Liên Hệ Mở Rộng Bài Đồng Chí (10+ Mẫu Ngắn Gọn Siêu Hay)

Liên Hệ Mở Rộng Bài Đồng Chí ❤️ 10+ Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Văn Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu.

Cách Liên Hệ Bài Đồng Chí Của Chính Hữu

Dưới đây là 3 bước hướng dẫn bạn cách liên hệ mở rộng bài “Đồng chí” đơn giản nhất!

  • Bước 1: Tìm hiểu về bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu
  • Bước 2: Tham khảo các ngữ liệu liên quan để vận dụng vào bài liên hệ.
  • Bước 3: Viết bài và đánh giá

Ví dụ: Liên hệ hình ảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc trong câu thơ “Đêm nay rừng hoang sương muối” với đôi câu thơ được Tố Hữu miêu tả trong bài thơ “Việt Bắc”.

  • Bước 1: Tìm hiểu và phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
  • Bước 2: Khi phân tích đến câu thơ “Đêm nay rừng hoang sương muối ” bạn liên hệ với ngữ liệu “Mênh mông bốn mặt sương mù/Đất trời ta cả chiến khu một lòng” trong bài “Việt Bắc”
  • Bước 3: Đánh giá nội dung: Thời tiết, thiên nhiên khắc nghiệt,” sương muối”là hiện tượng đặc trưng của nơi đây. Thế nhưng cái khắc nghiệt ấy lại làm nổi bật lên sự gắn kết, chung sức bền lòng của những người lính.

Tặng bạn 👉 Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí

Các Bài Thơ Liên Hệ Với Đồng Chí

Tham khảo các bài thơ mà bạn có thể liên hệ mở rộng bài “Đồng chí” để bài văn thêm đặc sắc!

  • Khi phân tích hình ảnh người lính xuất thân nông dân trên trang thơ Chính Hữu có thể liên hệ với một số người lính cùng thời trên trang thơ của Chế Lan Viên như qua bài thơ “Kết nạp Đảng trên quê mẹ”. Cả hai bài thơ đều tái hiện hình ảnh người lính xuất thân là những người nông dân áo vải, từ nhiều miền quê nghèo khó tập kết về đây. Ở họ có điểm chung về xuất thân, chung ý chí chiến đấu, chung quân thù…

“Ôi, gió Lào ơi! Ngươi đừng thổi nữa
Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ
Những đồi sim không đủ quả nuôi ngươi”

  • Phân tích tình cảm của những người lính xa lạ bỗng nhiên quen biết nhau có thể liên hệ đến bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên. Để thấy được những người lính từ mọi miền trên đất nước tuy xa lạ, tuy không thân thích ruột thịt nhưng một khi đã nhập ngũ cùng chiến đấu thì có thể sẵn sàng hy sinh vì nhau, tất cả vì nhiệm vụ chung của dân tộc.

“Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi Một hai”

  • Khi nói về những thiếu thốn, khó khăn trong buổi đầu nhập ngũ có thể liên hệ bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu để thấy được những gió khăn, thiếu thốn đủ bề của người lính trong kháng chiến, ý chí vượt qua hoàn cảnh vì ngày mai tươi sáng của cả dân tộc.

“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”

  • Giếng nước gốc đa ẩn dụ cho những người thân nơi quê hương. Người lính quyết tâm ra đi nhưng vẫn biết người ở nhà nhớ thương mình. Vậy nên đây là tình cảm song song hai chiều, người thân nhớ người lính và người lính nhớ quê nhà. Gợi liên tưởng đến bài thơ Đất nước của tác giả Nguyễn Đình Thi:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”

  • Khi phân tích hình ảnh thơ về bệnh sốt rét, có thể liên hệ với câu thơ trong Tây Tiến của Quang Dũng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”

  • Cảnh thiếu thốn của các chiến sĩ cũng được chính tác giả Chính Hữu nói đến trong bài “Ngày về”:

“Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”

Tham khảo mẫu 🌸 Dàn Ý Bài Đồng Chí 🌸 cho bài văn phân tích, liên hệ hay nhất!

Những Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Đồng Chí Hay Nhất

Tuyển tập các bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài “Đồng chí” hay nhất mà SCR.VN đã tuyển tập và biên soạn dưới đây!

Liên Hệ Bài Đồng Chí Ngắn Gọn

Dưới đây là bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài “Đồng chí” ngắn gọn mà bạn nên dành thời gian tham khảo!

Hình ảnh người lính trong những buổi đầu nhập ngũ với vẻ bỡ ngỡ, rụt rè, những nỗi lo lắng khi xa gia đình, quê hương đã được thể hiện thật chân thật trên trang thơ của Chính Hữu. Vượt lên trên hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn đủ bề người lính vẫn yêu thương và dành cho nhau những tình cảm thật nồng ấm, chân thành của tình đồng đội, đồng chí.

Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Người lính trên trang thơ của Chính Hữu có xuất thân là những người nông dân áo vải. Họ đến từ nhiều miền quê khác nhau, quê anh là vùng đồng bằng nước mặn đồng chua khó canh tác, quê tôi là trung du miền núi, đất cày sỏi đá khó trồng trọt.

Hoàn cảnh sống của chúng ta thật giống nhau, khó khăn thiếu thốn đủ bề là thế, tôi với anh là những người nông dân chân lấm tay bùn, theo tiếng gọi của Tổ quốc lên đường để đánh giặc, thế nên chúng ta có những điểm thật tương đồng, dễ dàng để thông cảm và hiểu nhau.

Từ hình ảnh những người lính áo vải trên trang thơ của Đồng Chí làm người đọc liên tưởng đến hoàn cảnh người lính trên thơ của Chế Lan Viên

“Ôi, gió Lào ơi! Ngươi đừng thổi nữa
Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ
Những đồi sim không đủ quả nuôi ngươi”

Để thấy điểm chung nhất quán của họ là đều là những người lính áo vải, đến từ nhiều vùng quê nghèo khó trên nước ta. Đất đai khó canh tác nên đời sống của họ bấp bênh, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời quanh năm suốt tháng mà cũng chẳng đủ ăn. Hoàn cảnh khó khăn ấy dường như cũng là cái cớ để họ dễ đồng cảm, dễ hiểu nhau hơn:

Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

Nếu ở trên anh với tôi còn xa lạ, cách xa nhau thì đến đây anh với tôi đã đứng cùng nhau, khăng khít hơn, thân quen hơn, thành một khối thống nhất không thể tách rời:

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!

Hai tiếng đồng chí đứng tách riêng thành một dòng thơ, đầy dõng dạc và tự hào. Đó là sự đúc kết của cả một hành trình dài, từ buổi đầu gặp mặt chưa thân quen, chưa hiểu nhau, còn bỡ ngỡ xa lạ, cho đến khi cùng nhau san sẻ miếng chăn sui, bát cơm sẻ nửa, và cuối cùng cùng nhau ngồi trên chiến hào chờ giặc tới. Đồng chí! hai tiếng thiêng liêng ấy là sự nhận thức, kết tinh cao đẹp của tinh thần đồng đội, đầy tự hào.

