẹp.
Cùng với trái tim luôn rạo rực, nóng bỏng với tình yêu cuộc sống, Xuân Diệu luôn thường trực tâm trạng lo âu, phấp phỏng trước những bước đi của thời gian. Khi người ta càng yêu, càng trân trọng thì càng lo sợ nó sẽ tan biến trong cái vô hình, có lẽ Xuân Diệu cũng vậy, càng yêu cuộc đời thì càng bất an, lo lắng:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian”
Bằng những cảm nhận nhạy bén của mình, Xuân Diệu có thể nhìn thấy những dấu hiệu tàn phai của sự sống ngay ở thời tươi. Xuân đang tươi non, nở rộ đấy nhưng chính trong vẻ đẹp của thời tươi ấy lại là mầm mống của sự tàn phai, lụi tàn “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua”, và tuổi trẻ cũng vậy, một khi trôi qua sẽ không bao giờ quay trở lại “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”.
Xuân Diệu đã gắn tuổi trẻ với mùa xuân và đưa ra quan niệm của mình về thời gian: Tuổi trẻ, mùa xuân, tình yêu tuy đẹp nhưng không phải mãi mãi, vô hạn mà hữu hạn, ngắn ngủi chỉ như cái chớp mắt. Bởi vậy để sống có ý nghĩa, để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của sự sống, của tình yêu, của cuộc đời người, Xuân Diệu đã chủ trương sống “vội vàng”:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng”
Xuân Diệu đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh: “Ôm, riết, thâu” thể hiện khát khao chiếm lĩnh những vẻ đẹp của thời tươi. Không thể làm cho bước đi của thời gian ngừng lại thì hãy sống tận độ, sống nồng nhiệt, yêu hết mình để không có hối tiếc khi thời gian trôi đi. Quan niệm sống “vội vàng” của Xuân Diệu như lời khuyên chân thành, tha thiết đến độc giả: Hãy sống ý nghĩa, sống hết mình cho cuộc đời này và đừng để thời gian trôi qua kẽ tay một cách vô nghĩa.
Bài thơ được kết thúc bởi câu thơ tràn đầy cảm xúc “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Câu thơ là kết tinh của tình yêu và sáng tạo của người thi nhân, “xuân hồng” không chỉ gợi liên tưởng đến mùa xuân mà còn gợi ra màu sắc tươi non, hấp dẫn, “cắn” lại là hành động chiếm lĩnh đầy mạnh mẽ. Nếu xuân hồng là phần tươi ngon, hấp dẫn nhất của cuộc đời thì nhà thơ muốn chiếm lĩnh để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của trần gian.
Qua 2 khổ thơi cuối bài “Vội vàng”, nhà thơ Xuân Diệu không chỉ thể hiện tình yêu tha thiết với cuộc đời mà còn kín đáo thể hiện những quan niệm sống, triết lí sống đầy ý nghĩa. Với vẻ đẹp ấy, triết lí ấy, “Vội vàng” là bài thơ trữ tình có thể làm xao xuyến trái tim độc giả bao thế hệ.
Chia sẻ 🌼 Cảm Nhận Khổ 2 Bài Vội Vàng 🌼 10 Bài Văn Mẫu Hay
Phân Tích Hai Khổ Cuối Bài Vội Vàng Đơn Giản – Mẫu 9
Tham khảo bài văn mẫu phân tích 2 khổ cuối bài Vội vàng đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và súc tích.
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận xét: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong nhà thơ mới”. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là Vội vàng. 2 khổ thơ cuối trong bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, nhất là năm tháng tuổi trẻ:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Điệp ngữ “này đây” được lặp đi lặp lại năm lần như một lời mời gọi, kết hợp với thủ pháp liệt kê, vừa diễn tả sự giàu có, phong phú bất tận của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hân hoan, vui sướng của tác giả. Nhà thơ sử dụng biện pháp tu từ nhân hoá, dùng những danh từ thuộc về con người (“tuần tháng mật”, “khúc tình si”) để miêu tả thiên nhiên, kết hợp với “ong bướm”, “yến anh” được gọi tên như đôi như lứa khiến cho vườn xuân bỗng đầy mộng mơ, lãng mạn, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc.
Tính từ “xanh rì”, “phơ phất” giàu sức gợi tả vẽ nên cảnh thiên nhiên mùa xuân non tơ, tràn đầy sức sống. Bức tranh xuân không chỉ có cảnh vật đẹp tươi mà còn tràn đầy ánh sáng và niềm vui với hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi” và “thần vui hằng gõ cửa”. Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hân hoan vui sướng.
Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng, mê mải trao gửi sắc hương, xui khiến lòng người ngất ngây tận hưởng, để thi nhân tạo hóa thành tình nhân: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. Câu thơ sử dụng nghệ thuật ẩn chuyển đổi cảm giác, hay chính là phép giao thoa mà thơ Mới tiếp thu được từ thơ ca tượng trưng Pháp. Đồng thời, Xuân Diệu cũng gợi về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc.
