Nghị Luận Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông ❤️️ 32+ Mẫu Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Bài Văn Phân Tích, Cảm Nhận Tác Phẩm Nổi Tiếng Của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Dàn Ý Nghị Luận Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông
Lập dàn ý nghị luận Ai đã đặt tên cho dòng sông sẽ giúp các em học sinh nắm được những luận điểm chính và bố cục cơ bản để triển khai bài viết. Tham khảo mẫu dàn ý chi tiết như sau:
I. Mở bài nghị luận Ai đã đặt tên cho dòng sông:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937) là nhà văn xứ Huế, có phong cách nghệ thuật độc đáo với sở trường là tùy bút, bút kí.
- Bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” rút từ tập bút kí cùng tên thể hiện cái “tôi” uyên bác trữ tình và vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế.
II. Thân bài nghị luận Ai đã đặt tên cho dòng sông:
1.Ý nghĩa nhan đề bài kí:
- Nhan đề độc đáo, mới lạ bằng cách sử dụng câu hỏi tu từ.
- Nhấn mạnh vẻ đẹp trữ tình của sông Hương – dòng sông lịch sử, cho thấy khát vọng về cái đẹp và xây dựng cái đẹp của con người xứ Huế.
2.Hình tượng sông Hương:
a. Dòng sông thiên nhiên:
- Ở thượng nguồn: “bản trường ca của rừng già”, “cô gái Di gan”, “người con gái của rừng già”, “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”
- Từ thượng nguồn đến Huế: sông Hương như người con gái lần đầu đến với tình yêu một mặt rất e lệ, một mặt táo bạo chủ động.
- Trong lòng Huế: như một người con gái đắm say tình tứ khi bên người mình yêu, người con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”.
- Từ biệt Huế ra biển: như một người con gái lưu luyến, thủy chung từ biệt người yêu.
- Nhận xét: tác giả chủ yếu cảm nhận vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tình yêu khiến sông Hương hiện lên như một người con gái chung tình hết lòng vì tình yêu.
b. Dòng sông lịch sử:
- Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của Huế, của đất nước: “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, chứng kiến những mất mát đau thương của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX, …
- Sông Hương như một công dân có ý thức trách nhiệm sâu sắc với đất nước: “biết hiến đời mình để làm nên chiến công”, …
- Là một người con gái anh hùng: cùng gắn bó với Huế qua nhiều cuộc chiến đấu anh hùng trong thời kì trung đại, đến cách mạng tháng tám cũng có những chiến công vang dội, …
c. Dòng sông văn hóa:
- Sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”: toàn bộ âm nhạc cổ điển Huế, những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều và bản Tứ đại cảnh đều được sinh thành trên sông nước sông Hương.
- Là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya: không bao giờ lặp lại trong cảm hứng của các thi nhân
- Nhận xét: Sông Hương chính là người con gái phóng khoáng, chung thủy trong tình yêu,anh dũng kiên cường trong lịch sử, tài hoa sáng tạo trong âm nhạc, trong văn hóa, khiêm nhường trong đời thương. Là hiện thân cho vẻ đẹp người con gái Huế.
3.Hình tượng cái tôi tác giả:
- Quan sát dòng sông trên nhiều góc độ khác nhau, miêu tả dòng sông trên nhiều phương diện.
- Là nhà văn có những liên tưởng, so sánh, độc đáo, lối viết tài hoa, uyên bác.
- Là cái tôi nghệ sĩ có tình yêu tha thiết, say đắm với thiên nhiên Huế và đất nước.
III. Kết bài nghị luận Ai đã đặt tên cho dòng sông:
- Đánh giá nghệ thuật nổi bật: liên tưởng độc đáo, sử dụng từ ngữ đặc sắc, văn phong tao nhã, thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Hương.
- Qua tác phẩm ta cảm nhận được niềm tự hào tha thiết của tác giả với vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế cũng như đất nước. Nhà văn có lối hành văn mê đắm, súc tích.
Tiếp theo, mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Tóm Tắt Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông 🌹 14 Bài Hay Nhất
Nghị Luận Tác Phẩm Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Của Hoàng Phủ Ngọc Tường – Mẫu 1
Bài văn mẫu nghị luận tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những định hướng làm bài cụ thể.
Bằng một trái tim nghệ sĩ đắm say, một vốn từ ngữ giàu có chính xác, gợi tả, một kho tri thức phong phú và một tấm lòng ân tình với sông Hương xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sáng tác nên một thiên tuỳ bút rất hấp dẫn: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” bằng những áng văn vừa đẹp đẽ sang trọng, vừa lấp lánh trí tuệ, vẫn mê đắm tài hoa.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một tuỳ bút đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế (đặc biệt là đoạn từ thượng nguồn đến thành phố Huế).
Trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên như một cô gái đẹp, một vẻ đẹp rất Huế, rất độc đáo; vừa dịu dàng, vừa “phóng khoáng, man dại”.
Ngay từ ngọn nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, sông Hương toát lên một vẻ đẹp tràn đầy sức sống, vừa hùng tráng, vừa trữ tình như một bản “trường ca của rừng già”, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn. Cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên.
Bằng biện pháp nhân hóa đặc sắc, tác giả như đã hình tượng hóa con sông Hương: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái di gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.
Nhưng cũng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt… đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
Tác giả cho rằng “người ta sẽ không hiểu được một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.
Cái điều mà sông Hương “không muốn bộc lộ đã đóng kín lại” đó, hình như giờ đây bằng một cách kín đáo, tác giả đã hé mở cho độc giả thấy được: sông Hương chính là người mẹ hiền hàng ngày, hàng giờ không ngừng duy trì “bồi đắp phù sa” màu mỡ cho cả một vùng văn hoá lịch sử đã được hình thành nơi đôi bờ sông Hương – xứ Huế.
Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của kinh thành Huế có hàng trăm năm văn hiến, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và những thử thách. Trong cái nhìn tinh tế, lãng mạn và rất phong tình của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông Hương tựa như cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.
Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ một nét lịch lãm, tài hoa với những hình ảnh mỹ lệ, vốn ngôn ngữ giàu có, sự hiểu biết phong phú của tác giả. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”.
Nhưng ngay khi ra khỏi vùng núi, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ như “người đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài” với niềm khát khao của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “vẽ một hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”.
Vừa mạnh mẽ, vừa tình tứ mà dịu dàng kín đáo, đó là cái nét phẩm chất đẹp đẽ mang nét riêng của sông Hương – cô gái Huế được tác giả diễn tả bằng những nét vẽ, những hình ảnh cũng thật tình tứ, dịu dàng. Khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo “dòng sông mềm như tấm lụa”; khi qua “hai dãy đồi sừng sững như thành quách”, dòng sông ánh lên vẻ đẹp biến ảo với những phản quang nhiều màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
Khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ , mây phong; Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”, dòng sông Hương, mang vẻ đẹp “trầm mặc như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó bỗng sinh động bừng sáng lên khi gặp tiếng chuông Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.
Tóm lại, với những nét bút giàu màu sắc hội hoạ tinh tế, với cảm xúc say đắm, ở đoạn này Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo dựng được một bức tranh sông Hương thật đẹp bởi sự phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế đa dạng và rất hài hoà.
Từ đây như đã tìm đúng đường về, gặp lại thành phố thân yêu của mình “sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực, yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc. Phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần lên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Đúng là một hình ảnh so sánh rất độc đáo và thi vị.
Nó không chỉ được vẽ bằng bàn tay họa sĩ tinh tế mà còn được vẽ bằng trái tim của một thi sĩ tài hoa, đa tình. Cũng với bút pháp ấy, dòng sông “uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến” khiến “dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Đúng là dòng sông Hương dịu dàng và kín đáo như chính cô gái Huế vậy! Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương được ví như sông Xen của Paris, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Pê-téc-bua.
Nhưng Huế vẫn giữ nguyên dáng một đô thị cổ trải dọc hai bờ sông với “cây đa, cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, từ nơi ấy vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Phải chăng đây là nét độc đáo nhất của Huế? Bởi nó vẫn còn mang vẻ đẹp cổ kính nghìn xưa.
Bằng cảm nhận âm nhạc, tác giả thấy con sông Hương của mình ở đây “có điệu chảy lặng lờ, đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong những đêm rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở chao nhẹ trên mặt nước như vấn vương của một nỗi lòng”. Quả là một hình ảnh rất trữ tình, lãng mạn. Đúng như một nhà thơ đã viết về sông Hương – Huế:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Hình như trong khoảnh khắc chững lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Trong con mắt thi sĩ – nhạc sĩ của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã trở thành con sông của “thơ ca nhạc hoạ”. Vì “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”.
Từ đó, tác giả mường tượng thấy sau lớp sương khói của thời gian, hình như “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiếm trăng sầu” để viết nên những trang Kiều tuyệt bút, với “những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”.
Trong đó, nổi bật nhất là bản “Tứ đại cảnh”, một bản nhạc cổ của Huế. Đây quả là một cuộc gặp gỡ kì thú giữa những tâm hồn nghệ sĩ cổ kim trên dòng sông Hương thơ mộng. Trong cái nhìn đắm say của trái tim đa tình Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương khi chảy vào lòng thành phố Huế bỗng hiện lên như “người tình rất dịu dàng và thuỷ chung”.
Điều này được diễn tả trong một hình ảnh khá độc đáo, đầy phát hiện “Rời khỏi Kinh thành, sông Hương chếch về hướng Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre, trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
Và rồi như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng rẽ sang hướng Đông Bắc để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”, “vốn đang chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây”. Tác giả gọi đấy là “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.
Nhà văn hình dung sông Hương ở đây giống như nàng Kiều đã “chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề ước trước khi về biển cả. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”. Đây là một liên tưởng thật bất ngờ, thú vị, đậm màu sắc văn chương cổ điển của tác giả về dòng sông yêu quý của mình. Dòng sông Hương trong sâu thẳm của nó mang vẻ đẹp tâm hồn dân tộc. Bởi như Chế Lan Viên đã viết:
“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên”
Và nhà thơ Ngô Viết Dinh cũng viết:
“Nghìn năm gửi lại một chữ trinh
Tâm hồn dân tộc kết tinh tim Kiều”
Gọi sông Hương là một áng văn trữ tình như một thiếu nữ dịu dàng, mơ mộng và kín đáo thì ai nấy đã rõ nhưng gọi sông Hương là một “thiên sử thi”, “một bản anh hùng ca” thì thật đáng ngạc nhiên. Đây là một phát hiện bất ngờ và thú vị nữa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Qua “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi và tài liệu khảo cổ học về thành cổ Hoá Châu, tác giả khám phá ra rằng sông Hường vốn có tên là Linh Giang, nghĩa là dòng sông thiêng đã đấu tranh oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại như Bạch Đằng, Như Nguyệt “Tự cổ huyết do hồng” ở phía Bắc.
Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng Kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa và từ đây sông Hương đi vào thời đại Cách mạng tháng tám, chiến dịch Mậu Thân và cuộc tổng tiến công hoàn toàn giải phóng dân tộc mùa xuân năm 1975 bằng những chiến công rung chuyển.
Như vậy, sông Hương đâu chỉ có vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng, đầy trữ tình mà trong thời gian ngân vang của lịch sử, nó còn tiềm ẩn một sức mạnh quật cường, bất khuất của dân tộc, của “sử thi viết giữa màu lá cỏ xanh biếc”. “Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công để rồi nó trở về với cuộc sống hình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”, của Huế thân yêu.
Đúng là sử thi mà vẫn rất đỗi trữ tình, thơ mộng. Và đột nhiên, tác giả liên tưởng đến màu áo tím ẩn hiện thấp thoáng theo bóng cô dâu Huế “vẫn mặc sau tiết sương giáng”. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông Hương – cô gái Huế.
Với tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, vẻ đẹp của sông Hương không hề đơn điệu mà biến hoá đa dạng. Vì vậy, mỗi phong cách thơ đều có thể khám phá được những chất thơ khác nhau của nó.
Từ xanh biếc thường ngày nó bỗng thay màu thực bất ngờ “dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà; từ tha thướt mơ màng, nó chợt nhiên hùng tráng lên như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan; nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu.
Bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hoá phong phú và một kho từ ngữ giàu có đậm chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc hoạ được một dòng sông như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, một vẻ đẹp rất thơ, khơi nguồn cho cảm hứng thi ca và gắn liền với nền âm nhạc cổ điển Huế, tạo nên bề dày lịch sử văn hoá của cố đô. Nhờ đó, sông Hương đã trở thành dòng sông bất tử chảy mãi trong trí nhớ và tình cảm của độc giả, bồi đắp phù sa màu mỡ làm xanh tươi thêm tình yêu đối với quê hương đất nước.
Chia sẻ 🌼 Sơ Đồ Tư Duy Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông 🌼 10 Mẫu Hay
Bài Văn Nghị Luận Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Hay Nhất – Mẫu 2
Đón đọc bài văn nghị luận Ai đã đặt tên cho dòng sông hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có sự gắn bó sâu sắc với Huế từ khi sinh ra cho đến hết cuộc đời của mình, đó là nền tảng cơ sở để hình thành nên tình yêu, là cơ sở để tác giả có những nghiên cứu thật tường tận về văn hóa, lịch sử và địa lý của xứ Huế. Từ đó viết nên tác phẩm ký Ai đã đặt tên cho dòng sông thật xuất sắc và thấm nhuần dáng vẻ của Huế, của con người Huế, rất đỗi tình cảm và dịu dàng, mang đậm phong cách nghệ thuật mê đắm và tài hoa của tác giả.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã có một nhận định rất hay về phong cách viết bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường rằng: “Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa”, ta có thể nhận thấy rõ điều đó thông qua một đoạn trích của tác phẩm, thể hiện trên vẻ đẹp của con sông Hương êm đềm, lững lờ trôi ôm ấp lấy Huế.
Bút ký là thể loại văn học đặc trưng có pha trộn giữa tùy bút và ký sự, tùy bút thì thiên về cảm xúc của người viết còn ngược lại ký sự thì hoàn toàn thuần túy kể lại những sự việc mà tác giả nhìn thấy theo một trình tự không gian, thời gian nhất định.
