12+ Mẫu Phân Tích Sống Chết Mặc Bay Hay Nhất, Đón Đọc Tuyển Tập Bài Văn Đặc Sắc Phân Tích Tác Phẩm Truyện Ngắn Nổi Tiếng Của Phạm Duy Tốn.
Giới Thiệu Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay
“Sống chết mặc bay” là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Phạm Duy Tốn, được viết theo thể loại truyện ngắn hiện đại và đăng trên tạp chí Nam Phong số 18 vào tháng 12 năm 1918. Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông và được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 7 tại Việt Nam.
Nội dung chính:
- Câu chuyện kể về sự tắc trách của quan phụ mẫu làng X trong việc bảo vệ đê điều, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho người dân. Trong khi dân làng đang cố gắng chống đỡ lũ lụt, quan phụ mẫu lại thờ ơ, mải mê chơi bài trong đình.
Giá trị nghệ thuật:
- Nội dung: Phản ánh hiện thực xã hội phong kiến, phê phán sự vô trách nhiệm của quan lại.
- Nghệ thuật: Sử dụng ngôn ngữ sinh động, miêu tả chi tiết, tạo nên sự tương phản giữa cảnh khổ cực của dân làng và sự xa hoa, thờ ơ của quan lại
Xem thêm: Giải Thích Câu Tục Ngữ Sống Chết Mặc Bay
Dàn Ý Phân Tích Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay
Tham khảo dàn ý phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay dưới đây sẽ giúp các em học sinh xác định được cho mình bố cục và hệ thống luận điểm khi làm bài.
1.Mở bài phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay:
- Giới thiệu khái quát về tác giả Phạm Duy Tốn (những nét chính về cuộc đời, đặc điểm truyện ngắn của ông…)
- Giới thiệu về tác phẩm “Sống chết mặc bay” cần phân tích (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)
2.Thân bài phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay:
a. Tình hình vỡ đê và sức chống đỡ:
-Tình hình vỡ đê:
- Thời gian: gần một giờ đêm
- Địa điểm: Khúc đê làng X, thuộc phủ X
- Thời tiết: trời mưa tầm tã, nước càng ngày càng dâng cao
- Thế đê: hai ba đoạn nước đã ngấm qua và rỉ chảy đi nơi khác
- Nghệ thuật tăng cấp diễn tả sự dữ dội của thiên tai, thể hiện tình huống khó khăn của người dân.
-Sức chống đỡ của người dân:
- Thời gian: từ chiều cho đên gần 1 giờ sáng
- Dân phu hàng trăm người vất vả, cố sức giữ đê: kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, người vác tre, nào đắo, nào cừ…
- Tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ nhưng ai cũng đã mệt lử cả rồi
- Không khí: khẩn trương, gấp gáp (trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi..)
- Cảnh tượng nhốn nháo, căng thẳng, con người dường như bất lực hoàn toàn. Qua đó thể hiện tâm trạng lo lắng của tác giả
- Nghệ thuật: ngôn ngữ miêu tả, liệt kê, sử dụng động từ mạnh…
b. Cảnh quan phụ mẫu đánh tổ tôm khi đi hộ đê:
-Địa điểm: đình trên mặt đê, vững chãi, an toàn
-Khung cảnh trong đình:
- Đèn thắp sáng trưng, khói bay nghi ngút
- Nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng
- Quan phủ cùng nha lại đánh tổ tôm: quan phụ mẫu uy nghi chễm chệ ngồi trên sập, say mê đánh tổ tôm
-Khi đê vỡ:
- Không hề lo lắng: “cau mặt, gắt: mặc kệ!”
- Vẫn không ngừng việc chơi bài
- Tên quan là kẻ vô trạch nhiệm, thờ ơ trước nỗi khổ của nhân dân
-Nghệ thuật: tương phản giữa cảnh tượng trong đình và ngoài đê, qua đó làm nổi bật sự hưởng lạc, vô trách nhiệm của tên quan phụ mẫu trước tình cảnh khốn khổ của nhân dân
-Thái độ của tác giả: mỉa mai, châm biếm, phê phán bọn quan lại vô trách nhiệm và cảm thương với nối khổ của nhân dân (thể hiện qua các từ: than ôi, ôi…)
c. Cảnh vỡ đê và nhân dân lâm vào cảnh lầm than
- Nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết
- Kẻ sống không có chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn
- Tình cảnh thảm sầu, đau thương
3.Kết bài phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay:
-Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm:
- Nội dung: lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú” và bày tỏ niềm thương cảm trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên
- Nghệ thuật: tăng cấp kết hợp với tương phản, lời văn cụ thể, sinh động..
-Cảm nhận của em về truyện ngắn: giàu giátrị hiện thực và nhân đạo, thể hiện tài năng của tác giả…
Cùng với phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay, tham khảo thêm 🍀 Tóm Tắt Bài Sống Chết Mặc Bay 🍀 15 Mẫu Ngắn Gọn Hay
Phân Tích Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Của Phạm Duy Tốn – Mẫu 1
Bài văn phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những định hướng làm bài cụ thể.
Dòng văn học hiện thực phê phán là một trong những dòng văn học tiêu biểu của Việt nam vào đầu những năm 20-30 của thế kỉ XX. Dòng văn học này nổi lên với những tên tuổi đình đám như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Phạm Duy Tốn… Trong các phẩm của các nhà văn này, Sống chết mặc bay là tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn cho Phạm Duy Tốn, cũng là tác phẩm tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán.
Câu chuyện được Phạm Duy Tốn xây dựng dựa trên hiện trạng của nhân dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Truyện lấy bối cảnh của vùng nông thôn Việt Nam vào đầu những năm 20 thế kỷ XX.
Trong một đêm khuya, mưa gió bão nổi lên khắp nơi trên một khúc đê bên sông Nhị Hà làm vỡ đê nơi đây, khiến dân chúng rơi vào tình trạng vô cùng nguy cấp. Vậy mà, trong tình huống nghìn cân treo sợi tóc này, trong đình quan phụ mẫu vẫn ngồi chơi tổ tôm với các tên quan lại khác, không quan tâm đến đê điều hay dân chúng sống chết ra sao. Họ để mặc dân chúng tự sinh tự diệt “sống chết mặc bay”.
Ngay từ đầu, tên của tác phẩm đã gây ấn tượng với độc giả “sống chết mặc bay”. Tên tác phẩm được lấy từ vế trước của câu tục ngữ “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Đây là câu tục ngũ dùng để chỉ thái độ của bạn thầy lang, thầy cúng trong xã hội cũ. Nó còn dùng để chỉ những người vô trách nhiệm chỉ biết hưởng lợi, chỉ biết đến bản thân mình, làm sao cho mình vui vẻ mà không quan tâm đến người khác ra sao, họ chỉ quan tâm đến bản.
Tác giả cố tình chọn phần đầu của câu tục ngữ mà không sử dụng cả câu bởi ông muốn kích thích trí tò mò của người đọc, thu hút người đọc hướng đến câu chuyện của mình.
Tác phẩm được mở ra với một không gian rộng lớn, tối om nhưng không khí lại rất vội vàng, khẩn trương, trong đó còn có cả sự gấp gáp của con người nơi đây: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất.”
Ngược lại, là không khí nhỏ hẹp, sáng trưng với đèn đuốc trong đình, con người lại ung dung, nhẹ nhàng không hề ăn nhập với không khí ngoài kia của dân con: “Bên cạnh ngài, bên tay trái bát yến hấp phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút…hai bên nào là ống thuốc bạc, trông mà thích mắt”.
Phạm Duy Tốn dường như đã hóa thân thành người đạo diễn tài ba hơn người. Ông làm nên một đoạn phim với hai cảnh phim song song nhưng đối lập nhau hoàn toàn ở mọi phương diện. Với cảnh ngoài đê, nhân vật chính là dân chúng; không khí nơi đây khẩn trương, vội vã, con người chật vật để chống chọi lại với thiên nhiên. Mặt khác, cảnh trong đình, nhân vật chính là quan phụ mẫu; không khí lại rất nhẹ nhàng, con người vui vẻ với việc ăn chơi đàn điếm. Hai cảnh tuy là song song nhưng lại rất cần tới nhau, cái này cần cái kia tới cứu giúp.
Người trong đình là nơi có thể giải quyết mọi việc giúp nhân dân bên ngoài những dường như họ cảnh bận tâm bất cứ điều gì ngoài tổ tôm, bài bạc. Có lẽ, chính thiên nhiên cũng biết người đân nơi đây không có quan phụ mẫu quan tâm nên càng ra sức bắt nạt, làm khó dân con nơi đây.
Ngược lại hoàn toàn với cảnh đó cách vài trăm thước, trong đình đèn điện sáng trưng nhộn nhịp người đi lại, quan phụ mẫu chễm chệ có lính gãi chân, có lính quạt hầu, thản nhiên đánh bài: “Một người quan phụ mẫu uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên đứng khoanh tay trực hầu điếu đóm…”.
Buồn cười làm sao, có những con người đang phải chống chọi để giành lấy sự sống từ thiên nhiên ngược lại là người an nhàn, ngồi chơi như không phải việc của mình. Hai hình ảnh tương phản làm sao: sự khốn khổ, điêu đứng của người dân và sự ung dung, an nhàn vô trách nhiệm của tên quan “phụ mẫu”.
Bộ mặt thật của quan phụ mẫu nơi đây đã lộ, bản chất vô nhân đạo, lối sống “sống chết mặc bay” của quan huyện cũng đã lộ rõ dưới ngòi bút sắc sảo của Phạm Duy Tốn. Mưa bão và sinh mạng hàng ngàn con dân không bằng một trăm hai mươi lá bài. Không khí trong đình vẫn im lặng, chẳng có chút không khí vỡ đê, đắp đê nào cả chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi “điếu mày”, tiếng “dạ”, tiếng “bốc”, “Bát sách! Ăn…” Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”…
Với việc sử dụng thủ pháp đối lập tương phản và nghệ thuật xây dựng tình huống truyện; cùng giọng văn thay đổi liên tục khi thiết tha xúc động, khi cay độc, mỉa mai. Tác phẩm là lời tố cáo đanh thép nhất cho sự thối nát của bọn chính quyền phong kiến chèn ép, đàn áp con dân của mình. Để cho dân chúng tự sinh tự diệt, sống chết mặc bay. Qua đó, tác giả đã bày tỏ thái độ chán ghét lên án với chế độ đương thời và niềm thương xót nhân dân vô tội.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Sống Chết Mặc Bay Hay Nhất – Mẫu 2
Đón đọc bài văn phân tích Sống chết mặc bay hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Phạm Duy Tốn (1883-1924) là một trong số ít nhà văn có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Sống chết mặc bay được coi là tác phẩm thành công nhất của ông. Không chỉ có vai trò đặt nền móng cho văn xuôi hiện thực Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, truyện ngắn này còn có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đặc biệt, giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện rõ nét qua thái độ của tác giả đối với hai đối tượng chính: nhân dân lao động và quan phụ mẫu.
Đối với một tác phẩm văn học hiện đại, tư tưởng của nhà văn thường ít khi được phơi bày trực tiếp trên bề mặt câu chữ mà thường hóa thân vào thế giới hình tượng, ẩn kín đằng sau ngôn ngữ nghệ thuật hoặc thể hiện gián tiếp qua giọng điệu trần thuật.