Những câu thơ tiếp theo thể hiện quan điểm mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Nhà thơ đã ý thức được sự chảy trôi của thời gian. Khi mùa xuân của tự nhiên vừa tới thì cũng là lúc mùa xuân của tuổi trẻ qua đi. Nếu mùa xuân của đất trời luôn tuần hoàn, thì mùa xuân của con người chỉ có một. Tuổi trẻ chẳng thể thắm lại đến lần thứ hai. Tiếc nuối về sự chảy trôi đó, mà chia ly cũng bao trùm lấy cả sự vô tận của thời gian, khoảng không cách biệt của không gian.
Một loạt những hình ảnh thiên nhiên nhuốm màu sắc chia ly: Vị thời gian rớm màu chia phôi, núi sông than thầm lời tiễn biệt, những cơn gió xuân vốn dạt dào đến thế cũng thều thào trong tiếng nghẹn. Tiếng vàng anh ru khúc nhạc tình cũng đành dừng lại. Từ “ôi” vang lên nhẹ nhàng mà cũng thật tha thiết, vừa hối tiếc lại vừa thúc giúc.
Đoạn thơ cuối cùng chính là khát vọng được tận hưởng, tận hiến của nhà thơ:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
-Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi
Câu thơ mở đầu như một lời giục giã, thể hiện mong muốn được tận hưởng thiên nhiên và cuộc sống, tận hưởng thời gian và cuộc sống. Đ iệp từ “Ta muốn” được đặt ở đầu câu vang lên đầy dõng dạc, kết hợp với hàng loạt động từ theo cấp độ tăng tiến: “ôm”, “riết”, “say”, “thâu” đã làm nổi bật tư thế chủ động tận hưởng mọi vẻ đẹp của cuộc sống ở độ tươi mới nhất, căng tràn nhất của cái “tôi” trữ tình.
Tác giả mong muốn được ôm trọn sự sống của đất trời vào lòng. Cũng như được sống hòa mình với thiên nhiên cùng với mây đưa và gió lượn. Hay là những cảm xúc rạo rực trong tình yêu đôi lứa. Câu thơ cuối cùng gợi ra một hình ảnh ông độc đáo: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”. Mùa xuân vốn là cái vô hình không thể cầm nắm, nhưng ở đây nhân vật trữ tình lại muốn “cắn” – ẩn dụ chuyển đổi cảm giác nhằm thể hiện khát vọng tận hưởng mãnh liệt của thi nhân.
Đến với Vội vàng, Xuân Diệu đã thể hiện những khát khao mãnh liệt được tận hưởng tận hiến cho cuộc sống. Đó cũng là cách sống mà thế hệ trẻ hôm nay cần học tập.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Vội Vàng 🌹 11 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích 2 Khổ Thơ Cuối Bài Vội Vàng Lớp 11 – Mẫu 10
Bài văn mẫu phân tích 2 khổ thơ cuối bài Vội vàng lớp 11 dưới đây sẽ là tư liệu hay để các em học sinh tham khảo trong quá trình làm bài.
“Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thư rộng lớn như Thế Lữ. mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên…. và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam).
Khi đọc những câu văn này ta sẽ không hiểu tại sao Xuân Diệu lại được ưu ái như vậy. Giờ thì đã rõ! Đơn giản chỉ vì ông là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Xuân Diệu đã thể hiện đầy đủ nhất ý thức cá nhân của cái tôi mới và cũng mang đậm bản sắc riêng. Trong số những bài thơ của ông, chúng ta không thể không nhắc đến Vội Vàng.
Bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu, in dấu khá đậm cho hồn thơ yêu đời, ham sống, “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”. Và quan trọng hơn thế nữa, qua Vội vàng chúng ta nhận ra một quan niệm sống rất mới mẻ – bức thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc.
Vội vàng? Cái tên đã rất Xuân Diệu! Đây là một triết lí sống và cũng là tâm thế sống của nhà thơ: sống nhanh chóng, khẩn trương, mở rộng lòng mình đế ôm ghì, thâu tóm tất cả. Đã hơn một lần ta bắt gặp Xuân Diệu hối hả, cuống quýt, giục giã:
Mau với chứ, vội vàng lên chứ
Em, em ơi, tình non sắp già rồi!
Thời gian, mùa xuân, tình yêu tuổi trẻ luôn thường trực, trở đi trở lại trong nhiều trang thơ của Xuân Diệu. Ở Vội vàng ông đã nhận ra một thiên đường ngay trên mặt đất, nhà thơ yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống và biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng.
Đây là một quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc. Nhà thơ muốn nhắn nhủ đến người đọc hãy sống hết mình khi đang còn trẻ tuổi, đừng để thời gian trôi đi phí hoài. Hãy sống gấp gáp để tận hưởng cuộc sống tươi đẹp. Hãy luôn giữ cho mình mùa xuân tình yêu của tuổi trẻ.
Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Bức thông điệp mà Xuân Diệu gửi đến cho người đọc được triển khai qua từng phần của bài thơ, theo mạch cảm xúc trong tâm hồn thi sĩ. Ở khổ thơ thứ 2, nhà thơ nhìn mùa xuân với tất cả sự say mê, cuồng nhiệt vồ vập:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây là cửa cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si.