Bút ký vốn là sở trường của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thế nên trong tác phẩm Ai đã đặt trên cho dòng sông, từng trang bút ký đều thật xuất sắc khiến người đọc vừa cảm nhận được mạch cảm xúc của tác giả nhờ sự liên tưởng dồi dào, mê đắm, đồng thời cũng hiểu rõ hơn về thành phố Huế mộng mơ.
Nói rằng ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có nhiều ánh lửa bởi lẽ, đọc ký của ông độc giả bỗng cảm thấy ấm áp, thấy thật thêm yêu xứ Huế, thêm yêu dòng sông Hương, dường như tác phẩm đã thổi vào tâm hồn độc giả một hơi ấm lạ kỳ từ ngòi bút mê đắm và tài hoa ấy.
Ánh lửa ở đây có thể nói chính là tình yêu là niềm đam mê, nhiệt huyết bất diệt của nhà văn dành cho sự nghiệp cầm bút, sự nghiệp nghiên cứu những đặc điểm văn hóa, địa lý, lịch sử của thành phố Huế.
Đồng thời ánh lửa ấy cũng là tấm lòng tự hào, ngợi ca từ một người con xứ Huế dành cho quê hương, dành cho dòng Hương giang xinh đẹp, mộng mơ, đó là tấm lòng ấm áp, chất chứa nhiều yêu thương, nhiều xúc cảm. Nguyễn Tuân vốn đã là một thiên tài trong làng tùy bút mà cũng phải khen ngợi, nhận xét tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường, điều ấy càng chứng tỏ được tài năng, phong cách nghệ thuật của nhà văn gốc Huế này.
Vẻ đẹp của sông Hương – ánh lửa chính của cả bài ký thể hiện qua nhiều góc độ. Đầu tiên là ở góc độ địa lý, vẻ đẹp của sông Hương thể hiện qua ba đoạn chảy, cảnh thiên nhiên rất đa dạng và mang một vẻ quyến rũ đến lạ kỳ. Sông Hương trong không gian giữa núi rừng Trường Sơn, được Hoàng Phủ Ngọc Tường ví như là “bản trường ca của rừng già”.
Dòng sông vừa mang chất hào hùng, tráng lệ, “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc,…”, lại cũng rất đỗi trữ tình, thơ mộng, với “vẻ dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Dòng sông ở đoạn chảy này cũng giống như một người, luôn tồn tại những nét tính cách đối lập nhau nhưng lại dung hòa bổ khuyết cho nhau, tạo nên một vẻ đẹp cá tính riêng biệt, nhiều màu sắc cho dòng Hương giang.
Để tô điểm thêm cho tính cách của dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại tiếp tục nhân hóa sông Hương, ví nó như hình tượng của một cô gái Di-gan với những nét tính cách “phóng khoáng và hoang dại”, với điệu nhảy xoay tròn, lắt léo, rất quyến rũ và nồng nàn say mê. Như vậy dòng sông bỗng trở nên thật sinh động, thật cá tính, mang một “tâm hồn tự do và trong sáng”, cảm giác như một con người sôi nổi, yêu sống, yêu khám phá đến mãnh liệt.
Mà thứ đã hun đúc gây dựng nên những nét đẹp trong tính cách của dòng sông ấy là chính là mảnh rừng già đang ôm ấp ở hai bên dòng sông. Nhưng dẫu có sôi nổi, nhiệt huyết đến thế nào thì sông Hương vẫn muốn thu liễm cái tính nết ấy lại, giấu gọn trong rừng già, “đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa vào lòng sâu của vực thẳm dưới núi Kim Phụng”.
Chỉ có những con người thực sự đam mê, thực sự nhiệt huyết có ham muốn tìm tòi như Hoàng Phủ Ngọc Tường mới có thể khám phá ra được những điều mà bấy lâu nay sông Hương vẫn hòng giấu kín, quả đó là một công trình hao tổn nhiều tâm huyết, cần một tâm hồn tinh tế và nhạy bén và sự kiên nhẫn vượt khó của người làm nghệ thuật.
Khi ra khỏi rừng, sông Hương đã lập tức chuyển mình không còn mang dáng vẻ của một người con gái Di-gan hoang dại, quyến rũ nữa mà lại trở nên thật hiền hòa, ấm áp tựa như “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”. Người mẹ ấy đã nuôi nấng, bồi dưỡng đứa con thân yêu tên cố đô Huế bằng dòng sữa phù sa thật ngọt ngào, cũng dạy cho con mình những nét văn hóa lâu đời bằng sự “dịu dàng và trí tuệ”.
Ở đấy ta thấy một sự hy sinh âm thầm lặng lẽ mà người mẹ đã hy sinh cho con cái của mình, niềm hy vọng to lớn, đầy yêu thương dành cho đứa con bé nhỏ, mộng mơ. Tác giả đã thật tài tình khi biến sông Hương thành một sinh thể có cảm xúc, có lòng yêu thương, biết hy sinh, đặc biệt là mối quan hệ mẫu tử giữa sông Hương và thành phố Huế lại càng khiến người ta ấn tượng không thôi.
Vượt ra khỏi lòng Trường Sơn, sự lột xác của con sông khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường liên tưởng đến câu chuyện cổ tích “Nàng công chúa ngủ trong rừng”, thì ở ở đây nhà văn cũng có sự kiên tưởng rất độc đáo, ấy là con sông Hương được người tình trong mộng suốt từ mấy thế kỷ đánh thức giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Sở dĩ có sự ví von đầy cổ tích và thơ mộng như vậy là do dòng sông Hương qua khúc này thật hiền hòa êm dịu, nhìn từ trên cao xuống chẳng khác nào một tấm lụa mượt mà uốn lượn quanh thành phố Huế.
Cái sự mượt mà ấy dễ làm người ta nghĩ đến hình ảnh của một người con gái còn son trẻ, vẫn đang trong hành trình tìm kiếm định mệnh đời mình, vừa mang nỗi niềm e ấp dịu dàng, nhưng cũng không kém phần mãnh liệt, bạo gan.
Cái cách chảy của dòng sông khúc này giống như một sự rượt đuổi tình tứ của những con người yêu nhau, hết chuyển dòng liên tục lại “vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”, tựa như bóng dáng một người con gái đẹp đang phô ra những vẻ thanh xuân mượt mà, khiến lòng người phải xôn xao, thổn thức.
Không chỉ mang những vẻ đẹp quyến rũ mềm mại mà ở đoạn này sông Hương còn mang nhiều dáng vẻ phong phú và đa dạng, “Có khi sắc nước trở nên xanh thẳm”, những lúc quanh co qua những ngọn đồi hai bên bờ, thì màu trời lẫn màu xanh của đồi soi bóng trên dòng Hương giang tạo nên những màu sắc thật đẹp, thay đổi theo thời gian trong ngày “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
Khi sông Hương lững lờ chảy ngang qua lăng tẩm của những ông hoàng bà chúa khi xưa, nó lại mang một vẻ đẹp trầm mặc, cổ thi tựa như một bức tranh thủy mặc, dường như con sông đang trầm ngâm nghĩ suy điều gì đó, hẳn là tấm lòng thành kính, là những hoài niệm về kinh thành Huế những ngày còn vẻ vang,…
Tiếng chuông chùa Thiên Mụ đã đánh thức con sông ra khỏi dòng niệm tưởng của nó, gọi nó về với sự hồn nhiên vui tươi với “những bãi biền xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, tựa như đứa con thấy đường về nhà, tựa như cô gái trẻ thấy người yêu, một cảm giác thật yên tâm, yên bình biết bao. Vẫn bằng sức liên tưởng độc đáo Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mường tượng ra hình ảnh “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non” rất thơ mộng, trữ tình.
Dòng sông lúc này đã qua khỏi cái thời kỳ rượt đuổi tình yêu, trở nên thật dịu dàng và e ấp, tựa như cô gái Huế trong vòng tay của người thương, “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến”, làm con sông mềm mại hẳn đi, như một lời hồi đáp rất uyển chuyển, “một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”.
Khi đã tiến hẳn vào đến thành phố Huế thì sông Hương lại được ví như một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, sở dĩ có sự so sánh như vậy là bởi nhà văn đã tinh tế nhận ra dòng chảy con sông khi vào Huế đã chậm lại rất nhiều tựa như “mặt hồ yên tĩnh”, bởi “những chi lưu ấy, những hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước”. Câu văn êm đềm, tựa như tiếng nhạc chậm rãi, du dương khiến con người ta chìm vào một khoảng không gian thi vị, trữ tình.
Đặc biệt cái sự chậm rãi, êm đềm của dòng sông Hương càng trở nên rõ nét khi nhà văn so sánh với dòng “sông Nê-va cuốn trôi những phiến băng lô xô”, “mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng”.
Nhà văn thật vui thú khi nhớ về những mơ ước thuở nhỏ, muốn hóa thành những chú chim cánh cụt để thỏa sức vui đùa, thế nhưng tàu băng đi nhanh quá, những chú chim ấy không kịp vẫy tay chào những con chim đang ngẩn ngơ ở lại. Có thế tác giả mới lại nhớ về dòng Hương giang thân yêu, dịu hiền, mới lại càng thêm yêu quý trân trọng cái điệu chảy chậm rãi, nhẹ nhàng như một người con gái còn lưu luyến người yêu, nửa muốn đi, nửa muốn ở lại nằm lâu hơn trong lòng chàng trai xứ Huế mộng mơ.
Khi rời khỏi thành phố Huế, sông Hương vẫn còn chưa muốn rời hẳn, vẫn lưu luyến lắm, tựa như một người tình chung thủy chẳng muốn chia xa. Thế nên nó mới “đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao vinh xưa cổ”, nhà văn đã nhân cách hóa nó lên, gọi đấy là nỗi vương vấn, “một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.
Vẻ đẹp lịch sử của Huế là điều không có gì phải bàn cãi, suốt mấy trăm năm lịch sử cố đô, chứng kiến sự thăng trầm hưng thịnh của triều Nguyễn, triều đại cuối cùng của lịch sử phong kiến Việt Nam, “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân”. Bao nhiêu sự kiện, bao nhiêu biến cố, bao nhiêu đổi thay sông Hương đều âm thầm ghi nhớ, âm thầm cất giấu vào tận đáy lòng, tựa một nhà sử gia kín miệng.
Thế nhưng dẫu có trải qua mấy ngàn năm, lịch sử gắn bó với Huế, với độ tuổi tưởng như già nua, nhưng tâm hồn của dòng Hương giang chưa bao giờ úa tàn. Nó vẫn luôn vậy, như có thuốc trường sinh bất lão, vẫn mang một tâm hồn cá tính, một dáng vẻ yêu kiều của cô gái đang tuổi đôi mươi, chưa khi nào hết khao khát và tìm kiếm tình yêu đích thực.
Như vậy ánh lửa trong bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thực sự xuất phát tình lòng yêu, niềm ngưỡng mộ, ngợi ca với dòng Hương giang, với mảnh đất mà ông gắn bó suốt bao năm trời. Từng dòng, từng chữ trong tác phẩm ta luôn nhận thấy được sự tỉ mỉ, chăm chút, đọc đến đâu người ta cũng nhận rõ được mạch cảm xúc của nhà văn, rất tâm huyết, yêu thương và trân trọng.
Bởi phải có trân trọng, quý báu lắm, ông mới vất vả nghiên cứu tìm tòi con sông Hương từ ở khúc thượng nguồn, từ ở trong rừng già, nơi mà vốn dĩ dòng sông muốn giấu đi. Rồi ông không chỉ tìm hiểu về địa lý mà còn đi vào cả lịch sử, cả văn hóa Huế, con người Huế. Tổng hòa tất cả những điều ấy đã tạo nên một tác phẩm bút ký thực sự xuất sắc, chứa nhiều “ánh lửa” như Nguyễn Tuân đã nhận định.
Giới thiệu tuyển tập 🌹 Phân Tích Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông 🌹 15 Mẫu Hay Nhất
Nghị Luận Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Ngắn Gọn – Mẫu 3
Bài văn mẫu nghị luận Ai đã đặt tên cho dòng sông ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích và cô đọng nội dung.
Trên khắp dải đất hình chữ S với ba miền: Bắc, Trung, Nam, vùng miền nào cũng đã từng để thương, để nhớ cho biết bao các nhà văn, nhà thơ có tâm hồn lãng mạn, bay bổng. Trong đó đặc biệt phải nói đến khúc giữa của dải đất này với miền Trung của xứ Huế mộng mơ.
Thiên nhiên, con người xứ Huế có lẽ luôn nổi bật với nét đẹp nhẹ nhàng và mê đắm, nhưng mấy ai biết rằng, điều làm nên nét đẹp đó chính là nhờ một phần vào nét đặc trưng của dòng sông Hương bao quanh thành phố này. Hoàng Phủ Ngọc Tường với bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông là một tác phẩm viết rất hay, rất sâu sắc về Hương giang biểu tượng cho thiên nhiên và con người xứ Huế.
Bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông được in trong tập bút kí cùng tên, gồm có 8 bài kí, được tác giả viết ngay sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, khi cả nước đang tưng bừng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu thiên nhiên, yêu truyền thống văn hóa của dân tộc.
Sông Hương được tác giả miêu tả với ba trạng thái ở ba khúc khác nhau: khi ở thượng nguồn, rồi ở trong lòng và ngoại vi thành phố, thêm một chút đôi nét về văn hóa xứ sở. Với khúc thượng nguồn, Hương giang được nhà văn miêu tả với vẻ đẹp của một “cô gái Di gan phóng khoáng và man dại”, biện pháp nghệ thuật nhân hóa làm cho dòng sông hiện lên như là một cô gái đầy nữ tính, khi mãnh liệt, cháy bỏng, khi thì lại trầm mặc, êm đềm.
Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn dòng sông dưới con mắt của “một kẻ si tình”, ông yêu, ông mến cái vẻ đẹp đầy man dại, độc đáo ấy của sông Hương. Dòng sông còn được miêu tả như một bản trường ca của rừng già “Giữa rừng già, dòng sông là một bản trường ca, nó rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, nó mãnh liệt vượt qua những ghềnh thác, rồi nó cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn”.
Với mỗi một dòng sông, khúc thượng nguồn là nơi nước chảy xiết nhất, mãnh liệt nhất, cho nên Hương giang cũng như vậy, nguồn nước của nó dồi dào, mạnh mẽ đủ để chảy vào bao quanh cả thành phố Huế của nó. Vừa là bản trường ca của rừng già, sông Hương vừa là “một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, chính sông Hương đã cung cấp lượng phù sa giàu có cho người dân nơi đây, cho thiên nhiên xứ Huế.