Ở truyện ngắn Sống chết mặc bay, một mặt, chúng ta nhận ra tính hiện đại của tác phẩm ở nghệ thuật xây dựng nhân vật khá chân thực, sinh động, sắc sảo, ở giọng điệu trần thuật linh hoạt, phong phú. Mặt khác, tác phẩm vẫn mang dấu vết của văn xuôi truyền thống Việt Nam; điều đó thể hiện qua những lời trữ tình ngoại đề, lời bình luận, nhận xét trực tiếp thể hiện thái độ, suy nghĩ của nhà văn.
Xây dựng hai đối tượng: người dân lao động và quan phụ mẫu, nhà văn đã thể hiện rõ hai thái độ đối lập nhau. Trước hết là thái độ của tác giả đối với người dân quê. Trong văn học Việt Nam trước đây, hình ảnh người dân lao động hiện lên phần lớn với thân phận “con sâu cái kiến” nhỏ bé, hèn mọn, đáng thương. Tuy là thành phần chiếm số đông trong xã hội, là lực lượng lao động sản xuất chính, nhưng cũng chính người dân lao động lại là đối tượng phải chịu ách bóc lột tàn ác, nặng nề nhất trong chế độ xã hội thực dân nửa phong kiến.
Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn mở ra bằng cảnh tượng hàng nghìn người dân đang căng ra chống chọi với mưa to nước lớn, với nguy cơ vỡ đê. Ngòi bút của nhà văn đi từ viễn cảnh đến cận cảnh, xoáy vào hành động nỗ lực cứu để khỏi vỡ và nguy cơ đê vỡ đang ngày càng tăng cao: “Hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ các tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột”.
Tình cảnh của người dân càng trở nên nguy khốn khi được đặt trong thế đối lập giữa sức người nhỏ bé với sức trời, sức nước: “… Xem chừng ai ai cũng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên”.
Có thể nói, những câu văn vẽ lên chi tiết, sống động cảnh tượng lao đao, khốn quẫn của người dân. Chưa hết! Người dân không chỉ chịu thảm họa, đe dọa mất mọi tài sản, của cải, tính mạng do thiên tai; họ còn chịu sự bất công do thái độ bàng quan, vô trách nhiệm và bản chất tàn ác, bất nhân của quân phụ mẫu. Trong khi muôn dân cơ cực đang lo chống đỡ với nguy cơ vỡ đê thì bậc cha mẹ dân vẫn ung dung ngồi chơi bài, chờ ù.
Ngay cả khi người dân quê hốt hoảng, tất tả chạy vào báo tin đê vỡ thì lại bị “giới một gáo nước lạnh” bằng lời quát đầy quyền uy của quan phủ: “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?…”. Có thể nói, thân phận, tính mạng của muôn dân không được coi trọng bằng một ván bài của quan phụ mẫu, thật là đau xót!
Thái độ của tác giả đối với người dân quê thể hiện rõ rệt nhất qua những lời cảm thán, lời trữ tình ngoại đề, ví như: “Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế để không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất”. Dường như nhà văn đang dõi theo từng bước tình cảnh của người dân, phập phồng lo lắng cùng với họ.
Cho đến câu kết truyện, “trong khi quan lớn ù oán bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!”. Không kìm được lòng mình, tác giả đã cất lên lời kêu than xót xa cho nỗi khốn khổ của người dân vì thiên tai và sự vô nhân tâm, vô trách nhiệm của quan phủ. Cảm quan nhân đạo của nhà văn cũng được thể hiện trực tiếp trên bề mặt câu chữ.
Cùng với hình ảnh người dân hộ đê, hình ảnh quan phủ cũng là hình ảnh trung tâm trong tác phẩm. Thái độ của tác giả đối với nhân vật này vừa thể hiện trực tiếp qua những lời bình luận, nhận xét, vừa ẩn trong những chi tiết miêu tả tư thế, cử chỉ, thái độ, ngôn ngữ của quan trong tình cảnh “nước sôi lửa bỏng” kia.
Ngòi bút nghệ thuật của Phạm Duy Tốn tập trung dựng nên khung cảnh “tĩnh mịch, nghiêm trang” trong đình, nơi quan phụ mẫu hiện lên, khi thì “uy nghi, chễm chệ ngồi”, hai bên có kẻ hầu người hạ tấp nập, khi thì “ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi”, chờ bài ù. Tất cả đều thể hiện một vẻ “nhàn nhã, đường bộ”.
Duy chỉ một lần quan lộ sắc diện giận dữ là khi có một dân quê hốt hoảng chạy vào báo tin đê vỡ, làm phá vỡ không khí tôn nghiêm nơi đây, khi ván bài của quân sắp ù đến nơi. Và ở đoạn kết, không kìm được niềm vui sướng, quan “vỗ tay xuống sập”, vừa cười vừa hớn hở báo tin bài của quan ù thông và ù to.
Nghệ thuật tương phản và tăng cấp được khai thác đến tối đa đã vẽ lên chân dung khá sắc nét của quan phủ- một kẻ không chỉ bàng quan, vô trách nhiệm mà còn vô cùng tàn ác, nhẫn tâm. Được tôn là “cha mẹ dân” nhưng quan lớn lại coi sinh mạng con dân của mình không bằng một lá bài. Sự lạnh lùng, thản nhiên trước số phận đồng loại ở quan phụ mẫu khiến độc giả cũng phải rùng mình kinh sợ. Thái độ phẫn nộ, căm giận của nhà văn cũng thể hiện qua những chi tiết miêu tả chân dung nhân vật quan phủ.
Bên cạnh đó, nhà văn còn thể hiện trực tiếp thái độ của mình qua những lời bình luận, với những giọng điệu khác nhau. Khi thì là giọng điệu mỉa mai, chế giễu sâu cay như câu: “So với cảnh trăm họ đang vất vả lắm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sau lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ nguy nga: nào quan ngồi trên, nào nha ngồi dưới, người nhà, lính lệ khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh”.
Hay tiếng quan và các thầy để lại đối đáp “lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười, khi nói vui vẻ dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vì phúc tinh”. Tính chất mỉa mai trào phúng không che giấu thể hiện ở cách nói ngược đó.
Có khi, lời bình luận của tác giả lại mang giọng điệu vừa than thở, chua xót, lại vừa như những câu hỏi xoáy vào tâm não: y đó, quan phụ mẫu cùng với nhau lại đương vui cuộc tổ tôm ở trong đình ấy. Ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hội thì dầu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thấy kệ..
Ôi! Trăm hai mươi lá bài đen đỏ, có cái ma lực gì mà run rủi cho quan mê được như thế… Này, này để vỡ mặc đê, nước sông dù nguy, không bằng nước bài cao thấp. Than ôi! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậy… thì đố ai dám bảo rằng: gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thảm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch!….
Có khi, nhà văn dường như “nhập” sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật quan phủ, phơi bày đến tận chiều sâu tâm tư, suy nghĩ của hắn:
“Mặc! Dân, chẳng dân thời chở! Con bài ngon hà nỡ bỏ hoài ru! Quan lớn ngài ăn, ngài đánh người hầu kẻ dạ, kẻ vâng. Sướng bao nhiêu, thích bao nhiêu! Lúc quan hạ, bài ù, ai ai là người chẳng ngợi khen tấm tắc! Một nước bài cao, bằng mấy mươi để lở, ruộng ngập!”.
Biện pháp so sánh và tương phản càng bộc lộ rõ thân phận của những dân đen con đỏ đặt trong tương quan đối sánh với niềm đam. mê bài bạc của quan phụ mẫu. Với cách diễn đạt trực tiếp đó, nhà văn đã lên tiếng tố cáo gay gắt bản chất của quan phủ
Như vậy, qua truyện ngắn Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn đã thể hiện rõ cảm quan hiện thực và nhân đạo sâu sắc của mình. Sự thể hiện rõ ràng hai thái độ đối lập nhau với hai đối tượng như trên đã phân tích là minh chứng rõ nét nhất cho lập trường, tư tưởng nghệ thuật vị nhân sinh của nhà văn. Do đó, có thể khẳng định đây là một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu, một trong những người mở đường cho dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.
Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Vở Chèo Quan Âm Thị Kính 🔥 11 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Ngắn Gọn – Mẫu 3
Bài văn phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích và cô đọng nội dung.
Phạm Duy Tốn một trong số ít những nhà văn có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại. “Sống chết mặc bay” là tác phẩm tiêu biểu của ông. Truyện đã lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú” và bày tỏ niềm thương cảm trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.
Trong truyện, tác giả đã xây dựng một tình huống độc đáo: “Gần một giờ đêm, không gian (địa điểm) là khúc đê làng X, thuộc phủ X. Đồng thời miêu tả thời tiết lúc này “trời mưa tầm tã, nước càng ngày càng dâng cao”, “hai ba đoạn nước đã ngấm qua và rỉ chảy đi nơi khác”. Việc sử dụng nghệ thuật tăng cấp, qua đó diễn tả sức hung bạo của mực nước và điều đó đang đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân.
Trong hoàn cảnh đó hàng trăm người vất vả, cố sức giữ đê: “Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, người vác tre, nào đắp, nào cừ… Khung cảnh náo loạn với tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ nhưng ai cũng đã mệt lử cả rồi”. Cuối cùng là một lời nhận xét ngắn gọn nhưng hoàn toàn đúng đắn: “Tình cảnh trông thật là thảm”.
Nhà văn còn khéo léo bộc lộ thái độ của mình qua: “Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất”. Qua những câu văn trên, khung cảnh ngoài đê lúc này hiện lên thật nhốn nháo, căng thẳng. Còn con người dường như bất lực hoàn toàn.
Đối lập với ngoài đê là khung cảnh bên trong đình. Đình nằm trên mặt đê, vững trãi và an toàn lắm. “Trong đình, đèn thắp sáng trưng, khói bay nghi ngút. Nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng”. Còn quan phủ cùng nhau lại đánh tổ tôm: “quan phụ mẫu uy nghi chễm chệ ngồi trên sập, say mê đánh tổ tôm”. Đến khi có người chạy vào báo con đê sắp vỡ, viên quan phụ mẫu đáng kính còn “cau mặt, gắt: mặc kệ!”. Rồi sau đó vẫn không ngừng việc chơi bài.
Khung cảnh trong đình thật náo nhiệt “thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: “Điếu, mày”; tiếng tên lính thưa: “Dạ”; tiếng thầy đề hỏi: “Bẩm, bốc”; tiếng quan lớn truyền: “Ừ”. Kẻ này: “Bát sách! Ăn”. Người kia: “Thất văn… Phỗng”, lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười, khi nói vui vẻ dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vì phúc tinh…”.
Để rồi đến cuối cùng, sức người không chống nổi lại với sức thiên nhiên. Con đê vỡ, khiến cho nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi, lúa má ngập hết. Kẻ sống không có chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn. Một tình cảnh đáng thương, đau đớn biết bao. Vậy mà “Bấy giờ ai nấy ở trong đình, đều nôn nao sợ hãi. Thốt nhiên một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, quần áo ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra lời:
-Bẩm… quan lớn… đê vỡ mất rồi!
Quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng:
-Đê vỡ rồi!… Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?…”.
Những câu đối thoại đã khắc họa sự vô trách nhiệm của viên quan phụ mẫu. Đáng lẽ lúc này, quan phụ mẫu – bậc cha mẹ của nhân dân phải cùng nhân dân hộ đê. Thì đáng buồn thay, quan lại ngồi trong đình hưởng thụ. Tác giả đã khéo léo sử dụng nghệ thuật tương phản giữa cảnh tượng trong đình và ngoài đê, qua đó làm nổi bật sự hưởng lạc, vô trách nhiệm của tên quan phụ mẫu trước tình cảnh khốn khổ của nhân dân.
Cuối cùng, tác giả đã miêu tả cảnh đê vỡ: “Nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi, lúa má ngập hết. Kẻ sống không có chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn. Tình cảnh của nhân dân thì thảm hại, còn ngược lại trong đình quan phụ mẫu lại sung sướng vì đã ù được ván bài. Hình ảnh đối lập ngoài đê – trong đình càng làm rõ sự vô trách nhiệm của tên quan phủ trong bài.
Như vậy, Sống chết mặc bay đã Phản ánh bộ mặt giai cấp thống trị tham lam, vô trách nhiệm mà tiêu biểu là tên quan phụ mẫu hộ đê đối lập hoàn toàn với cuộc sống cơ cực, lầm than khốn khổ của nhân dân. Qua đó, Phạm Duy Tốn cũng thể hiện cảm thông với sự vất vả, khốn khổ của người dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại. Truyện giàu giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
Mời bạn đón đọc 🌜 Phân Tích Bài Sài Gòn Tôi Yêu 🌜 8 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Ngắn Nhất – Mẫu 4
Tham khảo bài văn phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập để chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp.
Phạm Duy Tốn là một trong số ít những người có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại. Tác phẩm Sống chết mặc bay của ông đã khắc họa cuộc sống khổ cực của người trước thiên tai, cũng như sự vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền trong xã hội xưa.
Tác giả đã đặt tên cho truyện ngắn của mình nhan đề là “Sống chết mặc bay” được lấy ý từ câu “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Ý nghĩa của câu tục ngữ muốn muốn phê phán những hạng người vô trách nhiệm, chỉ biết lợi ích của bản thân mà không quan tâm đến cuộc sống, thậm chí tính mạng của những người khác.
Qua nhan đề này, nhà văn muốn phê phán, tố cáo những bọn có chức quyền, mang danh “quan phụ mẫu”, “cha mẹ” của dân nhưng lại vô trách nhiệm, mất hết nhân tính, thờ ơ trước sự sống còn của con dân. Đồng thời, ông còn bộc lộ sự xót thương, đồng cảm trước cuộc sống đầy cực khổ của người dân trong xã hội xưa.
Truyện được mở đầu bằng tình huống vô cùng căng thẳng là cảnh con đê sắp vỡ xảy ra vào gần một giờ đêm, tại khúc đê làng X, thuộc phủ X. Cùng với việc xác định cụ thể không gian thời gian, nhà văn còn miêu tả chi tiết tình cảnh lúc bây giờ “trời mưa tầm tã, nước càng ngày càng dâng cao”, “hai ba đoạn nước đã ngấm qua và rỉ chảy đi nơi khác”. Nghệ thuật tăng cấp được sử dụng nhằm diễn tả sự dữ dội của thiên tai đang đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân.
Trước tình huống đó, nhân dân đang cố sức giữ đê: “Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, người vác tre, nào đắp, nào cừ… Khung cảnh náo loạn với tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ nhưng ai cũng đã mệt lử cả rồi”. Con người đang dùng toàn bộ sức lực để chống lại sự tàn phá của thiên nhiên.
Cuối nhà văn đã nhận xét: “Tình cảnh trông thật là thảm” và bộc lộ thái độ: “Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất”. Những câu văn cho thấy sự đồng cảm, thương xót của tác giả, sức người nào có thể chống chọi với sức trời.
Nhà văn tiếp tục khắc họa khung cảnh trong đình, nơi viên quan phụ mẫu phụ trách việc hộ đê đang ngồi, hoàn toàn đối lập với khung cảnh ngoài đê: “Trong đình, đèn thắp sáng trưng, khói bay nghi ngút. Nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng”.
Tác giả còn khắc họa chân dung của quan lớn rất cụ thể, sắc nét: “Trên sập; mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy…”.
Xung quanh quan có đủ kẻ hầu người hạ từ thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng cùng ngồi hầu bài. Có thể thấy rằng quan phụ mẫu đang rất nhàn hạ, ung dung và không mảy may quan tâm đến tình cảnh thảm thương của dân chúng đang diễn ra trên đê. Trong đình vẫn duy trì cái không khí uy nghiêm của chốn công đường, không hề có một chút liên hệ nào với cảnh hộ đê tất bật ngoài kia của dân phu.
Truyện được đẩy lên cao trao khi ngoài kia, con đê bị vỡ. Nước tràn lênh láng, khắp nơi, nhà cửa trôi còn ruộng lúa má ngập hết. Kẻ sống không có chỗ để ở, còn kẻ chết thì không có nơi để chôn.
Vậy mà khi đó, ở trong đình, vị quan phụ mẫu lại đang sung sướng vì ù được ván bài. Khi có người chạy vào báo đê đã vỡ, quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: “Đê vỡ rồi!… Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?…”. Những câu văn đã bộc lộ sự vô trách nhiệm của bậc quan phụ mẫu của nhân dân.
Như vậy, Phạm Duy Tốn đã vô cùng thành công khi sáng tác truyện ngắn “Sống chết mặc bay”. Truyện đã gợi cho người đọc cái nhìn chân thực về một bộ máy chính quyền quan lại trong xã hội xưa.
Gợi ý cho bạn 💧 Phân Tích Bài Ca Huế Trên Sông Hương 💧 8 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn Trích Sống Chết Mặc Bay Chi Tiết – Mẫu 5
Bài văn phân tích đoạn trích Sống chết mặc bay chi tiết dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm vững những giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn được xem là “bông hoa đầu mùa” vì đây là truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ. Dù vẫn còn mang những dấu ấn của văn học trung đại cả về nội dung lẫn hình thức những vấn đề được phản ánh lại có giá trị đến tận hôm nay. Nổi bật ở tác phẩm này chính là sự đối lập nhau của hai giai cấp khi đứng trước vấn đề cấp bách sống còn của nhân dân.
Mở đầu câu chuyện là tình thế vô cùng nguy nan của khúc đê sông Nhị: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá. Khúc sông làng X, thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Đối với nhân dân ta, đê điều là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong quá trình sinh sống và canh tác.
Nếu không may vỡ đê, nhà cửa, hoa màu, cây cối và cả con người sẽ chìm trong nước, cuộc sống sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Khúc đê sông ở làng X kia đang đứng trước nguy cơ bị vỡ, đúng là tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Bị đe dọa trực tiếp đến cuộc sống, nhân dân ở đây ra sức hộ đê. Khung cảnh ấy được tác giả miêu tả lại bằng ngòi bút hiện thực hết sức sống động và xót thương: “…kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vá tre, nào đắp, nào cứ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột.
“Tình cảnh trông thật thảm”. Khung cảnh vội vã, khẩn trương hiện ra ngay trước mắt người đọc. Ai cũng nhận thức được tình hình nguy nan ngay lúc này, mỗi người đều dốc hết những gì sức lực mình có để cứu vớt lấy khúc đê này. Hình ảnh nhìn rất đỗi thương tâm.
Không dừng lại ở đó, tình thế của nhân dân được tác giả đẩy lên đến cao trào: “Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời, thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất.”
Qua đoạn văn này, ta đã hiểu được rằng người dân ở đây đã túc trực bao nhiêu lâu qua chứ không phải mỗi hôm nay. Tuy rằng mọi người bảo ban nhau nhanh tay nhưng sức người có hạn, ai cũng đã thấm mệt rồi. Đọc đến đây, cảm giác thương xót đến uất nghẹn. Tình thế này liệu còn được bao nhiêu phần hi vọng nữa. Mọi người đều cảm nhận được tình thế nguy nan, đau thương tang tóc đang cận kề với mỗi người ở làng X này.
Tác giả miêu tả cảnh dân tình đang loay hoay chống chọi với thiên tai một cách cụ thể, tỉ mỉ là để chuẩn bị cho sự xuất hiện của cảnh tượng hoàn toàn trái ngược diễn ra trong đình: “… thế thời nào quan cha mẹ đâu? Thưa rằng: Đang trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa cũng không việc gì”.
Trong khung cảnh hỗn loạn của quan dân, tác giả đã kể chuyện viên quan phụ mẫu mải mê chơi tổ tôm với đám quan lại dưới quyền và được sai nha, lính lệ hầu hạ, cung phụng đến nơi đến chốn. Giọng điệu đậm chất mỉa mai, châm biếm và phẫn uất. Vị quan phụ mẫu cũng đích thân chỉ đạo việc hộ đê đấy chứ, nhưng không phải là ra cùng với nhân dân mà hắn ta ở trong đình, không gian ấm áp với những món ăn sang trọng, xa hoa: “đèn thắp sáng trưng, nha lệ, lính tráng đi lại rộn ràng”.
Quan phụ mẫu thì “uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho tên người nhà ngồi dưới đất mà gãi”. Quan phụ mẫu là vậy, nhưng xung quanh hắn ta lại có đủ “thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng” cùng ngồi hầu bài. Cả một hệ thống quan lại ăn bổng lộc của dân nhưng lại mảy may, dửng dưng trước sự sống còn của họ. Khung cảnh ở đây dường như không có chút liên quan nào so với tình hình hộ đê của nhân dân.
Trong khi ngoài kia “mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa như đàn sâu lũ kiến ở trên đê” thì trong đình, dù chỉ là một cuộc tổ tôm thôi nhưng tên quan kia vẫn duy trì trật tự trên dưới và không khí tôn nghiêm như chốn công đường. Sự đam mê cờ bạc của đám quan lại diễn ra ngay trên mặt đê, ngay trên mạng sống của hàng nghìn con dân đã cho thấy sự độc ác, vô liêm sỉ của kẻ cầm quyền.
Nỗi đau đẩy lên đến đỉnh điểm khi mà khoảnh khắc đê vỡ- nỗi đau đớn, mất mát của nhân dân lại cũng là lúc ván bài của quan ù to- quan vỗ đùi sung sướng. Còn gì uất hận hơn khi những nỗi đau ấy còn thua cả niềm vui của một ván bài.
Khung cảnh vỡ đê được tác giả miêu tả thật chi tiết và chua xót biết bao nhiêu: “Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp nơi mọi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết”. Dẫu biết rằng cuộc sống nghèo khổ của nhân dân là do thiên tai gây nên những nỗi đau ấy sẽ vơi đi bao nhiêu nếu những kẻ làm quan cha mẹ không thờ ơ với mạng sống của con dân mình như thế.
Câu chuyện khép lại với một kết thúc buồn. Tác giả đã sử dụng tài tình bút pháp miêu tả kết hợp với biểu cảm, cùng với đó là nghệ thuật đối lập tăng cấp đã làm cho câu chuyện đẩy lên được mức cao trào, giúp người đọc nhận ra được tình cảnh khốn cùng của nhân dân và bộ mặt xấu xa, vô lương tâm của đám quan lại. Câu văn biền ngẫu làm cho nhịp truyện cân đối, mang đậm không khí của thời đại.
Với truyện ngắn này, Phạm Duy Tốn đã mở ra một thời kì mới cho văn học nước nhà, đó là sự ra đời của văn học viết bằng chữ Quốc ngữ. Tác phẩm đã đặt nền móng đầu tiên cho sự phát triển của văn học nước nhà thời kì sau này.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Nghị Luận Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông 🍀 15 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Văn Bản Sống Chết Mặc Bay Đầy Đủ – Mẫu 6
Bài văn mẫu phân tích văn bản Sống chết mặc bay đầy đủ dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Phạm Duy Tốn (1883-1924) quê ở Thường Tín, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), là nhà văn hiện thực tiên phong hiếm hoi có thành tựu đầu tiên trong thể loại văn học hiện thực phê phán, là người “mở ra cánh cửa sổ đến một thế giới khác, thế giới không chỉ bao gồm trí thức và những tầng lớp trên, mà cả nông dân và những người kéo xe cần lao”. Ông viết văn ít nhưng cũng là người có đóng góp quan trọng cho sự mở đầu và phát triển của nền văn học hiện đại Việt Nam.
Sống chết mặc bay là tác phẩm đầu tay cũng là tác phẩm thành công nhất của Phạm Duy Tốn trong suốt cuộc đời viết văn của tác giả, thể hiện tư duy và tấm lòng nhân văn nhân đạo sâu sắc của tác giả giữa tình thế đất nước loạn lạc nửa thuộc địa phong kiến, nhân dân lầm than, vua quan mang tiếng phụ mẫu nhưng chỉ biết ăn chơi sa đọa.
Sống chết mặc bay là truyện ngắn hiện đại đầu tiên của Việt Nam, sự mới lạ của tác phẩm nằm ở hình thức thể hiện và những chi tiết truyện vô cùng đắt giá. Khác với những tác phẩm viết theo lối mòn cổ điển, thì Sống chết mặc bay lại có cách mở đầu rất hay, vô thẳng vấn đề của câu chuyện, đặc trưng cho một lối văn mới “Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng… thuộc phủ…, xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất….”.
Bấy nhiêu câu chữ đã miêu tả khung cảnh lũ lụt, đê điều đang ở thế nguy cấp, tình thế vô cùng mong manh, ngàn cân treo sợi tóc. Những người dân cùng hợp lực hợp sức để đắp đê, ngăn lũ, chống lại dòng nước đang ngày một dâng cao có nguy cơ đe dọa cuộc sống của hàng trăm con người “Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột”.
Bằng cách sử dụng biện pháp liệt kê các từ ngữ mô tả động thái và hành động liên tục, tạo nên sắc thái vội vàng nguy cấp, thể hiện được rõ nét sự cố gắng, nỗ lực của người nông dân trong giây phút đối chọi với thiên tai lũ lụt.
Bên cạnh đó các lời bình ngắn, liên tục với thái độ cảm thán, xót xa thể hiện sự bất lực, ngao ngán của tác giả trước viễn cảnh khốn khổ của người nông dân “Tình cảnh trông thật thảm hại” ; “Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê nay hỏng mất” không chỉ bộc lộ tâm trạng lo lắng của tác giả mà đó cũng chính là nỗi lo lắng, sợ hãi của hàng trăm hàng ngàn người dân trước tình thế nguy cấp của khúc đê sắp vỡ đến nơi.
Thế nhưng trái lại với tình cảnh nguy cấp của nhân dân đang chống lụt, bảo vệ đê điều, thì những kẻ vốn là quan “phụ mẫu”, những tưởng phải kề vai sát cánh với nhân dân, lãnh đạo với dân làng tìm biện pháp “hộ đê”. Thì chúng lại cùng nhau xúm xít trong một gian nhà ấm áp, mưa không tới mặt nắng không tới đầu cùng nhau đánh bài tổ tôm, mặc kệ ngoài kia nhân dân đang đội gió đội mưa bảo vệ đê điều.
“Đình ấy ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì”, “trong đình, đèn thắp sáng trưng, nha lệ lính tráng, kẻ hầu, người hạ, đi lại rộn ràng”, khung cảnh ấm áp, an yên và bình thản khác hẳn với không khí vội vã khẩn trương lạnh lẽo bên ngoài kia.
Đình của quan “phụ mẫu” cũng nằm trên mặt đê ấy, thế nhưng dẫu đê có vỡ cũng chẳng ảnh hưởng gì đến việc quan chơi bài tổ tôm, thế nên quan cũng chẳng lấy làm mặn mà, giờ phút này quan chỉ hứng thú với cái hồi hộp của những quân bài đang hạ xuống, cùng cái thú sung sướng với bát tổ yến trong tay, bên cạnh là những tráp đựng trầu cau, vôi thuốc sáng loáng trông thích mắt.
Hầu bài cho quan lại là những thầy đề, thầy thông nhì, thầy đội nhất, thầy chánh tổng sở tại,… không khí vô cùng vui vẻ, xôm tụ và nhàn hạ, chẳng có chút nào vướng bận lo lắng với tinh thần yêu dân như con của một quan phụ mẫu đáng có cả.
Khung cảnh đối lập giữa trong và ngoài ngôi đình ấy khiến người ta không khỏi xót xa, đau đớn thay cho số phận người nông dân, vừa phải chịu sự tàn phá đe dọa của thiên tai, lại vừa chịu sự bỏ mặc của quan phụ mẫu, buộc bản thân họ phải tự lực cánh sinh, trong khi những kẻ ngồi trên lại ăn sung mặc sướng, đánh bài “hộ đê”.
Không chỉ thái độ thản nhiên mặc kệ việc trời mưa gió và những tiếng hô vang cứu đê vỡ của người nông dân mà ta còn thấy rõ bản chất vô tình, đốn mạt của tên quan phụ mẫu trong cái cách mà hắn đáp trả khi nghe tên lính lệ báo “Bẩm dễ có khi đê vỡ”. Thì thay vì việc từ bỏ chiếu bạc để đốc thúc công việc cứu đê, thì ngài lại cáu bẳn, gắt lên “mặc kệ” một cách dứt khoát không khoan nhượng hay do dự.
Đỉnh điểm hơn nữa là khi có tin báo nguy cấp “Bẩm quan lớn…đê vỡ mất rồi!”, thì thái độ của quan lập tức trở nên cục cằn hách dịch “Đê vỡ rồi!… Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy”.
Thế nhưng nào đâu có phải quan tức, quan lo vì chuyện đê vỡ mà chỉ đơn giản là tên lính lệ kia dám cắt ngang ván bài sắp ù của quan, nên quan mới nổi đóa lên như thế, tùy thời trách phạt thế rồi lại tiếp tục hòa mình vào chiếu bài mà chẳng thèm quan tâm chuyện đê vỡ, hay con dân của mình sống chết ra sao nữa. Để rồi khi quan vừa ù được ván bài to, đang chìm trong sung sướng vì thắng lớn thì những người nông dân khốn khổ ngoài kia lại đang phải vật lộn với mưa gió, nước lũ và tính mạng đang ngàn cân treo sợi tóc.
Thử hỏi có bao giờ quan phụ mẫu để tâm đến điều đó, hay chỉ mải mê yêu quý mấy quân bài tổ tôm, mặc kệ dân con sống chết. Thật độc ác, thật tàn nhẫn và vô nhân đạo biết bao, hóa ra quan phụ mẫu lại có bộ mặt cầm thú, vô tâm như thế, nghĩ mà không khỏi xót xa cho những nạn dân khốn cùng vẫn còn trông đợi vào một bàn tay chở che đốc thúc, chỉ dạy cho họ một con đường trước cơn nguy khốn đến nơi.
Như vậy bằng nghệ thuật tương phản, bút pháp miêu tả tài tình, cách dẫn truyện độc đáo Phạm Duy Tốn đã tái hiện được khung cảnh đối lập giữa nhân dân và chính quyền trong xã hội cũ dưới một tình huống đặc biệt – đê vỡ.
Từ đó lên án, tố cáo sự bất nhân, tàn bạo, độc ác của những kẻ cầm quyền, vốn được coi là quan phụ mẫu, đã đẩy người nông dân vào tình cảnh khốn khổ thảm thương, để tận hưởng cuộc sống vinh hiển phú quý không một chút xót xa. Đồng thời thể hiện tấm lòng xót xa, thương cảm cho số phận khốn cùng của người nông dân dưới chế độ cũ.
Tiếp theo phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay, SCR.VN tặng bạn 💧 Phân Tích Bài Thơ Cảnh Khuya 💧 14 Mẫu Đặc Sắc Nhất
Phân Tích Sống Chết Mặc Bay Nâng Cao – Mẫu 7
Đón đọc bài văn phân tích Sống chết mặc bay nâng cao dưới đây để tham khảo những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Phạm Duy Tốn là một trong những nhà văn mở đầu cho văn xuôi hiện đại Việt Nam đầu thế kỉ XX. Nội dung văn chương của ông chủ yếu phơi bày thực trạng thối nát, bất công của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Ông đã viết nhiều truyện ngắn: Nước đời lắm nỗi, Bực mình, Con người Sở Khanh… Sáng tác của Phạm Duy Tốn làm xúc động lòng người bằng nghệ thuật tả chân những hiện tượng mà ông quan sát được.
Phạm Duy Tốn sinh ra trong thời đại lịch sử đầy bão tố. Tuy viết ít nhưng những tác phẩm của ông có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Ông đã trở thành một trong những người tiên phong mở lối cho giai đoạn thành tựu rực rỡ của nền văn học Việt Nam cách tân giai đoạn sau này.
Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của ông được coi là truyện ngắn đầu tiên theo lối tây phương của văn học Việt Nam và cũng là truyện ngắn đầu tiên của nền văn học mới Việt Nam. Sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Phạm Duy Tốn và được coi là một trong những tác phẩm mở đầu cho nền văn học hiện thực phê phán sau này.
Sống chết mặc bay là một truyện ngắn được coi là bông hoa đầu mùa của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Sự ra đời của truyện ngắn hiện đại là sự tiếp nối và phát triển thành tựu từ truyện ngắn trung đại. Khác với truyện trung đại chỉ chủ yếu thiên về việc ghi chép lại người thật, việc thật.
Sống chết mặc bay được in lần đầu trên tạp chí Nam Phong, số 18, xuất bản năm 1918. Đây là một trong những truyện ngắn đầu tiên của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam được viết bằng chữ quốc ngữ. Nhà văn đã tập trung tái hiện một cách khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn, xa hoa, hưởng lạc của lũ quan lại. Qua tác phẩm, Phạm Duy Tốn đã đả kích, tố cáo mạnh mẽ sự vô lương tâm, thói vô nách nhiệm của bọn quan lại đương thời đã đẩy những người dân vô tội vào cảnh khốn cùng.
Cốt truyện nhiều khi còn đơn giản, tính cách, tâm lí nhân vật nhiều khi chưa được tập trung khắc hoạ. Truyện ngắn hiện đại đã chú trọng đến nghệ thuật xây dựng truyện với tình huống truyện gay cấn, tâm lí, tính cách nhân vật, ngôn ngữ độc thoại, đối thoại phong phú hơn. Đây là một trong những truyện ngắn hiện đại đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành thể loại truyện ngắn hiện đại Việt Nam.
Nhan đề Sống chết mặc bay xuất phát từ câu “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”, một thành ngữ có ý nghĩa sâu sắc. Nó phản ánh thái độ vô trách nhiệm của quan phụ mẫu với nhân dân. Dù dân có sống hay cái chết, quan cũng mặc kệ, không hề để ý, không hề quan tâm.
Ngay ở nhan đề, văn bản đã hé mở một phần chủ đề của truyện và có ý nghĩa tố cáo, phê phán sâu sắc. Hình ảnh tên quan phủ chính là điển hình cho những tên quan lại thời phong kiến nửa thực dân. Đây cũng chính là hình ảnh đã từng xuất hiện nhiều trong thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương…
Toàn bộ truyện ngắn tập trung khắc họa hai cảnh tượng: Cảnh nhân dân hộ đê ngoài trời và cảnh các quan hộ bài trong đình: Ngay mở đầu truyện, tác giả đã đưa ra một tình huống rất căng thẳng: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá, khúc đê làng X phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”.
Đê còn hay mất ảnh hưởng đến đời sống của toàn bộ dân chúng và quan lại. Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” đó, quan phải là người đứng “đầu sóng ngọn gió” cùng với nhân dân hộ đê. Nhưng sự việc diễn ra lại hoàn toàn đối lập với lẽ thông thường ấy. Vì thế, trong tình huống này, nghệ thuật tương phản đã được Phạm Duy Tốn sử dụng triệt để.
Trong khi dân đang hối hả hộ đê thì quan lại say sưa hộ bài. Sự tương phản đến từng chi tiết nhỏ nhất: Cảnh dân hộ đê: thời gian là gần một giờ đêm. Tình thế vô cùng cấp bách, nguy hiểm, “ngàn cân treo sợi tóc”: khúc để làng X đang bị thẩm lậu, không khéo thì vỡ mất. Đê mà vỡ thì nhân dân khốn khổ biết chừng nào.
Mọi người nhốn nháo, thảm hại. Kẻ cuốc, người thuổng, kẻ dội dát, kẻ vác tre… người nào người đấy ướt lướt thướt như chuột lột. Thế nhưng, sức người khó lòng địch nổi với sức trời, thế đê không sao cự lại với thế nước. Không khí hộ đê náo loạn, căng thẳng. Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người gọi nhau xao xác.
Trong khi dân chúng lầm than vì thiên tai đang giáng xuống đầu,. Dân cần quan phụ mẫu – quan cha mẹ của dân – vị phúc tinh cứu giúp thì quan đang ở đâu? Cảnh đê vỡ và quan ù to thật trớ trêu và cay đắng biết bao. Đến phần hai này, thủ pháp tương phản, tăng cấp dã đẩy tình huống truyện lên đến đỉnh điểm.
Lúc này, dân không hộ đê nữa mà đã kêu cứu thảm thiết. Còn chiếu bài của quan cũng đang ở thời điểm gay cấn nhất. Quan không chỉ chờ ù mà còn ù rất to bởi thế “ngài chì lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ bài”. Tình thế của dân và quan đều thật căng thẳng.
Thế rồi, ngoài xa, kêu vang dậy trời đất. Tiếng kêu càng lúc càng lớn, lại có tiếng ào ào như thác, tiếng gà, chó, trâu, bà kêu vang tứ phía. Mọi người giật nảy mình. Duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ.
Quan là người duy nhất thản nhiên, ung dung theo đuổi quân bài. Ngài đặt toàn tâm toàn trí cho ván bài cũng như sẵn sàng đánh đổi nó lấy bao nhiêu sinh mạng của những người dân. Mức độ đam mê bài bạc của ngài càng cao thì sự vô trách nhiệm của ngài càng lên tới đỉnh điểm.
Một người nhà quê mình mẩy lấm láp, quần áo ướt đầm, tất tả chạy vào, thở không ra hơi: “Bẩm quan lớn, dễ đê vỡ mất rồi”. Mức độ kêu cứu khẩn cấp của dân tăng lên. Nếu như ở đoạn trên dân còn ở rất xa đê thì đến đây sự xuất hiện của người nhà quê như một nhân chứng sống hiện diện cho tình cành nhân dân trước hiện thực đê vỡ. Người nhà quê tìm đến quan như tìm đến một phúc tinh của nhân dân
– “Đê vỡ, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng…người sống không có chỗ ở, kè chết không có nơi chôn, tình cảnh thảm sầu”. Mọi người giật nảy mình trước tin dữ. Quan đỏ mặt tía tai quay ra quát rằng: “Đê vỡ rồi! Đê vỡ rồi! Thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày”.
Đối diện với hiện thực ấy, mức độ vô trách nhiệm của quan càng thể hiện rõ khi quan cho rằng mình đứng ngoài cuộc trong việc hộ đê. Giọng đe dọa của quan đã thể hiện ngài là người quen thói hống hách, quát nạt. Cho nên khi nghe tin đê vỡ, ngay lập tức ngài đổ trách nhiệm cho dân: “ông cách cổ, ông bỏ tù chúng mày”.
Quan tự cho mình “trắng án”, không có liên quan gì trong sự việc này. Hơn thế nữa, quan lại tức còn tức giận vì người nhà quê đã làm gián đoạn ván bài của mình. Ngay khi đuổi được anh ta đi khỏi, quan quay trở lại ván bài một cách sốt sắng: “Thầy bốc quân gì thẻ?”
Đến khi ván bài ù, quan vỗ tay xuống sập kêu to. Ngài xòe bài, miệng vừa cười vừa nói: “Ù! Thông tôm, chi chi nảy! Điếu mày!”. Niềm vui của quan là niềm vui chà đạp lên bao sinh mạng của nhân dán, bao tiếng kêu cứu. Đam mê cá nhân của quan được thỏa mãn nhưng đánh đổi bằng bao nhân mạng và của cải của người dân. Quả thực, vị quan phủ ấy là kẻ độc ác, phi nhân tính, “lòng lang dạ thú”, mất hết tính người.
Truyện ngắn Sống chết mặc bay chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Thông qua việc phản ánh sự đối lập hoàn toàn giữa một bên là cuộc sống và sinh hoạt của người dân vô cùng cực khổ, một bên là cuộc sống xa hoa của lũ quan lại, đứng đầu là tên quan phủ “lòng lang dạ thú”, nhà văn đã bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc trước cuộc sống lầm than của người dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của bọn cầm quyền gây nên.
Phép tương phản và tăng cấp là hai nét đặc sắc trong nghệ thuật của truyện. Phép tương phản và tăng cấp ở đây đã tập trung thể hiện được sâu sắc hơn giá trị nhân đạo và hiện thực của tác phẩm.
Ngoài ra, người đọc còn thấy được nhiều điểm đặc sắc nữa trong nghệ thuật của truyện như tình huống truyện giàu kịch tính, nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, ngôn ngữ nhân vật sinh động, giàu cá tính; ngôn ngữ tác giả giàu cảm xúc, việc sử dụng phép liệt kê đặc sắc… Tuy nhiên, lời văn vẫn còn mang ít nhiều dấu ấn của văn học trung đại ờ thể văn biền ngẫu…
Sống chết mặc bay đã khá thành công trong việc vận dụng nghệ thuật truyện ngắn hiện đại, kết hợp khá thuần thục giữa kể chuyện, miêu tả, đối thoại, đẩy xung đột cảnh ngộ lên rất cao. Tác giả đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo, sử dụng triệt để thủ pháp đối lập, tương phản, phép liệt kê, tăng cấp… với lối văn đa giọng điệu, lúc thiết tha, xúc động, lúc cay độc, mỉa mai…
Thay vì viết những tác phẩm văn xuôi theo khuôn khổ truyền thống, tác phẩm của Phạm Duy tốn đã mở ra cánh cửa sổ đến một thế giới khác, thế giới không chỉ bao gồm trí thức và những tầng lớp trên, mà cả nông dân và những người kéo xe cần lao.
Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã tái hiện khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn, xa hoa của lũ quan lại. Viết Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn đã mạnh mẽ tố cáo thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời.
Truyện dụng lên hai bức tranh đời tương phản. Quan là kẻ quan liêu vô trách nhiệm sung sướng đến tột độ được hưởng thụ một món tiền lớn giữa lúc nhân dân đang đau khổ đến mức độ thẳm sâu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng, sự tương phản đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hòa được.
Mời bạn khám phá thêm 💕 Phân Tích Bài Thơ Rằm Tháng Giêng 💕 15 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Bài Sống Chết Mặc Bay Học Sinh Giỏi – Mẫu 8
Tham khảo văn mẫu phân tích bài Sống chết mặc bay học sinh giỏi dưới đây sẽ giúp các em học sinh chắt lọc cho mình những ý văn hay.
Có những tác phẩm “nhàn nhạt”, đọc xong là người đọc có thể dễ dàng lãng quên. Lại có những tác phẩm ta thấy hấp dẫn từ câu đầu đến câu cuối, khép lại trang sách rồi mà vẫn còn lưu luyến, còn day dứt mãi với những vấn đề tác phẩm gợi mở….
Truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn là tác phẩm vừa có sức hấp dẫn, vừa ám ảnh người đọc như thế. Tác phẩm ngắn gọn, hàm súc, “ít lời nhiều ý”, chứa đựng giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Làm nên thành công của truyện ngắn này, bên cạnh nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật, chính là thủ pháp nghệ thuật tương phản và tăng cấp.
Hai thủ pháp này được nhà văn sử dụng, khai thác đến tối đa nhằm phơi bày bức tranh hiện thực và thể hiện cảm quan nhân đạo của mình, đồng thời mang lại dáng vẻ hiện đại, độc đáo cho truyện ngắn này.
Trước hết, có thể nhận thấy nghệ thuật tương phản bao trùm toàn bộ truyện ngắn. Tương phản thể hiện ở nhiều cấp độ, từ các chi tiết, hình ảnh cho đến tình huống, nhân vật trong tác phẩm… Vậy thế nào là tương phản?
Phép tương phản (còn gọi là đối lập) trong nghệ thuật là việc tạo ra những hành động, những cảnh tượng, những tính cách trái ngược nhau để làm nổi bật một ý tưởng bộ phận trong tác phẩm hoặc tư tưởng chính của tác phẩm.
Trong truyện ngắn Sống chết mặc bay, nhà văn dựng lên hai cảnh tương phản lớn nhất, rõ rệt nhất, đó là cảnh những người dân đang ra sức hộ để trong trạng thái nguy kịch và cảnh quan phụ mẫu đang cùng nha lại ngồi chơi bài trong đình.
Thứ nhất là sự tương phản về không gian: một bên là ngoài trời mưa tầm tã, nước sông càng ngày càng lên cao; một bên là không gian “trong đình, đèn thắp sáng trưng, nha lại lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng”, phục vụ cho các quan ngồi chơi bài.
Và xung quanh chỗ quan ngôi là đầy đủ những đồ vật quý giá, tiện nghi khác cũng để phục vụ cho cuộc chơi của quan phủ như “bát yến hấp đường phèn để trong khay khảm”, là “trầu vàng, cau đậu, rễ tía”. đựng trong ngăn bạc của trái đồi mồi, là “ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, đeo chuỗi ngà, ống vôi chạm…”. Có thể nói là một không gian mưa lạnh nước tràn nguy kịch, khốn khổ, một không gian thì ấm cúng, linh đình, phú quý, xa hoa.
Thứ hai là sự tương phản về không khí: ngoài đê thì “mưa gió ầm ầm”, tiếng người ồn ào, xao xác, rồi đủ mọi âm thanh chiêng trống thúc người hộ đê, “tiếng gà, chó, trâu bò kêu vang tứ phía”; trong đình thì “tĩnh mịch, nghiêm trang, trừ quan phụ mẫu ra, không ai dám to tiếng”.
Không khí trong đình sao mà hòa nhã, êm dịu; quan lại, lính tráng ngồi quanh quan phủ đều tỏ ra tôn nghiêm, sùng kính “như thần như thánh”. Tưởng chừng như những âm thanh náo động và tình cảnh hộ đê muôn trùng nguy cấp ngoài kia ở một thế giới biệt lập, tách xa hẳn chốn đình trung, nơi quan phủ ngồi chơi bài với chánh tổng và nha lại.
Đặc biệt, tác giả khắc họa chi tiết sự tương phản về thái độ, hành động của hai đối tượng người dân và quan phủ: trong khi người dân lo sợ, “rối rít”, huy động mọi sức người sức của để giữ đê thì quan phủ và bọn sai nha lại ung dung, điềm tĩnh ngồi chơi bài đến cuối cùng. Đây là cảnh hộ đế của người dân quê: “Hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột”.
Còn đây là dáng điệu, cử chỉ của quan phụ mẫu trên đường thi hành công vụ hộ đề: ngài “uy nghi chễm chệ ngồi” trên sập, “tay trái dừa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay, chực hầu điếu đón”, Quan cũng không cần nói nhiều lời, chỉ cần đưa ra những lời phán đầy quyền uy: “Điếu, mày!” hay “Thì bốc đi chứ!”.
Dường như, người dân quê lo sợ, cuống quýt, điêu đứng bao nhiêu vì họa vỡ đê thì quan phủ lại ung dung, điềm tĩnh, nhàn nhã bấy nhiêu trong cái thú chơi bài, chờ ù.
Mức độ tương phản được đẩy lên đến đỉnh cao, đầy kịch tính chính là ở tình huống cuối truyện:
“Vừa lúc đó, tiếng người kêu rầm rĩ, càng nghe càng lớn… Ai nấy trong đình đều nôn nao sợ hãi… Một người nhà quê mình mẩy lấm láp, quần áo ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra lời:
– Bẩm… quan lớn… đê vỡ mất rồi! | Quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng:
– Để vỡ rồi! … Để vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?
– Đuổi cổ nó ra!”.
Và phớt lờ thái độ run sợ, hoảng hốt của người dân quê cũng như sự nôn nao, xôn xao của nha lại trong đình, quan lớn lại quay vào, tiếp tục cuộc chơi, để rồi cuối cùng, khi ngài chờ được con bài của mình để ù to thì ngài reo lên sung sướng, quên cả nỗi giận dữ vừa rồi.
Sự tương phản về thái độ và hành động của hai lực lượng này thể hiện sâu sắc bản chất của nhân vật: đó là bản chất hiền lành, yếu đuối và tình cảnh khốn cùng của người dân lao động do thiên tai và sự vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền và bản chất nhẫn tâm, bất nhân của một bộ phận quan lại phong kiến đương thời. Kết hợp với phép tương phản là phép tăng cấp.
Trong nghệ thuật văn chương, phép tăng cấp là một thủ pháp mà tác giả lần lượt đưa thêm chi tiết vào và chi tiết sau phải cao hơn chi tiết trước, qua đó làm rõ bản chất của sự việc, hiện tượng mà tác giả muốn nói đến.
Truyện ngắn Sống chết mặc bay có thể chia làm bốn cảnh nhỏ, mỗi cảnh khắc họa sâu sự tương phản giữa người dân và quan phủ, đồng thời càng ngày càng tăng cao mức độ kịch tính.
Sự tăng cấp được miêu tả ở hai đối tượng: một mặt là mức độ căng thẳng, nguy hiểm của người dân quê (trời càng ngày càng mưa to, nước càng ngày càng dâng cao, những âm thanh nhốn nháo và cầu cứu càng lớn, nguy cơ để vỡ và sự mệt mỏi, yếu thế của người dân càng tăng); ở mặt kia là mức độ đam mê bài bạc và thái độ điềm nhiên, lạnh lùng của quan phủ cũng càng ngày càng rõ nét, càng được khắc sâu.
Ở cảnh thứ nhất, tác giả mở ra bức tranh khái quát về hoàn cảnh của người dân hộ đê và quan phủ. Trong khi muôn dân đang quần quật dưới trời mưa tầm tã, đối diện với nước sông cứ cuồn cuộn bốc lên và những âm thanh “tiếng trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau thì trong đình, không khí “tĩnh mịch, nghiêm trang”, nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ quây xung quanh phục vụ cho cuộc chơi tổ tôm của quan phủ.
Đến cảnh thứ hai, đó là khi quan đang chờ bài ù. “Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc” thì bỗng “ngoài xa có tiếng kêu vang trời dậy đất”. Tiếng kêu khiến “mọi người đều giật nảy mình”, duy chỉ có quan “vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ”.
Dường như mọi sự quan tâm của ngài dồn vào lá bài mà ngài chờ để ù to. Rồi khi có người nhắc quan: “dễ có khi đê vỡ” thì quan “cau mặt, gắt: “mặc kệ” và tiếp tục quay sang giục thầy đề bốc bài. Như vậy ở đây, nguy cơ vỡ đê đã hiện hình, như treo lơ lửng trước mắt, còn mức độ thản nhiên và ham mê bài bạc của quan phủ cũng tăng lên.
Đến cảnh thứ ba thì mức độ căng thẳng, kịch tính đã được “đốt nóng” và đẩy đến đỉnh điểm. “Tiếng người kêu rầm rĩ, càng nghe càng lớn. Lại có tiếng ào ào như thác chảy xiết, rồi lại có tiếng gà, chó, trâu, bò kêu vang tứ phía”. Sự nháo nhác kinh sợ thậm chí đã lay động cả không khí trong đình, khiến “ai nấy ở trong đình đều nôn nao sợ hãi”. Để rồi khi có một người dân quê “mình mẩy lấm láp,…, ướt đầm”
chạy vào báo tin đê vỡ thì sợi dây căng thẳng dường như bị kéo căng và vụt đứt cùng với lời quát mắng giận dữ của quan phủ với kẻ dám mạo phạm kia. Chưa hết! Sự điềm tĩnh, thản nhiên đến lạnh lùng và tàn nhẫn của ngài còn thể hiện ở hành động quan quay vào, giục thầy đề chơi tiếp. Nghĩa là trong suốt cuộc chơi đó, quan phụ mẫu của chúng ta chưa bao giờ xao lãng mục tiêu là chờ con bài để ù lớn, mặc cho “trời long đất lở” đến thế nào. Quả là những quân bài đó có “ma lực” đối với quan hơn bất kì thứ nào khác.
Và kết thúc tác phẩm là cảnh trong khi quan hạ bài, ù to, ngài vỗ đùi reo mừng sung sướng thì ngoài kia, nước ngập lênh láng, cuốn trôi nhà cửa, lúa má, người dân lênh đênh, khốn khổ. Mức độ khốn khổ của người dân được đẩy lên đến đỉnh cao, thảm thương hơn bao giờ hết, và bản chất “lòng lang dạ thú” của quan phụ mẫu cũng được phơi bày sắc nét hơn hết. Không chỉ còn dừng lại ở sự đam mê bài bạc thông thường nữa mà đến kết truyện, tác giả đã vạch trần tính chất tàn ác, bất nhân của quan phủ.
Như vậy, với việc sử dụng kết hợp tối đa và đắc địa hai thủ pháp tương phản và tăng cấp, Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn đã đạt đến giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã phơi bày bức tranh hiện thực đời sống ở hai mảng đối lập: cuộc sống khốn quẫn của người dân lao động nhỏ bé và cuộc sống xa hoa của quan phủ; đồng thời tố cáo gay gắt bản chất bất nhân, “lòng lang dạ thú” của quan phụ mẫu…
Giá trị nhân đạo thắm thiết của tác phẩm thể hiện ở niềm thương xót không giấu giếm của người trần thuật đối với tình cảnh của những người dân lầm than, cơ cực và thái độ phẫn nộ đối với tên quan phủ bạc ác, nhẫn tâm.
Ngoài ra, hai thủ pháp này còn tạo hiệu quả nghệ thuật cao cho truyện ngắn. Đó là kết quả của quá trình học tập, tiếp thu những hình thức, thủ pháp nghệ thuật của truyện ngắn hiện đại phương Tây thế kỉ XX. Tác phẩm tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc từ mở đầu đến kết thúc nhờ kịch tính gay gắt, căng thẳng.
Có thể nói, Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn xứng đáng là một trong những truyện ngắn hiện thực tiêu biểu, xuất sắc của văn học Việt Nam những năm 20 của thế kỉ XX. Tác phẩm cũng thể hiện được tài năng nghệ thuật và cảm quan nhân đạo sâu sắc của nhà văn.
Không chỉ có phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay, đón đọc 🌹 Phân Tích Bài Thơ Tiếng Gà Trưa 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Đạt Điểm Cao – Mẫu 9
Để viết bài văn phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay đạt điểm cao, các em học sinh có thể tham khảo và vận dụng cho mình gợi ý làm bài dưới đây:
Bước vào thế kỉ XX, văn học nói chung, truyện (truyện ngắn, truyện dài) Việt Nam nói riêng có nhiều đổi mới, mang tính hiện đại. Truyện ngắn hiện đại thiên về tính chất hư cấu, cốt truyện phức tạp hơn, khắc hoạ được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động nhằm phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tâm hồn con người phong phú, tinh tế hơn truyện cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết thời xưa. Một trong những tác phẩm mở đầu cho truyện ngắn hiện đại là truyện Sống chết mặc hay của Phạm Duy Tốn.
Tác phẩm kể chuyện một viên quan phủ đang làm nhiệm vụ cai quản, chỉ đạo nhân dân đắp đê chống bão lụt ở một vùng sông nước Bắc Bộ trong một đêm vào đầu thế kỉ XX. Câu chuyện có thể chia ba đoạn.
Đoạn một: từ “Gần một giờ đêm…” đến “… Khúc đê này hỏng mất”: nguy cơ đê vỡ và sự chống đỡ tuyệt vọng của người dân. Đoạn hai: từ “Ấy, lũ con dân…” đến “… Điếu mày”: cảnh quan phủ và nha lại đánh tổ tôm trong khi “đi hộ đê”. Đoạn ba: phần còn lại : cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu.
Với tiêu đề Sống chết mặc bay, dường như tác giả Phạm Duy Tốn muốn tập trung phát hiện và nghiêm khắc phê phán thái độ vô trách nhiệm, bỏ mặc nhân dân trong tình cảnh khốn cùng của một viên quan phủ khi xuống địa phương chỉ đạo việc hộ đê. Đọc tác phẩm, chúng ta nhận rõ nhà văn đã xây dựng các chi tiết, tình huống tương phản, tăng cấp rất đặc sắc.
Hai mặt tương phản đó là: trong khi nhân dân phải vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước bão lụt thì viên quan phủ cùng nha lại, chánh tống – những kẻ chức sắc ở địa phương – say sưa cờ bạc, không mảy may nghĩ tới việc chỉ đạo dân “hộ đê”. Đúng là hai bức tranh đời tương phản, đối lập gay gắt, khiến người đọc phải suy ngẫm và xúc động…
Bức tranh thứ nhất, cảnh nhân dân chống bão lụt: về thời gian, đây là lúc “gần một giờ đêm” nghĩa là thời điểm khuya khoắt, mà khi bình thường, mọi người đang ngủ say. Xác định thời gian nửa đêm như thế, nhà văn muốn nói rằng: cuộc hộ đê của nhân dân nơi đây đã kéo dài suốt cả ngày đến tối, tới tận đêm khuya mà chưa được ngơi nghỉ. Nặng nề và căng thẳng biết bao ! Trong khi đó, mưa, gió mỗi lúc một mạnh. “Mưa tầm tã”, rồi lại “trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống”.