Vày đây… Này đây…Này đây… Tất cả như đang phơi bày ra trước mắt nhà thơ Bức tranh thiên nhiên đang độ viên mãn, tràn đầy, chứa chan xuân tình, vừa gần gũi thân quen lại vừa mượt mà đầy sức sống. Xuân Diệu như vồ vập. Ngấu nghiến, thâu tóm tất cả. Nhà thơ như con ong hút mật lạc vào vườn hoa đầy hương sắc.
Với ông cái gì cũng hấp dẫn mới lạ. Và bằng cặp mắt xanh non của cái tôi cá nhân Xuân Diệu còn phát hiện ra thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất vẫn là vì có con người. Con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ lấy con người làm thước đo của cái đẹp. Cuộc sống trần thế đẹp nhất vào lúc xuân. Và con người chỉ tận hưởng được lúc đang còn trẻ. Song tuổi trẻ thì tàn phai theo thời gian, vì thế mà ông phải sống vội vàng, gấp gáp.
Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Nhà thơ tận hưởng cuộc sống một cách gấp gáp, vồ vập bởi một phút giây ra đi vĩnh viễn không trở lại. Mất mát sẽ đến nếu ta không chớp thời cơ. Có lẽ thế mà Xuân Diệu không chờ mùa hạ đến mới nhớ xuân mà ôm riết mùa xuân lúc tràn đầy, tươi non.
Ham sống, khát sống, Xuân Diệu càng băn khoăn hơn trước cuộc đời, thời gian. Ông đã nhận ra quy luật tuyến tính của thời gian, chống lại quy luật tuần hoàn của các cụ ngày xưa. Mỗi phút giây qua đi sẽ không bao giờ trở lại, tuổi trẻ cũng chỉ đến một lần. Nhà thơ mở lòng ra để yêu đời, yêu cuộc sống nhưng không được đời bù đắp, vì thế mà ông băn khoăn buồn chán cho thân phận của mình. Cảnh vật thiên nhiên giờ đây cũng mang đầy tâm trạng buồn bã, băn khoăn, lo sợ.
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng sợ đổ tàn phai sắp sửa?
Nhận thức ra quy luật của thời gian, khát khao sống đến mãnh liệt. Xuân Diệu đã ôm ghì lấy cuộc sống, tận hưởng cuộc sống để không phí hoài đi thời gian, tuổi trẻ. Tình yêu cuộc sống lại bùng lên cuồng nhiệt hối hả.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn biết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.
Lòng yêu đời tràn lên như một cao trào tình cảm. Hình ảnh thơ tươi mới, sức sống. Và có lẽ tình yêu cuộc sống của nhà thơ tăng dần theo từng từ muốn ôm đến riết là đã ghì chặt hơn. Và đã say – sự ngây ngất đến bất tỉnh vẫn chưa thoả lòng – còn muốn thâu nghĩa là muốn thu hết tất cả để có sự hoà nhập một. Và cuối cùng là tiếng kêu của sự cuồng nhiệt chưa bao giờ có trong thơ:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.
Hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu của đoạn thơ đã bộc lộ rõ lòng yêu đời cuồng nhiệt khiến nhà thơ phải hối hả, vội vàng đến với cuộc sống.
Bài thơ là một quan niệm sống mới mẻ và táo bạo mà trước đó chưa từng có. Lối sống ở đây biết hưởng thụ một cách chính đáng, biết khẩn trương sống cho ra sống.
Tuy nhiên ở Vội vàng, tác giả chỉ đề cập đến lối sống thiên về hưởng thụ chạy theo thời gian. Ông kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống ban tặng, hãy tranh thủ thời gian, tuổi trẻ để sống đủ đầy nhất. Ông đã quên đi nghĩa vụ kêu mọi người phải cống hiến cho cuộc đời. Và trong cuộc đời nhà ông, ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng hưởng thụ.
Đọc thơ Xuân Diệu, đặc biệt là qua 2 khổ thơ cuối trong bài thơ Vội vàng, ta càng thêm yêu cuộc sống hôm nay và càng góp phần làm cho cuộc sống đó thêm tươi đẹp, không chỉ vì cuộc sống hôm nay đã đổi mới, đã đẹp hơn nhiều lần so với cuộc sông ngày xưa của Xuân Diệu mà chủ yếu là không còn những bi kịch để thành những băn khoăn trước cuộc đời. Bức thông điệp nhà thơ gửi đến người đọc vẫn còn nguyên giá trị, được bồi đắp thêm qua thời gian và trường tồn vĩnh cửu.
Hãy sống hết mình, cống hiến tuổi trẻ cho Tổ quốc nhân dân, đừng phí hoài thời gian, hãy mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả những vang động của cuộc đời. Đó là những gì mà Xuân Diệu còn giữ lại, nhắn gửi đến với người đọc của mình bức thông điệp xuyên qua thời gian, không gian, ngự trị muôn đời trong tâm hồn con người Việt Nam.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Phân Tích Khổ 2 3 Vội Vàng 🌹 10 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất