Cảm Nhận Khổ 2 Bài Vội Vàng: 36+ Bài Văn Ngắn Siêu Hay

Cảm Nhận Khổ 2 Bài Vội Vàng ❤️️36+ Bài Văn Ngắn Siêu Hay ✅ Những Bài Cảm Nhận Đặc Sắc Về Đoạn Thơ Giữa Trong Tác Phẩm Nổi Tiếng Của Xuân Diệu.

Khổ Thơ 2 Bài Vội Vàng Của Xuân Diệu

Cùng tham khảo những vần thơ hay trong khổ thơ 2 bài Vội vàng của Xuân Diệu trước khi đi sâu cảm thụ giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.

Vội vàng (Khổ 2)
Tác giả: Xuân Diệu

Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

Dàn Ý Khổ 2 Bài Vội Vàng

Dàn Ý Khổ 2 Bài Vội Vàng chi tiết và đầy đủ sẽ là chìa khoá giúp các bạn học sinh ôn tập tốt nhất.

I. Mở bài: Giới thiệu về đoạn 2 bài thơ Vội vàng

Ví dụ: Trong tất cả các tác phẩm của Xuân Diệu, một tác phẩm thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn và độc đáo về mạch cảm xúc và triết lí sâu sắc là bài thơ Vội vàng. Bài thơ thể hiện niềm say mê cái đẹp của thiên nhiên, niềm yêu thiên nhiên sâu sắc của tác giả trong cuộc sống. Bên cạnh niềm say mê thiên nhiên và cuộc sống thì tác giả còn thể hiện nỗi lo lắng của mình trước thời gian và cuộc đời, hình ảnh này được thể hiện rõ qua đoạn 2 của bài thơ.

II. Thân bài: Phân tích đoạn 2 của bài thơ Vội vàng

1. Mở đầu đoạn thơ:

  • Nổi vui sướng vội vàng và chớp nhoáng của nhà thơ
  • Sự đam mê về thiên nhiên, cuộc sống hòa lẫn sự lo lắng về qua nhanh của thời gian, của bộn bè cuộc sống

2. Tác giả ý thức về sự hữu hạn của thời gian:

  • Thời gian ngày càng trôi đi
  • Con người, mọi vật đều sẽ thay đổi theo thời gian
  • Tác giả cảm thấy lo lắng, sợ hãi trước sự trôi đi của thời gian

3. Tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt của tác giả:

  • Khát vọng sống vô cùng để cùng hòa nhịp với cuộc sống của tác giả
  • Yêu cuộc sống đến nồng nàn, tha thiết
  • Niềm ham sống, ham được sống và chưa toại nguyên cuộc sống mình đang sống

III. Kết bài: Nêu cảm nhận về đoạn 2 bài thơ Vội Vàng

Ví dụ: Đoạn 2 bài thơ Vội vàng thể hiện nỗi lo lắng của tác giả về thời gian và cuộc sống. đồng thời đoạn 2 còn thể hiện mong muốn cuộc sống, mong muốn được sống hòa cũng thiên nhiên của tác giả.

Đọc nhiều hơn 🌻 Dàn Ý Vội Vàng Xuân Diệu 🌻 Bài Ôn Tập Môn Ngữ Văn

Dàn Ý Cảm Nhận Đoạn 2 Bài Vội Vàng Ngắn Gọn Nhất

Dàn Ý Cảm Nhận Đoạn 2 Bài Vội Vàng với đầy đủ nội dung cơ bản và chính xác nhất để giúp các bạn học sinh thực hiện tốt bài viết của mình.

I. Mở bài cảm nhận khổ 2 bài Vội vàng:

  • Giới thiệu bài thơ Vội vàng
  • Khái quát nội dung của khổ 2.

II. Thân bài cảm nhận khổ 2 bài Vội vàng:

-Điều lo sợ:

  • Sự chảy trôi của thời gian: xuân tới – xuân qua; xuân non – xuân già
  • Lòng người rộng lớn với khát khao – lượng trời chật hẹp – đời người ngắn ngủi – thanh xuân hữu hạn.

-Lời thúc giục sống vội:

  • Vạn vật nhuốm màu phải tàn, chia ly
  • Hãy tận hưởng mọi thứ nhân lúc trời còn tươi, xuân còn thắm
  • Hãy sống hết mình khi sức còn trẻ, đam mê còn chưa thoả

III. Kết bài cảm nhận khổ 2 bài Vội vàng:

  • Khái quát lại ý nghĩa của đoạn thơ
  • Cảm nghĩ cảm bản thân.

Dàn Ý Cảm Nhận Khổ 2 Bài Vội Vàng Chi Tiết

Tham khảo tài liệu văn cảm nhận khổ 2 bài Vội vàng dàn ý chi tiết với luận điểm làm rõ bức tranh mùa xuân tươi mới và những cảm quan mới mẻ của nhà thơ.

I. Mở bài:

  • Giới thiệu khái quát về tác giả Xuân Diệu và bài thơ “Vội vàng”: Nhận xét về Xuân Diệu, Hoài Thanh từng chia sẻ: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới”. Quả thực, đọc và cảm nhận thơ văn Xuân Diệu, ta mới thực thấu điều đó. Ông mới trong cách nhìn nhận, trong cách cảm, cách nghĩ về cuộc đời, con người. Nhà thơ coi thời gian cuộc đời không phải thứ gì tuần hoàn, bất biến mà một đi không trở lại, nên cần sống hết mình với nó. Quan điểm đó được ông thể hiện rất rõ trong bài thơ “Vội vàng”.
  • Dẫn dắt, giới thiệu đoạn 2 của bài thơ: Đoạn thơ thứ 2 trong bài được coi là một trong những đoạn thơ đặc sắc và giàu ý nghĩa nhất.

II. Thân bài: Đoạn 2 của bài thơ tác giả thể hiện niềm tiếc nuối trước sự trôi chảy của thời gian:

  • Nhịp điệu thơ trong đoạn này không sôi nổi, vồ vập như đoạn thơ trên mà chậm hơn, lắng lại những suy tư.
  • Dấu chấm giữa câu thơ: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.” là một tín hiệu nghệ thuật nhiều dụng ý. Dấu chấm ấy đã chặn đứng niềm sung sướng của nhân vật trữ tình, xuân chưa qua mà đã thấy nhớ.
  • Điều đó thể hiện sự nhạy cảm của nhân vật trữ tình hay cũng chính của nhà thơ Xuân Diệu khi ngay trong sung sướng đã thấy tiếc mùa xuân. Xuân Diệu đã nhìn ra trước bước đi của thời gian.
  • Thơ xưa khi nói về sự vận động của thời gian, họ coi thời gian là một chuỗi tuần hoàn bất biến, Nguyễn Du từng viết: “Ngày xuân con én đưa thoi”(Cảnh ngày xuân) hay “Ngày xuân như bóng câu qua cửa sổ”. Dẫu vậy, người xưa vẫn ung dung, bình tĩnh vì tin rằng vũ trụ tuần hoàn, xuân đi xuân lại lại.
  • Còn Xuân Diệu, “xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ xuân còn non nghĩa là xuân đã già”. Đó là lối nói đa nghĩa đầy mới mẻ rằng thời gian luôn chảy trôi, không đứng đợi. Thời gian trôi, mùa xuân đi cũng là lúc tuổi trẻ đã qua.
  • Con người quý nhất là mùa xuân, quý nhất là tuổi trẻ. Mùa xuân trôi, tuổi trẻ trôi – tôi cũng mất, tưởng tượng ra cuộc chia li đầy ắp đất trời.
  • Một loạt động từ: “rớm, than, hờn, sợ” như là một sự nhân hóa để thể hiện nỗi buồn tiếc trong tâm hồn con người đã tràn sang vạn vật, thấm vào từng cảnh, từng giác quan của con người. Bởi vậy mà con người và vũ trụ đều buồn thê thiết.
  • Còn đang trong mùa xuân mà nhà thơ đã hình dung ra sự chia li của vũ trụ, sự rời xa của mùa xuân. Nỗi niềm nuối tiếc đã bật lên thành lời than và qua đó nhà thơ cũng gửi gắm lời nhắn nhủ tới muôn người muôn thế hệ rằng hãy sống hết mình vì tuổi trẻ, thời gian đời người là hữu hạn, một đi không trở lại.

III. Kết bài: Khẳng định lại nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của đoạn thơ:

Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ đã khẳng định khát khao cháy bỏng được sống hết mình với cuộc đời của nhân vật trữ tình, song cũng chính là tâm tư, nỗi lòng của nhà thơ Xuân Diệu. Ông nhờ thơ ca để giãi bày, tâm sự với người đọc để họ chia sẻ và hiểu ông hơn, trân trọng thời gian tuổi trẻ và sống hết mình với nó.

Gợi ý cho bạn ☔ Sơ Đồ Tư Duy Vội Vàng Xuân Diệu ☔ 14 Mẫu Tóm Tắt Hay

Mở Bài Cảm Nhận Vội Vàng Đoạn 2

Gợi ý mở bài cảm nhận Vội vàng đoạn 2 dưới đây sẽ giúp các em học sinh giới thiệu vấn đề nghị luận văn học thật ấn tượng.

Thơ Mới là thời kì giải phóng cái tôi, để quan niệm phi ngã trong văn chương trung đại không còn là chiếc cũi giam chật hẹp gò ép người nghệ sĩ, ở thời kì này người nghệ sĩ như cánh chim được tự do tung bay, tháo túi sổ lồng. trong số ấy thì Xuân Diệu với bộ ý phục tối tân của mình đã trở thành đại biểu tiêu biểu nhất, là nhà thơ Mới nhất trong các nhà thơ Mới.

Và “Vội Vàng” chính là một trong những bài thơ đặc sắc nhất về phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu, một hồn thơ thiết tha rạo rực băn khoăn như Hoài Thanh đã nhận xét. Đặc biệt khổ thơ thứ 2 đã bộc lộ những quan niệm thẩm mĩ và nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu về cuộc đời.

Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Mở Bài Vội Vàng Xuân Diệu ☀️ 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất

Kết Bài Cảm Nhận Khổ 2 Của Bài Thơ Vội Vàng

Tham khảo và vận dụng gợi ý viết kết bài cảm nhận khổ 2 của bài thơ Vội vàng dưới đây để hoàn thành tốt bài viết.