Phối hợp với mưa, nước sông cũng mỗi lúc một dâng cao. “Nước sông Nhị Hà lên to quá” rồi lại “nước cứ cuồn cuộn bốc lên”. Giữa cảnh trời, nước dữ dằn, bạo liệt như thế, công cuộc hộ đê của nhân dân diễn ra thế nào ? Nhốn nháo, căng thẳng, vất vả, cơ cực, khốn khổ, hiểm nguy vô cùng ! “Hằng trăm nghìn con người … kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy… người nào người nấy lướt thướt như chuột lột… Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hổi, tiếng người xao xác gọi nhau…”.
Ngôn ngữ miêu tả rất tập trung. Những tính từ, động từ dồn dập, nối nhau : “tầm tã… tầm tã… cuồn cuộn, đội, vác, đắp, cừ,… bì bõm”, kết hợp một hình ảnh so sánh “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột” khiến cho người đọc có cảm tưởng được trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy, và đang sống giữa một cuộc đắp đê chống bão lụt có thật.
Cùng với những từ ngữ, câu văn tả thực, nhà văn điểm vào vài ba câu cảm thán “xem chừng núng thế lắm… không khéo thì vỡ mất… Tình cảnh trông thật là thảm … Than ôi ! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Lo thay ! Nguy thay !…”. Sự yếu kém của đê điều, sức lực của con người trước thiên tai mỗi lúc một thê thảm, rất đáng lo ngại, rất đáng xót thương ! Phạm Duy Tốn đã kết hợp ngòi bút tả thực với biểu cảm, trữ tình, dẫn người đọc vào trung tâm cuộc chống đê lay động lòng người, đánh thức những tình cảm đúng đắn trong chúng ta.
Bức tranh đời thứ hai, tương phản với cảnh nhân dân chống lụt cơ cực, vất vả là cảnh viên quan phủ cùng tay chân chơi bời, cờ bạc, hưởng thụ, để dân… Sống chết mặc bay. Ở bức tranh này, nhà văn cũng dùng ngòi bút tả thực, chân thực đến… lạnh lùng, về địa điểm, bọn quan lại ấy đang ngồi ở trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao. Quang cảnh, không khí tĩnh mịch, trang nghiêm, mọi người nhàn nhã đánh tổ tôm. “Đèn thắp sáng trưng; nha lộ, lính tráng kẻ hầu người hạ đi lại…”.
Đặc biệt là hình ảnh viên quan phủ. Hắn “uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi…”. Bên cạnh, xung quanh hắn là bọn lính lệ chầu chực đợi sai khiến và những vật dụng quý giá, đắt tiền như bát yến hấp đường phèn, khay khảm, tráp đồi mồi đựng trầu vàng, cau đậu,… Lại thêm cả đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm bạc, ngoáy tai, ví thuốc,… Đúng là hình ảnh của một kẻ giàu sang, phú quý, mang danh đi chỉ dạo dân hộ đê mà như đi chơi, để khoe khoang của cải.
Đúng là hắn đi… chơi ! Giữa lúc nhân dân đang trăm thảm, nghìn sầu thì tên quan cùng đồng bọn say sưa, đắm minh trên chiếu bạc. Ngồi xung quanh hắn, một lũ tay chân nín thin thít hầu hạ quan, tạo mọi điều kiện để quan được thắng bạc. Đến thời điểm ngoài kia đê sắp vỡ, sự gắng sức của dân lên đến đỉnh điểm, thì viên quan hồi hộp dđợi chờ ván bài ù to.
Ở phần cuối bức tranh, quan phủ ngồi đợi thắng bạc, tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả tăng cấp rất ấn tượng, rất hồi hộp. Hình ảnh đối lập vì thế càng gay gắt. Nghe ngoài xa vẳng vào tiếng kêu vang trời, có người khẽ nói : “Bẩm, đê có khi đê vỡ !”. Tên quan gắt : “Mặc kệ !”. Khi một người nhà quê hớt hải chạy vào báo tin “Bẩm quan lớn đê vỡ mất rồi” thì tên quan đỏ mặt tía tai quát mắng : “Đê vỡ rồi !… thời ông cách cổ chúng mày, bó tù chúng mày !”. Hắn đã quên hết nhiệm vụ giúp dân chống lụt, để chỉ đợi một quân bài.
Sự đối lập giữa tình cảnh khốn khổ của dân chúng, nỗi âu lo của mọi người xung quanh và thái độ vô trách nhiệm của tên quan lên đến đỉnh điểm. Nhưng chưa dừng lại. Sự đối lập vẫn tiếp tục tăng cấp. Trong khi thầy đề “tay run cầm cập thò vào đĩa nọc…” (nghĩa là người nhân viên này cùng mọi người xung quanh rất lo sợ trước cảnh đê vỡ), thì tên quan sung sướng hả hê ngả ra những quân bài, ù một ván to. Không những thế, hắn còn vỗ tay xuống sập kêu to, miệng vừa cười vừa nói : “Ù ! Thông tôm, chi chi nảy !… Điếu, mày !”.
Nghĩa là kẻ quan liêu, vô trách nhiệm ấy reo vui, sung sướng đến tột đỉnh được hướng thụ một món tiền lớn, giữa lúc nhân dân đau khổ cũng đến mức độ thẳm sâu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng, sự tương phản, đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hoà.
Người đọc như bị cuốn vào câu chuyện và cũng cảm thấy căng thẳng, ngột ngạt, bức bối, tràn đầy nỗi tức giận, căm ghét tên quan vô trách nhiệm, tham tiền và tràn đầy tình cảm xót thương những người dân khốn khổ bị lãng quên, bị bỏ mặc… Giận và thương, hai cung bậc cảm xúc ấy dường như thấm đẫm trong từng từ ngữ, câu văn.
Kết thúc truyện nhà văn viết : “Ấy, trong khi quan lớn ù ván to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết ; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết !”. Câu văn kéo dài, nhấn mạnh hai bức tranh đời tương phản, vừa kể chuyện vừa miêu tả, vừa biểu ý vừa biểu cảm. Nhịp câu biền ngẫu, đối xứng lâm li, hài hoà tiếng nấc nghẹn, căm phẫn với dòng nước mắt xót đau, thương cảm.
Bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, có thể nói tác phẩm Sống chết mặc bay là lời tố cáo của nhân dân với xã hội phong kiến thối nát, tạo điều kiện cho những kẻ mất nhân tính tồn tại và gieo rắc nỗi khổ cho nhân dân. Tác giả đã thương cảm cho số phận của nhân dân phải chịu nhiều áp bức bóc lột.
Tiếp theo, mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Sơ Đồ Tư Duy Tiếng Gà Trưa Xuân Quỳnh 🌹 11 Mẫu Hay
Phân Tích Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Ngắn Hay – Mẫu 10
Tham khảo dưới đây bài văn mẫu phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay ngắn hay giúp các em học sinh có thêm cho mình những gợi ý làm bài phong phú.
Phạm Duy Tốn nhà văn, nhà báo nổi tiếng đầu thế kỉ XX. Ông để lại số lượng tác phẩm không nhiều – chỉ có bốn truyện ngắn nhưng ông luôn được đánh giá là nhà văn có vị trí mở đầu cho xu hướng viết truyện hiện đại. Sống chết mặc bay là truyện ngắn đầu tay đồng thời cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Tác phẩm đã dựng lên bức tranh về cuộc sống người dân, cũng như bộ mặt của giai cấp cầm quyền trong xã hội cũ.
Văn bản vào đề bằng một tình huống hết sức căng thẳng, gay cấn: mọi người đang cùng nhau gắng sức hộ đê. Khi ấy là gần một giờ đêm, nước sông Nhị Hà mỗi lúc một cao, trời mưa tầm tã không ngớt. “Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột”.
Với hình thức liệt kê kết hợp với các câu hội thoại, tiếng gọi, tiếng hô,… thể hiện tình thế nguy ngập, căng thẳng, nghìn cân treo sợi tóc. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng các lời bình luận như: “Tình cảnh trông thật thảm hại” ; “Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê nay hỏng mất” hàng loạt các câu cảm thán được đưa ra càng thể hiện rõ hơn nỗi lo lắng của tác giả trước tình thế nguy ngập, gấp rút này.
Trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc chắc hẳn ai cũng sẽ đặt ra câu hỏi vậy người lãnh đạo, người đứng đầu lúc này đang ở đâu. Rời xa khung cảnh của những người dân phu, ống kính máy quay của tác giả lia đến địa điểm trên đình, cao mà vững chãi cho người đọc thấy được chân dung của viên quan phụ mẫu.
Thì ra vị quan phụ mẫu đang hộ đê trong đình, với một khung cảnh hoàn toàn trái ngược: “Đình ấy ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì” “trong đình, đèn thắp sáng trưng, nha lệ lính tráng, kẻ hầu, người hạ, đi lại rộn ràng”. Không khí trong đình ấm cúng, nghiêm trang khác hẳn với không khí đầy lo âu, sợ hãi ở ngoài kia. Sự bình thản của mỗi người được thể hiện trên từng quân bài.
Quan phụ mẫu đang hộ đê trong tư tế ung dung, nhàn hạ, tay cầm bát yến, ngồi khểnh vuốt râu và đánh tam cúc cùng lũ người dưới quyền. Bằng ngôn ngữ tự sự, miêu tả, biểu cảm tác giả đã tái hiện khung cảnh trớ trêu, lay động lòng người, đánh thức niềm xót xa nơi người đọc cho số phận của những người dân nghèo nàn, cực khổ.
Vào thời điểm gay cấn nhất có người vào báo tin: “Bẩm dễ có khi đê vỡ” thì ngài cau mặt mà gắt: “Mặc kệ”; sự việc còn được đẩy lên một mức độ cao hơn nữa khi đê vỡ ai nấy đều tái mặt, sợ hãi thì quan phụ mẫu quát tháo : “Đê vỡ rồi!… Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy”. Rồi quan tiếp tục ván bài sắp ù to của mình.
Thật là một kẻ lòng lang dạ thú, độc ác bất nhân. Hắn chỉ ngồi lo đánh bài, chứ không quan tâm đến tính mạng của người dân, đê vỡ mặc đê cũng không thể bằng nước bài cao thấp của hắn. Nghệ thuật tương phản, tăng cấp đã phát huy tác dụng: vạch trần bộ mặt bất nhân của kẻ cầm quyền, cho thấy số phận đau thương, bất hạnh của người dân.
Tác phẩm đã dựng lên hai bức tranh tương phản rõ nét, phản ánh toàn cảnh xã hội phong kiến thời xưa. Hai hình ảnh đối lập này càng làm tăng thêm ý nghĩa tố cáo những kẻ cầm quyền độc ác, vô nhân tính, không biết quan tâm, chăm lo đến đời sống nhân dân.
Có thể nói bằng nghệ thuật tương phản, tăng cấp độc đáo cùng với việc sử dụng ngôn từ khéo léo, Phạm Duy Tốn đã dựng lên hai bức tranh, hai nghịch cảnh: quan thì nhàn hạ, sung sướng, dân thì khổ cực trong bão lũ. Ngôn ngữ tác phẩm đã thoát khỏi tính ước lệ, khuôn sáo và điển tích của văn học trung đại, ngôn từ tiến gần đến lời ăn tiếng nói hàng ngày – ngôn ngữ văn học hiện đại.