Hình ảnh ở cuối bài thơ:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Gợi nhớ cũng một màn sương trong thơ Việt Bắc của Tố Hữu:

” Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng. “

Thiếu thốn và khó khăn trong những buổi đầu chiến đấu thật không thể đếm xuể, thế nên mới có cái cảnh:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.

Những cơn sốt rét rừng hành hạ khiến thân thể người lính hao mòn đã được thể hiện chân thật trên thơ của Chính Hữu và rất nhiều những nhà thơ cùng thời khác như Quang Dũng với Tây Tiến, Tố Hữu với Việt Bắc… Những người lính đã chiến đấu trong hoàn cảnh thật khắc nghiệt, đêm sương muối rơi lạnh buốt ở rừng hoang, cái lạnh không chỉ thấu vào da thịt mà còn buốt đến tận óc, tận tim. Thật may mắn là những người lính sát cánh bên nhau, san sẻ cho nhau tình cảm, tình đồng chí ấm áp, nâng đỡ nhau để xua tan đi cái lạnh giá của mùa đông, cùng nhau hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ mục tiêu.

Đồng chí của Chính Hữu đã tạc vào lịch sử hình ảnh tuyệt đẹp về những người lính trong kháng chiến chống thực dân Pháp buổi đầu. Đó là vẻ đẹp chân chất, khoẻ khoắn, lạc quan của những người lính xuất thân áo vải. Người đọc hôm nay vô cùng tự hào về vẻ đẹp của những người lính ấy, những con người đã làm nên lịch sử hào hùng của một thời đã qua.

Trọn bộ 🌸 Phân Tích 7 Câu Thơ Đầu Bài Đồng Chí  🌸 đặc sắc!

Liên Hệ Bản Thân Đồng Chí Sáng Tạo

Gợi ý cho bạn bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài “Đồng chí” với các bài thơ khác một cách sáng tạo, xem thêm bên dưới:

Đồng chí là một bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Chính Hữu và của thơ ca Việt Nam hiện đại. Hễ nói tới thơ Chính Hữu là người ta không thể không nghĩ đến Đồng chí.

Đồng chí là bài thơ ca ngợi một tình cảm mới, quan hệ mới giữa người với người trong cách mạng và kháng chiến. “Đồng chí” trong ngôn ngữ sinh hoạt chính trị và đời thường đã trở thành tiếng xưng hộ quen thuộc, khi cái lí tưởng cách mạng đoàn kết, gắn bó mọi người đã bắt rễ sâu vào đời sống. Nhưng mấy ai đã cảm nhận được nội dung tình cảm phong phú mới mẻ chứa đựng trong hai tiếng ấy?

Để làm hiện lên nội dung mới lạ trong những từ quen thuộc, nhà thơ phải dùng phép “lạ hóa”. Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ bắt đầu từ những cái khác biệt và xa lạ. Đây là lời của những người đồng chí tự thấy cái lạ của mình:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi hai đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

Mỗi người một quê, đất đai canh tác khác nhau, tập quán, phong tục hẳn là cũng khác. Miền biển nước mặn, đất phèn. Vùng đồi trung du, đất ít hơn sỏi đá. Nhưng con người tự nhận là xa lạ, cách nhau cả một phương trời và chẳng hò hẹn quen nhau. Ấy thế mà có một sức mạnh vô song, vô hình biến họ thành đôi tri kỉ.

Hai chữ “đồng chi!” đứng riêng thành một dòng thơ là đều rất có ý nghĩa. Nó nâng cao ý thơ đoạn trước và mở ra ý thơ đoạn sau. “Đồng chí” là cái có thể cảm nhận mà không dễ nói hết.

Những câu thơ chia thành “anh, tôi” nhưng giữa họ đều là chung cả. Bây giờ họ chia sẻ với nhau những tình cảm quê hương và gia đình. Đối với giờ họ chia sẻ với nhau những tình cảm quê hương và gia đình. Đối với các chàng trai áo nâu ra trận lần đầu nhớ nhà là nỗi niềm thường trực:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Đối với người nông dân, làm ruộng là quan trọng nhất, nhưng việc ấy đành nhờ bạn thân làm hộ. Gian nhà tổ ấm cũng đành chịu hi sinh “..mặc kệ gió lung lay”. Câu thơ ngang tang, đượm chất lãng mạn như muốn nâng đỡ con người vượt lên cái bất đắc dĩ của hoàn cảnh. Thử hỏi ai có thể “mặc kệ” để cho gió làm xiêu đổ nhà mình? Đó là một thoáng tếu nhộn làm se lòng người. hai dòng thơ ấy đầy ắp nỗi nhớ, mặc dù tới dòng thứ ba thì chữ “nhớ” mới xuất hiện:

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Người lính trong thơ Chính Hữu đã rất nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng họ thương nhất vẫn là người ở nhà nhớ họ, dõi theo tin tức của họ – những người ở nơi nguy hiểm. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” thật đậm đà, kín đáo và ý nhị làm sao! “Giếng nước” là nơi dân làng gặp gỡ khi sáng, chiều. “Gốc đa” là nơi dân làng nghỉ ngơi những khi trưa nắng. Những lúc ấy họ sẽ hỏi thăm những người trai ra trận.

Bảy dòng cuối của đoạn thơ dành nói riêng về nỗi gian khổ. Cái gian khổ của bộ đội trong buổi đầu kháng chiến đã được nói đến rất nhiều. Thôi Hữu trong bài Lên Cấm Sơn đã có những câu thơ thật cảm động về những người “đem thân xơ xác giữ sơn hà”:

Cuộc đời gió bụi pha sương máu
Đợt rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đầu còn tươi nữa, những ngày hoa
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà.

Quang Dũng cũng có những câu trong bài Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Chính Hữu không nói về cái khổ mà nói về sự hiểu nhau trong cái khổ, cái chung phổ biến giữa họ với nhau:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Trong kháng chiến, ở chiến khu, bệnh sốt rét cơn là phổ biến nhất. hai câu thơ nêu đủ các triệu chứng của bệnh sốt rét cơn. Những ai nhiễm bệnh, thoạt đầu cảm thấy ớn lạnh, sau đó liền cảm thấy lạnh tới người run cầm cập, đắp bao nhiêu chăn cũng không hết rét, trong khi đó thân nhiệt lên cao tới 40, 41 đọ, người vã mồ hôi vì nóng và vì yếu. Phải trải qua bệnh này mới hiểu hết cái thật của câu thơ. Sau cơn sốt đó là da xanh, da vàng, viêm gan, viêm lá lách …

Ngoài cái khổ về bệnh là cái khổ về trang bị. Những ngày đầu kháng chiến, chưa có đủ quần áo quần đồng phục phát cho bộ đội. Người lính mang theo áo quần ở nhà đi chiến đấu, khi rách thì vá víu, có người còn không có kim chỉ để vá, lấy dây mà buộc túm chỗ rách lại, người ta gọi đùa là “vệ túm”. Ở đây anh rách, anh vá thông cảm nhau.

Nếu đoạn một nói về sự hình thành tình cảm đồng chí, đoạn hại nói về tình cảm hiện đại, thì đoạn ba nói về hành động chiến đấu của họ:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

Từ nhận thức chung, tình cảm chung, bài thơ kết vào hành động. Thời gian không gian trở nên cụ thể, công việc cụ thể nhưng không vì thế mà sự việc thay thế chất thơ. Câu kết bài thơ là một hình ảnh nổi tiếng cô đọng, ý vị:

Đầu súng trăng treo

Một hình ảnh bất ngờ, “Súng” và “trăng” là hai vật cách xa nhau trong không gian, lại chẳng có gì chung để liên tưởng. “Đầu súng” chiến đấu của người đồng chí có thêm mặt trăng đã mở ra biết bao liên tưởng phong phú. Đồng thời câu thơ bốn tiếng cũng như nén lại, dồn vào bên trong tạo thành cái kết không lời. Đoạn một và hai toàn những lời tâm sự. Đoạn cuối là bức tranh cổ điển, hàm súc dư ba.

Muốn làm văn liên hệ hay, bạn cần biết cách 🌸 Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí 🌸 chi tiết!

Liên Hệ Bài Đồng Chí Với Bài Tiểu Đội Xe Không Kính Ngắn Nhất

SCR.VN chia sẻ đến bạn bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài “Đồng chí” với “Tiểu đội xe không kính” ngắn gọn nhất, xem ngay bên dưới nhé!

Thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ là thế hệ sống rất đẹp, rất anh hùng. Họ ý thức sâu sắc về sứ mệnh lịch sử của mình, trong gian khổ, hy sinh vẫn phơi phối lạc quan. Như lời nhà thơ Tố Hữu, họ là thế hệ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Chính vì vậy, mãi mãi các thế hệ tuổi trẻ Việt Nam vẫn tự hào, khâm phục và biết ơn.

Những người lính trong bài thơ “Đồng chí” cho thấy hình ảnh người lính trong thời kỳ chống Pháp nổi bật với lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ sống lạc quan, có tình đồng chí, đồng đội keo sơn, thắm thiết, thái độ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, một lòng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.

Người lính trong bài thơ “Đồng chí” xuất thân là những người nông dân, từ thân phận nô lệ nghèo khổ mà đi vào kháng chiến với muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Họ đến với cách mạng bằng niềm tin và hi vọng có thể tự giải phóng mình ra khỏi kiếp đời nô lẹ, lầm than.

Liên hệ với người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, người lính đi vào cuộc chiến đấu với ý thức giác ngộ lý tưởng cách mạng gắn với độc lập, tự do của tổ quốc gắn với chủ nghĩa xã hội. Họ hầu hết là những chàng trai trẻ tuổi Hà Nội, bỏ lại sau lưng cuộc sống tươi đẹp dấn thân vào chiến trường gian khổ, cùng nhân dân miền Nam chống Mỹ cứu nước.

Họ có ý thức sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ mình. Họ sống trẻ trung, yêu đời, lạc quan, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng. Hình ảnh của họ được thể hiện trong một thời điểm quyết liệt và khẩn trương hơn. Đó là một thế hệ anh hùng, hiên ngang, mạnh mẽ.

Dù ở hai thời đại khác nhau, người lính trong hai bài thơ đều là những đại diện tiêu biểu cho ý chí chiến đấu, tinh thần xả thân vì đất nước, quyết chiến đấu, hi sinh vì nền độc lập, tự do của nước nhà. Họ là những anh hùng, mang trong mình khát vọng và niềm tin của cả dân tộc.

Xem thêm 🌹 Tóm Tắt Đồng Chí 🌹 15 Mẫu Tóm Tắt Bài Thơ Hay

Liên Hệ Bài Đồng Chí Với Tây Tiến Đặc Sắc

Nếu vẫn chưa biết cách làm bài văn liên hệ mở rộng bài “Đồng chí” với “Tây Tiến” thì xem thêm mẫu đặc sắc dưới đây!

Chính Hữu nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, các tác phẩm của ông tập trung miêu tả về người lính và chiến tranh. Số lượng tác phẩm của ông để lại không nhiều, nhưng chỉ với bài thơ Đồng chí cũng đã đủ để khẳng định vai trò, vị trí của ông trong nền văn học dân tộc.

Bảy câu thơ đầu, tác giả nêu lên cơ sở của tình đồng chí. Trước hết họ có chung nhau hoàn cảnh xuất thân: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Anh và tôi có cùng cảnh ngộ xuất thân, chúng ta đều đến từ những miền quê nghèo khó. Vì đất nước bị xâm lược, tôi và anh từ những người xa lạ cùng kề vai sát cánh bên nhau chiến đấu bảo vệ tổ quốc.

Chính Hữu cũng thật tinh tế, ông không dùng chữ “hai” mà dùng chữ “đôi”, chữ hai gợi nên khoảng cách, sự xa lạ giữa hai con người, nhưng chữ đôi lại không như vậy. Đôi gợi lên sự gắn kết, hòa hợp với nhau, qua đó khẳng định sự gắn bó, bền chặt giữa những người đồng đội. Không chỉ chung về hoàn cảnh xuất thân, họ còn cùng chung nhiệm vụ, mục đích và lí tưởng chiến đấu :

   Súng bên súng đầu sát bên đầu

Súng là tượng trưng cho quá trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc, còn đầu tượng trưng cho mục đích, lí tưởng chiến đấu. Như vậy, những người lính dù có hoàn cảnh xuất thân khác nhau, nhưng ở họ đều ngời sáng tinh thần yêu nước. Họ chiến đấu để bảo vệ quê hương, chiến đấu để bảo vệ làng xóm thân thương của mình.

Câu thơ “Đồng chí” có thể coi là bản lề khép mở giữa hai khổ thơ, khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí và mở ra những biểu hiện cao đẹp của thứ tình cảm thiêng liêng ấy. Họ ra đi từ những miền quê khác nhau, nhưng họ đều hiểu về những tâm tư tình cảm của nhau, bởi đó cũng chính là tâm sự của họ: “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay/ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.

Trong chiến trường ác liệt, gian lao họ còn đồng cảm cộng khổ, cùng nhau vượt qua mọi khắc nghiệt của hoàn cảnh. Đó là những cơn sốt rét rừng đã cướp đi sinh mạng của biết bao người lính, đã từng được Quang Dũng tái hiện lại trong bài thơ Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
   Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
….
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

Trong những năm chiến tranh, sốt rét rừng là nỗi ám ánh với tất cả binh lính, nhưng “anh với tôi” vẫn bên nhau để cùng vượt qua cái “sốt run người”. Họ còn cùng nhau vượt qua những thiếu thốn, khó khăn : áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày. Cuộc sống của họ thiếu thốn đủ đường, nhưng nhờ tình cảm đồng đội họ đã vượt qua tất cả những gian khổ đó để bảo vệ tổ quốc.

Hình ảnh “tay nắm bàn tay” thật đẹp đẽ, chất chứa biết bao yêu thương, trìu mến, họ luôn bên nhau sẵn lòng chia sẻ mọi khó khăn, thiếu thốn. Tình cảm nồng đậm, ấm áp chân thành đó đã sưởi ấm tâm hồn họ, nâng bước họ trên con đường chiến đấu bảo vệ tổ quốc.

Ba câu thơ cuối hoàn chỉnh bức tranh đẹp đẽ về tình cảm đồng chí, đồng đội :

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

Bức tranh được tác giả xây dựng trên một không gian vô cùng khắc nghiệt: đêm đã về khuya, sương ngày một xuống dày, cảnh vật trở nên hoang vu, lạnh lẽo. Trong khung cảnh ấy, họ đứng cạnh nhau chờ giặc tới, tư thế của họ thật hiên ngang, chủ động, sẵn sàng nghênh chiến bất cứ lúc nào với kẻ thù.

Hình ảnh “đầu súng trăng treo” vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Đây trước hết là hình ảnh thực về những đêm canh gác ở rừng, trăng xuống thấp như treo trên đầu mũi súng. Nhưng ngoài ra, trăng là biểu tượng cho hòa bình, súng là biểu tượng cho chiến đấu.

Bằng những lời thơ chân thành, tha thiết, Chính Hữu đã tái hiện thành công tình cảm đồng chí, đồng đội bình dị mà sâu sắc. Khắc họa vẻ đẹp của những người lính nông dân trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp : họ luôn kề vai sát cánh bên nhau, vượt qua mọi khó khăn, thử thách của hoàn cảnh để bảo vệ đất nước.

Gợi ý bài 🌸 Cảm Nhận Bài Thơ Đồng Chí Chính Hữu 🌸 ý nghĩa!

Liên Hệ Đồng Chí Với Những Ngôi Sao Xa Xôi Hay Nhất

Chia sẻ đến độc giả bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài “Đồng chí” với “Những ngôi soa xa xôi” hay nhất mời các bạn cùng xem:

Tác giả Chính Hữu được biết đến với phong trào thơ ca yêu nước thời chống Pháp. Với lời thơ chân thực, giản dị mà sâu lắng, vừa là một trang sử hào hùng, vừa như một khúc ca trầm lắng đi sâu vào lòng người. Tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu ra đời năm 1948 kể về tình đồng chí đồng đội giản dị mà sâu đậm, thắm thiết, vượt lên trên mọi gian khó của những người chiến sĩ cách mạng lúc bấy giờ.

Ngay từ đầu, tác giả đã vẽ lên hình ảnh người bộ đội cụ Hồ giản dị, mộc mạc nhưng giàu tình cảm. Đức tính thiêng liêng cao đẹp của những người đồng chí, đồng đội trong những hoàn cảnh gian nguy. Dường như, ở mọi miền quê, mọi miền trên tổ quốc, các anh như hội tụ về cùng một nơi, ở đó họ có chung kẻ thù, chung lý tưởng sống và sẵn sàng hy sinh cho những lý tưởng cao đẹp ấy. Từ những con người xa lạ, bỗng chốc họ trở nên thân thiết:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, chung một mục đích sống, chung lý tưởng cách mạng, họ đã khoác lên mình khẩu súng của tự do, vũ khí của lòng trung kiên, bất khuất:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí”

Hai câu thơ gợi cho chúng ta hình ảnh hai người lính cầm chắc tay súng, đứng sát bên nhau, mắt nhìn xa xăm trong khoảng không giữa đêm tối. Họ đang canh gác, nhiệm vụ hết sức nguy hiểm. Rồi từ những gian khó ấy, những con người xa lạ bỗng chốc trở thành những người bạn, rồi thành “đôi tri kỉ’, cùng nhau sẻ chia sẻ chút ngọt bùi, ấm nồng trong đêm giá buốt “đêm rét chung chăn”. Cụm từ “Đồng chí” nghe thật thân thiết và gần gũi, không còn từ ngữ nào có thể diễn tả được cảm xúc ấy, như bị dồn nén rồi chợt cất lên một cách vội vàng, đầy bồi hồi tha thiết.

Và trong cuộc chiến khốc liệt ấy, các anh phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn, gian khổ và cả những hiểm nguy. Có biết bao người đã phải ngã xuống, góp một phần máu xương cho đất nước, cho những người ở lại thay họ tiếp tục chiến đấu. Dù vậy, tinh thần lạc quan vẫn luôn trong họ:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”

Mặc dù phải đối mặt với những gian nguy như vậy, nhưng nụ cười vẫn nở trên môi các anh, một tinh thần lạc quan, vững chãi không chút lay động. Tác giả Chính Hữu đã khắc họa lên một hình ảnh giản dị, nhưng đẹp và sáng vô cùng “miệng cười buốt giá”. Dường như nụ cười ấy xua tan đi tất cả, nó như một lời động viên, một nỗ lực sống và chiến đấu đầy mãnh liệt.

Tình đồng đội đồng chí trong bài thơ khiến chúng ta nhớ đến tình đồng chí của Phương Định, Nho và chị Thao trong “Những ngôi sao xa xôi”. Họ cũng là những người con từ mọi miền đất nước nghe theo tiếng gọi Tổ quốc mà lên đường, từ những người xa lạ trở thành đồng chí, đồng đội.

Khác với công việc của các anh lính trong “Đồng chí”, các cô gái trong “Những ngôi sao xa xôi” họ làm công việc rà phá bom trên cao điểm. Ngày ngày đối mặt với tử thần, nhưng họ vẫn sát cánh cùng nhau làm nhiệm vụ. Khi Nho bị thương trong 1 lần phá bom, Phương Định và chị Thao đã không ngừng chăm sóc và lo lắng, cũng giống như ““Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh/Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”

Bài thơ “Đồng chí” khép lại với hình ảnh “Đầu súng trăng treo” để lại cho chúng ta cảm xúc bồi hồi, đầy cảm phục về người bộ đội cụ Hồ trước những chông gai, nhọc nhằn. Đồng thời, cũng là những hình ảnh giản dị, mộc mạc mà trong đó là cả một tâm hồn lãng mạn, đẹp đẽ. Bài thơ “Đồng chí” như tái hiện lại cuộc chiến gian khổ đầy đau thương, mất mát một cách chân thực, đó là tinh thần sắt đá, là dòng huyết quản sôi sục, là sự sẻ chia, chung vai của những người đồng chí, đồng đội.

Đọc thêm mẫu 🌸 Mở Bài Đồng Chí  🌸 hấp dẫn nhất!

Liên Hệ Đồng Chí Với Việt Bắc Nâng Cao

Gợi ý bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài “Đồng chí” với bài “Việt Bắc” nâng cao, xem ngay bên dưới:

Đề tài người lính là một trong các đề tài quen thuộc trong thơ ca kháng chiến, mỗi nhà thơ bằng sự trải nghiệm và sự nhìn nhận riêng của mình đã khám phá ra những vẻ đẹp khác nhau của anh bộ đội cụ Hồ.

Nếu trong “Tây Tiến” (Quang Dũng) ta bắt gặp vẻ đẹp hòa hùng mà hào hoa, thanh lịch của những chàng trai ra đi từ đất Hà thành; trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật) ta bắt gặp vẻ phong trần, tinh nghịch mà vô cùng mạnh mẽ của những người lính lái xe thì đến với “Đồng chí” của Chính Hữu, người đọc ấn tượng bởi những nét đẹp giản dị, đời thường, thấm đượm tình cảm đồng chí, đồng đội sâu sắc của những người lính chống Pháp từ những buổi đầu kháng chiến.

Bài thơ được viết vào khoảng đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông. Qua bài thơ, người đọc thấy được tình cảm đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó mặn nồng.

Trước hết bảy câu thơ đầu là cơ sở hình thành nên tình đồng chí, đồng đội của những người lính chống Pháp. Có thể nói, đến với bảy câu thơ mở đầu này, người bắt gặp một định nghĩa rất riêng của nhà thơ về hai chữ “đồng chí”. Đầu tiên, với Chính Hữu, tình đồng chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân:

Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Lời thơ mộc mạc, giản dị, chân thành, đã cho thấy những người lính, họ đều xuất thân từ những người nông dân chân nấm tay bùn, vất vả và nghèo khó. Đó là xuất phát điểm về hoàn cảnh xuất thân và cuộc sống của những chàng trai nông dân nghèo khó, lam lũ, cực nhọc. Và cũng nhờ có điểm chung gặp gỡ giống nhau ấy, là cơ sở ban đầu để hình thành trong họ tình đồng cảm, hữu ái giai cấp, tạo tiền để làm nên tình đồng chí, đồng đội, gắn bó keo sơn.

Mặc dù, họ cách xa nhau về không gian địa lí, một người vùng biển, một người miền núi cao nhưng họ có cùng chung chí hướng, lí tưởng cách mạng cao đẹp:

Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

Đang quen tay cuốc, tay cày nhưng khi đất nước có giặc ngoại xâm, những người nông dân như vươn lên thành những tráng sĩ. Họ cùng nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, lời vẫy gọi thiết tha của đất nước thân thương đang lâm nguy, họ gác lại tất cả mà vác ba lô, vác súng ra chiến trường chiến đấu. Vì thế, họ lại gặp chung một lí tưởng cách mạng, một mục tiêu chiến đấu thiêng liêng: tình yêu tổ quốc và niềm khát khao đất nước được hòa bình, độc lập.

Súng bên sung, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!

Từ hai con người vốn chẳng hề thân quen, nay cùng chung lí tưởng cách mạng mà gặp gỡ, từ đó mà làm nên tình đồng chí. Một lí do rất đơn giản nhưng lại rất thiêng liêng và cao cả. Bởi tình cảm đồng chí ấy được chấp cảnh bởi lí tưởng và khát vọng cao đẹp của tình yêu đất nước. Và cũng từ đó,tình đồng chí bắt đầu nảy nở và trở nên bền chặt, keo sơn trong chiến đấu và cuộc sống có chiến tranh.

Chính sự sẻ chia, đồng cam cộng khổ ấy đã tạo nên hơi ấm để xua tan đi cái lạnh lẽo, cái khắc nghiệt, khó khăn của cuộc đời người lính, giúp họ gắn kết với nhau mà vượt lên gian khó, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà lịch sử đang giao phó:

“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
(Việt Bắc – Tố Hữu)

Tất cả những hành động và tình cảm chân thành ấy đã làm nên những người bạn “tri kỉ” tri âm mà cao hơn là tình đồng chí, đồng đội bền chặt, thiêng liêng.

Nếu như bảy câu thơ đầu, Chính Hữu chỉ ra cơ sở để hình thành nên tình đồng chí, đồng đội thì những câu thơ tiếp theo, tác giả tiếp tục chỉ ra những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội. Không chỉ chia sẻ với nhau những chuyện riêng tư, nỗi nhớ nhung về quê hương, người thân, người lính còn sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau trong lúc hoạn nạn khó khăn:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Khép lại bài thơ, ba câu thơ cuối vừa giàu chất hiện thực, lại vừa đậm đà chất lãng mạn bay bổng, vừa gợi tả bức tranh không gian toàn cảnh của núi rừng, lại vừa đặc tả tình cảm ấm áp của những người lính trong chiến tranh. Đây là biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí, đồng đội. Đồng chí là cùng chung chiến hào:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

Đó là khoảng thời gian “đêm nay” rất cụ thể với khung cảnh “rừng hoang – sương muối” hiu quạnh, lạnh lẽo và khắc nghiệt. Tuy nhiên, người lính vẫn đứng cạnh bên nhau để “chờ giặc tới”. Động từ “chờ” cho thấy được tư thế chủ động và hết sức đề cao cảnh giác của người lính trong khi làm nhiệm vụ.

Trên cao là ánh trăng treo lơ lửng trên bầu trời, dưới cái nhìn lãng mạn hóa của Chính Hữu, ánh trăng như đang treo ở đầu mũi súng. Và “Trăng” theo đó như trở thành người bạn vừa chứng minh cho tình cảm đồng chí keo sơn của người lính, vừa soi sáng và sưởi ấm cho không gian của rừng đêm sương muối lạnh lẽo bên trên.

Hình ảnh “súng – trăng” được đặt cạnh bên nhau khiến người đọc có nhiều liên tưởng: giữa thực tại – mơ mộng; chiến tranh – hòa bình; chiến sĩ – thi sĩ. Sự đan cài giữa hiện thực và lãng mạn ấy vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh khó khăn, vất vả; lại vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính: họ vừa là chiến sĩ lại vừa là thi sĩ, họ cầm súng chiến đấu để bảo vệ quê hương, đem lại nền độc lập , tự do cho Tổ quốc thân yêu.

Tóm lại, với một ngôn ngữ thơ hàm súc, cô đọng, giàu sức biểu cảm, lời thơ giản dị mà giàu sức tạo hình; giọng điệu tâm tình, nhẹ nhàng, thiết tha, sử dụng sáng tạo bút pháp tả thực và lãng mạn, Chính Hữu đã khắc họa thành công vẻ đẹp chân chất, mộc mạc, bình dị của người lính cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ là một trong những thành công sớm nhất của thi ca cách mạng Việt Nam viết về bộ đội. Khép lại trang thơ, bức tượng đài người chiến sĩ với tình cảm đồng chí, đồng đội cứ dội lên trong tâm trí độc giả với lòng biết ơn sâu sắc sự hi sinh lớn lao vì hòa bình đất nước của các anh. Từ đó, ta mới thấy hết được trách nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ và phát triển quê hương, dân tộc mình.

Bạn đã biết cách viết 🌸 Kết Bài Đồng Chí 🌸 thú vị chưa!?