Thông qua bài thơ Vội Vàng và đặc biệt là khổ thơ thứ 2 ta nhận thấy được cũng chính với tấm lòng yêu đời, yêu sống mãnh liệt Xuân Diệu lúc này đây như đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, một mùa xuân vô cùng ngọt ngào, quyến rũ và thanh tân trẻ trung bởi cặp mắt xanh non. Không chỉ vậy mà thông qua tác phẩm cũng mới thấy được tài năng của nhà thơ với bộ y phục vô cùng tối tân của mình đã làm say đắm tâm hồn bao trái tim độc giả về mùa xuân và tuổi trẻ và về tình yêu.

Đừng bỏ qua 🔥 Kết Bài Vội Vàng 🔥 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất

Cảm Nhận Của Anh Chị Về Khổ 2 Vội Vàng – Mẫu 1

Cảm Nhận Của Anh Chị Về Khổ 2 Vội Vàng với nỗi ám ảnh về thời gian và lòng ham mến cuộc sống đến cuống quýt của tác giả Xuân Diệu.

Xuân Diệu là một trong những tác giả tiêu biểu trong phong trào thơ mới tại Việt Nam. Thơ của ông luôn dạt dào tình cảm, khiến độc giả và các nhà đánh giá hết lời ngợi khen. Ông để lại cho kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm tuyệt vời, trong đó phải kể đến bài thơ “Vội vàng” trí từ tập “Thơ thơ”. Tác phẩm viết về nét đẹp nhân sinh, quan niệm sống tích cực từ thi nhân. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn về điều này khi đến với khổ thứ 2 của bài thơ.

Ở khổ thơ thứ nhất của Vội vàng, Xuân Diệu cho độc giả thấy được bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với cỏ hoa, ong bướm, đồng nội, yến anh và một tình yêu cháy bỏng. Nhưng đến khổ thứ 2, người đọc sẽ cảm nhận thấy tác giả thể hiện sự khắc khoải khi thời gian vẫn trôi qua một cách nhanh chóng.

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”

Độc giả như chìm đắm trong từng vần thơ tinh tế của Xuân Diệu, nhận ra rằng thời gian trôi qua vội vã để lại sự tiếc nuối và lo sợ. Tác giả sử dụng các cặp từ “đương tới” – “đương qua”, “còn non” – sẽ già” để biểu thị trạng thái đối lập của thời gian.

Trước cảnh xuân tuyệt vời với cỏ hoa, ong bướm, hương sắc quyến rũ của mùa xuân, tác giả cũng tận hưởng cùng thưởng thức đấy thôi, nhưng trong lòng vẫn có một nỗi lo sợ. Sợ rằng mọi thứ sẽ bị thời gian lấy đi, không thể níu giữ được mùa xuân, thanh xuân, tuổi trẻ và cả đời người. Chúng không thể nào quay lại, vậy nên con người cần phải trân trọng từng giây từng phút của cuộc đời, phải vội vàng nếu không sẽ lỡ mất thanh xuân.

“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.”

Mỗi ngày, mỗi tháng trôi qua đời người thêm phần ngắn lại, và khi không còn cảm nhận được mà xuân cũng là lúc đời người không còn nữa, vĩnh viễn rời xa cuộc đời. Dù biết lòng người rộng lớn, còn bao nhiêu ước mơ, hoài bão, sự khát sao ở đấy, nhưng biết làm khi mà lượng thời gian dành cho mình là hữu hạn, không thể kéo dài thời trẻ của dân gian. Cảm nhận được sự thật về thời gian vội vã, nhà thơ càng bất an lo lắng, nghẹn ngào:

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

Vũ trụ thì bao la, đất trời rộng lớn nhưng con người thì bé nhỏ, đời người hữu hạn làm sao có thể thay đổi được thời gian. Tác giả biết mùa xuân thì vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ thì không, thanh xuân đâu thể thắm lại, đâu còn dồi dào nhiệt huyết, sung sức như ngày còn trẻ. Nỗi bâng khuâng, tiếc nuối ấy như ngợp cả trời đất. Để rồi sự chi ly bao trùm lên cả khoảng không của không gian và sự vô tận của thời gian:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.”

Đó là quy luật bất biến của tạo hóa mà ai cũng phải nuối tiếc. Vị thời gian rớm màu chia phôi, khắp núi sông thầm than lên lời tiễn biệt, cơn gió của mùa xuân vốn nhẹ nhà dào dạt cũng phải thều thào trong tiếng nghẹn, khúc hát rộn ràng của những chú chim cũng đành phải ngừng lại. Có lẽ tất cả chúng đều sợ cái gọi là “Thời gian”, sợ nước mắt, sợ chia ly, sợ những héo úa phai tàn theo năm tháng.

“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm

Đến cuối cùng, nếu cứ mãi chờ đợi, mãi hy vọng thì sẽ chẳng bao giờ làm được điều mình mơ ước. Từ cảm thán “ôi” phát lên một cách nhẹ nhàng nhưng cũng thật tha thiết, vừa thể hiện sự nuối tiếc nhưng đồng thời cũng như thúc giục mọi người phải hành động ngay. Hãy nhanh chạy đua với thời gian, với vũ trụ nhân lúc “mùa chưa ngả chiều hôm” là lúc mà lá chưa ngả, mùa chia ly chưa đến.

“Mau đi thôi!” chính là lời thức tỉnh những ai còn đang mơ hồ, chậm chạp hãy sống nhanh, sống vội vàng và sống có trách nhiệm để không bỏ lỡ những năm tháng thanh xuân tươi đẹp, rực rỡ nhất.

Đoạn thơ không quá dài, nhưng qua bút pháp của Xuân Diệu đã cho chúng ta thấy một lẽ sống thật đẹp. Nhắc nhở chúng ta, đặc biệt là những người trẻ cần phải suy nghĩ tích cực, cố gắn sức mỗi ngày, không ngừng học tập và làm việc có ý nghĩa để sống một cuộc đời trọn vẹn, không phải hối tiếc về bất cứ điều gì.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Vội Vàng 🍀 Bài Văn Mẫu Hay

Nêu Cảm Nhận Về Khổ 2 Bài Thơ Vội Vàng Hay Nhất – Mẫu 2

Đón đọc bài văn mẫu nêu cảm nhận về khổ 2 bài thơ Vội vàng hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây:

“Vội vàng’’ là một trong những bài thơ đặc sắc nhất trong tập “Thơ thơ” (1938). Vượt qua dòng chảy thời gian hơn 60 năm rồi, mà những ý tưởng mới mẻ về thời gian, về tuổi xuân, về tình yêu đời, yêu cuộc sống- cùng với một giọng thơ nồng nhiệt đắm say vẫn lôi cuốn chúng ta một cách kì lạ. Đây là đoạn thơ trích trong phần 2 bài “Vội vàng” nói lên sự cảm nhận về thời gian của thi sĩ Xuân Diệu:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt …”

Hai câu thơ đầu đoạn, với cách ngắt, nhịp 3/5, đọc lên ta cảm thấy cái nhún nhảy của mùa xuân, của thời gian:

“Xuân đương tới / nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non / nghĩa là xuân sẽ già”.

Các từ ngữ: “đương tới” với “đương qua”, “còn non’” với “sẽ già” tương ứng, đối lập nhau, diễn tả mùa xuân và thời gian vận động không ngừng. Bước đi của mùa xuân, dòng chảy của thời gian là mải miết, vô tận. Trong hiện tại “đang tới” đã có màu li biệt “đương qua”. Chữ “đang” chuyển thành chữ “đương” một: cách nói điệu đà, rất thơ.

Trong dáng vẻ “còn non” hôm nay đã báo hiệu một tương lai “sẽ già”. Cách cảm nhận của thi sĩ về thời gian và mùa xuân là tinh tế và biểu cảm. Đó là một ý tưởng rất tiến bộ. Cũng chữ “non” và chữ “già” ấy, ông có những các cảm nhận rất độc đáo bằng một tâm hồn lãng mạn với cặp mắt xanh non.

Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt…
(…) Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…”

(“Giục giã”)

Và ông cũng nhìn thấy sự vật phát triển và đổi thay không ngừng. Mùa xuân thời gian và sự sống thật vô cùng kì diệu:

“Mấy hôm trước còn hoa
Mới thơm đây ngào ngạt
Thoáng như một nghi ngờ
Trái đã liền có thật”.

(“Quả sấu non trên cao”)

Bảy câu thơ tiếp theo nói lên nghịch lí giữa tuổi trẻ, đời người với thời gian và vũ trụ. Và đó cũng là bi kịch của con người, đời người. Khi “xuân hết”, tuổi trẻ đi qua “nghĩa là tôi cũng mất”. Mất ý vị cuộc đời. Tuổi trẻ đáng yêu biết bao! Mỗi người chỉ có một thời son trẻ. Cũng như thời gian trôi qua, tuổi trẻ một đi không trở lại:

“Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất”.

“Lượng trời cứ chật” mà “lòng tôi rộng”, muốn trường sinh bất tử, muốn trẻ mãi không già. Quy luật của sự sống thật vô cùng nghiệt ngã: “Không cho dài thời trẻ của nhân gian”. “Hảo hoa vô bách nhật – Nhân thọ vô bách tuế” (Nguyễn Du). “Mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đi…” (Tục ngữ). Một lần nữa thi sĩ lại đặt ngôn ngữ trong thế tương phản giữa “rộng” với “chật”, để nói lên cái nghịch lí của đời người. Cũng là một cách cảm nhận thời gian rất thực.

“Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian”

Xuân của bốn mùa thu thì tuần hoàn (xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận) nhưng đời người chỉ có một thời thanh xuân. Tuổi trò “chẳng hai lần thắm lại”. Vũ trụ đất trời thì vĩnh hằng, vô hạn. trái lại đời người thì hữu hạn. Kiếp nhân sinh nhiều bi kịch. Ai cũng muốn trẻ mãi không già, ai cũng muốn được sống mãi với tuổi xanh, tuổi hoa niên. Tiếng thơ cất lên như một lời than tiếc nuối:

… Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

“Tiếc cả đất trời vì không được trẻ mãi để tận hưởng mọi cái đẹp của thiên nhiên và cuộc đời. Đó là lòng yêu đời và ham sống, khao khát được sống hết mình với tuổi trẻ:

“Mười chín tuổi, hỡi những nàng má ngọc.
Ríu rít chim, là tuổi ước mơ hoa!
Hãi chàng trai kiều diễm mãi vui ca.
Mười chín tuổi! Chẳng hai lần hoa nở!”

(“Đẹp” – Xuân Diệu)

“Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” cùng như “Mười chín tuổi! Chẳng hai lần hoa nở”, đó là bi kịch của người đời, xưa và nay. Có ham sống và yêu đời mới cảm nhận sâu sắc bi kịch ấy. Vì thế không được vung phí thời gian và tuổi trẻ.

Hai câu thơ cuối dào dạt cảm xúc. Nhà thơ xúc động lắng nghe bước đi của thời gian, tiếng “than thầm tiễn biệt” của sông núi, của cảnh vật. Xuân Diệu rất nhạy cảm với thời gian trôi đi qua “mùi”, “vị” của năm tháng “chia phôi” trong dòng chảy vô tận. Một cách cảm nhận thời gian rất thơ, rất tinh tế:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi.
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”.

Thời gian chia phôi, thiên nhiên cũng như vậy, cơn gió hờn dỗi vì phải rời xa lá biếc, chim không còn hót véo von rộn ràng mà trở nên im bặt. Tất cả đều không thể chống lại quy luật của tạo hóa, thời gian trôi mọi vật phải tàn phai. Đó đều là những cảm nhận riêng tinh tế, mới mẻ về thời gian của tác giả.

Sau khi hiểu ra rằng con người không thể tắt nắng, buộc gió níu giữ thiên nhiên ở lại, nhà thơ đã hối thúc mọi người phải sống vội vàng, khẩn trương: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm. Đó là lời kêu gọi mạnh mẽ của Xuân Diệu hãy sống hết mình đam mê cháy bỏng cho từng phút giây của cuộc sống.

Đoạn thơ trong đây cho thấy vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu: Sự trau chuốt về ngôn từ, sự tinh tế trong cảm xúc biểu hiện. Một quan niệm nhân sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ. Cái tôi cá nhân trữ tình được khẳng định. Ham sống và yêu đời; sống hết mình, sống trong tình yêu – đó là những ý tưởng rất đẹp.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Cảm Nhận Khổ 2 Bài Vội Vàng Ngắn Gọn – Mẫu 3

Cảm Nhận Khổ 2 Bài Vội Vàng Ngắn Gọn với những hình ảnh đặc sắc nhất trong xuyên suốt bài thơ.

Xuân Diệu nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới, cái mới của Xuân Diệu có lẽ không chỉ đến từ cảm xúc, mà còn đến từ những quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ mới mẻ. Nếu ở khổ thơ đầu tiên là những quan niệm cách tân về cuộc sống thì đến khổ thơ thứ hai này là cách nhìn thời gian đầy mới mẻ, hiện đại của cái tôi thơ Mới.

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuân tôi tiếc cả đất trời”.

Chậm lại một chút, ta sẽ nhận ra nét mới trong ý thơ của Xuân Diệu. Nếu như người xưa quan niệm, thời gian tuần hoàn, cứ lặp lại trong vòng chảy vô tận của tạo hóa, vậy nên họ luôn cảm thấy an nhiên, tự tại “nhất nhật thanh nhàn nhất nhật tâm” thì đến Xuân Diệu, thời gian mới trở thành một nỗi ám ảnh.

Ông quan niệm thời gian tuyến tính, một đi không trở lại, vậy nên nhìn thấy xuân đương tới trên vạn vật muôn nơi, đang xem sắc xuân phủ lên vạn vật một màu xanh non tràn trề sức sống thì cũng thấy ngay trong nhịp bước của thời gian, trong cả nhịp bước ngỡ ngàng của nàng xuân, rằng nàng vừa hiện hữu mà cũng sẽ nhanh chóng biến mất khỏi đất trời. Mùa xuân là mùa nảy nở, của sinh sôi và sáng tạo nghệ thuật.

Mùa xuân là tuổi trẻ của đất trời, còn mùa xuân của đời người là tuổi trẻ. Vậy nên mùa xuân hết, nghĩa là khi tuổi trẻ qua đi trên màu sương mái tóc con người, cũng là lúc cái tôi thi nhân ngập tràn lo âu, và chán nản. Lòng thi nhân tha thiết với xuân hứng, xuân tình, xuân nảy nở trong tâm hồn con người, và bất diệt trên từng nụ cười ánh mắt, nhưng tiếc thay lượng trời cứ chật, “không cho dài thời trẻ của nhân gian”.

Chính vì thế sự luân hồi vẫn tuần hoàn chảy trôi, nhưng tôi của mỗi phút mỗi giây đã đổi khác rồi, chẳng còn tôi mãi, nên “bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Đó là nỗi tiếng nuối của một nhà thơ tha thiết với tuổi trẻ và mùa xuân, tha thiết với tình yêu và sự sống. Nhưng nổi bật nhất, trong những câu thơ trên vẫn là quan niệm thời gian cực kì mới mẻ, hiện đại của cái tôi thơ Mới.

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa”

Mùa xuân của đất trời có thể còn mãi, tuần hoàn trong nhịp chảy trôi của vĩnh hằng nhưng mùa xuân của đời người, tuổi trẻ ấy chẳng hai lần thắm lại.Vậy nên tưởng như nỗi buồn của thi nhân cũng đã thấm thía vào từng chảy vật, để cảnh vật cũng chở nặng một điệu buồn, hay là bởi chính những cảnh vật kia cũng thấy cái chảy trôi của thời gian mà nén một tiếng thở dài buồn rượi. Ở khổ thơ này, Xuân Diệu thực sự sử dụng rất đắt thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mà nhà thơ tiếp thu được từ phương Tây.

Mùi tháng năm là hương vị vô hình, nhưng trong câu thơ lại có thể cảm nhận được dư vị của nó, ấy thế nhưng cái dư vị ấy là lại là dư vị được cảm nhận từ trái tim chứ không phải dư vị có thể dùng ngũ giác quan để cảm thử. Nỗi buồn bỏ vào mênh mang những lặng câm của không gian, nên nghe thấy cả sông núi than thầm tiễn biệt, con gió xinh reo vui trên những cành cây ngày nào, giờ thì thào trong tiếc nuối vì nỗi phải lìa cành, để trở về với đất mẹ.

Tất cả đều cho thấy nỗi sợ về sự chảy trôi không ngừng nghỉ của thời gian. Nó đánh tung vào trong cả lòng người và trong tâm hồn muôn vật những khoảng trống bất tận của nỗi buồn và dư vị tiếc nuối.

Khổ thơ hai trong Vội vàng đã thể hiện một quan niệm vô cùng mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian, nó đồng thời cũng là bản lề để mở ra những lời giục giã sống, tận hưởng và cống hiến cho đoạn thơ kế tiếp.

Mời bạn khám phá thêm 💕 Cảm Nhận Về Bài Thơ Vội Vàng 💕 23 Bài Văn Mẫu Hay

Cảm Nhận Khổ 2 Bài Vội Vàng Chi Tiết – Mẫu 4

Tham khảo bài văn mẫu cảm nhận khổ 2 bài Vội vàng chi tiết dưới đây để nắm được nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.

Xuân Diệu là một nhà thơ Mới xuất sắc và đạt nhiều thành tựu của văn học Việt Nam. Một trong những bài thơ hay nhất của ông là bài thơ “Vội vàng” trích trong tập “Thơ thơ”.

Thi phẩm mang đến cho đọc giả một bức tranh mùa xuân tươi mới và những cảm quan nhân sinh đầy mới mẻ. Đoạn 2 của bài thơ là đoạn văn thể hiện sâu sắc nhất về triết lý thời gian và cuộc đời.

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.”

Nếu như ở khổ thơ đầu, nhà thơ đã dựng lên bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, yến anh, cùng với đó là tình yêu đến cháy bỏng của người thi sĩ thì đến khổ thơ thứ 2, Xuân Diệu lại thể hiện sự khắc khoải trước những bước đi của thời gian.

Dường như, sâu thẳm trong tâm hồn người thi nhân ấy ý thức rất rõ sự chảy trôi đến mức vô tình của thời gian. Trước một mùa xuân với sắc hương rực rỡ quyến rũ mê hoặc ấy, tác giả cũng tận hưởng, cùng thưởng thức đấy thôi nhưng lòng vẫn lo sợ.

Lỡ sợ rằng “xuân đương tới” rồi xuân cũng sẽ “đương qua”, xuân còn non không có nghĩa là xuân sẽ không già, bởi mỗi phút giây quá đi là đời người lại thêm ngắn lại. Thời gian chẳng thể níu giữ được mùa xuân, được tuổi trẻ, được thanh xuân, được đời người.

Thời gian, tuổi trẻ, chả bao giờ có thể quay lại, bởi thế mà tứng giấy đều phải trân trọng, phải vội vàng sống kẻo lỡ những thành xuân cuộc đời. Sự phối kết hợp những động, tính từ trái nghĩa “tới” – “qua”; ” già”- “non”, đã cho thấy cảm quan của thi nhân trước thời gian đầy tinh tế.

Mỗi ngày, mỗi tháng năm qua đi tháng năm qua đi đời người thêm phần ngắn lại, khi mà ta không còn cảm nhận được mùa xuân nữa nghĩa là đời người không còn, sinh thể vĩnh viễn xa rời cuộc đời.

Dù biết lòng người thì rộng, còn bao khát khao, bao hoài bão và những ước mơ đấy nhưng biết làm sao được khi thời gian càng rút ngắn, khi lượng trời hữu hạn, tuổi trẻ nhân gian đâu có chịu dài. Cảm nhận được sự vội vã ấy, nhà thơ càng bất an, càng thảng thốt, nghẹn ngào:

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

Đất trời rộng lớn, vũ trụ bao la, con người nhỏ bé, đời người hữu hạn. Phải chấp nhận sự thật dẫu biết rằng mùa xuân tuần hoàn đấy thôi nhưng tuổi trẻ đâu có tuần hoàn, đâu thể thắm lại những lần như thuở còn sung sức, còn dồi dào nhiệt huyết.

Thế nên nỗi tiếc nuối, bâng khuâng rợn ngợp cả đất trời. Mùi chia ly cũng bao trùm lấy cả sự vô tận của thời gian, khoảng không cách biệt của không gian:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.”

Một lẽ thường của tạo hoá, một quy luật trần thế vạn vật đều không tránh khỏi. Vị thời gian rớm màu chia phôi, núi sông than thầm lời tiễn biệt, những cơn gió xuân vốn dạt dào đến thế cũng thều thào trong tiếng nghẹn.

Tiếng vàng anh ru khúc nhạc tình cũng đành ngừng lại. Có lẽ chúng đều sợ thời gian, sợ những chia lìa, nước mắt, sợ những phai tàn, héo úa.

“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”

Đến cuối cùng, chẳng bao giờ có thể làm được những điều mình ước muốn nếu cứ mãi đợi chờ, mãi hy vọng. Tiếng “ôi” thật nhẹ nhàng mà cũng thật tha thiết, vừa như hối tiếc lại vừa như thúc giục mọi người hãy hành động, hành động ngay bây giờ:

“Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm”

Hãy nhanh nhanh chạy đua với vũ trụ, với thời gian nhân lúc “mùa chưa ngả chiều hôm”, nhân lúc màu lá phải chưa ngả, mùa chia ly chưa đến.

Câu cầu khiến “Mau đi thôi” như một lời thức tỉnh những ai đang u mê ngập chìm trong sự chậm chạp, trễ nải và thơ ơ hãy sống nhanh, sống vội và sống có trách nhiệm. Đừng bỏ lỡ thành xuân bởi những tháng năm sống phí, sống hoài.

Đoạn thơ không quá dài nhưng đã gửi gắm biết bao nhiêu những ân tình của người viết, tác giả đã mang đến cho độc giả, đặc biệt là những người trẻ tuổi một cảm quan mới mẻ về lẽ sống để học tập.

Thơ Xuân Diệu phải chăng chính là “tiếng nói của một tâm hồn yêu đời” như thế. Đọc đoạn thơ, em thấy mình cần phải gắng sức mỗi ngày, tận dụng thời gian để sống, học tập và làm việc có ý nghĩa hơn nữa để sống một tuổi trẻ thật đẹp, thật trọn vẹn.

Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ của mùa xuân và tình yêu, ông mang trong mình tình yêu cháy bỏng với cuộc sống, với thiên nhiên, cũng bởi vì quá yêu cuộc sống mà nhà thơ nhạy cảm, ám ảnh hơn với những bước đi của thời gian.

Tiếp theo, mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Dàn Ý Cảm Nhận 13 Câu Đầu Bài Vội Vàng 🌹 Tuyển Tập Đặc Sắc

Cảm Nhận Khổ 2 Bài Vội Vàng Nâng Cao – Mẫu 5

Đón đọc bài văn cảm nhận khổ 2 bài Vội vàng nâng cao dưới đây với những nội dung nghị luận văn học đặc sắc.

Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ. Ông được mệnh danh là “ông hoàng của thi ca tình yêu”. Trước cách mạng, với hai tập “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió”, Xuân Diệu đã chính thức trở thành “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ” là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ tình yêu của Xuân Diệu viết về mùa xuân, tuổi trẻ.

Khổ thơ thứ 2 là đoạn thơ thể hiện quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu về thời gian và tuổi trẻ và niềm khao khát được sống mãnh liệt, sống có ý nghĩa, sống hết mình với mùa xuân tuổi trẻ, thời gian cuộc đời:

“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua

Mau đi thôi ! mùa chưa ngả chiều hôm”

Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ”, xuất bản năm 1938 là bài thơ tiêu biểu của tập thơ nói riêng, của hồn thơ Xuân Diệu nói chung. “Vội vàng” là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu. Bài thơ thể hiện tập trung sở trường của Xuân Diệu trong việc bộc lộ cái tôi và cách cảm nhận thiên nhiên, sự sống. Cả bài thơ thể hiện một nhân sinh quan mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Đoạn thơ ta phân tích nằm ở phần giữa của bài thơ “Vội vàng”. Ở đoạn này thi sĩ tập trung thể hiện quan niệm về thời gian.

Thời gian trong thi ca trung đại là “thời gian tuần hoàn”, nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Mà đã là vòng tuần hoàn thì thời khắc, thời đoạn có ra đi thì cũng quay trở về. Quan niệm “thời gian tuần hoàn” xuất phát từ cái nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo thời gian.

Cách thức trình bày của Xuân Diệu là “chống đối”, “tranh cãi” lại quan niệm xưa; đồng thời bộc bạch quan niệm của mình bằng một cảm xúc sôi nổi cuồng nhiệt, nghĩa là một dạng ý thức triết học đã thấm nhuần cảm xúc.

Đoạn thơ ( từ câu 14 đến câu 24, có thể đến câu 28 ) với giọng tranh luận, biện bác, nhịp điệu sôi nổi, khẩn trương và những câu thơ đầy mĩ cảm về cảnh sắc thiên nhiên đã chứa đựng cảm nhận về thời gian của thi sĩ. Xuân Diệu đã phủ định trực tiếp quan niệm “thời gian tuần hoàn” bằng một câu thật dứt khoát: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn”.

Như vậy, Xuân Diệu lựa chọn cho mình một quan niệm khác “thời gian tuyến tính”. Nghĩa là thời gian được hình dung như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại. Vì thế mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên tâm trạng nhân vật trữ tình mới có thoáng nỗi buồn và nỗi hoài nghi.

Xuân Diệu quan niệm “thời gian tuyến tính” xuất phát từ cái nhìn động:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”

Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu kỳ bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Xuân Diệu nhìn cuộc đời bằng con mắt xanh non biếc rờn nhưng cũng không tránh khỏi những hoài nghi, mất mát. Điều thi sĩ sợ nhất là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bởi thời gian là tuyến tính nên thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn.

Cách dùng cặp từ đối lập trong hai câu thơ “Tới – qua”, “non – già” đã cho người đọc thấy được sự cảm nhận rất đỗi tinh tế của thi nhân về bước đi của thời gian. Thời gian như dòng chảy không ngừng nghỉ. Cái ta đang có cũng là cái ta đang mất, trong hiện tại đã có quá khứ và hé mở tương lai.

Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể của mình làm thước đo thời gian. Tức là lấy quỹ thời gian hữu hạn của cuộc đời mình ( sinh mệnh cá thể ) ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí thi sĩ lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người là tuổi trẻ để làm thước đo:

“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời ”

Chữ “Xuân” được điệp đi điệp lại cả năm đến sáu lần (trong ba câu đầu đã có tới năm lần). “Xuân” ấy vừa là xuân của đất trời vừa là “xuân” của cuộc đời, của tuổi trẻ. Mỗi lần nhắc lại là mỗi lần ta bắt gặp cái ngậm ngùi của thi nhân. Xuân của thiên nhiên thì còn mãi mà “xuân” của đời người đã “hết” thì “tôi cũng mất”. Dù lòng yêu có “rộng” đến bao nhiêu thì “lượng trời” vẫn cứ chật. Nên “tuổi trẻ nhân gian” không thể “dài” thêm mãi.

Ở đây, hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ (tới – qua, non –già, rộng – chật, xuân tuần hoàn, – tuổi trẻ chẳng hai lần, còn – chẳng còn) để làm nổi bật tâm trạng nuối tiếc thời gian, cuộc đời. Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân rồi cũng tuần hoàn nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần, đã qua là qua mãi. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !”

Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại “chẳng hai lần thắm lại” thì làm chi có sự tuần hoàn ! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:

“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

Đọc hai câu thơ, ta cảm nghe rất rõ tiếng thở dài bất lực của thi nhân. Ta nghe rõ cả cái bâng khuâng, nuối tiếc của nhà thơ phả vào đất trời. Dường như trước mắt người đọc là cả một trời tiếc nuối. Tâm trạng ấy của Xuân Diệu ta cũng bắt gặp trong bài thơ “Giục giã”:

“Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn
Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến
Dung nhan xê động sắc đẹp tan tành
Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh
Vừa ngoảnh lại cả lầu chiều đã vỡ”

Phải chăng vì quá yêu mến tuổi trẻ mà từ sự nuối tiếc ấy, thi nhân đã “thức nhọn giác quan” để sống “toàn tâm, toàn ý, sống toàn hồn” mà “say”, “thâu”, “hôn”, “cắn” cho kỳ hết những hương nồng của tuổi trẻ?

Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát lớn lao. Sự tàn phai không chỉ đến “khắp sông núi” mà còn ở từng cá thể. Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi:

“ Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”

Đây là hai câu thơ thể hiện rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Cảm nhận ấy không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng cả khứu giác “mùi tháng năm”, cả vị giác “vị chia phôi”. Mỗi khoảnh khắc đang rời bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa. Khoảnh khắc nào cũng là một chia lìa, một mất mát. Và dòng thời gian được nhìn như một chuỗi vô tận của những mất mát, chia phôi.

Cho nên, thời gian thấm đẫm hương vị của sự chia lìa. Dậy lên đó đây khắp không gian là lời than thở tiễn biệt “khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. Nó là lời thở than của vạn vật, là không gian đang tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn là mỗi sự vật thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó. Những phần đời của sinh mệnh cá thể đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, phai tàn của từng cá thể:

“Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”

Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh của thiên nhiên tươi vui của mùa xuân, mà là lời “thì thào” về nỗi hờn giận, buồn thương. Gió phải chia tay với cây lá mà bay đi; chim chóc trên cây đang ca hát rộn ràng chào xuân bỗng ngừng bặt, chẳng phải có sự đe dọa nguy hiểm nào, mà chỉ vì chúng buồn tiếc cho mùa xuân sắp trôi qua.

Thế là chẳng riêng gì Xuân Diệu mà cả vạn vật trong thiên nhiên cũng thức nhận về cái quy luật nghiệt ngã, cái một đi không bao giờ trở lại của thời gian ấy. Có phải vậy mà Xuân Diệu đưa ra một quyết định hợp lí cho mình và cho tất cả mọi người “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.

“Chẳng bao giờ ôi! chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”

Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì “mùa chưa ngả chiều hôm”, nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả “Mau đi thôi”. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng. Thế đấy, không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống . Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm “Thơ tiếc cảnh”:

“Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”.

Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong “Vội vàng” về màu thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Cũng qua đó để hiểu thêm về lòng ham sống đến nhiệt cuồng của nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”.

Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời mỗi người đều vô cùng quý giá, chính vì một khi đã mất đi là vĩnh viễn mất đi! Quan niệm ấy khiến cho con người biết quý từng giây phút của đời mình. Và người ta biết làm cho mỗi khoảnh khắc của đời mình cần phải tràn đầy ý nghĩa. Có như thế mới là biết sống. Đây là cơ sở sâu xa của thái độ sống “Vội Vàng”.

Rõ ràng toàn bộ quan niệm, thái độ về “thời gian tuyến tính” phải sống “Vội Vàng” cho cuộc đời tuy ngắn ngủi nhưng tràn đầy ý nghĩa, đã thể hiện rất tích cực, rất đáng trân trọng của tư tưởng Xuân Diệu.

Sử dụng phép điệp ngữ, điệp cấu trúc; giọng điệu thơ sôi nổi nhưng không tạo được niềm vui vì không che giấu sự nuối tiếc, xót xa, hờn dỗi (nói làm chi, nếu, tiếc…); Hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ. Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay và giàu ý nghĩa mang đậm dấu ấn Xuân Diệu.

Tóm lại, đoạn thơ thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc đời của một nhà thơ vốn khao khát sống, sống mãnh liệt hết mình. Qua đoạn thơ, người đọc thêm trân trọng quan niệm nhân sinh mới mẻ, tích cực, cảm xúc chân thành của một tâm hồn nghệ sĩ luôn cháy bỏng niềm yêu cuộc sống. Nói như Giáo Sư Nguyễn Đăng Mạnh: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống”.

Gợi ý cho bạn 🌟 Cảm Nhận 13 Câu Đầu Bài Vội Vàng 🌟 10 Bài Phân Tích Hay Nhất

Cảm Nhận Đoạn 2 Bài Vội Vàng Học Sinh Giỏi – Mẫu 6

Tham khảo bài văn cảm nhận đoạn 2 bài Vội vàng học sinh giỏi dưới đây để trau dồi và nâng cao kỹ năng nghị luận văn học.

Thơ Xuân Diệu tinh tế, gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. Nhắc tới ông, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn và phong cách của ông: Vội vàng. Bài thơ vừa như một nguồn cảm xúc trào dâng vừa là tuyên ngôn sống của một nhà thơ khao khát yêu đời.

Đặc biệt, nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện quan niệm nhân sinh mới mẻ về thời gian và tuổi trẻ.

Thời gian trong thơ ca trung đại là thời gian “tuần hoàn” nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết 1 vòng lại quay về vị trí xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi.

Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn “tĩnh”, lấy cả sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo cho thời gian. Còn đối với Xuân Diệu, ông có quan niệm rất mới về thời gian:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.

Nếu người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ quan niệm thời gian là tuần hoàn thì Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuôi trẻ một đi không trở lại.

Thế nên ông luôn hốt hoảng lo âu khi thời gian trôi mau. Điều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bới thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới – qua”, “non – già” đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời gian.

Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận: Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất.

Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không khỏi thảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngào:

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

“Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn. Tuy nhiên trong góc nhìn của Xuân Diệu thì cái vốn hữu hạn như đời người lại được mở rộng đến vô cùng “lòng tôi rộng” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn trong thời gian của đất trời lại trở nên nhỏ bé “lượng trời cứ chật”.

Một loạt hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ “rộng” – “chật”, “xuân tuần hoàn” – “tuổi trẻ chẳng hai lần”, “còn” – “chẳng còn”. Điều đó đã góp phần làm nổi bật tâm trạng tiếc nuối trước thời gian, cuộc đời.

Sự hạn hữu của đời người với thời gian được thể hiện rõ nét nhất ở dòng thơ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Đúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi. Nhưng ở đây, Xuân Diệu không tiếc cho mình, tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”.

Suy ngẫm về điều đó, Xuân Diệu càng cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời gian.

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàm sắp sửa.

Thời gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi, dường như khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Tựa như ta nghe thấy có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa tiếc nuối hụt hẫng trong từ “rớm” ấy.

Gió đùa trong lá không phải là những âm than vui tươi, sống động của thiên nhiên mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa. Vậy là vạn vật cứ thế chảy trôi theo quy luật vận hành tự nhiên của nó mà không sao cưỡng lại được.

Khép lại phần thơ là dòng thơ tràn ngập cảm xúc:

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Phép điệp “chẳng bao giờ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạng thêm tâm trạng bàng hoàng tiếc nuối ấy. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mấy khói. Chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt mà càng trở nên da diết hơn với dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Và trong sự bất lực, Xuân Diệu dường như tìm ra một cách giải quyết.

“Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”

Lời thơ như một lời giục giã, thúc giục con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia ly sẽ đến mà lãng quên đi thực tại. “Mau đi thôi”, mau cố gắng trân trọng lấy từng phút giây hiện tại để tận hưởng bữa tiệc tươi vui mà thiên nhiên mùa xuân đã bày sẵn trước mắt ta.

Chỉ với 16 câu thơ nhưng dường như Xuân Diệu đã cho ta thấy một quan niệm nhân sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ của tác giả. Ta cũng nhận ra mặc dù Xuân Diệu thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc đời nhưng qua đó ta còn bắt gặp một khát khao mạnh mẽ, một tình yêu say đắm mà ông dành cho đời.

Giới thiệu đến bạn 🌟 Phân Tích 13 Câu Đầu Bài Vội Vàng 🌟 Bài Cảm Nhận Hay

Cảm Nhận Khổ Thơ Thứ 2 Bài Vội Vàng Đơn Giản – Mẫu 7

Cảm Nhận Khổ Thơ Thứ 2 Bài Vội Vàng với những dấu ấn riêng đã khiến đọc giả say đắm và yêu mến qua bao thế hệ.

Nền văn học Việt Nam với điểm nhấn của trào lưu Thơ Mới luôn để lại dấu ấn với nhiều tuyệt tác đặc biệt. Trong số những đóng góp của các nhà thơ thì Xuân Diệu được xem là một cây đại thụ lão làng với bao tập thơ về tình yêu khiến độc giả say đắm, mê mẫn. Vội vàng là tác phẩm điển hình viết về nét đẹp nhân sinh, quan niệm sống tích cực từ thi nhân. Ta sẽ thấy rõ nét hơn về điều này ngay khi đến với khổ thứ hai của bài thơ.

Nếu như ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ vì yêu cái đẹp của thiên nhiên mà muốn đoạt quyền tạo hóa “tắt nắng”, “buộc gió” thì quan niệm vô cùng tích cực của thi nhân, sự lí giải đầy sâu sắc được trình bày ở khổ thơ thứ hai.

Mở đầu cho khổ thứ hai của bài là hai câu thơ đọc vào như khiến ta vỡ lẽ khi thời gian cứ ngày một trôi qua nhanh chóng bởi cách ngắt nhịp 3/5.

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”

Người ta như chìm đắm vào trong từng vần thơ bởi cách tả vô cùng tinh tế, táo bạo khi đọc thơ của Xuân Diệu. Sự trôi nhanh vội vã của thời gian để rồi tiếc nuối, lo sợ được nhà thơ phát hiện. “Đương tới” – “đương qua”, “còn non – sẽ già” là lúc nhà thơ gọi tên các trạng thái đối lập của thời gian.

Trở về với những vần thơ trung đại thì sẽ thấy thời gian qua cách kể của các thi nhân xưa nhận ra sự nhỏ bé, chóng qua của thời gian nhưng người đọc sẽ hiếm hoi nhận thấy được lời than thở, buồn đau trong những câu thơ này.

Tuy nhiên trong Thơ Mới cái nhìn có sự thay đổi hơn, trước sự ngắn ngủi của đời người, không còn là vô tận mà tuyến tính con người tỏ ra hoảng sợ, ý thức rõ ràng về điều này. Minh chứng trong câu thơ của Mãn Giác Thiền trong Cáo tật thị chúng:

“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đào bách hoa khai”

Trước không gian mênh mông, con người dường như thu mình lại khi thời gian chảy trôi nhanh, thấy bản thân trở nên bé nhỏ. Mùa xuân hôm nay đẹp lung linh nhưng rồi mai đây nó cũng đến lúc phai tàn, già cỗi đi cùng thời gian là điều không ai níu giữ lại được.

“Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỷ niệm trong tôi
Rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn”

Khi xuân đi qua thì tuổi xuân của con người cũng trôi theo trong tiếc nuối. Ở đây nhà thơ cảm thấy chẳng còn gì, chẳng thể níu kéo mọi thứ khi thời gian rồi cũng mai một tất cả, kể cả tuổi thanh xuân:

“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”

Nhà thơ muốn nhấn mạnh về tầm quan trọng của mùa xuân, tuổi trẻ rồi sẽ chảy trôi cùng thời gian thấy được qua danh từ “xuân” gợi nhắc đi lại nhiều trong đoạn thơ.

Khi tuổi trẻ đi qua thì “tôi” rồi cũng trở nên vô nghĩa, trống rỗng, bởi lúc này tình yêu đã không còn. “Lòng tôi” và “lượng trời” là sự tương phản của hai thế cực bật lên sự hữu hạn, vô hạn giữa đời người và đất trời.

Từ đó để thấy rằng vòng xoáy của thời gian tiếp nối trong sự vận động không ngừng của thời gian thì vạn vật, con người rồi sẽ phải thay đổi. Sinh lão bệnh tử là lẽ thường tình, là vòng tròn tuần hoàn lặp lại không ngừng.

Niềm tiếc nuối của tác giả trước sự chảy trôi của thời gian tuyến tính một đi không trở lại được thấy rõ hơn trong lời thơ. Bước đi của mùa xuân cũng là bước đi của thời gian, của đời người. Nhìn mọi thứ đều nhuốm màu của lo âu, hốt hoảng nên thi sĩ muốn níu giữ tuổi trẻ.

Do đó mà ta nhận thấy có sự thay đổi, có sự đa dạng trong cách diễn đạt từ câu định nghĩa, khẳng định về mùa xuân và tuổi trẻ, tinh tế một chút sẽ thấy được đó là lời cảm nhận về sự có mặt, hiện hữu rồi tàn phải của tuổi xuân, tiếng than đầy nuối tiếc từ đó lại cất lên da diết.

Tuy nhiên ở đây có một điều rất hay khi tinh tế nhận thấy trong lời thơ của Xuân Diệu đó là tuổi xuân, tuổi trẻ trôi qua ông không nuối tiếc bằng việc không thể được tận hưởng mọi hương sắc của đất trời.

Vài dòng thơ ngắn ngủi nhưng đầy triết lí đã cho thấy một tâm hồn thơ lãng mạn, cá tính của Xuân Diệu. Vội vàng là tác phẩm tuyệt đỉnh đi theo cùng năm tháng.

Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Phân Tích Vội Vàng Khổ 1 🌺 Top 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Cảm Nhận Khổ 1 2 Bài Vội Vàng – Mẫu 8

Cảm nhận khổ 1 2 bài thơ Vội vàng để thấy được những cảm xúc mới và một nhân sinh quan mới mẻ cùng thủ pháp cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo.

Trong phong trào thơ mới những năm đầu thế kỉ 20, cây bút Xuân Diệu xuất hiện trên thi đàn như “một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này” ( Hoài Thanh). Ông đã đem đến cho thơ ca đương thời một nguồn cảm xúc mới, thể hiện quan niệm sống mới mẻ với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo.

Những bài thơ của ông bao giờ cũng để lại ấn tượng sâu sắc với độc giả cả trên phương diện nội dung và nghệ thuật. “Vội vàng”( rút từ tập “Thơ thơ”) là một thi phẩm như vậy. Bài thơ đã thể hiện tập trung sở trường của Xuân Diệu trong việc bộc lộ cái “tôi” và cách cảm nhận thiên nhiên, sự sống của mình, đặc biệt là qua hai khổ thơ đầu.

Ngay khi bước vào thi phẩm, ta đã không khỏi ngỡ ngàng và ấn tượng với ước muốn kì lạ của thi sĩ:

“Tôi muốn tắt nắng đi…bay đi”

Đó rõ ràng không phải là ước mơ của một người khổng lồ “ghé vai gánh đỡ cả giang sơn”, cũng không phải là những ngông cuồng của tuổi trẻ, 4 câu thơ là khao khát cháy bỏng của chủ thể trữ tình muốn “tắt nắng”, “buộc gió” để níu giữ hương sắc và vẻ đẹp của cuộc đời.

Việc sử dụng thể ngũ ngôn ngắn gọn kết hợp với điệp ngữ “tôi muốn” và những động từ mạnh “tắt”, “buộc” đã tạo ra một vẻ quyết liệt rất Xuân Diệu. Nhưng làm sao ý chí chủ quan của con người có thể thắng được quy luật bất biến của tạo hóa?

Đọc kĩ câu hai và câu bốn, với điệp cấu trúc cú pháp “cho màu đừng…”, “cho hương đừng…” mới thấy được sự tiếc nuối và hụt hẫng ở sau những dòng thơ tưởng chừng rất mạnh mẽ ấy. Dù vậy, ước muốn táo bạo và kì lạ của thi sĩ cũng đã hé mở một tấm lòng yêu đời đắm say, cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.

Nếu như khổ đầu bộc lộ một khát khao, một ước muốn tưởng chừng thật phi lí thì ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã lí giải nguyên do của khát khao ấy. Con người bao giờ cũng vậy, luôn khao khát tìm kiếm hạnh phúc và vẻ đẹp của cuộc đời.

Nếu như các nhà thơ mới có xu hướng thoát li trần gian, tìm đến chốn “bồng lai tiên cảnh” thì Xuân Diệu lại “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Bởi đối với ông, thiên đường không ở đâu xa mà nằm ngay trên mặt đất, trong tầm tay của chúng ta:

“Của ong bướm…gõ cửa”

Thi sĩ lặp lại đến năm lần cụm từ “này đây” như một nhịp kể nồng nàn đầy say mê, như một tiếng reo vui đầy kinh ngạc khi liên tiếp phát hiện ra những vẻ đẹp kì lạ mà đắm say của thiên nhiên tạo hóa. Hơn nữa, cấu trúc câu linh hoạt cùng phép liệt kê đã tạo ra một lớp sóng ngôn từ, lớp sóng cảm xúc trào dâng đến vô tận vô cùng.

Bức tranh xuân tràn trề sức sống hiện lên, đầy sinh động và chân thực. Đó là cái tình tứ của “ong bướm” trong “tuần trăng mật”, là cái bát ngát “xanh rì” tươi mát của hoa cỏ đồng nội, là cái nõn nà, tràn trề nhựa sống của “cành tơ phơ phất”.

Tất cả chìm ngập trong thanh âm ríu rít, tươi vui và đầy si mê – những “khúc tình si” của chim yến, chim anh hót mừng mùa xuân mới. Đây đó bừng lên ánh sáng tinh khôi của ánh bình minh.

Xuân Diệu đã thật tài tình khi ngầm so sánh “bình minh” như một thiếu nữ yêu kiều với hàng mi dài, duyên dáng, chỉ cần khẽ chớp cũng đủ làm khuynh quốc, khuynh thành. Và hơn thế nữa, thiếu nữ ấy còn là vị “thần Vui” mỗi ngày đều đến “gõ cửa”, ban phát hạnh phúc cho muôn loài, muôn vật, muôn nơi.

Quả thực, đây là một bức tranh xuân tuyệt vời với đầy đủ hương thơm, màu sắc, đường nét, ánh sáng và âm thanh. Đằng sau bức tranh ấy ta thấy được một tâm hồn như đang cháy lên niềm yêu, niềm khao khát tận hưởng sự sống, một cái “tôi” đầy ham hố và cuồng nhiệt.

Phải là một người có đôi mắt “xanh non và biếc rờn”, Xuân Diệu mới nhận ra và tái hiện cuộc sống quen thuộc “xưa như Trái Đất” dưới một góc nhìn mới một cách sinh động, gợi cảm và trẻ trung như thế.

Không giống như thơ ca xưa, thường lấy vẻ đẹp của thiên thiên làm thước đo cho vẻ đẹp của con người, Xuân Diệu đã mạnh bạo lấy con người và tuổi trẻ làm chuẩn mực cho mọi cái đẹp của cuộc sống. Có lẽ chính từ quan niệm mĩ học mới mẻ ấy mà thi nhân đã sáng tạo ra một câu thơ độc nhất vô nhị chưa từng có trong lịch sử thơ ca dân tộc:

“Thánh giêng ngon như một cặp môi gần”

Câu thơ táo bạo trong cảm nhận, trong so sáng và trong cả cách sử dụng hình ảnh. Tháng Giêng là mùa xuân, là sự khởi đầu mơn mởn của một năm, là tháng thanh tân nhất, tươi mới nhất nay đã hóa thành cặp môi gần gợi cảm của người thiếu nữ đang mong đợi, hé chờ.

Từ một hình ảnh vô hình, trừu tượng, bằng phép so sánh, tháng Giêng đã được hữu hình hóa, cụ thể hóa như một biểu tượng quyến rũ của tình yêu. Thi sĩ còn táo bạo hơn nữa khi dùng chữ “ngon” đầy nhục thể. Với nhà thơ ấy, tình yêu cuộc sống luôn được huy động cả phần hồn lẫn phần xác thật triệt để và mãnh liệt.

Vậy là chỉ trong bảy câu thơ, Xuân Diệu đã đưa cái đẹp về với trần thế, về với con người. Trong quan niệm của thi nhân, thế giới giống như một thiên đường trên mặt đất, không ở đâu xa, không ở hư vô mà hiện hữu ở quanh ta.

Thế giới ấy luôn đầy xuân và tình, vừa như một khu vườn tình ái, như một mâm tiệc với thực đơn hấp dẫn, vừa như một người tình gợi cảm.

Xuân Diệu ngầm gửi gắm đến độc giả một quan niệm nhân sinh sâu sắc: muốn giữ được những vẻ đẹp của cuộc đời, trước tiên phải biết cách phát hiện ra những vẻ đẹp ấy, người nghệ sĩ hơn ai hết phải biết cảm nhận thế giới bằng cả tâm hồn yêu sống và bằng việc huy động tổng lực sức mạnh của mọi giác quan để đem đến cho thơ ca sức sống bất diệt:

” Sống toàn tâm, toàn bích, sống toàn hồn
Bằng say mê. Và thức nhọn giác quan…”

Dẫu biết mùa xuân là bất tận, đang ngập tràn trong men say của mùa xuân tình ái nhưng Xuân Diệu vẫn đủ tỉnh táo, đủ thực tế để nhận ra rằng cuộc đời và tuổi trẻ của con người thật ngắn ngủi làm sao, thời gian đã trôi qua là không thể níu giữ. Vì thế mà sau những phút cuồng nhiệt, sôi nổi, giọng thơ bỗng trùng xuống, lắng lại trong suy tưởng:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Nhịp ngắt 3/5 với dấu chấm ở ngay giữa dòng thơ như một nốt lặng, một khoảng lặng chuyển tiếp của những xúc cảm trái ngược, tương phản. Nếu như “sung sướng” là khao khát yêu, khao khát sống thì “vội vàng một nửa” thể hiện sự hoài nghi, lo âu bởi sự ngắn ngủi của cuộc đời.

Vì thế mà nhà thơ “hoài xuân”, nhớ xuân, tiếc xuân ngay khi vẫn còn đang sống trong những ngày xuân tươi non: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua- Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”.

Con người thường chỉ nhận ra giá trị thực sự của một khoảnh khắc, một vẻ đẹp nào đó khi thời gian đã trôi qua, khi ta đã đánh mất nó. Nhưng Xuân Diệu thì không thế, thi sĩ không đợi nắng hạ đến mới hối tiếc về những ngày xuân tươi đẹp.

Buồn mà không bi lụy, đó là cái buồn của một tâm hồn yêu đời tha thiết. Chính cảm xúc ấy đã khơi nguồn cho lối sống “vội vàng” của thi sĩ: sống nhanh, sống mạnh, sống hết mình để tận hưởng và tận hiến, để không hoài phí thời gian và tuổi trẻ.

Tóm lại, hai khổ đầu thực sự là những dòng thơ đặc sắc cả về nội dung và hình thức, góp phần quan trọng trong thành công vang dội của thi phẩm “Vội vàng”. Với lối thể hiện rất hiện đại cùng ngôn từ gợi cảm tinh tế và nhiều biện pháp tu từ đặc sắc, Xuân Diệu đã tái hiện thật sinh động và chân thực bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống và xuân tình.

Qua đó, ta thấy được cái “tôi” tha thiết gắn bó với trần thế và khát khao cháy bỏng được thụ hưởng hương sắc của trần gian. Bài thơ còn là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây phút của cuộc đời, nhất là năm tháng của tuổi trẻ. Đó cũng là một quan điểm sống tích cực mà chúng ta cần học tập từ thi sĩ Xuân Diệu.

Thời gian trôi qua không trở lại bao giờ, con người chỉ có duy nhất một lần được sống vì thế hãy biết chớp lấy từng khoảnh khắc thời gian để làm cho mỗi giây, mỗi phút của cuộc đời mình đều trở nên ý nghĩa và có giá trị.

Tiếp tục tham khảo 🌹 Phân Tích Vội Vàng Khổ 2 🌹 10 Bài Văn Mẫu Hay

Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Đầu Bài Vội Vàng – Mẫu 9

Để viết cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài Vội vàng, các em học sinh cần nắm vững nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Tham khảo bài văn mẫu cảm nhận về 2 khổ đầu bài Vội vàng dưới đây:

Mùa xuân đến trong sự chào đón của đất trời và của cả lòng người. Đề tài mùa xuân có lẽ đã quá quen thuộc trong nền văn học từ xưa đến nay. Khi những cánh én chao nghiêng trên bầu trời, khi những cánh đào, cành mai khoe sắc thắm, khi cơn gió xuân ấm áp mơn man trên mái tóc, những vần thơ về mùa xuân lại được cất lên để ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên, diễn tả niềm vui say, háo hức của con người khi mùa xuân đến. Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.