Nhà văn đã thể hiện được sự hiểu biết và gắn bó sâu sắc của mình với dòng sông của mảnh đất quê hương, bởi ông sinh ra và lớn lên tại thành phố này. Tình yêu dành cho xứ Huế khiến cho cô gái ấy không muốn mở lòng mình ra, chỉ dành trọn tình yêu cho xứ Huế mà trái tim nàng “đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”
Vượt qua khúc thượng nguồn, sông Hương tìm về với thành phố thân yêu của nó. Sông Hương theo dòng thủy trình đã tìm về thành phố Huế như một sự tìm kiếm có ý thức “từ ngã ba tuần sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế.”
Nó tìm về nơi mà nó phải thuộc về, cũng như dòng sông Seine của Pari hay sông Đa nuýp của Budapest chỉ chảy trong lòng một thành phố duy nhất. Tâm trạng của người con gái mộng mơ “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc” khi nó được gặp người tình của mình, chính là thành phố Huế. Về với miền đất quen thuộc, Hương giang được ví với “tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, khơi gợi ra một nét đẹp đặc trưng của cố đô Huế, đó là nhã nhạc cung đình Huế.
Làm sao người đọc có thể quên được những lời hát tình tứ, những điệu nhạc du dương vốn đã trở thành nền văn hóa thi ca trên những con thuyền xuôi dòng Hương giang trong những đêm trăng sáng hờ hững, thơ mộng. Phải yêu thiên nhiên, yêu quê hương của mình lắm thì nhà văn mới có thể cảm nhận sâu sắc về dòng sông Hương đến như vậy. Hương giang nhảy “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, nó muốn gắn chặt với nơi đây lâu nhất có thể.
Nhưng dù có chậm rãi đến như thế nào thì cũng đến lúc sông Hương phải từ biệt thành phố để tiếp tục thủy trình của mình. Hình ảnh chia tay của người con gái ấy được miêu tả với tâm trạng đầy lưu luyến, bịn rịn: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
“Cả một hành trình vượt bao gian nan để gặp được người tình của mình, Hương giang chẳng nỡ lìa xa tình yêu mãnh liệt của nó, cho nên nó đột ngột chuyển dòng, để được gặp lại thành phố một lần nữa ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Tại đây, sông Hương nói lời thề của mình dành cho thành phố: ““Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”.
Lời tạm biệt của dòng sông với xứ Huế gợi liên tưởng đến cảnh chia ly của những đôi tình nhân, cũng bịn rịn, thắm thiết không nỡ rời xa. Thương mến và giàu tình cảm đến như vậy, làm sao người đọc và thành phố này có thể lãng quên đi người con gái thủy chung, son sắt ấy?
Cuối cùng, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả dòng sông Hương với vẻ đẹp gắn liền với những nét đẹp văn hóa của dân tộc. Sông Hương là dòng sông của lịch sử, đã cùng các vị vua Hùng trải qua thời kì khó khăn dựng nước và giữ nước, nó là chứng nhân cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mĩ xâm lược, đặc biệt là sự kiện Xuân Mậu Dần năm 1968.
Biết bao tội ác của quân giặc được sông Hương nhớ mãi và găm vào trái tim mình. Cùng với đó là những hình ảnh bất khuất, kiên cường của cả dân tộc không thể nào quên. Sông Hương vẫn cứ ở đó, trầm mặc khi bình thường và man dại khi cần thiết, nó sẽ tiếp tục theo chân thành phố và cả dân tộc trong những năm tháng tiếp theo của tương lai. Yêu biết bao vẻ đẹp của con sông trữ tình và mộng mơ ấy!
Với bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên trước mắt người đọc hình ảnh một dòng sông Hương với vẻ đẹp thật nữ tính, làm mê đắm không chỉ với người dân xứ Huế mà còn cả những người lữ khách từng đặt chân tới nơi đây. Đọc tác phẩm, người đọc muốn xách ba lô lên và đi ngay, để được thăm thú và ngắm nhìn người con gái tình tứ với quê hương, với xứ sở thân yêu của nó, cũng như lòng chung thủy bền vững của con người trong tình yêu.
Khám phá thêm 💕 Mở Bài Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông 💕 20 Mẫu Hay Nhất
Nghị Luận Bài Bút Ký Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Ngắn Nhất – Mẫu 4
Bài văn nghị luận bài bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh ôn tập và chuẩn bị nhanh chóng cho bài viết trên lớp.
Trước hết, tác giả dẫn ta trở về với khúc sông thượng nguồn để khám phá. Trước khi về với vùng châu thổ êm đềm, sông Hương có nét đẹp hoang sơ và dữ dội, hùng tráng. Nhà văn đã ví dòng sông như một cô gái Di-gan “phóng khoáng và man dại”. Bởi rừng già ở thượng nguồn đã hun đúc nên bản lĩnh gan dạ cùng tâm hồn tự do, trong sáng cho dòng sông Hương
Tới khi ra khỏi rừng già, sông Hương đã thu lại vẻ dữ dội mà chuyển mình dịu dàng, trí tuệ, mang vẻ đẹp kín đáo, lắng sâu của người con gái. Vẻ đẹp sông Hương hiện lên với hai nét tính cách: vừa phóng khoáng, man dại, vừa dịu dàng, thơ mộng, đắm say
Ra khỏi rừng, sông Hương như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài để hiện lên vóc dáng và sức sống mới. Nó “chuyển dòng liên tục”, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Sông Hương chảy trôi qua ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, bãi đất Nguyệt Biều, Lương Quán rồi chuyển hướng về phía Đông Bắc, ôm lấy chân chùa Thiên Mụ và xuôi dần về Huế. Tất cả những nơi nó chảy qua đã nhuốm một vẻ đẹp “trầm mặc như triết lí, như cổ thi” cho chính dòng sông. Và kéo dài bằng tiếng chuông chùa Thiên Mụ vang ngân
Đến thành phố, sông Hương như tìm thấy chính mình. Nó “vui tươi” hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. Ở đoạn văn này, tác giả liên tưởng sông Hương như người con xa xứ háo hức được trở lại mảnh đất quê hương để ngắm nhìn xứ Huế từ xa và nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in trên bầu trời nhỏ nhắn như vầng trăng non. Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông ta thấy cách so sánh này vừa thể hiện hình dáng độc đáo của cầu Trường Tiền, vừa gợi nét trong sáng, thanh mảnh của người con gái Huế.
Nhà văn vẫn còn ngắm nhìn sông Hương một cách đắm say ở Cồn Giã Viên để khám phá ra, sông Hương “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến”. Đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như tiếng nói “Vâng ạ” e ấp, ngọt ngào, kín đáo trong tình yêu. Trong khoảnh khắc trùng lai giữa lòng thành phố, sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn giữa đêm khuya” mà cái hồn của nó đã thấm vào những trang Kiều và âm nhạc Huế.
Trước khi hòa vào biển cả, ở cửa biển Thuận An, sông Hương lại đẹp đến nao lòng trong dáng vẻ lẳng lơ, kín đáo khi ngoặt một khúc quanh rồi vươn tay lưu luyến ôm lấy lần cuối thành phố Huế thân yêu. Qua cách phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông, những so sánh tài hoa của tác giả giúp ta nhận ra vẻ đẹp độc đáo, sâu sắc của Hương giang giống như nàng Kiều trong đêm tình tự quyết chí đi tìm Kim Trọng để rơi một lời thề chung thủy, sắt son.
Trong hành trình khám phá vẻ đẹp sông hương từ thượng nguồn đến vùng hạ lưu, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn khám phá ra sông Hương mang vẻ đẹp của một vùng văn hóa truyền thống. Từ góc nhìn lịch sử, tác giả điểm lại dấu ấn dòng sông trong lịch sử dân tộc: thế kỷ XV ở Dưa địa chí của Nguyễn Trãi, thế kỷ XVIII qua chiến thắng của anh hùng Nguyễn Huệ, thế kỷ XIX với máu của các cuộc khởi nghĩa, đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.
Với cái nhìn xuyên suốt ấy, dòng Hương giang thơ mộng đã tham gia, trải nghiệm cùng những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc. Sông Hương là vậy, qua cách phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông ta thấy nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước.
Nếu như ở đoạn một và hai, sông Hương được cảm nhận chủ yếu trên bề rộng của không gian địa lý với những liên tưởng độc đáo thì ở đoạn này, sông Hương được bố cục theo chiều sâu của lịch sử. Nó ghi dấu những chiến công, lặng khóc cho những hy sinh âm thầm, vùng lên quật khởi,… Nó giống như một tấm gương soi vào lịch sử.
Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông thì thấy Sông Hương như biết bao chiến sĩ vô danh trên dải đất hình chữ S, sinh ra không phải cầm súng cầm mác nhưng kẻ thù buộc ta phải đấu tranh. Khi bình yên, họ lại trở về với cuộc sống bình thường, trở về bản tính tự nhiên muôn thuở, như sông Hương “làm một người con gái dịu dàng của đất nước”.
Trong mối quan hệ với thi ca, sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Có bao nhiêu người đến với sông Hương thì có bấy nhiêu lời thơ dạt dào, lai láng về dòng sông này.
Từ cách phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông ta thấy đó là dòng sông mơ màng với nỗi quan hoài vạn cổ trong bóng chiều bảng lảng của thơ Bà Huyện Thanh Quan, là “dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, là dòng sông hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát, là sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu,…
Kết thúc phần một của bài ký, tác giả cất lên câu hỏi không phải để hỏi nguồn gốc của một danh xưng địa lý thông thường mà là một sự nhấn mạnh, ẩn chứa niềm tự hào sâu sắc về dòng sông quê hương. Đồng thời, gợi mở cho người đọc những hướng trả lời khác nhau bằng trải nghiệm văn hóa của bản thân.
Bài tùy bút đã thể hiện một bút pháp nghệ thuật độc đáo, tài hoa và phong tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác giả đã thể hiện chất thơ quyến rũ làm say lòng người qua phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông. Những tri thức về địa lý, văn hóa, thi ca, âm nhạc của ông đã chung đúc thành trang văn tuyệt bút.
Xem nhiều hơn 🌟 Kết Bài Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông 🌟 20 Mẫu Hay Nhất
Nghị Luận Văn Bản Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Chi Tiết – Mẫu 5
Tham khảo bài nghị luận văn bản Ai đã đặt tên cho dòng sông chi tiết dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm vững giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là nhà văn có phong cách sáng tác độc đáo và đặc biệt sở trường về thể văn bút kí, tùy bút. Kí của ông có một diện mạo riêng – vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, vừa phong phú về phương diện tri thức văn hóa lịch sử. Chính vì vậy, các bài kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đóng góp rất nhiều cho văn xuôi hiện đại Việt Nam.
Đặc biệt với bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có cách nhìn độc đáo mang tính phát hiện về dòng sông Hương đẹp dịu dàng của xứ Huế và thể hiện điều đó bằng lối hành văn mang phong cách rất riêng và độc đáo của mình. Đoạn văn miêu tả dòng sông Hương vùng thượng lưu đã chứng minh điều đó.
Sông Hương và xứ Huế là vùng thẩm mĩ của Hoàng Phủ Ngọc Tường, là quê hương văn hóa đích thực của ông. Ông viết về đối tượng này với một tình yêu say đắm, một vốn liếng ngôn từ tinh luyện và một kho tri thức phong phú để tạo nên những trang văn vừa đẹp, vừa sang, vừa lấp lánh trí tuệ và chan chứa ân tình.
Đặc biệt ở đoạn đầu khi viết về sông Hương vùng thượng lưu, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện cái nhìn mang tính khám phá mới mẻ về vẻ đẹp ít ai biết đến của dòng sông xứ Huế: vẻ đẹp thiên tạo với sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính mà sông Hương luôn giấu kín khi nó còn ở rừng già. Vẻ đẹp ấy được thể hiện một cách sáng tạo, độc đáo và đặc sắc thông qua lối hành văn riêng biệt của tác giả: một lối hành văn hướng nội, súc tích, độc đáo và vô cùng tài hoa, uyên bác.
Hoàng Phủ Ngọc Tường có cái nhìn vô cùng độc đáo về Sông Hương: ông tìm về nguồn cội của dòng sông để phát hiện ra vẻ đẹp man dại, phong khoáng của dòng sông tưởng như hiền hòa, dịu dàng này. Mở đầu đoạn trích, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhận xét vô cùng chút quan: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất.”
Lời nhận xét tràn đầy tình yêu say đắm ấy không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với dòng sông quê hương mà còn thể hiện niềm tự hào, kiêu hãnh của bản thân khi đặt ngang hàng sông Hương với những dòng sông đẹp trên thể giới. Cách nhận xét chủ quan này thể hiện tình cảm thiên vị của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với dòng sông xứ Huế – dòng sông được coi là vùng thẩm mĩ của ông.
Nói tới xứ Huế, không ai không nghĩ tới sông Hương – dòng sông đại diện cho vẻ đẹp của miền đất này. Và khi nói tới Sông Hương người ta thường nghĩ ngay đến dòng sông hiền hòa với dòng chảy lặng lờ, êm dịu, dòng sông dịu dàng thơ mộng với tiếng mái chèo khua nước bán âm giữa đêm khuya, dòng sông mẹ chở nặng phù sa yên bình, dòng sông đại diện cho tình yêu đằm thắm thủy chung với xứ Huế.
Tuy nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ nhìn vào vẻ đẹp dịu dàng thơ mộng mà sông Hương thể hiện ra ở Kinh Thành Huế, ông muốn ngược dòng tìm về nguồn cội của dòng sông trữ tình này để rồi phát hiện ra vẻ đẹp độc đáo hoang dã, man dại nhưng cũng rất trữ tình không ai ngờ tới của Sông Hương.
“Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.” Đó cùng chính là phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông tưởng chừng như vô cùng dịu dàng đằm thắm giữa lòng thành phố.
Đặt dòng sông Hương trong mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn khi nhìn từ cội nguồn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có phát hiện vô cùng mới mẻ, đặc sắc: dòng sông Hương tựa như “một bản trường ca của rừng già”. Khi nói tới trường ca, người ta sẽ liên tưởng đến một bản nhạc vô cùng phong phú về giai điệu: có những nốt cao rung động lòng người cũng có những nốt trầm xao xuyến, tiết tấu khi thì mạnh, nhanh thể hiện cảm xúc mãnh liệt, khi thì chậm rãi, nhẹ nhàng tựa như dòng suối nhỏ róc rách chảy thấm sâu vào lòng người.
Và sông Hương thực sự mang vẻ đẹp đã sắc thái ấy trong đôi mắt tha thiết yêu, tha thiết nhớ của một tâm hồn rất Huế. Dòng sông ấy, khi thì “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn”, khi lại “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, lúc thì “cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn” nhưng cũng có khi lại “dịu dàng và say đắm” khi trôi giữa những dặm hoa rừng đỏ rực như ngọn đuốc.
Đặc biệt, thủ pháp đối lập được sử dụng một cách điêu luyện vừa thể hiện được vẻ đẹp phong phú sắc thái, vừa thể hiện được sức mạnh hoang sơ của sông Hương khi nằm giữa rừng già, núi non, khơi gợi lên bí ẩn say mê của dòng sông xứ Huế. Cùng viết về dòng sông với những khám phá độc đáo, đặc biệt về những vẻ đẹp đối lập nhau, Nguyễn Tuân đã vẽ nên vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở của sông Đà bằng ngôn ngữ tài hoa, uyên bác, sắc cạnh.
“Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu….”. Còn Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông không miêu tả đá bờ sông, không vẽ nên cảnh đá bờ sông cheo leo nguy hiểm mà ông nhìn con sông Hương như một cô gái với cá tính mạnh mẽ, hoang dã.
Không chỉ dừng lại ở thủ pháp đối lập, bằng biện pháp tu từ nhân hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thấy sông Hương tựa như một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Chính vẻ đẹp cuồng dã gợi cảm, sự mạnh mẽ man dại của bộ tộc yêu thích sự tự do được gắn với dòng chảy hoang dã, phong phú sắc thái đã khiến sông Hương mang vẻ đẹp quyến rũ đắm say một cách kì lạ, bí ẩn.
Vẻ đẹp ấy càng sâu sắc thêm khi Hoàng Phủ Ngọc Tường so sánh vùng thượng lưu sông Hương và khi con sông chảy về miền châu thổ. Trong cái nhìn đầy suy tư sâu sắc của nhà văn, Sông Hương từ một cô gái dân tộc gợi cảm cuồng dã đã dần thu mình lại, khoác lên mình “một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ” khi về đến kinh thành Huế – sự dịu dàng bình yên tựa như phần lắng đọng sâu lắng của tâm hồn mà con người ta luôn hướng tới sau khi phải trải qua phong ba bão táp.
Đến đây, sông Hương đã giấu đi dự man dại, sự phóng túng tự do của một con người từng trải, ẩn sâu dưới cái vỏ êm đềm, tĩnh lặng, dịu dàng của dòng sông mang trong mình nét văn hóa, lịch sử của vùng đất kinh kì. Tất cả phần tâm hồn sâu thẳm nhất, quá khứ tự do, oanh liệt nhất của người con gái ấy dường như đã vĩnh viễn “đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” để trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
Tóm lại, khi nói về Sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ thấy vẻ đẹp dịu dàng của dòng sông chốn kinh đô xưa mà nhờ việc ngược dòng tìm hiểu về cội nguồn của dòng sông, ông đã phát hiện ra một phương diện khác, một vẻ đẹp khác ẩn sâu hơn – sự phóng khoáng và man dại.
Tác giả gọi đó là phần bản chất, phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông. Đây là một phát hiện bất ngờ và sâu sắc: trong cái dịu dàng, thơ mộng vẫn ẩn chứa một sức sống mãnh liệt, hoang dại đầy cá tình mà dòng sông ấy đã mãi mãi gửi lại nơi cửa rừng.
Vẻ đẹp ấy của dòng sông Hương đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện qua lối hành văn mang đậm dấu ấn cá nhân: hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Thật vậy, qua từng câu, từng chữ trong đoạn trích, hình ảnh cái tôi của tác giả hiện lên vô cùng rõ nét. Trước hết, đó là một cái tôi uyên bác, nghiêm túc cẩn trọng trong tìm kiếm và phát hiện những vẻ đẹp của sông Hương và xứ Huế.
Hoàng Phủ Ngọc Tường quê gốc không phải ở Huế song ông lại sinh ra ở Huế, lớn lên và học tập, hoạt động cách mạng ở Huế. Vì thế, ta không thể phủ nhận rằng hơn ai hết, Hoàng Phủ Ngọc Tường có một tình yêu thương sâu nặng, có một sự gắn bó bền chặt bằng cả trái tim, máu thịt và tâm hồn mình với mảnh đất kinh đô xưa.
Chính vì vậy khi viết những ánh văn về Huế, về dòng sông Hương xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ hời hợt nhìn vào vẻ đẹp mà dòng sông ấy thể hiện ở giữa lòng thành phố mà ông đã tìm hiểu một cách tinh tường và sâu sắc từ nguồn cội của dòng sông để khám phá và khẳng định những vẻ đẹp riêng, sức quyến rũ riêng của dòng sông này.
Qua đó, ta cảm nhận được tình yêu quê hương tha thiết, sâu sắc của ông trong từng áng văn viết về sông Hương, xứ Huế, đặc biệt là trong đoạn trích của tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Không chỉ có vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thể hiện một cái tôi mê đắm, tài hòa và vô cùng lãng mạn.
Điều đó được thể hiện bởi lối so sánh độc đáo: “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.”
Sự độc đáo trong so sánh vẻ đẹp phong phú của sông Hương với nốt thăng, nốt trầm của một bản nhạc khiến vẻ đẹp ấy của dòng sông lại càng được tôn thêm nét sang trọng rất riêng biệt của phong cách sáng tác Hoàng Phủ Ngọc Tường. Không chỉ có vậy, sự liên tưởng đặc biệt cũng là một trong số những biểu hiện cho sự lãng mạn, tài hoa của nhà văn.
Ông đã có những liên tưởng thú vị mang tính sáng tạo bất ngờ: “Sông Hương sống nửa đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” hay “Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của dòng sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấy phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.
Chính sự liên tưởng mới mẻ đó đã mang đến cho trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường sự mới lạ, độc đáo và quyến rũ đến lạ kì. Từ đoạn trích thể hiện vẻ đẹp phong phú của sông Hương vùng thượng lưu, ta cảm nhận được tình yêu say đắm tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với sông Hương và đặc biệt đối với xứ Huế – nơi mà ông gắn bó hơn ai hết bằng tất cả máu thịt và tâm hồn mình.
Vì vậy, thật không ngoa khi một nhà phê bình văn học từng nhận xét: “Nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu Huế và hiểu Huế, thì đó là một lẽ đương nhiên. Tôi muốn đi xa hơn, tìm một căn nguyên thấm kín để cắt nghĩa cho sự thành công mỹ mãn của những trang viết ấy… Phải là sự tương giao, đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn tài hoa không dễ một lần thứ hai viết được như thế.
Ngỡ như không khác được: viết về sông Hương là phải vậy, viết về “văn hóa vườn” ở Huế là phải vậy. Đó là những áng văn, câu chữ được chọn lựa cân nhắc kỹ càng, vì hình ảnh được sáng tạo đẹp đẽ, vì cảm xúc phong phú bất ngờ, mới mẻ.” Ngoài ra, đoạn trích còn thể hiện phong cách sáng tác riêng biệt và đặc sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Sự kết hợp giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.
Chính nhờ cái nhìn toàn diện về mọi mặt ấy đã giúp ông phát hiện ra vẻ đẹp ẩn giấu mà dòng sông Hương đã cố ý giấu đi dưới vẻ đẹp hiền hòa, yên bình. Và chính điều đó cũng tạo nên một tác phẩm bút kí đi vào lòng nhiều thế hệ bạn đọc như “Ai đã đặt tên cho dòng sông.”
Tóm lại, đoạn trích miêu tả vẻ đẹp phong phú về sắc thái của sông Hương trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã thể hiện một cái nhìn độc đáo mang tính phát hiện và nét riêng trong lối hành văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Chính bởi tình yêu mãnh liệt dành cho sông Hương, xứ Huế, nhà văn mới có thể viết nên những trang văn hay và sâu sắc tới vậy. Quả đúng là “Hoàng Phủ Ngọc Tường thì thầm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước của Huế.”
Có thể bạn sẽ thích 🍃 Phân Tích Sông Hương 🍃 15 Bài Phân Tích Hình Tượng Hay
Nghị Luận Về Bài Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Đầy Đủ – Mẫu 6
Bài văn nghị luận về bài Ai đã đặt tên cho dòng sông đầy đủ dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Với vốn kiến thức phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lí, triết học, những trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn có sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình cùng cách dùng từ ngữ, lối hành văn súc tích, hướng nội, mê đắm và tài hoa. Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được viết tại Huế vào năm 1981 là một trong số những tùy bút xuất sắc nhất, tiêu biểu cho phong cách văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Trước hết, nhà văn đã dùng vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc của mình để tái hiện một cách chân thực và rõ nét thủy trình của sông Hương với những vẻ đẹp khác nhau từ thượng nguồn cho đến khi nằm trọn mình trong lòng của thành phố Huế mộng mơ. Ở thượng nguồn, vẻ đẹp của sông Hương đã được tác giả khắc họa bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, thú vị.
Sông Hương được ví như “một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Với việc sử dụng câu văn dài, được tách thành nhiều vế cùng các động từ mạnh “rầm rộ’, “cuộn xoáy” và những hình ảnh độc đáo, tác giả đã làm hiện lên một sông Hương với vẻ đẹp mãnh liệt, hùng tráng, nhưng ở dòng sông ấy ta còn thấy vẻ đẹp “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
Thêm vào đó, ở thượng nguồn, sông Hương còn được so sánh với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” – một vẻ đẹp giản dị và trong sáng. Cuối cùng, sông Hương ở thượng nguồn giống như “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Dường như, sông Hương giống như một cái nôi, giống như một người mẹ đã sinh ra và nuôi dưỡng những nét đẹp văn hóa ngàn đời của thành phố Huế.
Có thể thấy, bằng hàng loạt những hình ảnh so sánh độc đáo, sông Hương ở thượng nguồn như một sinh thể đa tính cách, có vẻ đẹp hùng tráng mãnh liệt nhưng cũng có vẻ đẹp dịu dàng, nữ tính.
Nếu ở thượng nguồn, sông Hương là một sinh thể đa tính cách thì khi về đến ngoại vi của thành phố Huế tác giả đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp dịu dàng, trầm mặc của nó.
Bằng cặp mắt quan sát đầy tinh tế của mình, ở ngoại vi thành phố Huế, sông Hương hiện lên như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” – một người con gái đẹp với những điều cong mềm mại bởi dòng sông ấy đang chuyển dòng một cách liên tục và đang uốn mình để khoe, để phô diễn những đường cong duyên dáng, mềm mại của mình.
Thêm vào đó, sông Hương còn hiện lên là một người con gái dịu dàng, duyên dáng và luôn biết cách tự làm mới bản thân mình bằng cách thay đổi liên tục sắc áo của chính mình “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Ở nơi đây, sông Hương còn mang trong mình vẻ đẹp trầm mặc, “như triết lí, như cổ thi” bởi nó ẩn mình trong “những rừng thông u tịch” và “lăng tẩm đồ sộ”.
Nếu sông Hương ở ngoại vi thành phố hiện lên với vẻ đẹp của một người con gái đẹp – mềm mại, dịu dàng nhưng đồng thời cũng mang vẻ đẹp trầm mặc thì sông Hương khi đã nằm trọn trong lòng thành phố Huế lại mang nét đẹp riêng. Trong lòng thành phố, sông Hương giống như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Đặc biệt, với vốn hiểu biết phong phú và sâu rộng của mình, ông đã đi so sánh sông Hương với những dòng sông khác trên thế giới để làm rõ nét khác biệt của sông Hương.
Trước hết, tác giả đã so sánh sông Hương với “sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét” để thấy điểm giống nhau giữa chúng là nằm trọn trong lòng thành phố nhưng đồng thời qua đó cũng thấy được nét khác biệt của sông Hương chính ở chỗ sông Hương vẫn giữ được cho Huế vẻ đẹp của một đô thị, một thành phố cổ với những cây đa, cây cừa cổ thụ, với những ánh lửa thuyền chài lập lòe trong đêm…
Thêm vào đó, tác giả đã so sánh sông Hương với sông Lê-nin-grat của Nga để thêm một lần nữa thấy sự khác biệt của sông Hương. Nếu Lê-nin-grat chảy nhanh, lưu tốc mạnh thì sông Hương lại hoàn toàn khác, nó có điệu chảy lặng lờ, chậm rãi, “cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh”.
Nét chậm rãi, lưu tốc chậm ấy của sông Hương có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm ngàn những cánh hoa đăng trôi nhẹ nhàng, “như vấn vương của một nỗi lòng”. Sông Hương ở trong lòng thành phố Huế như bản nhạc trữ tình nhẹ nhàng, chậm rãi dành riêng cho mảnh đất cố đô. Cùng với đó, ở nơi đây, sông Hương còn hiện lên như “một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” – một người chơi đàn rất giỏi và độc đáo.
Có thể thấy, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả lại một cách chi tiết, sinh động và độc đáo về thủy trình của sông Hương từ thượng nguồn đến trước khi ra biển. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, bằng tất cả tình yêu, sự say đắm với sông Hương, với Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về sông Hương ở vẻ đẹp của lịch sử và thi ca. Trước hết, sông Hương hiện lên là dòng sông của lịch sử.
Nhìn lại suốt cả chặng đường dài của lịch sử dân tộc, sông Hương đã góp sức mình làm nên những trang sử hào hùng của dân tộc. Thời kì dựng nước, nó là dòng sông biên thùy xa xôi, thời kì trung đại, gắn với tên tuổi của anh hùng Nguyễn Trãi. Và để rồi trong suốt thế kỉ XIX hay trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 và cả mùa xuân năm 1968, sông Hương đã ghi dấu lại những chiến công vẻ vang của dân tộc.
Thêm vào đó, sông Hương còn là dòng sông của cuộc đời. Nó như một người con gái dịu dàng của đất nước. Người con gái ấy khi nghe lời gọi, đã “sẵn sàng hiến cuộc đời mình để làm một chiến công” và để rồi khi trở về với cuộc sống đời thường, sông Hương lại là một người con gái dịu dàng.
Và cuối cùng, sông Hương chính là dòng sông của thi ca, là một dòng sông đẹp và là nguồn cảm hứng của biết bao nhà thơ, nhà văn. Dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong các sáng tác của các nghệ sĩ, mỗi nhà thơ lại có những cảm nhận riêng về nó. Ta có thể bắt gặp những sông Hương với vẻ đẹp khác nhau trong thơ của Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà huyện Thanh Quan…
Tóm lại, bằng vốn hiểu biết hướng nội, văn phong mê đắm, tài hoa cùng tình yêu say đắm với sông Hương, với xứ Huế mộng mơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã thể hiện một cách hấp dẫn, sinh động vẻ đẹp của sông Hương.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Nghị Luận Bài Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Nâng Cao – Mẫu 7
Tham khảo bài văn nghị luận bài Ai đã đặt tên cho dòng sông nâng cao dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Đã từ lâu hình ảnh những dòng sông đã trở thành đề tài bất tận trong thi ca của biết bao nhà văn, nhà thơ. Những con sông êm đềm, dịu dàng, chảy chậm rãi hoà với vẻ đẹp nên thơ của cảnh sắc thiên nhiên phải chăng đã làm rung động trái tim, tâm hồn nhạy cảm của những người nghệ sĩ tài hoa, yêu thích cái đẹp.
Chính bởi lẽ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết lên bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông, bằng ngòi bút tài hoa lãng mạn của mình ông đã để lại trong lòng độc giả hình ảnh một sông Hương rất thơ mộng, trữ tình, có thể làm say đắm trái tim của bao kẻ si tình.
Cuộc đời gắn bó với xứ Huế mộng mơ từ thuở nhỏ đến khi lớn lên, đã cho nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường có cơ hội tìm hiểu tường tận, am hiểu về lịch sử, văn hoá, địa lý và con người nơi đây, để từ đó viết lên bài bút ký tuyệt vời đến thế. Ông cũng được mệnh danh là nhà văn của những con sông: Từ dòng sông Hương xinh đẹp, con sông Đà hoang dại, đến dòng Cửu Long đổ ra biển lớn,… Tất cả đều nằm trong ký ức người nghệ sĩ tài hoa, sâu lắng.
Điểm mới trong phong cách văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường, khiến tác phẩm của ông không thể trộn lẫn với ai khác chính là: Sức liên tưởng, tưởng tượng hết sức phong phú dồi dào, lối hành văn mê đắm tài hoa, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất trí tuệ.
Những đặc điểm ấy đã tạo nên những trang bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông rất xuất sắc. Đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông được in trong tập sách cùng tên, viết tại Huế năm 1981. Đoạn trích là phần đầu của bút ký, tập trung khai thác vẻ đẹp của dòng sông Hương gắn với cả lịch sử hào hùng của mảnh đất cố đô xinh đẹp.
Tác giả miêu tả vẻ đẹp dòng sông Hương từ nhiều góc nhìn khác nhau, nhiều khía cạnh, từ chiều dài thời gian đến chiều sâu không gian. Dòng sông Hương mang vẻ đặc biệt trước tiên đến từ góc nhìn địa lý, như tác giả nói có rất nhiều con sông đẹp mà ông từng biết duy chỉ có Hương giang là thuộc về một thành phố.
Từ khi còn ở thượng nguồn, dòng sông là “một bản trường ca của rừng già”, “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy” vượt qua những chặng đường gian nan thử thách nhưng có khi lại trở nên “dịu dàng, đằm thắm” như đoá hoa đỗ quyên rừng. Chỉ có màu đỏ rực rỡ đó mới miêu tả hết được vẻ đẹp sông Hương vừa man dại, quyến rũ lại vô cùng nồng nàn.
Khi vào tới lòng Trường Sơn, sông Hương được tác giả miêu tả như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, có lẽ vượt qua những khó khăn, thử thách đã hun đúc cho “cô gái” ấy một tính cách mạnh mẽ, gan dạ đến thế. Nhưng cũng có khi trải qua cả nửa chặng đường đời, sông Hương đã trở thành người con gái của rừng già, kìm hãm sức mạnh bản năng của chính mình.
Xuôi theo dòng chảy, rời xa thượng nguồn, Hương giang mang một sắc đẹp “dịu dàng, trí tuệ”, trở thành người mẹ của “một vùng văn hoá xứ sở”. Bằng ngòi bút tinh tế, khéo léo của mình tác giả nhân hoá dòng sông như một người mẹ , “người mẹ ấy” đã nuôi sống những đứa con bằng tất những tinh tuý mình có, bồi đắp phù sa, nuôi lớn đứa con trở nên trù phú, rộng lớn, bao la.
Sông Hương là dòng sông duy nhất thuộc thành phố Huế, nó đã trải qua biết bao thăng trầm gian truân nhưng lại chẳng muốn bộc lộ cho ai thấy, nó muốn giữ kín cho riêng mình nên đã đóng kín cửa tâm hồn lại và “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Chính lẽ đó, sông Hương mang vẻ đẹp vang bóng một thời của cố đô Huế xa xưa, vẻ đẹp bí ẩn, quyến rũ, nồng nàn hơn bao giờ hết.
Để rồi trải qua hàng thế kỷ, “người tình trong mộng mới đến đánh thức cô gái Di-gan man dại đang ngủ say giữa cánh đồng Châu Hoá thơ mộng”. Sông Hương quả thật mang tâm tình như một người con gái trẻ đẹp khi nghe tiếng gọi của người yêu, nó vội vã “vòng những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”, như trang điểm, tô son cho mình trước khi xuôi dòng về gặp lại thành phố Huế thân yêu của nó.
Sông Hương qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản nó đột ngột chuyển hướng Tây Bắc, vẽ một cung thật tròn về hướng Đông – Nam, ôm lấy chân núi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ đây dòng sông trở nên xanh thẳm, “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những tia sáng phản quang nhiều màu sắc “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
Sự chuyển đổi màu sắc theo từng mùa, theo từng khoảng thời gian trong ngày đã làm nên một nét đặc trưng, một vẻ đẹp không thể nhầm lẫn của dòng Hương giang với bất cứ con sông nào khác. Giáp mặt với thành phố ở Cồn Hến con sông chuyển mình thật mệt mại như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.
Hoàng Phủ Ngọc Tường dùng những câu văn rất nhẹ nhàng, uyển chuyển tái hiện vẻ đẹp kiều diễm, e thẹn của Hương giang, qua đó ta thấy được sức liên tưởng dồi dào, phong phú của tác giả. Dưới cái nhìn của ông, dòng sông thật sự là một người con gái trẻ, có cảm xúc, có tâm hồn như người đang yêu. Những đường đường cong mềm mại , say đắm ấy đã gây cho người đọc những cảm xúc ngỡ ngàng, cuồng si, cứ thế vẻ đẹp sông Hương len lỏi vào tâm trí độc giả một cách tự nhiên, mộc mạc và chân thực nhất.
Trong lòng thành phố, dòng sông trôi lững lờ chậm rãi như “bản slow của tình yêu”, tác giả nhân hoá nó như một “người tài nữ” đánh đàn lúc đêm khuya, ông đã cảm nhận sông Hương qua cái nhìn âm nhạc sâu lắng với vẻ đẹp nồng nàn không thể cưỡng lại.
Rời khỏi thành phố Huế, dòng sông ôm lấy Cồn Hến rồi lại đột ngột đổi dòng rẽ ngang, tác giả cho rằng có lẽ đó là chút “lẳng lơ” âm thầm của tình yêu, nó sực nhớ ra chưa nói điều gì liền vội vã quay lại tìm người yêu. Tác giả với sức liên tưởng phong phú của mình, ông ví Hương giang như nàng Kiều chí tình quay về tìm Kim Trọng để nói lời hẹn cuối trước khi về với biển cả bao la rộng lớn.
Sông Hương là chứng nhân lịch sử, tại đây nó đã chứng kiến biết bao đổi thay của cố đô Huế , “sông Hương đã sống những thế kỷ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó”. Trong sách dư địa chí dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ vùng phía Nam tổ quốc, dòng sông “soi bóng kinh thành Phú Xuân”, “sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ 19”. Hương giang là thế, nó biết biến đời mình thành những trang sử biếc, lập những chiến công vang dội, để rồi khi về với cuộc sống đời thường “làm một người con gái dịu dàng của đất nước”.
Hình ảnh dòng Hương giang có lẽ đã in sâu trong lòng Hoàng Phủ Ngọc Tường , ông dành cho nó cả một tình cảm sâu nặng, sự yêu thương da diết. Tác giả cảm nhận dòng sông qua nhiều vẻ đẹp, nhiều khía cạnh khác nhau với lối viết nhẹ nhàng, mộc mạc, dòng sông cứ thế đi vào lòng người đọc theo mạnh cảm xúc dâng trào không thể dứt ra. Ông đã vận dụng thành công thể bút ký để tạo nên một tác phẩm có giá trị to lớn cho nền văn học Việt Nam.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Phân Tích Người Lái Đò Sông Đà 🌟 19 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Nghị Luận Về Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Học Sinh Giỏi – Mẫu 8
Đón đọc bài nghị luận về Ai đã đặt tên cho dòng sông học sinh giỏi dưới đây để trau dồi thêm cho mình những ý văn hay.
“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”.
Đã ai tới Huế mà chưa một lần thử nghe hát trên dòng sông Hương chưa? Sông Hương chính là biểu tượng của xứ Huế mộng mơ, dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương lại mang một vẻ đẹp nữ tính, dịu dàng. Nhà văn đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên với phong cảnh hữu tình đó là dòng sông quê hương qua bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn, nhà khảo cứu văn học, văn hóa. Ông là một nhà văn chiến sĩ, có phong cách nghệ thuật độc đáo và có sở trường về thể kí đồng thời là người đã có công đưa thể kí Việt Nam phát triển lên đến đỉnh cao của văn học. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong tám bài kí được xuất bản lần đầu năm 1986.
Tác phẩm đã làm nổi bật phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là sự uyên bác, giàu chất thơ và giàu trí tưởng tượng. Sông Hương là đối tượng để bộc lộ tâm tình, là khách thể của trang viết trong sự thể hiện cái tôi của nhà văn. Sông Hương chính là đối tượng để khảo cứu làm nên vẻ đẹp của xứ Huế. Chính vì vậy, sông Hương đã được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, từ góc độ địa lí đến lịch sử và qua góc nhìn văn hóa, thơ ca.
Ở góc độ địa lí, Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm hiểu trực tiếp sông Hương ở thượng nguồn để phát hiện nhiều vẻ đẹp khác nhau của dòng sông. Đây là dòng sông có mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn. Có lẽ vì thế mà nó tựa như “một bản trường ca rừng già với tiết tấu hùng tráng, dữ dội”. Sông Hương khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc dưới đáy vực sâu”.
Sông Hương mang dáng vẻ trữ tình hiện đại “lúc dịu dàng, say đắm giữa những rặng dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng biện pháp nhân hóa để bạn đọc cảm nhận được sông Hương như một “cô gái Di gan phóng khoáng và man dại” với “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” làm cho dòng sông nổi bật ở vẻ đẹp cá tính, hùng vĩ.
Nhà văn đã sử dụng hàng loạt động từ, tính từ gây ấn tượng mạnh: “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy”, “dịu dàng”, “say đắm”, “gan dạ”, “tự do” để diễn tả từng trạng thái thay đổi của dòng sông. Tác giả còn sử dụng lối so sánh táo bạo, đặc biệt đầy hình ảnh: Sông là “bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di gan”, là “người mẹ phù sa”. Tác giả đã nhân hóa sông trong liên tưởng với một cô gái, đây là liên tưởng kín đáo, ấn tượng làm cho gương mặt sông Hương được nắm bắt ở chiều sâu và ở nhiều phương diện khác nhau.
Trước khi vào đến miền đất của kinh thành Huế, sông Hương “trở thành người tình dịu dàng và chung thủy với cố đô”. Sông Hương là người con gái đẹp “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Sông đã thay đổi hình hài, làm mềm đi nét nữ tính của mình. Sông Hương đã bộc lộ được nét lịch lãm và tài hoa, đã thay đổi hình dáng “mềm như tấm lụa”, màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để dòng chảy trôi đi thật chậm.
Sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi được đặt trong mối quan hệ với vẻ đẹp của người con gái Di gan. Khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như một nàng tiên được đánh thức bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân để chuyển dòng liên tục. Dòng sông có ý thức kiếm tìm về thành phố, “vui tươi hẳn lên” khi tìm đúng đường về, sông Hương còn là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” ru mọi người vào giấc ngủ yên bình.
Khi chảy vào thành phố Huế, sông Hương như đã tìm thấy mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương đã vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. “Dòng sông kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Bắc Đông Nam, tự uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng sang Cồn Hến”, dòng sông mềm mại hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.
Sông Hương duy nhất thuộc về một thành phố, là niềm tự hào của xứ Huế, của con người Huế. Sông Hương đã đánh thức được linh hồn của dân tộc, khác hẳn với các dòng sông khác ở cảnh “lập lòe trong sương đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn Mô tê xưa cũ”.
Sông Hương được cảm nhận rất riêng trong sự tìm tòi thú vị của các nhà văn, nó có chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu. Nhìn bằng con mắt hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo nên những nét cổ kính của cố đô. Qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương như một điệu “slow” tình cảm dành riêng cho Huế, sâu lắng, trữ tình. Với cái nhìn đắm say của trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thủy được nhìn nhận ở nhiều phương diện dưới các góc độ khác nhau.
Dưới cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được đối sánh trong các ngành nghệ thuật, sông Hương về với Huế như hồn gặp xác, là tiếng nói của người con gái đi được nửa cuộc đời và tìm được người tình nhân đích thực. Sông Hương đã làm cho Huế đẹp một cách trầm lặng và có chút gì đó lẳng lơ, kín đáo.
Sông Hương là dòng sông lịch sử. Dòng sông được khơi gợi trong sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi nó mang tên là Linh Giang. Dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam Tổ quốc qua những thế kỉ trung đại. Dòng sông ấy còn vẻ vang soi bóng kinh thành Huế cùng người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó đã chứng kiến Cách mạng tháng Tám, mùa xuân Mậu Thân 1986 bằng những chiến công rung chuyển. Sông Hương đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử, mang đậm dấu ấn thời gian.
Không chỉ được nhìn ở dưới góc độ địa lí, lịch sử, sông Hương còn được nhìn dưới góc độ văn hóa và thơ ca. Từ góc độ văn hóa, trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sông Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Từ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên hệ đến việc nghe hát trên sông Hương.
Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Từ góc nhìn văn hóa, người nghệ sĩ đã tưởng tượng về đại thi hào Nguyễn Du, về Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Nhà văn đã đặt hình ảnh dòng sông trong mối quan hệ với tiếng chuông chùa ngân nga khi vào Huế để nhìn nhận.
Từ âm thanh của cuộc sống, tác giả đã nói đến tiếng nước vỗ vào mạn thuyền hình thành lên những điệu hò dân gian. Nhiều lần, nhà văn đã liên tưởng đến truyện Kiều của Nguyễn Du đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, truyện Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc cung đình để hình thành nên cái nôi của văn chương, văn hóa.
Từ góc độ thơ ca, sông Hương không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của những người nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm dậy lên những vần thơ biếc xanh của Tản Đà: “Dòng sông trắng Lá cây xanh”. Hình ảnh này với câu chữ của tác giả cho thấy sự đồng cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường về một sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc.
Đây là minh chứng thời gian của những tâm hồn nhạy cảm của các thi nhân. Nhà văn cũng làm sống dậy, sông Hương hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát. Sông Hương quan hoài trong nỗi sầu vạn cổ của thơ Bà Huyện Thanh Quan, có sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu.
Điều kì diệu là nhà văn đã nhìn thấy sông Hương trong mối quan hệ với Kiều. Cách so sánh, liên tưởng của tác giả trong mối liên hệ giữa các mạch nguồn thơ ca chảy tha thiết trong văn chương muôn thuở đã tạo nên một dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật của nhà văn giàu chất thơ.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” là bài kí đặc sắc về con sông Hương của xứ Huế qua đó đã thể hiện cái “tôi” cá nhân của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó là một cái “tôi” tài hoa, uyên bác. Sông Hương được miêu tả dưới nhiều góc độ khác nhau, sông Hương là dòng sông của âm nhạc, của thơ ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, về vẻ đẹp của con người xứ Huế. Cái tôi uyên bác được thể hiện ở sự vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa vẻ đẹp của dòng sông.
Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng. Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như “người mẹ phù sa” bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa từ bao đời nay. Sông Hương còn được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu. Thủy trình của sông Hương là thủy trình có ý thức đi tìm người tình mong đợi, khi chảy giữa thành phố Huế, sông Hương mềm mại hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.
Trước khi đổ ra cửa biển, sông Hương như “người con gái dùng dằng chia tay người yêu”, thể hiện một nỗi niềm vương vấn một chút lẳng lơ kín đáo. Cái “tôi” của tác giả là một cái “tôi” nặng lòng với quê hương, xứ sở. Chắc hẳn, nhà văn phải yêu quê hương lắm thì mới có thể lột tả dòng sông quê hương một cách xuất sắc như vậy. Nhà thơ đã dành toàn bộ tâm huyết của mình để theo dõi toàn bộ thủy trình của dòng sông với vốn hiểu biết sâu rộng về các kiến thức liên quan.
Nhà văn đã quan sát tỉ mỉ dòng sông từ trước khi vào thành phố rồi đến khi đổ ra bể dòng sông đã có những thay đổi ra sao. Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật là một cái “tôi” đa phong cách, mang dấu ấn riêng biệt và giàu chất thơ. Nhà văn đã phát hiện và trân trọng vẻ đẹp của dòng sông và có những so sánh táo bạo với hình ảnh cô gái Di gan, người mẹ phù sa, người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
Nhà văn đã liên tưởng tới những nhà thơ khác cùng viết về sông Hương như Nguyễn Du, Tố Hữu, … nhà văn nhớ đến Kiều và muốn được đắm chìm trong những giai điệu ca Huế trên sông Hương. Tất cả những điều đó đã tạo nên một cái “tôi” riêng biệt mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Đoạn trích là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Dưới cái nhìn tài hoa, uyên bác của tác giả, sông Hương được khám phá ở nhiều góc độ khác nhau, từ địa lí lịch sử đến văn hóa, thơ ca.
Nhà văn đã kết hợp linh hoạt giữa kể và tả sử dụng tài hoa các biện pháp tu từ nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ khiến cho con sông từ vật vô tri vô giác nay bỗng trở nên có hồn , có tính cách, có tâm trạng khi thì dịu dàng, đắm đuối khi lại mạnh mẽ, quyết liệt. Ngôn từ phong phú, đa dạng, giọng văn đầy biến hóa đã tạo nên tuyệt bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” mang nét riêng biệt trong văn phong của tác giả.
Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã thể hiện được tấm lòng yêu quê hương, yêu con người xứ Huế của nhà văn. Qua đó, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của nhà văn về các kiến thức văn hóa, nghệ thuật. Bài kí trên đã khẳng định được thành công của tác giả trên con đường văn học ở thể bút kí đồng thời cũng thể hiện cái “tôi” cá nhân riêng biệt, trữ tình.
Nhà văn đã đem đến cho chúng ta một bài học về tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Bởi nếu có quê hương thì mới có chúng ta ngày hôm nay. Phải chăng vì thế mà trong thơ của Đỗ Trung Quân đã viết:
“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều”
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một tìm tòi và thể hiện sự mới mẻ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với thể loại bút kí. Qua đó, tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế và khẳng định được tài năng uyên bác của mình. Chính vì thế mà sông Hương đã trở thành một dòng sông bất tử, luôn chảy trôi mãi cùng thời gian và trong tâm trí độc giả.
SCR.VN chia sẻ 🌹 Vẻ Đẹp Hung Bạo Và Trữ Tình Của Sông Đà 🌹 12 Mẫu Phân Tích Hay
Nghị Luận Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Đặc Sắc – Mẫu 9
Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu nghị luận Ai đã đặt tên cho dòng sông đặc sắc để các em học sinh cùng tham khảo:
Nhắc tới xứ Huế mộng mơ, con người ta chẳng thể nào quên được dòng sông Hương thơ mộng uốn quanh, bao bọc cả thành phố Huế cổ kính. Biết bao người đã dành trọn tình yêu mà phải lòng dòng sông hương huyền ảo. Hoàng Phủ Ngọc Tường – một người con của xứ Huế, được sinh ra và lớn lên với biết bao kỉ niệm cùng dòng sông nổi tiếng ấy. ông đã dồn hết biết bao tâm tư tình cảm để sáng tác “Ai đã đặt tên cho dòng sông” nhằm ngợi ca vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của xứ Huế.
Mang trong mình những âm sắc, khí trời của cố đô Huế, bởi vậy, những cảm nhận của tác giả về con sông Hương cũng vô cùng đặc sắc, riêng biệt dưới lăng kính của tâm hồn ông. Mở đầu tác phẩm, Ngọc Tường đã giới thiệu những nét độc đáo của dòng sông. Nó là con sông duy nhất của thành phố, trải qua biết bao thác ghềnh con sông đã uốn mình về với vùng đất yên bình nơi đây.
Nổi bật lên nền tím đặc trưng của con người xứ Huế, màu xanh của sông nước được điểm tô cùng màu đỏ của hoa đỗ quyên càng làm cho vùng đất này trở nên rực rỡ. Sông Hương tuy có lúc êm đềm là vậy, nhưng có những lúc dòng sông tựa như “cô gái Di gan phóng khoáng khi nó ở giữa lòng Trường Sơn”, nơi suối rừng bạt ngàn đã tôi luyện nên cho nó một bản tính gan dạ, kiên cường.
Dòng sông được nhân hóa, thổi hồn tựa như con người vậy, sông cũng biết yêu biết buồn, lúc bình yên lặng lẽ có lúc lại mạnh mẽ dâng trào. Sông Hương chẳng những mang một nét đẹp dịu dàng trí tuệ, trở thành đặc trưng của cả một vùng cố đô cổ kính, sông còn mang những điều kì bí đầy cá tính.
Sông Hương khi chảy về thành phố thì lại có những sức hút đến kì lạ. Tác giả vẽ nên vẻ đẹp, hình hài cho sông Hương bằng những lời lẽ, ngôn từ tuyệt vời nhất và còn bằng cả trái tim yêu thương của mình. Bỏ lại sau lưng những cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại, giờ đây dòng sông được ví như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” đang đợi chờ một người tình đến hỏi han.
Vẻ đẹp ấy đôi lúc lại “chuyển dòng liên tục”, lúc thì trôi theo hướng bắc nam theo điệu Hòn Chén, vấp phải Ngọc Trản, lúc lại chuyển vòng qua bãi Nguyệt Biểu, Lương Quán. Người đọc càng khó có thể cưỡng lại được vẻ đẹp của dòng sông khi nó ôm trọn cả chân đồi Thiên Mụ. Cứ mỗi điểm sông Hương chảy qua, là một lần độc giả được mở mang, hiểu thêm về những khu vực địa lý, văn hóa tinh hoa của cố đô Huế.
Chắc hẳn, phải rất yêu con sông ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới có thể vẽ được bức tranh hoàn mĩ, hoàn hảo tới từng chi tiết, góc độ ấy của dòng sông. Sông Hương vừa mềm mại, dịu dàng như “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Những nét đặc biệt ấy như níu chân người nhìn khi một lần bắt gặp dòng sông, chắc hẳn chỉ sông Hương mới có.
Khi sắp được bắt gặp thành phố mến thương, mặt nước con sông cũng như biểu hiện sự thay đổi trạng thái rõ rệt. Con sông trở nên mơ màng, phẳng lặng trong tiếng chùa Thiên Mụ vang vọng cùng tiếng gà của chòm xóm nơi đây.
Tác giả dẫn dắt người đọc liên tưởng đến dòng sông Xen của Paris, sông Đa núp của Bulades, để tôn vinh lên vẻ đẹp độc đáo của sông Hương. Nó góp phần làm cho vùng đất cố đô trở nên đặc biệt, khi giữa lòng thành phố, lại có một con sông mang nước Hương giang tỏa đi khắp các ngõ ngách, xóm thuyền. Sông Hương như gieo sự sống, góp mặt trong hầu hết các hoạt động thường ngày của con người nơi đây.
Lần thứ hai, tác giả liên tưởng so sánh về con sông Nê-va của thành phố Lê-nin-grat với nước Nga xa xôi với sông Hương. Dưới con mắt của ông, tác giả mường tượng tới được hóa thành một con chim nhỏ co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Sông Hương hoàn toàn khác biệt với những dòng chảy của con sông khác.
Chẳng ồn ào, vội vã, sông Hương có một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Hình ảnh hàng trăm ánh đèn hoa đăng trôi bồng bềnh vào đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn chén trôi về càng khiến cho vẻ đẹp của dòng sông trở nên huyền ảo, đi sâu vào lòng người.
Sông Hương còn như một chứng nhân lịch sử, là người đã chứng kiến biết bao sự thay đổi của cố đô Huế. “Dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc đại việt qua những thế kỉ trung đại, vẻ vang soi bóng kinh thành phú xuân của anh hùng Nguyễn Huệ”. Với biết bao “công lao “ như vậy, tác giả đã dành cho sông cả một tấm lòng yêu mến, quý trọng. Đoạn nói về sông Hương khi rời khỏi kinh thành được tác giả diễn tả bằng những bút pháp tài hoa, điêu luyện.
Biết bao khó khăn, sông mới trở về với cố đô, đến phiên sông phải rời đi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mượn cả nàng Kiều trong đêm tình tự để nói lên cho hết những nỗi vương vấn với dòng sông. Sông Hương gần gũi bao đời, tựa như một con người xứ Huế vậy. Tình cảm son sắt thủy chung với người, với đất nước, Sông Hương đã mang trọn những ân tình ấy với người dân Châu Hóa.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” thực sự là một tác phẩm tuyệt hay viết về dòng sông Hương. Với trái tim nhẹ nhàng, ân cần, luôn muốn được chăm chút cho dòng sông tựa như một phần máu thịt của mình, tác giả đã dùng hết tài năng cùng những bút pháp nghệ thuật độc đáo để vẽ nên bức tranh tuyệt mỹ về dòng sông Hương huyền thoại ấy.
Đọc nhiều hơn 🌻 Phân Tích Hình Tượng Người Lái Đò Sông Đà 🌻 17 Mẫu Hay
Nghị Luận Bài Văn Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Chọn Lọc – Mẫu 10
Văn mẫu nghị luận bài văn Ai đã đặt tên cho dòng sông chọn lọc dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý hay để vận dụng khi làm bài.
Có lẽ mỗi khi nhắc đến Hoàng Phủ Ngọc Tường không ai lại không nghĩ đến bài bút kí nổi tiếng của ông “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Mỗi nhà văn có một tảng, một xu hướng khác nhau, và Hoàng Phủ Ngọc Tường thực sự nổi bật trên phương diện bút kí. Các tác phẩm của ông luôn giàu chất trí tuệ mà vẫn thấm đẫm chất trữ tình.
Trước khi có tên “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” bài bút kí này còn có một cái tên khác là “Hương ơi, e phải mày chăng”. Phải chăng đây là cách cảm nhận độc đáo của tác giả về dòng sông Hương và cố đô Huế. Đó là một tình cảm sâu nặng và gắn bó tha thiết của ông đối với nơi đây. Cũng bởi có tình yêu sâu sắc với thiên nhiên và con người nơi đây, nên sông Hương đã được thi sĩ soi ngắm, phát hiện vẻ đẹp trên nhiều phương diện, vô cùng đa dạng, phong phú.
Trước hết, vẻ đẹp của sông Hương được thể hiện trong cảnh sắc thiên nhiên. Cũng như biết bao con sông khác trên thế giới, sông Hương cũng được hình thành và nằm trong lòng một thành phố cổ kính, mộng mơ. Nhưng điều đặc biệt hơn là sông Hương chỉ duy nhất thuộc về một thành phố, cũng bởi vậy, khi nhận xét nó là người tình thủy chung của thành phố quả là không hề sai.