Liên Hệ Đồng Chí Với Đất Nước Học Sinh Giỏi

Dưới đây là mẫu bài văn liên hệ mở rộng bài thơ “Đồng chí” với bài “Đất nước” dành cho học sinh giỏi mà bạn nên dành thời gian tham khảo!

Trong bài thơ Đất nước Nguyễn Đình Thi đã viết:

Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng

Hình ảnh người chiến sĩ áo vải hiện lên vô cùng đẹp đẽ. Họ – những con người bình dị, mộc mạc, nhưng chính họ là người đã làm nên đất nước. Trong dòng chảy văn học kháng chiến chống Pháp, hình ảnh người lính không ngang tàng, hóm hỉnh như kháng chiến chống Mĩ, nhưng lại mang trong mình nét chất phác, giản dị và hơn hết là tình yêu đất nước tha thiết. Vẻ đẹp tâm hồn đó đã đã Chính Hữu khắc họa rõ nét trong bài thơ Đồng chí.

Đồng chí vừa là những nét vẽ rất thực về cuộc sống, chiến đấu của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Nhưng đằng sau những nét vẽ chân thực đó lại là một tâm hồn vô cùng lãng mạn, dù cái lãng mạn chỉ mới phảng phất, nhưng cũng đủ để cho người đọc cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp tâm hồn của người lính.

Cả tác phẩm như một câu chuyện kể về cuộc đời người lính, nhưng không phải bằng lời văn xuôi mà bằng chính những dòng thơ thấm đẫm cảm xúc. Lời thơ mộc mạc, giản dị và chân thành đã đưa người đọc khám phá cuộc sống chiến đấu, cũng như tâm hồn của họ. Mở đầu bài thơ là những hình ảnh rất chân thực về nguồn gốc xuất thân của người lính nông dân:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

Họ vốn từ nhiều miền quê khác nhau, người nơi miền chiêm trũng “nước mặn đồng chua”, người lại từ miền đồi núi “đất cày lên sỏi đá” tụ hợp về chung một nơi. Điều gì đã khiến họ rời bỏ quê hương, để đến đây, đó chẳng phải là tình yêu làng, yêu nước nồng nàn đó sao. Từ đôi đến tri kỉ, rồi đến đồng chí là cả một quá trình thấu hiểu lẫn nhau. Kết lại bảy câu thơ đâu, hai tiếng vang lên đầy ám ảnh, ý nghĩa:

    Đồng chí!

Đồng chí là một khái niệm mới, để nói về những con người cùng chung mục đích, lí tưởng. Và ở họ sau những tháng ngày chiến đấu gian khổ, cùng mang nỗi niềm, lí tưởng, đọng lại, kết tinh lại chính là tình đồng chí bền chặt, sâu sắc. Tình đồng chí ấy không chỉ được gây dựng trên cơ sở tình cảm mà còn được gây dựng trên cơ sở cùng chung giai cấp, mục đích, lí tưởng.

Đằng sau chất hiện thực sống, là hình ảnh vô cùng lãng mạn về người lình:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

Câu thơ vừa mang nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng, đầy lãng mạn. Trong đêm phục kích chờ giặc, ông chỉ có những người bạn chiến đấu, khẩu súng và vầng trăng, Trời về khuya, có lúc nhìn lên, trăng như treo đầu ngọn súng. Từ thực tế đó, ông đã viết nên hình ảnh “đầu súng trăng treo”.

Súng là hình ảnh của chiến tranh khói lửa, trăng là hình ảnh của thiên nhiên trong mát, cuộc sống thanh bình. Sự hòa hợp của trăng và súng toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính và tình đồng chí của họ, vừa nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước: Người lính cầm súng là để bảo vệ cho độc lập, tự do của đất nước. Trăng và súng là gần và xa, là chiến sĩ và thi sĩ, là hiện thực và lãng mạn. Tất cả hòa quyện tạo nên vẻ đẹp của người lính, đời lính.

Bằng những vần thơ vừa giàu chất hiện thực, vừa thấm đẫm chất lãng mạn, Chính Hữu đã khắc họa thành công hình ảnh người lính vừa giản dị, mộc mạc vừa anh hùng, dũng cảm. Họ là những người chiến sĩ quả cảm, đem hết tuổi trẻ và sức lực để cống hiến cho tổ quốc, cho sự bình yên của quê hương, đất nước.

Tặng bạn 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼

Liên Hệ Đồng Chí Với Làng Đơn Giản

Dành tặng bạn mẫu liên hệ “Đồng chí” với “Làng” đơn giản nhất mà bạn có thể lưu làm tư liệu tham khảo!

Chính Hữu là một trong những nhà thơ xuất sắc trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Trong số những tác phẩm của ông, có một bài thơ đã gây nên tiếng vang lớn trong lòng độc giả, bởi những xúc cảm dạt dào, chân thực giữa những người lính, những người đồng đội. Đó là bài thơ đồng chí. Qua vần thơ, lời thơ bình dị, bài thơ đã thể hiện tình cảm gắn bó, tình đồng đội giữa những người chiến sĩ, qua đó ngợi ca tình cảm cao đẹp ấy.

Những người lính vốn là những chàng trai khoẻ mạnh vốn chỉ quen với việc đồng áng, cấy cày. Họ đến từ những vùng quê khác nhau, những vùng miền xa xôi, hẻo lánh. Vì chung nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, quê hương, chung tình yêu đất nước, họ không hẹn mà gặp nhau, quen nhau và gắn bó với nhau. Chính Hữu đã kể lại cuộc gặp gỡ ấy như một lời kỉ niệm, hồi tưởng đẹp, giản dị và xúc động:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,

Thật lạ kì! Tình cảm của những con người ấy được tạo nên từ sự tình cờ, chẳng hẹn quen nhau. Họ đều chiến đấu vì muốn thoát khỏi cái đói, cái khổ của những người dân bị áp bức, bóc lột.

Mảnh đất đã nuôi dưỡng họ lớn lên đều bị bủa vây bởi khốn khó; những nương rẫy nước mặn đồng chua, vùng làng quê đất cày lên sỏi đá. Từ sự xa lạ ban đầu giữa đôi người ấy, họ đã quen nhau, gắn bó với nhau, gọi nhau là đồng chí. Đôi người – hai con người – cách dùng từ của tác giả đã làm nổi bật lên cả đoạn thơ – tưởng chừng như số phận định mệnh, ngay từ đầu đã báo trước một tình cảm nảy nở khăng khít trong chiến đấu:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!

Hình ảnh súng bên súng, đầu sát bên đầu vừa tả thực, vừa mang tính tượng trưng. Nó không chỉ vẽ lên hình ảnh hai con người cùng kề vai sát cánh mà còn gợi ra trong lòng người đọc lí tưởng cao đẹp: mục đích chung không của riêng ai mà là khát vọng tự do của cả một dân tộc.

Từ việc cùng chung lí tưởng, qua gian khổ, thiếu thốn, tình cảm đã nảy sinh giữa đôi người xa lạ ấy. Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ là một hình ảnh chân thực mà cảm động lạ kì… Đâu cần phô trương, đâu cần sự gắn kết gì cao xa, chỉ cần qua gian khổ, giữa con người cũng có thể thành tri kỉ.