Là một thi sĩ của tình yêu và tuổi trẻ, không lí gì ông lại không yêu mùa xuân. Bằng một hồn thơ trẻ trung, tươi mới, ông đã đưa người đọc đến một vườn xuân tràn ngập ánh sáng, rực rỡ hương thơm, ngỡ như một thiên đường trên mặt đất. Từ đó, ông bày tỏ quan niệm về lối sống vội vàng để tận hưởng hết mọi phút giây hạnh phúc trên trần giới. Dưới đây, mình sẽ hướng dẫn các bạn phân tích bài thơ “Vội vàng”- bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu.

Khi viết lời đề tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, Thế Lữ đã nồng nhiệt khẳng định: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người, lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần, ông đã không trốn trành mà còn quyến luyến cõi đời này”.

Xuân Diệu xuất hiện trên văn đàn thơ lãng mạn Việt Nam 1930- 1945 như một ông hoàng thơ tình, một thi sĩ của tuổi trẻ và tình yêu. Đến với thơ của ông, chúng ta bắt gặp một hồn thơ trẻ trung, tươi mới, luôn khao khát giao cảm với đời đến mãnh liệt. “Vội vàng” là bài thơ thể hiện tập trung và rõ nét nhất phong cách thơ Xuân Diệu.

“Vội vàng” lấy đề tài quen thuộc là mùa xuân. Mùa xuân trong thơ cổ thường gắn với trạng thái nhàn nhã, vô tư của thi nhân xưa. Còn trong phong trào thơ mới, nếu như Chế Lan Viên thù ghét mùa xuân mà khắc khoải tìm về “ thu trước xa lăm lắm” bao nhiêu thì Xuân Diệu lại say đắm mùa xuân bấy nhiêu. Mở đầu bài thơ, thi sĩ đã bộc lộ cái tôi trữ tình ấy một cách đầy táo bạo:

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Những câu thơ cho thấy một sự tân kì, mới lạ chưa từng có trong thơ ca truyền thống. “Tôi muốn” lặp lại hai lần diễn tả cái khao khát mãnh liệt muốn đảo ngược thiên nhiên, chặn vòng quay của vũ trụ và đoạt quyền tạo hóa để buộc lại dòng thời gian niên viễn không ngừng, để níu giữ mọi vẻ đẹp của trần thế đang thời tươi sắc.

Có thể nói qua khao khát có phần ngông cuồng và phi lí ấy, Xuân Diệu đã thể hiện quan niệm sống trọn vẹn với mỗi phút giây hiện tại, xua tay chối từ quá khứ và cuộc đời phẳng lặng, nhạt nhẽo. Nếu khi xưa, các nhà thơ thường chỉ sử dụng thị giác và thính giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì thi sĩ thời Thơ mới “ thức nhọn mọi giác quan” để thưởng thức trọn vẹn mọi vẻ đẹp và sự say đắm, quyến rũ hồn người của vạn vật lúc xuân sang:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si…
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Sự sống căng tràn, gợi cảm đang phơi bày trước mắt đầy mời gọi, hấp dẫn. Những vẻ đẹp được miêu tả với những tính từ giàu sức biểu cảm đã thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của Xuân Diệu, cảnh vật trở nên ngập tràn màu sắc, cuộn trào sức sống. Mùa xuân qua cặp mắt xanh non, rờn biếc của thi sĩ là bức tranh rực rỡ sắc màu,chói lòa ánh sáng, nồng nàn hương thơm và rộn rã âm thanh. Đang chìm trong ngập tràn xuân sắc, giọng thơ đang sôi nổi bỗng trầm xuống trong nỗi lo âu sắc xuân sẽ qua đi, sẽ phai tàn:

“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”

Câu thơ định nghĩa rất mới, rất Tây, mạch cảm xúc gắn với mạch triết luận, thể hiện khát vọng muốn cắt nghĩa, truy nguyên cội nguồn sự chảy trôi của thời gian. Bằng những cặp từ đối lập tương phản, nhà thơ thể hiện một quan niệm vừa quen vừa lạ. Quen vì người xưa cũng từng thở than: xuân thì bất tái lai.

Lạ là bởi vì đó là tiếng lòng của một cái tôi ham sống, coi mùa xuân và tuổi trẻ là tất cả của mình, cho nên thi sĩ thở dài tiếc nuối vì mùa xuân của đất trời thì tuần hoàn nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, cho nên khó tránh khỏi cảm giác bâng khuâng, tiếc nuối. Đó là những cảm xúc chỉ có ở một tâm hồn ham sống, yêu cuộc đời, yêu tuổi trẻ.

Xuân Diệu đã căng mở tất cả các giác quan, toàn tâm toàn ý để cảm nhận sự chảy trôi của thời gian. Hiểu được sự hữu hạn của đời người, sự ngắn ngủi của tuổi trẻ, ông đã đưa ra triết lí sống đẹp là phải sống vội để có thể tận hưởng hết mọi vẻ đẹp, niềm hạnh phúc trên trần thế này.

Với “Vội vàng”, Xuân Diệu đã đem đến cho nền văn học Việt Nam một làn gió mới lạ, thật tân kì, thật trẻ trung, thật tươi mới. Qua 2 khổ đầu của bài thơ, ta còn bắt gặp hình ảnh một cái tôi trẻ tuổi trẻ lòng với cặp mắt xanh non và rờn biếc đang thức nhọn mọi giác quan để cảm nhận mọi vẻ đẹp của trần thế, cùng với quan niệm sống vội vàng, sống hết mình để hưởng thụ từng phút giây hiện tại của tuổi trẻ và hạnh phúc.

SCR.VN chia sẻ 🌳 Phân Tích Vội Vàng Khổ 3 🌳 15 Bài Phân Tích Đoạn Cuối Hay

Cảm Nhận 2 Khổ Đầu Bài Vội Vàng Lớp 11 – Mẫu 10

Bài văn cảm nhận 2 khổ đầu bài Vội vàng lớp 11 dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.

Nhắc đến Xuân Diệu là nhắc đến nhà thơ của tình yêu.Trong phong trào thơ mới các tác phẩm của ông chủ yếu viết về tình yêu nồng cháy của con người trước thiên nhiên, trước cuộc sống. Khi nhắc đến thơ Xuân Diệu không thể không kể đến bài thơ “Vội vàng”, trong đó 2 khổ thơ đầu mang đến một cảnh sắc xuân rạo rực, tươi mới,và cũng mang cả thông điệp về cuộc sống của tác giả.

Ngay mở đầu bài thơ Xuân Diệu đã bộc lộ ham muốn, cái tôi cá nhân thật táo bạo, ngông cuồng:

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Lòng yêu đời, yêu cuộc sống của Xuân Diệu đã biến thành cái ham muốn thật táo bạo muốn “tắt nắng”,”buộc gió”. Trước sự thay đổi của đất trời, của thiên nhiên ông muốn ôm lấy tất cả muốn níu giữ tất cả những gì là đẹp nhất.

Trong cái ngông cuồng, táo bạo đó vẫn hiện lên sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn. Với Xuân Diệu sống là một điều kỳ diệu, sống là để tận hưởng và cũng là cống hiến hết mình cho cuộc sống. Thế giới trong mắt của Xuân Diệu chính là một bữa tiệc rực rỡ đầy sắc màu. Thiên nhiên hiện lên trong các dòng thơ tràn trề sức sống.Cảnh sắc mùa xuân được miêu tả căng tràn nhựa sống như vẻ đẹp của cô gái đang độ xuân thì Xuân Diệu say đắm với mùa xuân, say trong ánh nắng,say trong rực rỡ của cỏ cây hoa lá,say trong tiếng chim hót:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;”

Tác giả yêu thiên nhiên đến tột độ và tìm mọi cách để hưởng thụ thiên nhiên. Vẫn đang đắm chìm trong hạnh phúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên tác giả lại thốt lên:

“Tôi sung sướng,nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

Tác giả chợt nhận ra mình phải “vội vàng một nửa”. Hoa nở rồi hoa lại tàn,xuân đến rồi xuân lại đi, chim cũng dừng tiếng hót, thời gian sẽ trôi đi và con người không thể níu giữ khoảnh khắc đó,không thể khiến thời gian ngừng lại. Cũng như con người cũng sẽ già nua đi. Hai câu thơ đã thể hiện rất rõ tình yêu với cuộc đời cuồng nhiệt của Xuân Diệu.

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua.
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.,”

Một xúc cảm khác trước thời gian, không gì là mãi mãi,gặp nhau rồi cũng phải chia ly. Mùa xuân của đất trời luôn tuần hoàn năm này qua năm khác, nhưng tuổi trẻ của mỗi người chỉ có một lần trong đời. Vạn vật tuần hoàn nhưng “chẳng còn tôi mãi”. Dường như tác giả quá đa cảm và sự cảm nhận rất tinh tế với vòng quay của thời gian. Những câu thơ chứa đựng cả giọng nói háo hức và nhịp đập của một con tim vồ vập muốn sống hết mình. Con tim ấy của một cái tôi trữ tình từng bộc bạch một cách chân thành.

Tên bài thơ “Vội vàng” đã thể hiện đầy đủ triết lý sống của nhà thơ, sống gấp, sống vội. Hãy sống và tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Hơn nữa Nhà thơ muốn nhắn nhủ đến người đọc hãy sống hết mình khi đang còn trẻ tuổi, đừng để thời gian trôi đi phí hoài,sống sao cho có ích với xã hội với cuộc đời để khi thời gian đó qua đi rồi chúng ta sẽ không phải ân hận hay nuối tiếc điều gì.

Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Vội Vàng 🌹 11 Bài Văn Hay Nhất

Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Cuối Bài Vội Vàng – Mẫu 11

Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Cuối Bài Vội Vàng thể hiện lòng yêu cuộc sống, khát khao dâng hiến, tận hưởng và trải nghiệm thế giới của nhà thơ Xuân Diệu.

Xuân Diệu – Được ngợi ca là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, Xuân Diệu chọn cho mình một lối đi riêng, thể hiện rõ cái tôi cá nhân của mình. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ thể hiện cho sự mới ấy là “Vội vàng”, không chỉ thể hiện rõ hồn thơ riêng Xuân Diệu mà còn mang đến cho người đọc một thông điệp nhân văn.

Ngay từ những câu mở đầu bài thơ, Xuân Diệu đã gửi đến người đọc một thái độ sống rất lạ, rất ngông và cũng đậm chất Xuân Diệu:

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”

Có lẽ cũng chỉ có Xuân Diệu mới có thể có những ý tưởng táo bạo như tắt nắng, như buộc gió kia. Nhưng những khát khao ấy có vẻ “ngông cuồng” ấy của Xuân Diệu suy cho cùng mục đích cũng là muốn giữ lại cái đẹp, cái tươi thắm, trẻ trung nhất của sự vật trong tự nhiên mà thôi.

