Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa ❤️️ 28+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Giới Thiệu Tuyển Tập Những Bài Mẫu Đặc Sắc Để Các Em Có Thể Tham Khảo.
Cách Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa
Cách phân tích Thị Mầu lên chùa đầy đủ ý và logic nhất đó chính là dựa vào phần bố cục, nội dung cũng như lập dàn ý chi tiết trước khi bước vào triển khai bài văn.
– Tóm tắt nội dung Thị Mầu lên chùa:
Thị Mầu Lên Chùa, đây có thể nói là đoạn trích chèo nổi tiếng hàng đầu Việt Nam, được viết theo phương thức tự sự và biểu cảm. Đoạn trích này thuật lại sự việc Thị Mầu lên chùa để tán tỉnh, trêu ghẹo với Tiểu Kính cùng thái độ trơ trẽn và điệu bộ lẳng lơ. Tuy nhiên Tiểu Kính vẫn liêm chính, không quan tâm và giữ khoảng cách với Thị Mầu.
– Bố cục đoạn trích Thị Mầu lên chùa:
- Phần 1: ( từ đầu… có ai như mày không): Thị Màu đi lên chùa
- Phần 2: (còn lại): Nhân vật Thị Kính
SCR.VN gợi ý 🌺 Tóm Tắt Thị Mầu Lên Chùa 🌺 hay nhất
Dàn Ý Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa
Chia sẻ đến bạn đọc dàn ý phân tích Thị Mầu lên chùa chi tiết dưới đây, đừng bỏ lỡ nhé!
I. Mở bài: Giới thiệu vở chèo, đoạn trích, nhân vật.
II. Thân bài:
a. Phân tích nhân vật Thị Mầu:
- Xuất thân: con gái phú ông.
- Sự kiện: chuẩn bị đến ngày rằm nên Thị Mầu lên chùa cúng tiến.
- Tính cách: Thị Mầu là người phụ nữ lẳng lơ, phóng khoáng, thể hiện qua việc ghẹo chú tiểu trong chùa:
- Lời nói:
- Đò đưa, tán tỉnh.
- Trêu ghẹo chú tiểu.
- Sỗ sàng.
- Hành động:
- Hát, nói để tán tỉnh chú tiểu.
- Xông ra nắm tay nhằm bày tỏ tình cảm với Kính Tâm.
b. Đánh giá nhân vật:
- Nhân vật Thị Mầu là người phụ nữ nổi loạn, đi ngược lại quan điểm đạo đức phong kiến.
- Thông qua nhân vật, tác giả dân gian muốn lên án, phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn tiết hạnh, chuẩn mực đạo đức.
- Tính cách, đặc điểm của nhân vật được khắc họa thông qua lời nói và hành động.
III. Kết bài: Khẳng định ý nghĩa, giá trị của nhân vật đối với đoạn trích và toàn bộ vở chèo.
Mời bạn đón đọc 🌜 Phân Tích Vở Chèo Quan Âm Thị Kính 🌜 hay nhất
Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa Ngắn Gọn – Mẫu 1
Cùng đón đọc ngay bài văn mẫu phân tích Thị Mầu lên chùa ngắn gọn dưới đây nhé!
Thị Mầu lên chùa là một trích đoạn trong vở chèo nổi tiếng Quan Âm Thị Kính. Trong tác phẩm, hình ảnh hai nhân vật chính Thị Mầu và Thị Kính được tác giả dân gian khắc hoạ rất rõ nét, qua đó cũng thể hiện được sự đối lập trong tính cách, cũng là sự đối lập của các xã hội khác nhau.
Trong tác phẩm, Thị Mầu miêu tả là một người phụ nữ xinh đẹp nhưng lại lẳng lơ, hiểu được dục vọng và khát khao của mình. Tư tưởng của nàng không đồng nhất với những người phụ nữ thời bấy giờ, vậy nên mới nổi bật khi đặt cùng một người phụ nữ truyền thống như Thị Kính.
Trái ngược với Mầu, Thị Kính không chỉ mang những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ, mà tính cách của nàng cũng có những điểm đặc trưng như dịu dàng, chăm chỉ. Thị Mầu phải lòng tiểu Kính Tâm, ve vãn nhưng không thành. Bởi nàng đâu có biết, vị sư tiểu ấy thực chất lại là một người con gái. Từ những hiểu lầm trớ trêu ấy, số phận người phụ nữ trong xã hội càng được làm rõ.
Thị Mầu chửa hoang, bị làng phạt vạ, Thị Kính lại nhận lấy cái tội thông dâm oan uổng, bị vạn ánh mắt coi khinh. Đây đều là những ngang trái của người phụ nữ xưa. Họ không thể chống lại được cả một xã hội phong kiến đã tồn tại lâu đời.
Trong hai người, không ai đáng trách. Chỉ trách Thị Mầu sinh ra sai thời, Thị Kính không thể chống lại quan điểm cổ hủ xấu xa.
Gợi ý cho bạn 💧 Phân Tích Bài Ca Huế Trên Sông Hương 💧 ngắn gọn
Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa Chi Tiết – Mẫu 2
Tiếp tục bài viết là bài mẫu phân tích Thị Mầu lên chùa chi tiết nhất:
Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu của Việt Nam, mang tính quần chúng và được coi là một nét đặc sắc trong văn hoá người Việt với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Thị Mầu lên chùa là một tác phẩm đặc sắc trong số đó, là một trích đoạn trong tác phẩm nổi tiếng Quan Âm Thị Kính. Đây là đoạn trích kể lại đoạn Thị Mầu lên chùa và gặp Kính Tâm và ve vãn tiểu Kính Tâm.
Trong tác phẩm, Thị Mầu được miêu tả là một người con gái xinh đẹp, lẳng lơ, tuy lên chùa lễ phật nhưng lại không có sự thành tâm. Mầu là một người nếu nối hay thì là sống với khao khát của bản thân, nhưng nếu nói dở thì là người không tuân phép tắc xã hội.
Nàng lên chùa và bắt gặp Kính Tâm do Thị Kính giả trang, đem lòng yêu đương rồi ve vãn. Thị Mầu thực sự đã yêu thương một chú tiểu trong chùa, yêu đến mức mù quáng mà không phân rõ thời thế, thân phận. Vậy nên, cái kết buồn đã xảy ra cho cô gái.
Sự táo bạo, lẳng lơ của Thị Mầu được tác giả khắc họa rõ nét qua cả lời nói và hành động của cô. Đó là những câu nói phóng khoáng và táo bạo hiếm thấy của con gái đương thời, và cũng bị coi là tục tĩu khi đang ở nơi cửa Phật.
“Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đây nhá!”
“Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua”
“Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm”
Những câu nói trên đều thể hiện cái sự ngả ngớn, táo bạo của một người con gái xinh đẹp đáng lẽ phải e thẹn. Nhưng không, những câu nói Thị Mầu nói ra thật khiến người ta đỏ mặt, không hề hợp với thân phận và địa điểm nói chuyện lúc bấy giờ. Nhờ những câu nói đó, ta lại thấy được quan điểm về một tình yêu tự do của Thị Mầu.