Giọng thơ đột ngột bị ngắt nhịp bởi hai tiếng gọi thân thương: Đồng chí! Dường như đó là tiếng gọi thốt ra từ trái tim, từ xúc cảm tha thiết, thân thương giữa những người đồng đội. Câu thơ đã làm nên một nút thắt đặc biệt, một điểm nhấn, một nét chấm phá riêng biệt cho bài thơ. Âm hưởng da diết của tiếng gọi đã làm rung động lòng người: Đồng chí.

Từ việc cùng chung chí hướng – trong gian nan đã tạo nên niềm cảm kích, xúc động chân thành, trong giây lát, tiếng gọi Đồng chí vang lên – phải chăng đó là cung bậc tình cảm cao quí nhất, thiêng liêng nhất sưởi ấm cho trái tim những con người thổn thức nhớ về quê hương?

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà tranh mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Họ tâm tình, kể chuyện cho nhau nghe, về ruộng nương anh, về gian nhà không, giếng nước, gốc đa. Hoài niệm, hồi ức của quê hương ùa về trong tâm trí họ. Để cho ta hiểu rằng, họ bỏ quê hương cũng vì muốn tốt đẹp cho quê hương. Họ đành dứt áo ra đi, mặc kệ tất cả, bỏ lại người thân, gia đình để dấn thân vào cuộc kháng chiến trường kì gian khổ. Lạ lùng thay, cũng chính nơi đây, họ tìm được niềm đồng cảm, sẻ chia và nó cũng chính là động lực giúp họ vượt qua biết bao khó khăn.

Điều này cũng được tác giả Kim Lân thể hiện qua nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng”. Ông Hai yêu làng nhưng trên tất cả vẫn là tình yêu đất nước. Khi nghe tin giặc đốt nhà, ông vui sướng múa cả lên, ông đi khoe với tất cả mọi người “Tây nó đốt nhà tôi rồi… đốt nhẵn!”.

Với người nông dân, căn nhà là cả cơ nghiệp của họ mà cả đời họ làm lụng vất vả mới có được. Nhưng ông Hai không hề tiếc căn nhà của mình bởi nó là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc và trên hết là nó như là sự “đóng góp” của gia đình ông với kháng chiến. Điều đó, một lần nữa càng khẳng định rõ ràng hơn tình yêu làng, tình yêu nước của ông Hai, của các chiến sĩ bỏ lại ruộng nương, mặc kệ gian nhà tranh gió lung lay để lên đường bảo vệ đất nước.

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Những trận sốt rét rừng thâm độc không thể quật ngã ý chí một con người. Bởi bên họ, luôn có sự tương trợ, giúp đỡ, luôn có tình đồng chí thân thương. Và tất cả thiếu thốn trở thành vô nghĩa:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày

Bằng những chi tiết rất thực, tác giả đã tạo nên hình ảnh hai người lính, tuy vất vả, thiếu thốn về vật chất áo rách vai, quần có vài mảnh vá, chân, không giày, nhưng vẫn cười trong cái giá lạnh của nơi rừng thiêng nước độc. Và họ đã sưởi ấm cho nhau, bộc lộ tình cảm với nhau bằng cử chỉ giản dị mà đầy xúc động:

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Chao ôi! Đâu cần vật chất của cải, đâu cần lời hay ý đẹp, những người đồng chí bộc lộ tình cảm với nhau thật chân thành lặng lẽ nắm lấy bàn tay nhau. Chính hơi ấm của đôi bàn tay ấy đã làm nên sức mạnh chiến thắng tất cả.

Kết thúc bài thơ, Chính Hữu thể hiện tình đồng chí qua những câu thơ đầy thi vị.

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau, chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

Cảnh rừng âm u buổi đêm như trở nên lãng mạn, đầy chất thơ, khi mà ở đó có hơi ấm tình người. Đầu súng trăng treo – hình ảnh độc đáo và sáng tạo tuyệt vời. Hình ảnh trăng tròn vành vạnh lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Rất chân thực nhưng cũng rất lãng mạn, hư hư thực thực, một không gian đầy mộng tưởng mà vẫn mang vẻ đẹp tinh thần chiến đấu… Tình đồng chí, đồng đội đang dần toả sáng, rực rỡ trong gian lao chiến đấu.

Toàn bộ bài thơ hàm súc, cô đọng với hình ảnh chân thực, giản dị mà sâu sắc thấm thía. Chính Hữu đã thể hiện thành công tình đồng chí cao đẹp giữa những người lính.

Đọc xong bài thơ, trong lòng độc giả không khỏi xúc động bởi những tình cảm chân thành, sâu lắng. Có thể chính vì lẽ đó, mà bài thơ luôn còn sống mãi với thời gian.

Liên Hệ Đồng Chí Với Ánh Trăng Xuất Sắc

Bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài “Đồng chí” với “Ánh trăng” xuất sắc nhất đã được biên soạn ở bên dưới, mời bạn xem ngay:

Chính Hữu sáng tác ít, nhưng có nhiều bài thơ phổ nhạc hơn bất cứ thi sĩ nào. Đó là nét lạ của thơ Chính Hữu. Hồi nhỏ tôi đã nghe hát “Đồng chí”, rồi thuộc, chưa bao giờ xem lại bài thơ. Gần đây thì tôi mới mở bài thơ ra xem. Mắt vừa chạm vào thơ, tôi đã thấy lạ. Thì ra lâu nay mình chỉ mới thưởng thức phần nhạc của thơ mà ta bỏ quên phần hình của nó.

Câu thơ hai chữ:

Đồng chí!

Gần như đứng giữa bài thơ, riết cái thân bài thơ thành một cái lưng ong. Nửa trên là một mảng quy nạp (như thế này là đồng chí), nửa dưới là một mảng diễn dịch (đồng chí còn là như thế này nữa). Một cấu trúc chính luận cho một bài thơ trữ tình. Lạ!

Chủ đề Đồng chí hiện lên trong từng cấu trúc ngôn ngữ, nghĩa là trong từng tế bào thơ. “Tôi” với “anh” khi được xếp dọc:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Khi thì xếp ngang:

Tôi với anh đôi người xa lạ

Khi thì điệp điệp (nét thẳng của ý chí và nét cong của tình cảm):

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Để đến đêm rét trùm chung cái chăn thì nhập lại thành “đồng chí”. Cái chăn đắp lại thì tâm tư mở ra. Họ soi vào nhau. Anh hiểu tôi, tôi hiểu đến nỗi lòng sâu kín của anh:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giải thích sao đây hai chữ “mặc kệ”? Có giống với thái độ này không:

Người đi, ừ nhỉ, người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say.