Nếu có khác thường thì vấn đề là ở chỗ người bình thường nuối tiếc những vẻ đẹp ấy thì chỉ biết ngồi ước “Giá mà…”, “Giá như…” còn Xuân Diệu có những táo bạo hơn là ông muốn tự tay mình giữ lại những vẻ đẹp ấy, không để thời gian và trời đất có cơ hội cướp chúng đi. Phải yêu đời và khao khát sống, khao khát tận hưởng đến như thế nào mà Xuân Diệu mới có thể có những ý tưởng táo bạo ấy.

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si.”

Những dòng thơ trên có lẽ là lí giải chính xác nhất cho những khao khát táo bạo của tác giả trong những câu mở đầu. Những dòng thơ trên dường như mở ra trước mắt chúng ta một bức tranh thiên nhiên xinh đẹp đang ở độ rực rỡ nhất. Những chú ong hăng say, cần mẫn làm việc trong khu vườn đang nở rộ những bông hoa thơm ngát, những cánh đồng cỏ mùa xuân xanh rì mướt mắt,…

Bức tranh mùa xuân ấy thật đẹp, thật dễ làm rung động lòng người, nhưng vẻ đẹp của bức tranh ấy chẳng thể trường tồn mãi với thời gian mà có khi chỉ cần một khoảng thời gian ngắn nữa thôi là vẻ đẹp ấy sẽ tàn phai, sẽ chẳng còn nữa. Chính vì vậy mà nhà thơ phải sống vội, sống gấp để tận hưởng trọn vẹn những vẻ đẹp của thiên nhiên dù bản thân đang tận hưởng cái thời kì mà thiên nhiên mang vẻ đẹp đỉnh cao nhất, điều này được thể hiện rõ qua hai câu thơ:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

Càng khát khao sống bao nhiêu, Xuân Diệu càng lo sợ, băn khoăn trước thời gian, trước sự chảy trôi một đi không trở lại của cuộc đời bấy nhiêu. Tác giả nhận ra rằng mỗi một giây phút qua đi là sẽ không bao giờ quay trở lại, cũng như tuổi trẻ chỉ đến một lần trong đời, vì vậy mà nhà thơ mở lòng mình hết sức có thể để yêu đời, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Nhưng càng yêu đời bao nhiêu, nghĩ đến cảnh nó sẽ phai tàn trong tương lai thì nhà thơ càng băn khoăn, trăn trở bấy nhiêu:

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn”

Và:

Cơn gió xinh thì thào trong gió biếc
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”

Đang say đắm trong vẻ đẹp của mùa xuân, nhà thơ Xuân Diệu bỗng chợt nhận ra rằng rồi vẻ đẹp ấy cũng sẽ đến ngày lụi tàn, sẽ chẳng có gì trong trời đất có thể trường tồn mãi theo thời gian, vẻ đẹp của tự nhiên tại thời điểm ấy cũng chính là dấu hiệu báo trước sự phai tàn của nó trong tương lai. Cuối cùng khi nhận thức được sự chảy trôi vô tình của thời gian, Xuân Diệu càng khát khao sống mãnh liệt:

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn biết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.”

Sự yêu đời tha thiết đã dâng trào lên như một cao trào tình cảm và tình yêu cuộc sống của tác giả cũng tăng dần cấp độ theo thời gian khi từ muốn ôm trong vòng tay đến thâu vào lòng những vẻ đẹp của thiên nhiên. Và có lẽ đỉnh điểm là “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”. Xuân Diệu dùng hình ảnh thơ muốn cắn vào xuân hồng phải chăng tác giả muốn tận hưởng trọn vẹn và níu giữ thật chặt lại những vẻ đẹp ấy?

Danh hiệu “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” của Xuân Diệu không phải ngẫu nhiên mà có mà được hình thành và đúc kết nên từ chính những thành quả nghệ thuật của nhà thơ. Qua “Vội vàng”, nhà thơ muốn mang đến cho người đọc một quan niệm nhân sinh hoàn toàn mới, đó là tranh thủ tận hưởng mọi vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng là sự tận hưởng chính đáng và sống sao cho ra sống chứ không phải thói lười biếng, chỉ biết tận hưởng mà lười lao động như một số bộ phận trong xã hội.

Bài thơ “Vội vàng” thể hiện một quan niệm sống mới mẻ và hết sức táo bạo của Xuân Diệu. Xuân Diệu cũng không giữ lối sống ấy cho riêng mình mà khuyến khích tất cả mọi người hãy cùng sống hết mình, tận hưởng hết mình trọn vẹn tất cả những vẻ đẹp của tự nhiên và cũng cống hiến hết khả năng của mình để làm giàu đẹp cho Tổ quốc.

Gửi đến bạn 🍃 Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Vội Vàng 🍃 10 Bài Văn Hay Nhất

Cảm Nhận 2 Khổ Cuối Bài Vội Vàng Ngắn Hay – Mẫu 12

Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu cảm nhận 2 khổ cuối bài Vội vàng ngắn hay để các em học sinh cùng tham khảo.

Xuân Diệu là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu là cái tôi đầy hân hoan, nồng nhiệt với cuộc sống nhưng lại đầy lo âu, phấp phỏng trước những bước đi thời gian.

Bằng đôi mắt “xanh non biếc rờn” cùng tình yêu tha thiết đối với cuộc đời, trong khổ thơ thứ 2 nhà thơ Xuân Diệu đã phát hiện được những vẻ đẹp rực rỡ, tươi sáng nhất nơi trần gian:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Xuân Diệu đã mở ra bức tranh sự sống đầy sống động với cả hình ảnh, màu sắc, âm thanh và cả những chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế bên trong vạn vật. Điệp ngữ “này đây” gợi ra được cái háo hức, rạo rực của người thi sĩ khi giới thiệu về vẻ đẹp nơi trần gian – nơi người thi sĩ đắm say với một tình yêu mãnh liệt.

Hình ảnh “ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, cành tơ, yến anh, ánh sáng” là những hình ảnh đẹp đẽ, tươi non của cuộc sống thường nhật. Nhưng khi đi qua lăng kính lãng mạn và tình yêu cuộc sống của nhà thơ thì những hình ảnh vốn quen thuộc ấy bỗng tươi sáng, hấp dẫn như cảnh sắc nơi thiên đường.

Thiên nhiên, sự sống trong thơ Xuân Diệu bao giờ cũng tươi tắn, mời gọi như vậy. Tuy nhiên nét đặc sắc nhất trong cảm nhận của người thi sĩ phải để đến cách so sánh “Tháng giêng ngon như cặp môi gần”. Vậy là trong cảm nhận của nhà thơ, mùa xuân cũng tươi ngon, hấp dẫn khó cưỡng như một cặp môi gần.

Lấy con người là chuẩn mực đánh giá cho những vẻ đẹp của tự nhiên không chỉ thể hiện cá tính sáng tạo của nhà thơ mà còn thể hiện quan niệm mới trong sáng tác. Nếu người xưa lấy thiên nhiên để làm thước đo cho vẻ đẹp của con người thì nay Xuân Diệu lại đặt con người ở vị trí trung tâm của vũ trụ và khẳng định con người mới là chuẩn mực của mọi vẻ đẹp.

Cùng với trái tim luôn rạo rực, nóng bỏng với tình yêu cuộc sống, Xuân Diệu luôn thường trực tâm trạng lo âu, phấp phỏng trước những bước đi của thời gian. Khi người ta càng yêu, càng trân trọng thì càng lo sợ nó sẽ tan biến trong cái vô hình, có lẽ Xuân Diệu cũng vậy, càng yêu cuộc đời thì càng bất an, lo lắng:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Bằng những cảm nhận nhạy bén của mình, Xuân Diệu có thể nhìn thấy những dấu hiệu tàn phai của sự sống ngay ở thời tươi. Xuân đang tươi non, nở rộ đấy nhưng chính trong vẻ đẹp của thời tươi ấy lại là mầm mống của sự tàn phai, lụi tàn “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua”, và tuổi trẻ cũng vậy, một khi trôi qua sẽ không bao giờ quay trở lại “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”.

Xuân Diệu đã gắn tuổi trẻ với mùa xuân và đưa ra quan niệm của mình về thời gian. Tuổi trẻ, mùa xuân, tình yêu tuy đẹp nhưng không phải mãi mãi, vô hạn mà hữu hạn, ngắn ngủi chỉ như cái chớp mắt. Bởi vậy để sống có ý nghĩa, để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của sự sống, của tình yêu, của cuộc đời người, Xuân Diệu đã chủ trương sống “vội vàng”:

Ta muốn ôm
Cả sự sống bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Xuân Diệu đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh: “ôm, riết, thâu” thể hiện khát khao chiếm lĩnh những vẻ đẹp của thời tươi. Không thể làm cho bước đi của thời gian ngừng lại thì hãy sống tận độ, sống nồng nhiệt, yêu hết mình để không có hối tiếc khi thời gian trôi đi. Quan niệm sống “vội vàng” của Xuân Diệu như lời khuyên chân thành, tha thiết đến độc giả. Hãy sống ý nghĩa, sống hết mình cho cuộc đời này và đừng để thời gian trôi qua kẽ tay một cách vô nghĩa.

Bài thơ được kết thúc bởi câu thơ tràn đầy cảm xúc “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Câu thơ là kết tinh của tình yêu và sáng tạo của người thi nhân. Hình ảnh “xuân hồng” không chỉ gợi liên tưởng đến mùa xuân mà còn gợi ra màu sắc tươi non, hấp dẫn, “cắn” lại là hành động chiếm lĩnh đầy mạnh mẽ. Nếu xuân hồng là phần tươi ngon, hấp dẫn nhất của cuộc đời thì nhà thơ muốn chiếm lĩnh để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của trần gian.

Qua khổ thứ 2 và 3 của bài thơ, Xuân Diệu không chỉ thể hiện tình yêu tha thiết với cuộc đời mà còn kín đáo thể hiện những quan niệm sống, triết lí sống đầy ý nghĩa. Với vẻ đẹp và triết lí ấy, “Vội vàng” là bài thơ trữ tình có thể làm xao xuyến trái tim độc giả bao thế hệ.

Đọc nhiều hơn 🌻 Cảm Nhận Khổ Cuối Bài Vội Vàng 🌻 13 Mẫu Cảm Nhận Khổ 3 Hay Nhất

Viết một bình luận