Trước khi mang vẻ đẹp mơ màng, tĩnh lặng ở kinh thành Huế, có một sông Hương rất khác, một nội tâm rất đối lập đã được thể hiện ở nơi rừng núi sâu thẳm. Sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già, cuộn cuồn xiết chảy trong núi rừng Trường Sơn hùng vĩ. Sông Hương như một cô gái digan hoang dại, nhưng cũng hết sức quyến rũ, đắm say với màu đỏ chói của hoa đỗ quyên suốt những dặm dài dọc hai bên bờ sông.
Trước khi vào đến thành phố sông Hương liên tục chuyển mình, qua cánh đồng Châu Hóa với những vẻ đẹp khác nhau. Khi là một người mẹ dịu dàng, lúc lại biến ảo lung linh với màu nước “sáng xanh, trưa vàng, chiều tím”.
Khi chảy qua những khu lăng tẩm triều Nguyễn sông Hương lại mang một dáng vẻ khác hẳn – u tịch, trầm tĩnh hơn bao giờ hết. Ở mỗi khúc đoạn, mỗi khung cảnh sông Hương lại mang những vẻ đẹp làm người ta nao lòng, dù tinh nghịch hồn nhiên, hay u trầm tĩnh lặng tất thảy cũng đều cho thấy vẻ đẹp phong phú của dòng sông Hương.
Nhưng tác giả đâu chỉ muốn nói về vẻ đẹp của cảnh sắc, mà đâu đó người đọc vẫn cảm nhận được tâm hồn, con người xứ Huế người con gái nơi đây. Họ vừa dịu dàng, sâu sắc, vừa có nét gì đó rất phong tình nhưng cũng rất đỗi thủy chung. Chỉ là những nét thoáng chốc, nhưng bằng ngòi bút của mình ông đồng thời làm được cả hai việc, tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi đây.
Ở một góc độ khác, sông Hương lại hiện lên với nét kiêu dũng, hào hùng của một dòng sông lịch sử. Thời Đại Việt, dòng sông này có tên Linh Giang, nó đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử, canh giữ, bảo vệ biên giới đất nước. Vào thế kỉ XVIII kinh thành Phú Xuân, với người anh hùng Nguyễn Huệ, cùng hàng loạt biến cố lịch sử, sông Hương chính là chứng nhân lịch sử ghi lại toàn bộ hành trình lịch sử đầy dữ dội đó.
Đẹp nhất chính là vào ngày mùa thu lịch sử, dòng sông soi bóng lá cờ đỏ sao vàng, chứng kiến sự thắng lợi của nhân dân ta, kết thúc những năm tháng làm nô lệ tủi nhục,… Và hàng nghìn, hàng nghìn sự kiện lịch sử khác. Cho đến nay sông Hương vẫn lặng lẽ như vậy, lặng lẽ chứng kiến sự thay da đổi thịt của đất nước.
Bằng một con mắt rất đỗi thi sĩ, ông lại thấy ở sông Hương ở một vẻ đẹp rất khác. Mỗi nhà thơ, khi đến với sông Hương luôn bị nó làm cho mê mẩn, say lòng và Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ. Khi ông nhớ đến hình ảnh “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” ông chợt liên tưởng đến Nguyễn Du và những bản đàn đi theo suốt cuộc đời của người con gái tài hoa bạc mệnh – Thúy Kiều.
Nhưng phải chăng điều mà ông muốn nhấn mạnh ở đây là sự tương đồng giữa cảnh và người trong thơ Nguyễn Du và bờ sông Hương. Dòng sông bất ngờ ngoặt lại thị trấn Bao Vinh như nàng Kiều vấn vương trong tình yêu khắc khoải, đau khổ mà không nỡ buông bỏ.
Và rồi, ta bắt gặp một chân dung rất khác của sông Hương: “Từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ “dòng sông trắng lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà”, “từ tha thướt mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của CBQ. “từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh cả tâm hồn trong thơ Tố Hữu”.
Bằng vốn hiểu biết phong phú Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho bạn đọc cái nhìn toàn diện về sông Hương trên mọi phương diện: văn hóa, lịch sử, địa lí,… Nhưng hơn hết, đằng sau những câu chữ này ta còn cảm nhận được tình yêu Huế, yêu sông Hương tha thiết chân thành của ông. Đồng thời qua bài bút kí này ta cũng càng thấy rõ hơn nữa tài năng nghệ thuật bậc thầy của ông.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Hình Tượng Ông Lái Đò 🌼 15 Mẫu Phân Tích Nhân Vật
Bài Nghị Luận Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Đạt Điểm Cao – Mẫu 11
Để viết bài nghị luận Ai đã đặt tên cho dòng sông đạt điểm cao, các em học sinh có thể tham khảo những ý văn hay trong bài viết dưới đây:
Hoàng Phủ Ngọc Tường là người có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng trên nhiều lĩnh vực văn hóa, lịch sử địa lý. Các tác phẩm của ông thường có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình với những liên tưởng mạnh mẽ và một lối hành văn mê đắm tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông là bài kí xuất sắc nhất của ông, thể hiện đặc trưng phong cách của nhà văn tài hoa, uyên bác này
Ngay từ nhan đề của tác phẩm đã đem đến cho người đọc sự tò mò, hứng thú. Đồng thời đó như một gợi mở về vẻ đẹp của dòng sông Hương, và huyền thoại về sông Hương. Để làm nổi bật vẻ đẹp của dòng sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã soi ngắm nó trên nhiều góc độ. Đầu tiên ông nhìn sông Hương trên phương diện địa lí, cảnh sắc thiên nhiên vô cùng đa dạng, quyến rũ. Sông Hương khi ở trong rừng núi Trường Sơn là bản trường ca của rừng già thâm u, huyền bí.
Đây là nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa trữ tình, mang một sức sống mãnh liệt. Hoàng Phủ Ngọc Tường ví dòng sông Hương như một cô gái Digan vô cùng quyến rũ : “sông hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Digan phóng khoáng và gan dạ”.
Bằng biện pháp nhân hóa đã gợi ra vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất tình tứ của dòng sông. Nhưng khi ra khỏi rừng già, dòng sông nhanh chóng mang vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”, góp phần hình thành, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của xứ Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tỏ ra vô cùng tinh tế, uyên bác và kì công để khám phá, thấu hiểu từng vẻ đẹp của dòng sông: “dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.
Bằng con mắt quan sát tinh tế của mình, tác giả còn nhận thấy, sông Hương như một người con gái đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Trong cảm nghĩ của nhà văn, sông Hương giống như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được “người tình mong đợi đến đánh thức”. Từ đây, thủy trình về xuôi của sông Hương giống như một cuộc tìm kiếm người tình nhân đích thực của một người gái đẹp trong câu chuyện tình yêu lãng mạn.
Hành trình về xuôi của dòng sông Hương quả thực là một bức tranh đa dạng màu sắc, ở mỗi địa danh khác nhau, sông Hương lại khoác trên mình một vẻ đẹp mới lạ: khi thì như tấm lụa mềm, khi thì sắc nước xanh thăm thẳm, … “Phải chăng người con gái khi đến với người yêu không chỉ để dâng tặng tình yêu mà còn để hoàn thiện và phơi bày vẻ đẹp của mình?”.
Trong không gian kinh thành Huế cổ kính, u tịch, sông Hương tiếp tục phô diễn những vẻ đẹp khác nhau. Bắt đầu đi vào thành phố, sông Hương được ví như một người tình vui tươi và vô cùng duyên dáng.
Dòng sông vui hẳn lên khi bắt gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ thân thuộc, đây đồng thời cũng là dấu hiệu con sông sắp đi vào thành phố. Người con gái xinh đẹp – sông Hương làm duyên, làm dáng lần cuối cùng trước khi chảy vào thành phố, về với người tình nhân đích thực của mình: uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến, khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu.
Vào đến thành phố sông Hương không còn mang cái man dại, mãnh liệt như khi ở Trường Sơn mà nó như điệu slow tình cảm, chạy chậm chạp, có chăng “chỉ còn là một một hồ yên tĩnh”. Bằng vốn hiểu biết phong phú của mình, ông đã lí giải từ nhiều góc độ khác nhau, đầu tiền là do đặc điểm tự nhiên: những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước.
Nhưng đặc biệt hơn là khi ông lí giải từ lí lẽ của trái tim thì “điệu chảy lặng lờ”, “ngập ngừng muốn đi muốn ở” của sông Hương là do tình cảm dành riêng cho Huế, do quá yêu thành phố của mình, do muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải rời xa. Khi rời thành phố sông Hương còn là một người tình chung thủy, đã đi rồi còn lưu luyến vòng quay trở lại một lần nữa.
Không chỉ nhìn sông Hương từ góc nhìn địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn đi sâu vào lịch sử để khám phá một vẻ đẹp khác của sông Hương. Ở mỗi thời kì lịch sử, sông Hương đều có những đóng góp quang vinh với Tổ quốc. Sông Hương đã chứng kiến biết bao trận chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại theo sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi.
Là dòng sông “Vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào TK XVIII. Ở thế kỉ XX, sông Hương đi vào chiến công rung chuyển thời đại với cách mạng tháng Tám lịch sử. Bằng cách đặt sông Hương vào những thời điểm lịch sử trọng đại khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ngầm khẳng định sự thiêng liêng, vĩ đại của dòng sông này.
Dòng sông Hương thơ, mộng, trữ tình còn là nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ thi sĩ. Sông Hương trước hết khơi nguồn cảm hứng âm nhạc, như một “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Hình ảnh so sánh này xuất phát từ thực tế, sông Hương là sông âm nhạc, với những khúc ca Huế dịu dàng, thiết tha.
Đây là nơi gặp gỡ của âm nhạc cổ điển cũng như những câu hò dân gian đều đã được sinh thành trên mặt nước sông Hương, nên nó chỉ vang lên hay nhất “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.
Không chỉ vậy, sông Hương còn khơi dậy cảm hứng thi ca. Ở điểm này sông Hương thực sự đã trở thành nàng thơ của tâm hồn thi sĩ. Với diện mạo phong phú, khi dữ dội, man dại, khi e ấp, thướt tha, sông Hương là nguồn cảm hứng thi ca muôn đời.
Mỗi người bằng khám phá riêng, bằng cảm nhận riêng lại khám phá ra những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương: “Từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ “dòng sông trắng lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà”; “từ tha thướt mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát”.
Đặc biệt, sông Hương còn được cảm nhận trong trí tưởng tượng đầy sáng tạo, tài hoa của tác giả. Qua dòng chảy của dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn nhận được tính cách của con người xứ Huế. Ông nhìn sông Hương như một thiếu nữ xinh đẹp và tài hoa, dịu dàng và sâu sắc, đa tình và kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình.
Ở người thiếu nữ ấy nổi bật lên vẻ đẹp của sự nữ tính, khi là cô gai Digan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng, khi là một người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, khi là người con gái dịu dàng của đất nước, khi là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở với một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, lúc lại là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya…
Không chỉ vậy, sông Hương còn mang vẻ đẹp đa tình, nó được ông phản ánh trong mối quan hệ với thành phố, đó là quan hệ của cặp tình nhân lý tưởng trong Truyện Kiều “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”.
Trong bài tùy bút này sông Hương đã được đặt trong một cái nhìn tổng thể và toàn diện: địa lí, lịch sử, văn hóa … Trong các mối liên hệ ấy, sông Hương vừa tươi đẹp, vừa thơ mộng và quyến rũ trong các sắc thái thiên nhiên vừa sâu lắng trong các giá trị văn hóa, vừa phong phú đến bất ngờ trong khả năng gợi hứng thú sáng tạo cho những người nghệ sĩ, vừa kiên cường bất khuất trong thế đứng và tinh thần khi đối diện với giặc ngoại xâm…
Song dường như sau tất cả những điều đó, sông Hương vẫn mãi còn những điều bí ẩn chưa được khám phá hết nên vẫn mãi gợi niềm bâng khuâng trong tâm hồn con người.
Gợi ý cho bạn 🍀 Phân Tích Đất Nước Nguyễn Đình Thi 🍀 12 Bài Mẫu Hay
Nghị Luận Tác Phẩm Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Luyện Viết – Mẫu 12
Tham khảo bài nghị luận tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông luyện viết dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm vững phương pháp làm bài.
Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là nhà văn gốc Huế, ông vốn gốc người Quảng Trị, nhưng từ khi sinh ra ông đã ở Huế và cho đến tận cuối đời ông vẫn gắn bó với đất Huế. Có lẽ cũng chính vì thế mà nhà văn có một tình yêu và sự nghiên cứu rất sâu sắc về văn hóa, lịch sử, địa lý của xứ Huế, là cơ sở vững chắc để viết được bài tùy bút này xuất sắc đến vậy.
Nhà văn luôn sáng tác với một phong cách nghệ thuật riêng biệt, tác phẩm của ông luôn mang một sức liên tưởng dồi dào và lối hành văn mê đắm, hài hòa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái chất trữ tình và trí tuệ, giữa nghị luận sắc bén và niềm suy tư đa chiều. Chính những đặc điểm ấy ở nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mà nền văn học Việt Nam mới có được những trang bút ký tuyệt vời có giá trị sâu sắc cho đến tận ngày hôm nay.
Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông được viết vào ngày 411981, tại Huế, được in trong tập sách cùng tên, bài bút gồm có ba phần, đoạn trích chúng ta được học nằm ở phần mở đầu, chủ yếu nói về vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng Hương giang lững lỡ giữa trời Huế mộng mơ.
Hoàng Phủ Ngọc Tường viết những trang bút ký này bằng tất cả tình yêu thương cùng cảm xúc dâng trào của mình trong nỗi niềm với Huế. Hình ảnh sông Hương hiện lên như hình ảnh một cô gái Huế xinh đẹp, diễm tình, mái tóc đen dài như suối, tính cách của cô gái mang đầy màu sắc mới mẻ, có cá tính lúc mạnh lúc dịu dàng uyển chuyển.
Mở đầu, dưới sự am tường sâu sắc về địa lý, tác giả đem đến cho người đọc người nghe cái vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên đa dạng phong phú cùng sức quyến rũ của dòng sông. Sông Hương được nhìn nhận trên vẻ đẹp cảnh quan địa lý của xứ Huế và ngược lại vẻ xinh đẹp của thiên nhiên hai bên bờ sông cũng được dòng sông nâng đỡ làm nổi bật hẳn, giữa chúng là sự tương hỗ, phụ trợ cho nhau tạo nên một vẻ đẹp rất Huế, rất thơ mộng.