Nàng không chịu nghe theo tư tưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” đương thời, mà tân tiến hơn ở chỗ tự đi tìm hạnh phúc của mình. Nhưng trong thời đó, sự khát cầu ấy của Mầu lại bị coi là sự thô tục, là thứ phẩm hạnh không đoan.
Trái ngược với tạo hình nhân vật của Thị Mầu, cùng là con gái nhưng Thị Kính lại được miêu tả bằng những nét bút nhu hoà hơn. Ngoại hình của nàng được Thị Mầu đánh giá là “Đẹp như sao sa” và “Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang” ngay trong lần gặp đầu tiên. Đây là những nét đẹp truyền thống và đoan chính. Nàng thẳng thừng từ chối những lời nói ngọt của Thị Mầu, biết giữ khoảng cách và giữ gìn khuôn phép giữa hai người.
“A di đà Phật! Cô cho tôi biết tên để ghi vào lòng sớ”
“Một nén cũng biên”
“Một đồng cũng kể”
“Ngẫm oan trái nhiều phen muốn khóc”
Qua cả lời nói và hành động, ta nhận thấy rằng trái ngược với Mầu, Kính Tâm là một người trầm ổn, tuy bị làm phiền nhưng không tỏ ra khó chịu. Nàng chính là đại diện cho người phụ nữ truyền thống, vừa mang nét đẹp đoan trang, vừa có tính cách dịu dàng, chịu khó.
Hai nhân vật được xây dựng khác nhau về tính cách, nhưng giữa hai người lại có sự liên hệ nhất định. Đó chính là số phận thảm thương của họ, hai số phận bị phong kiến đày đọa và chèn ép trong cái lồng giam chật hẹp. Đó còn là tiền đề để cao trào câu chuyện xảy ra. Thị Mầu ăn nằm với tôi tớ trong nhà, có thai nên bị làng phạt vạ. Nàng liền đỏ tội cho Thị Kính, rồi khi sinh con xong cũng đưa cho Kính nuôi.
Không thể biện bạch, Kính Tâm nuôi con của Mầu, đến khi ra đi mới viết thư để tỏ rõ nội tình. Vậy là, mọi oan khiên của nàng đều được làm rõ, nhưng những lời tiếc thương đến giờ chẳng thể làm gì được nữa, bởi Thị Kính đã ra đi.
Hình ảnh Thị Mầu đem con lên chùa bỏ như một lời kêu cứu của người phụ nữ đối với đáng thần phật trên cao. Bởi trong thời đại đó, nếu không chồng mà chửa, người con gái bị phạt tội rất nặng. Dù hành động của Thị Mầu là không đúng, nhưng cái thứ được gọi là phép tắc của xã hội bấy giờ quá lớn. Xuất phát từ sự từ bi và thương cảm với những sinh linh nhỏ, Thị Kính phải gánh tiếng oan này.
Vở chèo Thị Mầu lên chùa là một câu chuyện có đủ cao trào và kết thúc. Tuy trong câu chuyện đó, người phụ nữ đều có cái kết buồn, nhưng vẻ đẹp của họ lại không có gì làm lu mờ được. Thị Mầu là người xinh đẹp, nhưng lại có tư duy vượt thời đại, vậy nên bị chính thứ khao khát về tình yêu và dục vọng đó hại. Thị Kính là người đại diện cho phụ nữ truyền thống, cũng bị lễ giáo truyền thống đó đè nặng cả cuộc đời.
Xem nhiều hơn 🌟 Phân Tích Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay 🌟 ấn tượng
Phân Tích Vở Chèo Thị Mầu Lên Chùa Đặc Sắc – Mẫu 3
SCR.VN giới thiệu thêm đến bạn bài văn phân tích vở chèo Thị Mầu lên chùa đặc sắc sau đây:
Bên cạnh những vở chèo nổi tiếng như “Trương Viên”, “Chu Mãi Thần”, “Kim Nham”, “Lưu Bình – Dương Lễ”, “Quan Âm Thị Kính” cũng là một trong số những tác phẩm kinh điển của nền chèo cổ Việt Nam. Nổi bật trong vở chèo là đoạn trích “Thị Mầu lên chùa”. Trích đoạn đã cho thấy cách nhìn nhận của tác giả dân gian về những người phụ nữ trong xã hội xưa.
Văn bản “Thị Mầu lên chùa” kể về việc Thị Mầu lên chùa cúng tiến, nhìn thấy Kính Tâm liền đem lòng si mê và dùng lời lẽ ngon ngọt để tán tỉnh chú tiểu. Đoạn trích khắc họa sự tương phản về phẩm chất giữa hai tuyến nhân vật là Thị Mầu và Kính Tâm.
Trước hết, Thị Mầu có xuất thân cao quý, là con gái của phú ông trong làng. Tuy nhiên, ở Mầu lại toát ra vẻ lẳng lơ, phóng túng. Mọi người thường lên chùa vào ngày rằm còn Mầu lên chùa từ mười ba. Bởi vậy mới bị “mang tiếng lẳng lơ”:
“Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ
Đò đưa cấm giá tôi lên chùa từ mười ba.
Mười ba,
Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm
Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già
Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca
Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.”
Lời mời gọi, kể lể của Mầu đã cho ta những hình dung ban đầu về tính cách, đặc điểm của nhân vật. Số từ “mười ba” được lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh ngày Mầu lên chùa tiến cúng. Mầu lên chùa cả ba ngày mười ba, mười bốn, mười lăm để thỏa lòng mong ước được gặp gỡ người nhà chùa.
Vừa mới nhìn thấy chú tiểu đẹp, Thị Mầu đã dùng những lời lẽ ngon ngọt, ve vãn. Khi được Kính Tâm yêu cầu cho biết tên tuổi để ghi vào lòng sớ, Thị Mầu đã cố tình khai thừa thông tin về bản thân. Nàng liên tục nhắc về việc mình chưa có chồng. Đồng thời, thể hiện mong muốn kết đôi.
Niềm mong ước giao duyên của Mầu còn được bộc lộ qua câu nói:
“Này thầy tiểu ơi!
Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua.”
Táo ở sân đình thường chín và rụng sau mùa xuân. Vì không ai chăm sóc lại già cỗi nên vừa chua vừa chát. Còn cái rở là gái có mang, lúc nào cũng thèm ăn của chua, thức lạ. Mầu ví mình như gái rở còn chú tiểu như táo rụng sân đình nhằm bày tỏ mong muốn được sánh đôi cùng chú tiểu.
Mầu lên chùa bái lễ nhưng chẳng thèm để ý đến thần Phật, chỉ chăm chăm vào trêu ghẹo chú tiểu. Nghe nhà mất bò, Mầu chanh chua đáp lại “Nhà tao còn ối trâu!”. Đối đáp với những lời trách móc, phê phán, Mầu vẫn tự nhận mình là người chín chắn nhất trong nhà “Nhà tao có chín chị em, chỉ có mình tao là chín chắn nhất đấy!”.