Không! Nó đâu có khinh bạc và phiêu du như thế. Ở ngoài mặt trận mà biết gió lay từng gốc cột của ngôi nhà mình thì không còn chữ nào để diễn tả nổi vì tình cảm thiết tha của họ đối với gia đình. Nhưng trước hết phải vì nghĩa lớn. Thái độ hiệp sĩ ấy gần với Hồng Nguyên, gần với Trần Mai Ninh trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp, gắn với Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Trần Quang Long … trong kháng chiến chống Mỹ.

Họ hiểu nhau đến chiều sâu như thế là để nương tựa vào nhau mà đi đến chiều cao này:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo

Chung nhau một cái chăn là một cặp đồng chí, nắm đôi bàn tay mà ấm cả đôi bàn chân là một cặp đồng chí, và đêm nay giữa “rừng hoang sương muối”, “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” là một cặp đồng chí. Lãng mạn thay, súng và trăng cũng là một cặp đồng chí:

Đầu súng trăng treo

Cặp đồng chí này nói về cặp đồng chí kia, nói được cái cụ thể đến vô cùng. Súng và trăng, gần và xa “tôi với anh đôi người xa lạ.Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”; súng và trăng, cứng rắn và dịu hiền; súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ; súng và trăng … là biểu hiện cao cả của tình đồng chí.

Nói về trăng, không thể không nhắc đến bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Bài thơ “Ánh trăng” nằm trong tập thơ cùng tên – tập thơ được tặng giải A của Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1984. Tác phẩm có ý nghĩa triết lý sâu sắc, là lời nhắc nhở về lối sống nghĩa tình, thủy chung với quá khứ gian lao, với thiên nhiên, đất nước và đồng đội.

Nếu trăng trong bài thơ Đồng chí là biểu tượng đẹp của tình đồng chí gắn bó, keo sơn trong cuộc chiến đấu gian khổ ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trăng là hình tượng hiện thực và lãng mạn, là biểu tượng cho cuộc sống hòa bình, là hình ảnh của quê hương đất nước.

Thì ở bài “Ánh trăng” là trăng trong quá khứ: 

“Hồi chiến tranh ở rừng 
Vầng trăng thành tri kỉ

Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”

Trăng khi đó là ánh sáng trong đêm tối chiến tranh, là niềm vui bầu bạn của người lính trong gian lao của cuộc kháng chiến – vầng trăng tri kỉ. Nhân vật trữ tình gắn bó với trăng trong những năm dài kháng chiến. Trăng vẫn thuỷ chung, tình nghĩa.

Ánh Trăng hiện lên đáng giá biết bao, cao thượng vị tha biết chừng nào: 

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Đủ cho ta giật mình”

Trăng tròn vành vạnh là hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ không thể phai mờ. Ánh trăng chính là người bạn nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta: con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.

Với sự sáng tạo tài tình của các nhà thơ, hình ảnh trăng trong hai tác phẩm thật sự là những hình ảnh đẹp, để lại trong lòng độc giả những cảm xúc dạt dào, sâu lắng.

Sự kết hợp yếu tố hiện thực roi rói với tính chất lãng mạn trong trẻo là màu sắc mới mẻ mà Chính Hữu đã sớm mang lại cho thơ.

14 mẫu vẽ 🌸 Sơ Đồ Tư Duy Đồng Chí Chính Hữu 🌸 đầy đủ!

Liên Hệ Đồng Chí Với Nhớ Ý Nghĩa

Các bạn học sinh đang tìm kiếm bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài “Đồng chí” với bài “Nhớ” thì đừng bỏ qua bài viết này nhé!

“Đồng chí!” – Ôi tiếng gọi sao mà thân thương tha thiết quá. Nó biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội của anh chiến sĩ cụ Hồ từ những năm 1948 của thời kỳ kháng Pháp. Cảm nhận được những tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ – người chiến sĩ cách mạng đã xúc động viết bài thơ Đồng chí. Với những lời thơ dạt dào tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc.

Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ của thời kì kháng chiến chín năm. Họ là những người xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen việc “cuốc cày” ở những vùng quê hẻo lánh khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau, từ xa lạ bỗng trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người ấy bằng những lời thơ thật cảm động:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Ở đây, tác giả đã phát hiện được hiện tượng tình cảm kì lạ ở những người chiến sĩ. Đó là sự phát triển của tình cảm cách mạng trong quân đội ta. Từ những con người rất “xa lạ” trong đời sống lại trở thành những đồng chí rất thân thương trong chiến đấu.

Tuy đôi ta như hai người xa lạ, hai phương trời khác biệt, chẳng hẹn ấy thế mà lại như có duyên với nhau, quen nhau trong hoàn cảnh đặc biệt. Những câu thơ làm người đọc nhớ đến bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên

“Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi Một hai”

Hình ảnh những phương trời xa cách, những con người “chẳng hẹn quen nhau” nói lên cả một sự xa lạ trong không gian và tình cảm. Nhưng khi tham gia kháng chiến, những con người xa lạ ấy đã cùng nhau chiến đấu, cùng chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì thế, họ trở thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng chí”:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”

Từ “đồng chí” lại được tách thành một câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường ấy, tác giả làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ: “Đồng chí” – một tiếng nói thiêng liêng. “Đồng chí”, một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong quan hệ tình cảm. Thế là thành “đồng chí!”.

Tình cảm ấy lại được biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. Những lúc kề cận bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà, chuyện “ruộng nương gửi bạn thân cày”, “gian nhà không mặc kệ gió lung lay”, cả chuyện “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính…”. Từ những lời tâm tình ấy cho ta hiểu rằng các anh chiến sĩ mỗi người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và khi ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong lòng họ.

Các anh lại cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả họ lại tìm được niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những lúc cùng nhau chịu đựng gian khổ “từng cơn ớn lạnh”, những lúc “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Cuộc sống bộ đội nghèo, vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu “áo anh” có “rách vai”, “quần tôi” có “vài mảnh vá”, dẫu trời có “buốt giá” thì miệng vẫn cười tươi.

Mối tình đồng chí lại được lắng đọng bằng hình ảnh đẹp rực sáng ở khổ cuối bài thơ:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”

Câu thơ vừa tả thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính canh giặc trong đêm trăng đầy sương muối. Súng hướng mũi lên trời, có ánh trăng lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng.

Đồng thời hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực vừa mơ, vừa xa lại vừa gần, vừa mang tính chiến đấu lại vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ.

“Đồng chí” – Đọc xong bài thơ trong mỗi chúng ta đều lắng lại những cảm xúc dạt dào. Chúng ta đã cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà ấy qua những lời thơ nhẹ nhàng tha thiết như bài hát tâm tình của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng lợi vẻ vang, trang sử vàng đã sang qua bao nhiêu giai đoạn mới, thế nhưng mỗi lần đọc lại bài thơ Đồng chí ta như thấy rõ hình ảnh của anh bộ đội Cụ Hồ hiện lên sáng rực thật cao đẹp, thật thân thương trong những lời thơ của Chính Hữu.

Tuyển tập 8+ 🌸 Liên Hệ Mở Rộng Bài Bếp Lửa 🌸 dành cho bạn!

Viết một bình luận