Đây là truyện ngắn có giá trị hiện thực sâu sắc. Tác phẩm là bản cáo trạng tố cáo mạnh mẽ, đanh thép những kẻ cầm quyền vô trách nhiệm, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc. Và sự đồng cảm, cảm thương sâu sắc với nhân dân, phải chịu muôn ngàn khó khăn không chỉ bởi thiên tai, lũ lụt mà còn bởi những tên quan phụ mẫu thờ ơ, vô trách nhiệm.
Gợi ý cho bạn ☔ Phân Tích Bài Thơ Cảm Nghĩ Trong Đêm Thanh Tĩnh ☔ 12 Mẫu Đặc Sắc Nhất
Phân Tích Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Đơn Giản – Mẫu 11
Tham khảo bài văn mẫu phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và luận điểm cơ bản nhất.
Phạm Duy Tốn (1883 – 1924), nguyên quán làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây; sinh quán thôn Đông Thọ (nay là phố Hàng Dầu, Hà Nội), ông là một trong số ít người có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại. Và một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là Sống chết mặc bay.
Với hai bức tranh đời tương phản, tác giả đã phản ánh rõ nét toàn cảnh xã hội phong kiến thời xưa. Hai hình ảnh trái lập nhau đã làm càng tăng thêm ý nghĩa, lên án, tố cáo những kẻ cầm đầu độc ác, không biết quan tâm đến đời sống nhân dân hay nói đúng hơn là tên quan phủ – một viên quan vô trách nhiệm lòng lang dạ sói trong tác phẩm. Văn bản này vào đề bằng một hình ảnh hết sức căng thẳng, gay cấn, khó khăn. Đó là vào một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông dâng cao đe doạ vỡ đê.
Với công cụ thô sơ, những người dân chân lấm tay bùn với hàng nghìn tư thế khác nhau: người vác cuốc, người vác tre, kẻ bì bõm ướt như chuột lột cùng nhau gắng sức chống lại thiên tai, bão lụt. Hình ảnh muôn sầu nghìn thảm ấy làm bất cứ ai được đọc, được nghe đều không khỏi xót thương. Sự vất vả của người dân kéo dài tới mãi đêm khuya vẫn chưa chấm dứt. Tiếng hò, tiếng gọi, í ới, gấp gấp, sự căng thẳng ấy được bộc lộ qua nét mặt của từng người.
Trước tình cảnh như vậy thì bất kì ai cũng đặt ra câu hỏi: Vậy trước thế cùng sức kiệt như vậy thì quan phụ mẫu, những người có chức quyền ở đâu. Thì ra những vị quan phụ mẫu đang hộ đê trong đình, một khung cảnh hoàn toàn trái ngược. Bầu không khí ấm áp không chút lo âu. Sự bình thản của mỗi người trên từng quân bài.
Quan phụ mẫu đang hộ đê trong tư thế ung dung, nhàn hạ, tay cầm bát yến, ngồi khểnh vuốt râu. Sự oai phong của quan được thể hiện ở lời nói. Những tên xu nịnh vây quanh nịnh hót, quan thắng bài đó là niềm hạnh phúc. Từng khung cảnh cũng được đề cập đến trong văn bản càng bộc lộ rõ nét hơn.
Than ôi! Xã hội phong kiến bất công biết bao. Bằng những ngôn từ, biện pháp tự sự, kết hợp với miêu tả, bình luận cùng với những cảm xúc chân thực, tác giả đã đưa người đọc vào trong cuộc sống bấy giờ, tái hiện lại những nghịch cảnh trớ trêu, lay động lòng người, đánh thức lên một nỗi niềm xót cảm. Không mảy may một chút vương lòng, những hình ảnh nhàn hạ, nào quan phủ, nào thầy lí, thầy đề, những tên cường hào, ác bá được lột tả dưới ngòi bút của tác giả.
Với những ngôn từ bình dị, cổ xưa, tác giả đã gợi lên một khung cảnh chân thực. Hơn thế nữa, một loạt những nghệ thuật độc đáo được được sử dụng. Khi thời điểm tưởng chừng ngàn cân treo sợi tóc, văng vẳng từ xa tiếng người vào bẩm báo: “Dễ có khi đê vỡ”. Cảnh bình chân như vại của viên quan bằng lời nói: “Mặc kệ” khi đợi bài ù. Không chỉ vậy sự thách thức của hắn còn được bộc lộ bởi câu nói: “Đê có vỡ, nước có dâng lên cao thì cũng không lo đình sập, đình vỡ” Thật là nghịch chướng.
Đó là phép tăng cấp rất độc đáo. Hay nghệ thuật tương phản cũng khá ấn tượng. Hai khung cảnh một trời một vực, một bên ung dung nhàn nhã, một bên gấp gáp lo âu. Sự tương phản này là mâu thuẫn quan điểm của hai lớp người trong xã hội xưa.
Có thể nói với sự khéo léo trong việc vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn hai biện pháp nghệ thuật cùng với ngôn từ chặt chẽ điêu luyện, phù hợp tương tác với nhau, bài văn đã rất thành công trong việc lột tả hai hình tượng đối lập.
Đồng thời cũng lên án những tên quan phụ mẫu đại diện chính quyền lại vô trách nhiệm hay nói đúng hơn là lòng lang dạ sói cứ ung dung, thoải mái trong nhung lụa, hạnh phúc, bỏ mặc người dân trong cảnh lầm than, cơ cực. Hai bức tranh đời này mang đậm đà chất hiện thực và thắm đượm những cảm xúc nhân văn và gợi lên lòng đồng cảm nơi người đọc.
Ngoài văn mẫu phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay, đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang 🔥 16 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Lớp 7 – Mẫu 12
Bài văn mẫu phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay lớp 7 dưới đây sẽ là tư liệu tham khảo cần thiết cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Phạm Duy Tốn là một trong những nhà văn đầu tiên sáng tác văn học theo chủ nghĩa hiện thực. Ông tập trung vào những tác phẩm văn học mang tính chất hiện thực và viết về những con người trong thời kì này. Nổi bật trong số những tác phẩm của ông chính là tác phẩm “ Sống chết mặc bay”.
Qua tác phẩm, chúng ta thấy được xã hội thối nát của thời kì lúc bấy giờ cùng những khó khăn của những người nông dân luôn phải đối mặt với bão lũ nhưng lại không nhận được sự chăm lo của quan phụ mẫu- những người đáng lẽ phải chăm lo cho cuộc sống của người dân nhiều nhất.
Câu chuyện bắt đầu với hình ảnh của những người nông dân đang cùng nhau chống lũ trên con sông Nhị Hà. Nước sông cuồn cuộn dâng ngày một cao. Thậm chí, dù lúc đó đang là nửa đêm nhưng mọi người vẫn cố gắng thay phiên nhau canh cho nước không bị vỡ. Khí thể lúc đó được mọi người miêu tả là vô cùng khí thể. Đủ mọi dụng cụ được mọi người mang hết ra để cùng nhau chống lũ: nào cuốc, nào thuổng, gậy gộc,…
Thế nhưng, dù cho tất cả mọi người đang cố gắng thì sức người có hạn, những thứ mà mọi người sử dụng chỉ là những phương tiện thô sơ mà thôi. Thế cho nên, dù đã rất cố gắng, nhưng nước sông Nhị Hà vẫn đang dâng lên không ngừng, đe dọa tới cuộc sống của nhân dân quanh vùng nếu như đê bị vỡ. Mọi người ai nấy đều đang trông chờ vào sự giúp đỡ của quan. Nếu như có quan ở đây thì mọi thứ có lẽ sẽ khác. Thế nhưng, tất cả những mong chờ của người dân đều là vô vọng.
Ngay lúc này, trái ngược với khí thế khẩn trương và căng thẳng của người dân ở trên đê. Lúc này, quan đang ở trong đình ngồi chơi tổ tôm. Những ván bài đen đỏ đang lôi kéo sự chú ý của quan. Bên cạnh quan là biết bao nhiêu người hầu quan chơi đánh bài: nào thầy đề, thầy thông, phán quan,… Mọi người đều hầu quan chơi.
Tác giả đã sử dụng biện pháp miêu tả trái ngược giữa cuộc sống của quan và của những người dân thấp hèn lúc bấy giờ. Khi những người dân đang cố gắng chống lại lũ lụt thì quan đang hưởng thụ sự sung sướng ở trong đình đầy sơn son thếp vàng. Khi những người dân đang khẩn trương, lo sợ nước sông Nhị Hà bị võ thì quan đang sung sướng vì đã ù được mấy ván bài liên tiếp.
Hình ảnh của viên quan hiện lên làm cho tất cả chúng ta cùng cảm thấy phẫn nộ. Đáng lẽ, quan phải là cha, là mẹ của những người nông dân chân yếu tay mềm thì quan lại không hề để ý tới cuộc sống của con dân mình. Hắn là một kẻ vô tâm, ích kỉ, chỉ biết nghĩ tới bản thân mình.
Trong những lúc nước sôi lửa bỏng như vậy mà hắn lại không hề nghĩ tới những con người ngoài kia, hắn đang chờ cho ván bài tới của hắn. Khi có người báo đê sắp vỡ, hắn cũng bỏ ngoài tai tất cả, không hề quan tâm chút nào, chỉ mải giục những người đang chơi cùng ra ván bài nhanh lên. Ngay cả những kẻ vốn cũng là những người có học như thầy đồ, thầy phán cũng không hề can gián quan mà chỉ hùa nhau nịnh bợ quan, giúp cho quan vui vẻ. Thế mới thấy đắng cay làm sao cho số phận của những người dân.
Tới lần thứ hai, tên nô tài bẩm báo, quan vẫn không hề lay chuyển, thậm chí còn mắng tên nô tài. Đoạn trích này, tác giả Phạm Duy Tốn đã thể hiện một cách tinh tế biện pháp tăng tiến giữa tình trạng cấp bách của những người nông dân và mức độ bài đỏ của quan. Nước sông Nhị Hà càng dâng cao, cuộc sống của người dân càng khó khăn thì những ván bài của quan lại càng trở nên đỏ hơn bao giờ hết.
Và để rồi cuối cùng, khi đê không thể chịu được nữa, bị vỡ hoàn toàn khiến cho nước sông tràn vào phía trong làm cho tất cả hoa màu, thú nuôi của người dân bị cuốn đi hết, tiếng than khóc vang lên khắp nơi thì cũng là khi quan ù những ván bài to nhất. Tên nô tài run rẩy báo cho quan thì bị quan nạt nộ:” ông bỏ tù chúng mày”. Mọi thứ bị đẩy lên dần dần và rồi cuối cùng, tức nước vỡ bờ, không còn gì có thể giữ lại được nữa.
Tóm lại, tác phẩm đã phản ánh hiện thực lúc bấy giờ với những điều mà văn học thời kì đó chưa phản ánh hết được. Đó chính là một xã hội thối nát, mục ruỗng, quan không chăm lo cho cuộc sống của nhân dân khiến cho nhân dân phải rơi vào cảnh lầm than mà không biết nương tựa vào đâu. Qua đây tác giả cũng nhẹ nhàng phê phán xã hội, cách cai trị của những người bậc trên đối với quan lại.
Mời bạn tiếp tục đón đọc 🌳 Phân Tích Bài Thơ Bạn Đến Chơi Nhà 🌳 15 Bài Hay Nhất