Không dừng ở những lời ngon ngọt, Thị Mầu còn cố tình trêu ghẹo chú tiểu thông qua lời hát:
“Song đứng trước cửa chùa
Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Một cành tre, năm bảy cành tre
Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng
[…] Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Trúc xinh trúc mọc sân đình
Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!”
Trong đoạn này, Mầu dùng rất nhiều hình ảnh trong ca dao dân ca như “cành tre”, “mẫu đơn”, “nhà thờ”, “thiếp”, “chàng”, “cơm hàng có canh”, “trúc mọc đầu đình” vừa là để bộc lộ tình cảm vừa là tán tỉnh Kính Tâm. Đặc biệt, đoạn hát còn cho thấy được quan niệm về tình yêu của Thị Mầu. Tình yêu trong suy nghĩ của nàng là sự tự do, thoải mái, vượt lên mọi rào cản của xã hội.
Thị Mầu không hề quan tâm đến định kiến mà chỉ tập trung vào cảm xúc cá nhân “Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng”. Mầu “muốn cho có thiếp có chàng/ Ba sáu mười tám, cơm hàng có canh”. Mầu sẽ cảm thấy mình bớt xinh nếu như không có đôi có cặp “Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!”.
Càng về cuối lớp chèo, mức độ trong lời nói của Mầu càng được gia tăng. Đỉnh điểm là sự sỗ sàng, bỗ bã trước chốn cửa chùa “Bỏ mô Phật đi!”. Lúc này, Mầu hoàn toàn không còn có ý niệm gì về việc bái lễ nữa mà chỉ tập trung vào chú tiểu. Câu nói ấy đã cho thấy sự thất lễ, thiếu tôn trọng với những tăng ni trong chùa. Làm mọi cách mà Kính Tâm không để ý, tâm trạng của Thị Mầu không còn vui tươi, hồ hởi như khi mới vào chùa mà trở nên rầu rĩ, man mác buồn:
“Muốn rằng cây cải cho xanh
Thài lài, rau dệu tám thành bờ tre
Lắng tai tôi nói cho mà nghe
Tri âm chẳng tỏ tri âm
Để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng!”
Đây quả là ngôn ngữ của một bậc chân tu. Từng câu chữ đều tuân theo quy tắc, giáo lí nhà Phật. Mỗi lần nghe Thị Mầu nói, Kính Tâm đều nhẹ nhàng niệm “Nam mô A Di Đà Phật!” như một cách từ chối. Chứng kiến sự mù quáng của Thị Mầu, Kính Tâm bày tỏ nỗi niềm trong lời độc thoại:
“Ngẫm oan trái nhiều phen muốn khóc
Thấy nhân duyên nghĩ lại nực cười
Hẳn vô tình thế mới trêu ngươi
Vì hữu ý nên rằng hoảng mắt
Chứ có biết đâu mình cũng chỉ là…”
Đây là những lời đúc kết, suy ngẫm của một con người đã trải qua không ít đau khổ, truân chuyên. Đi qua nhiều chuyện trên đời tới mức phải cắt tóc đi tu, Kính Tâm thấy nực cười trước mối nhân duyên ngang trái. Có những sự vô tình khiến con người rơi vào cảnh trớ trêu.
Có thể nói, Thị Mầu đại diện cho những người phụ nữ nổi loạn còn Kính Tâm lại tượng trưng cho người phụ nữ đức hạnh trong xã hội phong kiến. Qua đoạn trích, tác giả dân gian muốn ca ngợi những người phụ nữ trung trinh và phê phán những người lẳng lơ, phóng túng.
Để làm nổi bật sự mâu thuẫn, đối lập giữa hai nhân vật, tác giả đã tập trung khắc họa thông qua lời nói, hành động. Đồng thời, sử dụng các biện pháp tu từ độc đáo như so sánh “Thầy như táo rụng sân đình/ Em như gái rở, đi rình của chùa”, điệp ngữ “Ấy mấy thầy tiểu ơi!”, “chưa chồng đấy” và chất liệu ca dao, dân ca truyền thống.
Đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” đã thể hiện cách nhìn nhận của tác giả dân gian về những người phụ nữ trong xã hội xưa. Văn bản “Thị Mầu lên chùa” nói riêng và vở chèo “Quan Âm Thị Kính” nói chung sẽ mãi lưu dấu trong lòng người Việt Nam bởi những giá trị nhân văn, ý nghĩa.
Đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang 🔥 đặc sắc
Phân Tích Bài Thị Mầu Lên Chùa Hay Nhất – Mẫu 4
Dưới đây là mẫu phân tích bài Thị Mầu lên chùa hay nhất được rất nhiều bạn đọc quan tâm đến.
Trong thời đại ngự trị của xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, nơi nhân quyền được xem là rẻ rách thì thân phận nữ quyền cũng không đáng bằng cắc bạc. Dù “ tài hoa bạc mệnh “ như vậy, nhưng người phụ nữ xưa vẫn làm tròn bổn phận “ công dung ngôn hạnh” của mình, đẹp thướt tha dịu dàng,và có thể ví thành “ Bàn bàn nhập họa “,“Băng thanh ngọc khiết “ tức là vừa đẹp như tranh vẽ vừa thuần khiết trong sáng như băng.
Nhưng không thể đánh đồng tất cả bởi vì làm quan còn có người tốt kẻ tham, làm vật còn có giống cái giống đực, thì làm người mấy ai được như bụt trong truyện, như cô tiên trên trời, và người phụ nữ cũng vậy, ngoài cái vẻ đẹp ở thể xác và tâm hồn như nhân vật nàng Thị Kính thì người ta còn nhắc về những cô gái đi trái lại với “ quan điểm về cái đẹp “ đó là lẳng lơ, buông thả mình, thể hiện qua nhân vật Thị Mầu. Tất cả những tiêu biểu nhất đã được khắc họa qua đoạn trích “ Thị Mầu Lên chùa “ trích “ Quan âm Thị Kính”
“ Này chị em
….
Chính chuyên cũng chẳng son để thờ”
Qua “ Quan âm Thị kính “ đức khí phúc hậu, cốt đức nhẫn nhịn đáng nể phục của nàng Thị Kính được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích” Thị Mầu lên chùa “.Trước cuộc gặp gỡ đầy bi oai nành đã mang cái oan nghiệt ngã được gọi là “ Oan Thị Kính “ đúng thật là:
“ Phận người con gái chỉ đẹp nhất lúc chưa chồng… “
Nàng Thị kính một người con gái vừa tài sắc vừa nết na, nàng được gả cho một thư sinh tên Thiện Sỹ con nhà họ Sùng. Hai vợ chồng ăn ở với nhau rất hòa thuận.
Một hôm chồng ngồi đọc sách vợ ngồi khâu bên cạnh,lúc sau vì mệt chàng tựa vào bên ngủ thiếp đi. Nàng nhìn thấy trên cầm chồng có một sợi râu mọc ngược, sẵn dao trên tay nàng toan cắt sợi râu đi. Bổng chàng giật mình tỉnh dậy, tưởng vợ có ý định hại mình nên bèn hô tri lên, ba mẹ chồng đến một mực đổ lỗi cho nàng có tình ý giết chồng, rồi kêu Mãng Ông đến trả lại con gái.
Sau khi bị oan không tài nào có thể xóa bỏ hiềm ác trông mắt người khác còn mang tiếng “ Tình Lý gian ngay “ nổi thống khổ không biết kể cùng ai, nàng bèn quyết tâm đi tu, trước là báo đáp ơn nghĩa sâu nặng của cha mẹ, sau là giải tỏa phần nào nổi oan khiêm.
Đang trong đêm, nàng cắt tóc giả thành nam nhân và trốn khỏi nhà. Một lần nữa, nàng lại mắc vào cái oan bị cho là đã bỏ nhà theo trai. Nhưng nàng vào chùa là để tìm khoảng bình yên trong lòng, nàng muốn tránh những nhiễm khích, mưu toan, chật vật, khốn khó của đời với phận nữ nhi. Vậy mà cớ sự nào có bao giờ được như ý.
Vào Chùa cũng là nơi nàng gặp người con gái Thị Mầu với những tính cách đi ngược lại với quan niệm về người phụ nữ xưa nay đó là làm con gái phải đi nhẹ nói khẽ, lễ phép, lịch sự, nhu mì là ấn tượng đầu tiên người ta đánh giá về mình. Hơn nữa chính là biết “ cầm kỳ thi họa “ và phải “ tề gia nội trợ “. Bởi vậy, ngay cái nhìn đầu tiên qua lời nói, cách ăn mặc, phép hành xử ta cũng có thể thấy được sự đối lập giữa hai nhân vật Thị Mầu và Thị Kính.
Giữa một không gian yên tĩnh, linh thiêng, thanh tịnh của nhà chùa, bỗng bị phá tan bởi sự náo loạn trong ngồn ngộp sắc màu “ vẽ đẹp phàm tục” của Thị Mầu, những tà áo dài cánh sen cùng yếm thắm, chiếc khăn xanh rực rỡ tung bay uốn lượn theo những vòng múa cuồng nhiệt, thể hiện cho sự khát khao tình yêu mãnh liệt, đam mê cháy bỏng, trong thời khắc căng tràn sức sống của Thị Mầu.
Nhưng cũng kèm theo đó là những tiếng hò chẳng mấy giữ phép tắc khi ở nơi chùa Linh Thiêng, nơi được cho là yên tịnh, nhẹ nhàng như thế này không phù hợp với sự năng động, xốc xáo của nàng “.
Trái ngược với Thị Mầu, Kính Tâm như người con đã quy y vào cửa phật, nàng lễ phép trong lời nói, trước môi hở ra lời đều “ A Di Đà Phật “ chính nàng sống như Phật ở trong mình thể hiện lên đây là con người “ có tâm đức hiền lành, tin vào phật pháp, tin vào nhân quả trong đời “ bởi vì thế nên không ham mê vật chất phàm trần, nàng ăn mặc giản dị với trang phục nâu sồng, dáng vẻ bình lặng vô vị, nàng nương cửa Phật “ nhất tâm thiền định “ rũ bỏ mọi ảo vọng của cuộc sống trầm luân.
Hai nhân vật mang hai hình tượng đối lập không chỉ được xếp cạnh nhau mà còn đan xen vào nhau, có chỗ đan xen vào nhau thật là tài tình thủ pháp, bộc lộ được tính cách giữa hiền đức nhu mì của Thị Kính và Sự lơ lẳng,buông thả trong con người Thị Mầu
Cuộc gặp gỡ của hai người không chỉ là một cuộc đối thoại mà còn là sự nảy nở tình duyên từ một phía của Thị Mầu, cũng là nghiệp duyên oan ức của Thị Kính. Từ đây con người của Mầu càng được bộc lộ rõ nét.
Kính Tâm vẫn luôn thể hiện cô là một người con gái không chỉ đẹp nết, đẹp lẫn người, mà còn thấu hiểu phật pháp, vừa thông minh vừa lễ độ, Kính Tâm luôn ghi nhớ công đức, lễ nghĩa của người khác, không bàn đến vật nhỏ hay lớn đều xuất phát từ tâm thì đó cũng chính là ân phúc Chùa nhận được, cô còn cầu nguyện cho họ nhờ phật tổ chứng giám cả lòng thành.
Bởi lẽ vì tâm hồn thanh cao đức độ như vậy nên dù cô có giả làm nam nhân khuôn mặt vẫn toát nên sắc đẹp khiến Thị Mầu rung động. Đúng như câu ông cha ta thường nói “ Tâm sinh tướng “ bên trong ra sao bên ngoài sẽ thể hiện như vậy.
Nàng nghiêm nghị trước Thị Mầu, không để những sắc dục phàm trần làm mờ mắt, một phần nữa bời lẽ nàng cũng là nữ nhi nên đôi phần không có hứng thú. Phần lớn hơn chính là nàng đã bước vào cửa phật, phải giữ lấy luật lệ làm đầu, ranh giới của thánh thiện và tội lỗi rất dễ mắt phải, nhất là qua xác thịt.
Trong lời thoại của hai nhân vật, ta thấy Thị Mầu là người nhiều lời thoại hơn Kính Tâm. Từ đó đã cho thấy, Kính Tâm là người ít nói, kiệm lời, nàng dường như không muốn tiếp xúc với thị Mầu. Còn Thị Mầu lại trái ngược lại, Thị nhiều chuyện, nói không có điểm dừng, vui vẻ khi đạt được mục đích của mình.
“ Đưa chổi đây em quét, rồi em nói chuyện này cho mà nghe “
Quan niệm về tình yêu đối với Thị Mầu rất đơn giản, chỉ cần thấy thích là có thể tiến tới. Nhất là nàng lại hám sắc, say mê cái đẹp thì hạnh phúc đơn giản chính là yêu cái đẹp, nàng bỏ qua sự rào cản về lễ nghĩa, giáo lý, gia đình để có thể làm điều mình thích.
Suy xét lại Thị Mầu cũng là người con gái mạnh mẽ, dám nghĩ dám làm, dám bộc lộ cái tôi nói lên quan điểm, nhận xét của mình. Tính cách của Thị như một làn gió mới cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội Phong Kiến.
Còn đối với Kính Tâm, người con gái bị gia đình chồng vu oan, một nổi oan nghiêm cả đời không thể rửa. Đối với nàng tình yêu nam nữ không còn quan trọng nữa, thay vào đó nàng đi yêu những nổi khổ đau của nhân loại hơn, nhất là những móc xích còng chặt thân phận người phụ nữ không có tiếng nói, không được giải bày tâm sự nổi thống khổ trong lòng, vì thế nàng đến với Phật.
Tiếp tục đón đọc 🌳 Phân Tích Bài Thơ Bạn Đến Chơi Nhà 🌳 chi tiết
Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa Nâng Cao – Mẫu 5
Mời bạn đọc tham khảo thêm bài phân tích Thị Mầu lên chùa nâng cao dưới đây nhé!
Quan Âm Thị Kính là vở chèo cổ có sức sống lâu bền trong dân gian, vớ chèo trụ vững với thời gian là tác giả đã xây dựng thành công chân dung người phụ nữ với những tính cách trái ngược với xã hội phong kiến bấy giờ. Bởi vậy khi đọc hay xem vở chèo này:
Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách.
Thị Mầu là một cô gái trẻ đẹp được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ Chèo rất đặc trưng, đa dạng, phong phú. Thị Mầu là biểu tượng của khát vọng tình yêu, là sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt của tình yêu đối với những trói buộc khắt khe, vô nhân đạo của lễ giáo phong kiến khác với số đông nhân vật nữ chính khi ra trò đều mang những nét chung của tính cách được giáo dục trong nếp lễ giáo gia đình phong kiến với nền luân lý Nho gia.
Nhân vật Mầu xuất hiện đã thu hút người nghe, người xem qua lời giới thiệu độc đáo. Thị Mầu là hình tượng khiến người tiếp nhận có ấn tượng đậm nét với vẻ ngoài của nhân vật.
Vẻ đẹp ngoại hình của Mầu có sự cộng hưởng của cái yếm thắm trong đó thổn thức bộ ngực con gái thèm khát yêu đương, chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy, với con mắt sắc như dao cau, với nụ cười tươi nở ra trên đôi môi đỏ mọng, và với cái thân hình uốn éo luôn để lộ những đường cong khêu gợi…
Rõ ràng vẻ bên ngoài của Thị Mầu đã toát lên tính cách, việc làm, tâm tư của Thị. Nguyên tắc đối lập trong xây dựng nhân vật chèo cổ đã làm nổi bật hai hình tượng. Thị Kính – áo nâu sồng, miệng tụng kinh, tay gõ mõ, ngồi bất động, Thị Mầu áo mớ ba mớ bảy sặc sỡ, tay cầm quạt, thoắt gập, thoắt xòe…
Thị Kính trần tư bao nhiêu thì Thị Mầu cuồng nhiệt bấy nhiêu. Thị Kính dịu dàng, kín đáo, đoan trang, Thị Mầu lại mạnh mẽ, lẳng lơ, táo bạo. Thị Kính càng né tránh thì Thị Mầu càng lăn xả để thỏa mãn dục tình. Không chỉ bộc lộ cảm thức về thân phận, tính cách bản năng.
“Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên chẳng để sơn son mà thờ”
Thị Mầu đã dám nghĩ, dám yêu, dám bày tỏ và sẵn sàng chấp nhận hậu quả cuối cùng. Đam mê của Thị mang tính bản năng và xuất phát từ trái tim không toan tính vụ lợi, không ràng buộc. Khi bị từ chối, tình yêu càng trở nên mãnh liệt.
Không đạt được mong muốn, khát khao của Thị Mầu càng cháy bỏng. Thị Mầu đã đi ngược quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân để tiến đến sát sạt tiểu Kính mà ghẹo, mà quyến rũ bởi Thị Mầu đã say đắm vẻ đẹp của thầy Tiểu và khát khao có được tình yêu của Kính Tâm. Xét ở phương diện yêu thì Thị Mầu đúng là một cô gái hiện đại.
Tóm lại Thị Mầu là nhân vật dám sống thật với bản thân, dám vượt qua những lễ giáo phong kiến, sắc thái nữ quyền trong Mầu cũng hiện lên rất rõ nét hơn ở khao khát tự do yêu đương, bản năng tính dục trong Thị Mầu điều mà người phụ nữa xưa không dám làm.
Có thể bạn sẽ thích 🌠 Phân Tích Bài Thơ Bánh Trôi Nước 🌠hay nhất
Phân Tích Nhân Vật Thị Mầu Trong Thị Mầu Lên Chùa – Mẫu 6
Khám phá thêm mẫu văn phân tích nhân vật Thị Mầu trong Thị Mầu lên chùa hay nhất sau đây nhé!
Chèo “Quan Âm Thị Kính” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của chèo cổ Việt Nam. Bên cạnh nhân vật Thị Kính – đào thương, Thị Mầu trong vở chèo được xếp vào vai đào lệch bởi bản chất lẳng lơ, phóng khoáng. Tính cách ấy được bộc lộ rõ nét qua đoạn trích “Thị Mầu lên chùa”. Lớp chèo đã thể hiện cảnh Thị Mầu đem lòng say mê và tìm cách ve vãn Kính Tâm khi đi lên chùa.
Về xuất thân, Thị Mầu là con gái của phú ông. Nàng tự nhận mình là người con hiếu thảo vì luôn kính trọng đấng sinh thành “thầy mẹ tôi tôn kính một lòng”. Sắp sửa đến ngày rằm, Mầu chuẩn bị “tiền cùng gạo lên chùa tiến cúng”. Thay vì lên chùa vào ngày mười lăm như bao người, nàng lại lên chùa sớm hẳn hai ngày:
“Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ
Đò đưa cấm giá tôi lên chùa từ mười ba.
Mười ba,
Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm
Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già
Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca
Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.
Trong lời nói của Thị Mầu, người đọc có thể thấy được những nghịch lí, mâu thuẫn. Nàng “muốn cho một tháng đôi rằm/ Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già”. Rõ ràng, mục đích của Mầu vào chùa trước là bài lễ sau mới là thăm vãi già. Thế nhưng, nàng lại chỉ tập trung vào việc gặp sư thầy. Con số “mười ba” được lặp đi lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh vào ngày Mầu lên chùa cúng tiến.
Những con số “mười ba”, “mười bốn”, “mười lăm” tương ứng với hành động mỗi ngày lên chùa để nhìn ngắm, gặp gỡ một người của Thị Mầu. Cho nên, nàng mới mong “một tháng đôi rằm” để có nhiều dịp “thăm” sư. Như vậy, qua lời mời gọi, thừa nhận của Thị Mầu, ta phần nào thấy được sự lẳng lơ của nhân vật.
Được tác giả dân gian xây dựng với tính cách nổi loạn, phóng khoáng, Thị Mầu đã cho người đọc thấy sự táo bạo của mình qua việc ghẹo chú tiểu trong chùa. Mọi lời nói, hành động của Thị Mầu đều tập trung để ve vãn Kính Tâm. Ngay khi nhìn thấy chú tiểu, Thị Mầu liền đem lòng si mê. Khi được Kính Tâm hỏi tên tuổi, Mầu liền trả lời:
“Tên em ấy à?
Là Thị Mầu con gái phú ông
Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đấy nhá!”
Mầu liên tục nhấn mạnh mình là người con gái đôi mươi chưa chồng. Mục đích là để thể hiện mong muốn giao duyên, kết đôi. Không những thế, nàng ta còn dành nhiều lời khen cho chú tiểu: “Người đâu mà đẹp như sao băng thế nhỉ?”, “Người đâu đến ở chùa này/ Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang”. Trước lời cảm thán “Ai lại đi khen chú tiểu thế cô Mầu ơi!”, Mầu không ngần ngại đáp lại “Đẹp thì người ta khen chứ sao!”.
Biết nhà mất bò, nàng cũng mặc kệ “nhà tao còn ối trâu”. Dường như, Mầu không quan tâm đến việc gì khác mà chỉ chú ý ve vãn sư thầy. Càng ngày, mức độ tán tỉnh của Mầu càng tăng lên:
“Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua”
Đây là một phép so sánh độc đáo khi đã bộc lộ được niềm khát khao yêu đương cháy bỏng của Mầu. Sau mùa xuân, táo ở sân đình chín rụng. Vì không được chăm sóc, lại già cỗi nên táo thường có vị chua và chát. Còn gái rở chính là người đàn bà có mang, thích ăn của chua và những thứ lạ. Bởi vậy, người ta mới có câu “gái rở thèm của chua”. Mầu ví mình như gái rở còn thầy tiểu như táo rụng ngoài đình nhấn mạnh khao khát trái với luân thường đạo lí.
Tác giả dân gian đã thêm vào những tiếng đến như là lời phê phán Thị Mầu: “Mầu ơi nhà mày có mấy chị em? Có ai như mày không?”. Tuy nhiên trước những lời nói ấy, Thị Mầu vẫn một mực khăng khăng khẳng định “Nhà tao có chín chị em, chỉ có mình tao là chín chắn nhất đấy!”.
Dù đã dùng bao lời ngon ngọt nhưng Thị Mầu vẫn không khiến cho chú tiểu đáp lại. Nàng quyết định dùng đến những lời hát ghẹo:
“Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Song đứng trước cửa chùa
Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn
[…] Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!”
Đoạn hát ghẹo tiểu của Thị Mầu đã cho thấy quan niệm về tình yêu tự do, thoải mái, vượt lên trên những rào cản, định kiến của xã hội. Câu “Ấy mấy thầy tiểu ơi!” được lặp đi lặp lại nhiều lần vừa nhấn mạnh vào đối tượng tiếp nhận mà Thị Mầu hướng đến vừa là câu mở đầu cho những lời giãi bày, mong muốn của nàng.
Thị Mầu quan niệm về hạnh phúc khá đơn giản. Với nàng, ý kiến của họ hàng không quan trọng bằng cảm nhận bản thân. Nàng không hề bận tâm điều gì, có duyên là đến. Trong đoạn hát ghẹo, Thị Mầu bày tỏ mong muốn được kết duyên với Kính Tâm bằng cách sử dụng một số từ ngữ “đôi ta”, “quyết đợi chờ lấy nhau”, “có thiếp có chàng”.
Thị Mầu sẽ không thể xinh đẹp nếu như không có người sánh đôi “Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!”. Đó là ước vọng cháy bỏng, mãnh liệt của người phụ nữ phóng khoáng, tự do.
Không chỉ có lời nói mà hành động cũng góp phần thể hiện tính cách, đặc điểm của nhân vật. Thị Mầu vừa hát vừa nói để bày tỏ tình cảm với Kinh Tâm. Đặc biệt, Thị Mầu còn có cử chỉ vô cùng táo bạo đó là xông ra nắm tay, nhận quét chùa thay Tiểu Kính.
Hành động của Thị Mầu trong thời đại phong kiến là không thể chấp nhận bởi “nam nữ thụ thụ bất thân”. Vả lại, Kính Tâm còn là người theo đạo nên điều này càng vượt ra khỏi chuẩn mực, khuôn phép.
Trong đoạn trích “Thị Mầu lên chùa”, Thị Mầu là hiện thân của những người phụ nữ phóng túng, đi ngược lại quan niệm và các chuẩn mực chung ở xã hội phong kiến. Bên cạnh nhân vật Thị Kính, Thị Mầu cũng là yếu tố góp phần làm nên thành công của đoạn trích cũng như vở chèo.
Tham khảo trọn bộ 🌹 Phân Tích Bài Sông Núi Nước Nam 🌹hay nhất
Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa Cánh Diều – Mẫu 7
Với bài mẫu phân tích Thị Mầu lên chùa dưới đây sẽ giúp các em có thêm nhiều tư liệu ôn tập tác phẩm.
Trích đoạn chèo Thị Mầu lên chùa là một trích đoạn đặc sắc của nghệ thuật chèo nói riêng và của nghệ thuật kịch hát Việt Nam nói chung. Sự đặc sắc của Thị Mầu lên chùa là sự đặc sắc đến từ chủ đề, nội dung và hình thức nghệ thuật biểu hiện.
Cái hay trong chủ đề của trích đoạn Thị Mầu lên chùa nằm ở chỗ, Thị Mầu đã say mê và tìm cách ve vãn tiểu Kính Tâm. Nghĩa là, giữa lề lỗi, lễ giáo phong kiến đè nặng lên người con gái, lại có một Thị Mầu dám khát vọng và thể hiện tình yêu của mình ra bên ngoài. Thị Mầu chính là một sự đặc sắc, sự đối lập với Thị Kính. Cái hay nữa ở đây là, Thị Mầu lại đi thích tiểu Kính Tâm! Thật ngược đời, tréo ngoe.
Nhưng dù tréo ngoe như vậy thì trích đoạn này cũng tràn đầy sự vui vẻ, đặc sắc so với những màn khác trong vở chèo Quan âm Thị Kính. Quan điểm của tác giả dân gian, như một cách để cởi trói cho người phụ nữ trong lễ giáo phong kiến, khỏi những lề lối của vòng cương tỏa, đã được gửi gắm qua những câu nói của Thị Mầu: “Bỏ mô Phật đi!”, “Lẳng lơ đây cũng chẳng mòn/ Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ!”.
Nét đặc sắc trong hình thức nghệ thuật của trích đoạn này được thể hiện rõ nhất chính là ở sự biểu hiện. Nói cách khác là nghệ thuật sân khấu. Nếu chỉ soi xét về kịch bản của Thị Mầu lên chùa, ta sẽ thấy được những điểm đáng chú ý. So với nghệ thuật Tuồng, ngôn ngữ trong Chèo dễ hiểu hơn, gần gũi với tiếng nói của nhân dân. Đó là những lời nói, điệu hát mà có thể sử dụng, chèn thêm được cả lục bát, mang nặng tâm tình người Việt:
“Muốn rằng cây cải cho xanh
Thài lài, rau dệu tám thành bờ tre
Lắng tai tôi nói cho mà nghe
Tri âm chẳng tỏ tri âm
Để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng!”
“Lẳng lơ đây cũng chẳng mòn
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ!”
Cái hay của chèo còn khác biệt với kịch nói ở chỗ đó là có những tiếng đế. Tiếng đế này là sự tương tác của khán giả, là một sự cộng hưởng, cùng tác giả. Giới hạn giữa sân khấu và khán giả ở đây bị thu hẹp. Trong khi đó, ở kịch nói mà cụ thể là ảnh hưởng từ phương Tây, khán giả không được quyền lên tiếng, đồng sáng tạo với vở kịch diễn. Điều này cũng đã được thể hiện trong trích đoạn Thị Mầu lên chùa.
Có thể thấy, những nét đặc sắc trong nghệ thuật chèo đã được thể hiện khá rõ trong trích đoạn Thị Mầu lên chùa. Những sự đặc sắc ấy đến từ chủ đề nghe có phần trái ngược (một cô gái đi ve vãn chú tiểu), đến từ sự biểu hiện của loại hình kịch hát.
Kịch nói là sự ảnh hưởng, du nhập của phương Tây trong quá trình hiện đại hóa văn học, nghệ thuật ở Việt Nam. Thế nhưng, kịch hát vẫn có những hấp dẫn riêng, không chỉ vì đó là cái truyền thống, mà còn ở chính nghệ thuật của nó.
Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Nước Đại Việt Ta 🔥 ấn tượng
Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa Lớp 10 – Mẫu 8
Cuối cùng là bài văn mẫu phân tích Thị Mầu lên chùa lớp 10 được nhiều bạn đọc quan tâm đến sau đây.
Có một vở chèo kinh điển mà cho đến ngày nay chiều sâu tư tưởng và câu hỏi mà vở chèo đặt ra là vấn đề mà mọi thời đại đều hướng đến. Đó là vở chèo Quan âm thị kính. Đoạn trích Thị mầu lên chùa sẽ cho ta hiểu hơn về xã hội, về con người lúc bấy giờ.
Lễ chùa cúng vái có lẽ là một nét đẹp trong phong tục của người Việt, là truyền thống mà mọi nhà đều gìn giữ. Và thị mầu cũng lễ chùa để khấn vái. Được biết đến là một cô gái lẳng lơ, hình ảnh Thị Mầu lên gợi cho ta ấn tượng về một cô gái xinh đẹp, lả lướt có phần lẳng lơ, thiếu sự thành tâm, nghiêm túc nơi cửa chùa. Thị Mầu lên chùa khác với lệ thường là: Người ta lên chùa vào mười tư, rằm; còn Thị Mầu lên chùa mười ba.
Bởi vì ngay từ đầu Thị Mầu đã được xây dụng là người con gái lẳng lơ, không phải là người con gái theo quan niệm “tam tòng tứ đức” của thời xưa vậy nên, qua lời đề thì những cái dở, cái xấu của Mầu được bộc lộ rõ ràng hơn. Cái dở đó chỉ duy nhất là sự mù quáng, mà đã yêu đương say đắm và dữ dội đến như thế, thì có mù quáng cũng là dễ hiểu, do đó dễ thông cảm, và hơn nữa, dễ thương mà thôi.
Cái mù quáng của Thị Mầu là ở chỗ cô không nhận biết – đối tượng của mình… Thầy Tiểu mà cô mê thực ra là Thị Kính giả trai. Sự mù quáng của Thị Mầu cùng với cơn yêu đương. Hành động của Thị Mầu như là xông ra nắm tay chú tiểu, với những lời nói của người lẳng lơ, thấy chú tiểu đẹp thì mê, mà mê thì ghẹo, mà ghẹo thì ghẹo tới nơi tới chốn.
Những ngôn ngữ, hành động của Thị Mầu khi bày tỏ tình cảm với chú tiểu: khi gặp Mầu đã khen “đẹp như sao băng”, đôi mắt sắc như dao bổ cau liếc đi, liếc lại, đôi môi đỏ mọng lúc nào cũng cười nở như hoa và nhất là lời bóng gió, ẩn ý đầy chất dân gian để “đánh” đi những lượng tin cần thiết mà da diết về phía chú tiểu, táo bạo hơn nữa, lời nói chưa đủ làm Tiểu Kính rung động, Thị Mầu tiến tới hành động: đợi cơ hội Tiểu Kính ra và nắm tay Tiểu Kính, đòi quét chùa thay Tiểu Kính, lại còn mời mọc. Ta thấy sự táo bạo, mãnh liệt, quyết tâm; không e thẹn, do dự, ngại ngùng.
Trong lời giới thiệu với chú tiểu, Thị Mầu đặc biệt nhấn mạnh thông tin “chưa chồng”
“Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đây nhá!”
Đi lễ chùa nhưng có lẽ Thị Mầu đã tìm thấy thứ thu hút mình ngay từ cái nhìn đầu tiên, không quan tâm đến việc vào lễ Phật.
Thị mầu ghẹo tiểu được diễn tả bằng chính hai điệu hát “Cấm giá” và “Bình thảo”. “Cấm giá” vì Thị Mầu mới ve vãn nên câu thơ còn e ấp tế nhị:
“Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm”
“Bình thảo” khi mà sự ve vãn bên ngoài không có kết quả, khi mà Thị Mầu đã bốc lửa, Thị Mầu muốn đốt cháy với chú tiểu thì lời ca trong điệu hát không còn ngọt ngào:
“Người đâu ở chùa này
Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang
Ấy mấy thầy tiểu ơi”
“Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua
Phải nói rằng phép so sánh ở đoạn này thật độc đáo đến lạ, Lối nói ví von so sánh thể hiện khát khao yêu đương của Thị Mầu. “Thầy như táo rụng sân đình / Em như gái rở, đi rình của chua”. Cây táo mọc ở sân đình thường cao, sau mùa xuân chín rụng. Vì ít được chăm sóc lại già cỗi nên táo vừa chua, vừa chát. Còn người phụ nữ nghén, người đời gọi là gái rở, thường thèm của chua, thèm đến xót lòng.
Người đàn bà ăn dở mà gặp quả táo, hơn nữa lại là rụng mà rụng ở sân đình thì nỗi khát khao thèm muốn càng tăng thêm gấp bội. Nhặt quả táo lên chắc người con gái ăn dở ấy phải nhai nuốt ngấu nghiến. Việc Thị Mầu ví mình như gái rở, ví tiểu Kính như táo rụng sân đình thì hình ảnh vừa thật vừa rõ nét mà vừa dễ hiểu cho người xem. Những câu hát trong phần này tập trung thể hiện nỗi lòng, khát khao hạnh phúc của Thị Mầu nhưng lại bị chú tiểu ngó lơ.
Những lời đế ấy không chỉ giúp Mầu thể hiện rõ bản thân của mình mà còn khiến giá trị của những yếu tố trong vở chèo dân gian là cách dùng gậy ông lại đập lưng ông mà văn học dân gian rất thiện nghệ để phê phán, hơn nữa, bóc trần cái đạo đức giả của đạo đức phong kiến.
Đối diện với những lời mời mọc đầy mật ngọt của Thị Mầu thì Thị kính giữ khoảng cách, tìm cách từ chối, lẩn tránh, lúc nào cũng tụng kinh “Niệm Nam mô A Di Đà Phật!”. Bên cạnh nét giai điệu phóng túng, du dương là nét nhạc trầm lắng cùng với tiếng gõ mõ tụng kinh đều đều. Hai thái cực âm nhạc đối nhau, hai tâm trạng khác nhau, hai nỗi niềm khác nhau tạo nên một màn trò độc đáo.
Hai người con gái, hai hoàn cảnh, hai tính cách, hai số phận, hai cách lựa chọn… nhưng đều chịu sự trói buộc của lễ giáo phong kiến… Là một người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng ra Thị Kính phải có một cuộc sống êm ấm, hạnh phúc và vui vẻ, thế nhưng người phụ nữ ấy lại có một số phận đầy đau khổ và bất hạnh.
Vì muốn cắt cái râu mọc người cho chồng, Thiện Sĩ tỉnh giấc khi chưa hiểu rõ ngọn ngành đã hét lớn, cho rằng Thị Kính muốn giết mình. Trước sự việc ấy, Sùng bà – mẹ của Thiện Sĩ đã dùng những lời lẽ cay độc, tàn nhẫn để mắng chửi, sỉ nhục và thậm chí còn đẩy ngã Thị Kính. Tuy nhiên, trước những lời nói và hành động của mẹ chồng, Thị Kính vẫn rất hòa nhã, nàng phân bua, hết lần này đến lần khác kêu oan nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa.
Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà với nỗi oan khuất không thể lí giải còn cha của nàng thì bị đẩy ngã. Chắc hẳn sẽ chẳng có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của Thị Kính lúc này – hôn nhân, gia đình tan vỡ, mất lòng tin ở chính những người thân trong gia đình và hơn thế nữa đó chính là việc nàng đã phải chứng kiến cảnh cha mình bị làm nhục.
Tận cùng của nỗi đau và sự bất lực và có lẽ cũng không còn sự lựa chọn nào khác, Thị Kính quyết định ra đi. Sự lựa chọn ấy của Thị Kính như một lẽ tất yếu, bởi lẽ nàng đã bị đuổi khỏi nhà chồng, càng không thể trở về nhà cha mẹ đẻ bởi đó là điều lễ giáo phong kiến không cho phép.
Nàng giả trai đi tu, nương nhờ cửa Phật với mong mỏi sẽ có được cuộc sống yên bình và nơi thanh tịnh ấy sẽ chứng minh cho sự trong sạch của nàng. Nhưng đồng thời, sự lựa chọn ấy của nàng cũng cho thấy sự sự bế tắc của nàng nói riêng, của người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung bởi đấy là sự lựa chọn thụ động trước sự nghiệt ngã, xô đẩy của hoàn cảnh.
Tiếng gọi “thầy tiểu ơi” lặp đi lặp lại nhiều lần đã bộc lộ nỗi lòng say mê, yêu thương tha thiết của Thị Mầu. Mầu khao khát được yêu, được đáp lại tình yêu chân thành, Mầu dám phơi bày ruột gan tình cảm của mình ra trước mặt mọi người, dám thổ lộ, dám tấn công. Em ấn tượng nhất vời tỏ tình của Thị Mầu là:
“Một cành tre, năm bảy cành tre
Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng
Ấy mấy thầy tiểu ơi!…
Mẫu đơn giồng cạnh nhà thờ
Đôi ta chỉ quyết đợi chờ lấy nhau”
Bởi lời tỏ tình ấy da diết làm sao, nó chứa chan mong ước về tự do yêu đương, tự do lựa chọn hôn nhân. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu – giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu.
Một thì Mầu khác biệt với Thị Kính. Thị kính nhẫn nhịn, thị Kính chịu đựng bao nhiêu thì thị Mầu lại bùng nổ bấy nhiều. Thị Mầu dám cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Trong dòng nghĩ suy qua lời hát ghẹo của Thị Mầu đã ẩn chứa khát khao chung tình – khao khát chính đáng trong tình yêu.
Đối lập hoàn toàn với Thị Kính là Thị Mầu, Thị Mầu lẳng lơ, sàm sỡ, táo bạo. Thị Mầu đáng giận, đáng trách. Vì Thị Mầu mà Thị Kính bị oan, phải nuôi con trong chốn thiền môn. Từ chuyện tích này, dân gian có thành ngữ “oan Thị Kính” để so sánh với những nỗi oan khuất cùng cực mà không sao giãi bày được.
Từ thành ngữ nói trên, đã hình thành một thành ngữ phái sinh là “oan Thị Mầu” để nói đến việc đã rõ ràng mười mươi là do mình gây ra nhưng vẫn cứ kêu oan, như Thị Màu bị dân làng bắt vạ vì không chồng mà chửa mà vẫn cho rằng mình… oan!
Thực ra, Thị Mầu đáng thương hơn đáng trách, đáng giận, có khi còn quá xót xa, thông cảm cho nhân vật này. Bởi vì người phụ nữ có quyền yêu nhưng không được yêu, có quyền được làm mẹ nhưng lạ không thể kàm mẹ.
Thị Mầu yêu say đắm Kính Tâm nhưng không được đáp trả, nàng vốn có tính lẵng lơ nên đã tư thông với tên người hầu để phải chửa. Nàng chửa, rồi đổ vạ cho Kính Tâm khiến cho Kính Tâm phải chịu oan. Nhưng rồi tới khi sinh con cũng không được cha cho nuôi, bắt đem đứa con ấy đến chùa.
Xót xa thay! Tình máu mủ đâu có thể nói bỏ là bỏ được. Chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau rồi phải mang đứa con mình ra trước cổng chùa, để phó mặc nó sống sao thì sống, ai mà không xót xa, thương cảm cho được. Như vậy, chẳng phải Thị Màu đã trở thành một kẻ đáng thương rồi sao?
Chiếu chèo sân đình tái hiện lại một Thị Mầu thực dám sống, dám yêu và dám làm những điều chống lại xiềng xích của chế độ cũ – chế độ không cho người phụ nữ được thể hiện mình, chôn vùi cuộc đời họ bằng nhiều hình thức. Xét cho cũng, dù Thị Mầu là con nhà Phú ông, là người có nhiều tính xấu nhưng số phận cũng gống như Thị Kính và những người phụ nữ khác, số phận đều bế tắc, không có lối thoát!
Thị Mầu là người con gái có cá tính riêng, dám vượt qua khuôn khổ vốn có của Nho Giáo để bày tỏ và thể hiện mình, Thị Mầu như đại diện cho bao nỗi khát vọng của người phụ nữ xưa. Tuy những hành động của Mầu trong chùa là điều không nên làm nhưng bởi sự hối thúc, khao khát của tình yêu mà lí trí bị lu mờ.
Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu.
Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Cô ý thức tự do trong tình yêu bộc lộ ở lời nhủ mình và khuyên chị em chớ nghe họ hàng. Thị Mầu là con người của nghệ thuật.
Gửi đến bạn mẫu 🍃 Phân Tích Hạnh Phúc Của Một Tang Gia 🍃 chi tiết