Sông Hương chảy qua ba đoạn lớn, sông Hương chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy ở ngoại vi thành phố Huế, cuối cùng là sông Hương chảy qua thành phố, và chính lúc lúc này dòng Hương Giang đã in bóng cái vẻ đẹp tuyệt mỹ của kinh thành Phú Xuân.
Sông Hương trong không gian núi rừng Trường Sơn, in bóng những vẻ đẹp mà núi rừng Trường Sơn đã tạo nên, đã góp phần hình thành nên dòng sông xinh đẹp. Và để làm rõ điều này tác giả đã đưa vào bài bút ký ba hình ảnh so sánh và nhân hóa đặc biệt ấn tượng, “sông Hương như một bản trường ca của rừng già”, một hình ảnh so sánh hết sức độc đáo mới lạ, cho thấy cái cá tính của tác giả trong việc liên tưởng rất phong phú và mạnh mẽ đậm chất Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Sông Hương mang cái chất hào hùng, dài bất tận, nằm giữa lòng Trường Sơn với bộ mặt vừa hùng vĩ vừa hùng tráng, cũng rất đỗi trữ tình. Tất cả thể trong cái nhịp chảy của nó “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, “cuộn xoáy như những cơn lốc”, tác giả sử dụng những động từ mạnh để nhấn mạnh cái hùng tráng của dòng sông.
Nhưng không chỉ thế dòng sông cũng chẳng kém phần thơ mộng trữ tình khi chảy qua “những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” và giữa cái cảnh sắc ấy dòng sông lại mang những phẩm chất khác hẳn “dịu dàng và say đắm”. Cả dòng sông tồn tại như một sinh thể mang những nét tính cách đối lập nhau nhưng vẫn rất hài hòa tạo nên một vẻ đẹp đa dạng phong phú, một sức sống mãnh liệt cho dòng Hương giang.
Nhưng chưa dừng lại ở đó, tự cảm thấy vẫn chưa lột tả hết được cái vẻ đẹp, cái tính cách của dòng sông ở đoạn này, nên nhà văn dùng tiếp một hình ảnh nhân hóa đầy sáng tạo, tác giả so sánh sông Hương giống như “một cô gái Digan phóng khoáng và man dại”, giống như bộ tộc sống du mục, tự do mạnh mẽ có phần hoang dại, làm ta liên tưởng đến những cô gái với vũ khúc tình tứ, cháy bỏng, say mê lòng người.
Dòng sông qua miêu tả của tác giả trở nên có cá tính và tâm hồn khoáng đạt, chính rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Cái cá tính và tâm hồn ấy lại chính là thứ mà dòng sông muốn giấu đi và ẩn mình trong núi ngàn sâu thẳm, ngay khi ra khỏi rừng già, nó đã lập tức kết thúc phần đời hùng tráng ấy tại cửa rừng và ném chìa khóa vào lòng sâu của vực thẳm dưới núi Kim Phụng.
Việc Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm đến được vùng thượng nguồn con sông, thể hiện cái sự kỳ công, lòng khám phá không ngừng, cái sự tinh tế trong cảm nhận của nhà văn, thể hiện được quá trình lao động nghệ thuật công phu và khó nhọc của tác giả.
Ngay sau khi ra khỏi rừng già sông Hương đã vặn mình và khoác lên mình một tấm áo với nét đẹp hoàn toàn mới lạ, khiến cho chúng ta hơi ngỡ ngàng, bối rối. Tác giả so sánh vẻ đẹp của sông Hương như “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”, mang trong mình vẻ đẹp dịu dàng đầy trí tuệ, nuôi dưỡng những đứa con xứ Huế, bồi đắp nên nền văn hóa hai bên bờ sông cho cố đô băng dòng phù sa ngọt ngào, ấm áp.
Sự lặng lẽ chảy, lặng lẽ cống hiến bồi đắp phù sa để hình thành nên nền văn hóa rực rỡ, giống như một người mẹ hiền lúc nào cũng âm thầm, hi sinh chịu đựng, tất cả vì những đứa con thân yêu, người mẹ ấy chẳng đòi hỏi gì, chỉ mong sao con mình khôn lớn, nay mai tỏa khắp phương trời. Đến đây tác giả đã thực sự thành công khi biến một dòng sông vốn vô tri vô giác, nay đã trở thành một sinh thể có cảm xúc, có cá tính, biết hi sinh như một con người thực thụ, để lại cho người đọ người nghe những ấn tượng vô cùng sâu sắc về dòng sông.
Hết phần chảy ở giữa Trường Sơn, sông Hương bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc đời của mình ở vùng ngoại vi kinh thành Huế, đi qua vùng Châu Hóa đầy hoa dại, hết sức lãng mạn, hết sức thi vị. Mang vẻ đẹp của “người gái đẹp”, trong cảm nhận của nhà văn cô gái ấy đang nằm ngủ mơ màng, thì người tình mong đợi đến và đánh thức. Sở dĩ tác giả có liên tưởng như vậy là bởi dòng sông khúc này nước chảy rất êm đềm.
Hành trình về xuôi, hành trình chảy ra cửa biển Thuận An của sông Hương giờ đây giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức, tìm kiếm người tình trong mộng. Thế nên đoạn chảy này được tác so sánh như cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đầy đam mê. Đây là hành trình của những người yêu nhau tìm về với nhau, là hành trình của nàng công chúa đi tìm chàng hoàng tử trong mơ.
Dòng sông mang trong mình đầy đủ những sức sống mới những vóc dáng mới, chuyển dòng một cách liên tục, “vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Tác giả ngắm nhìn dòng sông mà tưởng tượng đến “người gái đẹp” đang phô ra những đường cong quyến rũ đầy hấp dẫn của mình, đây là dòng liên tưởng đầy sáng tạo và mạnh mẽ của nhà văn.
Sông Hương khi đi qua vùng Châu Hóa không chỉ mang vẻ đẹp mềm mại quyến rũ của người con gái mà còn mang những vẻ đẹp rất đa dạng và phong phú. “Có khi sắc nước trở nên xanh thẳm”, “mềm như tấm lụa”, một vẻ đẹp mềm mại, yên bình đến thế. Rồi dòng sông khi đi qua những ngọn đồi, mặt nước phản quang thành những mảng màu rực rỡ, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, thật kỳ thú và dòng Hương Giang như một bức tranh nhiệm màu, đặc sắc vô cùng.
Khi sông Hương đi qua những lăng tẩm thì lại trở nên trầm mặc, cổ thi, tạo cảm giác như dòng sông Hương đang chiêm nghiệm, thành kính, suy nghĩ về lịch sử của những ông hoàng bà chúa xưa kia đã từng huy hoàng như thế nào, và rồi ông Hương bỗng bừng sáng, trẻ trung hơn hẳn khi nghe thấy âm thanh của thành phố.
Cuối cùng tác giả đem đến cảnh sông Hương nằm trong vòng tay của kinh thành Huế như người con gái đang e ấp trong vòng tay của người thương, và lúc chuẩn bị rời xa người yêu. Nhà văn thật tài tình khi sáng tác ra những hình ảnh độc đáo “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”, gợi ra một mối tình mới chớm của người con gái Huế. Rồi thì “dòng sông mềm hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, như tấm lòng thẹn thùng, bẽn lẽn của cô gái Huế trong tình yêu đầu đời.
Tác giả so sánh sông Hương như một điệu “slow” của xứ Huế, chậm rãi, như một “mặt hồ yên tĩnh”, “điệu chảy lặng lờ của nó ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, những câu văn mang theo âm nhạc chậm chạp hòa vào lòng người đọc, du dương, mềm mại, ý nghị, một sức liên tưởng đầy thi vị, lãng mạn.
Rồi thì nhà văn lại tiếp tục có những liên tưởng mới hết sức thú vị “sông Neva cuốn trôi những phiến băng lô xô”, “mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng”.
Tác giả muốn hóa mình thành con chim hải âu trôi nhanh ra biển trên chiếc tàu thủy tinh ấy, rồi cuối cùng chẳng kịp nói lời tạm biệt với lũ bạn trên bờ vì tàu trôi nhanh quá, thế tác giả mới thấm thía nhớ về sông Hương và “chợt thấy quý cái điệu chảy lặng lờ của nó khi đi qua thành phố”.
Kiểu chảy lững lờ ấy khiến ta liên tưởng đến một cô gái, bẽn lẽn nửa muốn đi, nửa lại muốn ở, chẳng nỡ rời xa vòng tay yêu dấu của người thương, lòng đầy vấn vương. Với lối viết sinh động và sáng tạo, tác giả biến dòng Hương giang thành một “nàng thơ” vừa cá tính lại vừa e ấp, dịu dàng đắm mình trong tình yêu cùng chàng trai xứ Huế mộng mơ.
Hơn thế nữa sông Hương còn là nhân chứng cho lịch sử biết bao thăng trầm hưng thịnh của cố đô Huế “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân”, những dấu ấn, những sự kiện không bao giờ có thể lãng quên của dân tộc Việt Nam, đều được sông Hương chứng kiến và ghi lòng tạc dạ.
Sông Hương chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất xây dựng cho Huế một hình ảnh xinh đẹp thơ mộng, suốt mấy nghìn năm văn hiến của đất nước. Một vẻ đẹp lặng lờ, ẩn sâu trong đó là nét cá tính, sông Hương đã có từ lâu nhưng nó chưa bao giờ già cỗi, nó vẫn mang trong mình nhiệt huyết yêu đương của cô gái đang độ xuân thì.
Bằng óc sáng tạo, liên tưởng tài tình, sự quan sát tỉ mỉ, tinh thế, sự am hiểu tinh tường về các kiến thức xã hội, văn hóa của xứ Huế tác giả Hoàng phủ Ngọc Tường đã cho ra đời một tác phẩm bút ký thật đặc sắc, như họa vào lòng người đọc người nghe một bức tranh Huế và sông Hương tuyệt đẹp, vẻ đẹp vừa gần gũi, lại thiêng liêng, nhưng cũng rất dịu dàng e lệ. Tất cả như hướng độc giả đến cái khao khát một lần được về thăm Huế, đứng trên cây cầy Tràng Tiền vắt ngang sông Hương mà chiêm ngưỡng dòng sông cho thỏa nỗi lòng.
Tham khảo văn mẫu 💧 Phân Tích Tiếng Hát Con Tàu Chế Lan Viên 💧 11 Bài Mẫu Hay
Nghị Luận Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Ngắn Hay – Mẫu 13
Chia sẻ dưới đây bài văn nghị luận Ai đã đặt tên cho dòng sông ngắn hay để các em học sinh cùng tham khảo và có thêm gợi ý làm bài phong phú hơn.
Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một bài bút kí nổi tiếng của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông là một nhà văn mang nặng ân tình với xứ Huế. Tác phẩm của ông đã lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông Hương, con sông mang đậm đặc trưng và dấu ấn của xứ Huế mộng mơ.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” được tác giả trình bày dưới dạng ký, thể loại văn ghi lại cảm xúc cũng như tình cảm của con người một cách sâu sắc và súc tích nhất. Thể loại này đưa bài kí vào lòng người đọc một cách nhẹ nhàng nhưng cũng rất chân thành.
Qua giọng văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên thật ấn tượng, với một vẻ đẹp thơ mộng đến ngỡ ngàng. Con sông này chính là dòng chảy duy nhất qua thành phố Huế, chính vì điều đó nên nó mang một đặc trưng riêng của xứ Huế mà không nơi nào có được. Có lẽ không chỉ tác giả mà những người dân xứ Huế cũng rất tự hào vì điều này.
Dưới ngòi bút tinh tế, sâu sắc cùng tình yêu tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc Tường, con sông đã trở nên lộng lẫy, mê hoặc người đọc. Con sông hiện lên với nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, với chiều dài của thời gian và chiều sâu của không gian. Và dù cho dưới góc độ nào thì sông Hương vẫn rất đẹp và nên thơ như thế.
Đầu tiên, tác giả muốn nói đến sông Hương ở vùng thượng nguồn. Đó là một vẻ đẹp mà không lẫn vào đâu được. Hình ảnh “một cô gái di gan phóng khoáng và man dại; tự do và trong sáng” được tác giả ưu ái khiến cho bóng dáng ấy đi vào lòng người đọc một cách chân thực nhất. Sông Hương còn được tác giả vẽ lên một cách đầy mê hoặc, đó là sông Hương như bản trường ca của rừng già; rầm rộ và mãnh liệt nhưng có lúc lại “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của màu đỏ hoa đỗ quyên rừng”.
Dường như chỉ có duy nhất màu đỏ, một màu sắc đầy hoang dại ấy mới toát lên được vẻ đẹp đầy sức ám ảnh nhưng lại rất đỗi bình dị của sông Hương. Vẻ đẹp của con sông ở vùng thượng nguồn chắc chắn là một vẻ đầy mê đắm và tinh tế. Và đây cũng chính là đặc trưng của xứ Huế nên thơ và trữ tình.
Hơn thế nữa, sông Hương là dòng sông duy nhất thuộc về thành phố Huế. Chính vì thế nên vẻ đẹp của sông Hương là vẻ đẹp vang bóng một nền văn hóa trải qua nhiều thăng trầm nhưng cũng rất đỗi bí ẩn, quyến rũ của cố đô Huế. Trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương như “người con gái dịu dàng, đằm thắm, mềm mại trong lòng Huế”. Dòng sông thật đẹp và lãng mạn biết bao.
Để rồi khi sông Hương về với thành phố mộng mơ, rời xa thượng nguồn thì con sông lại trở nên mê đắm hơn bao giờ hết. Cô gái digan hoang dại ấy đã “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẫm, trầm mặc như triết lý….; cho đến khi gặp được tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng như mềm hẳn đi, như một tiếng vang không nói ra của tình yêu.”
Những câu văn thật nhẹ nhàng nhưng vô cùng tình tứ, lãng mạn được tác giả dùng để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương khi về với thành phố Huế. Những đường nét mềm mại, mê đắm của sông Hương khiến cho tất cả ai khi đọc cũng đều cảm thấy sửng sốt, ngỡ ngàng, và cứ thế sông Hương len lỏi vào trong lòng người đọc một cách chân thực nhất.
Không chỉ vậy, đối với cố đô Huế, sông Hương còn là một nhân chứng đã cùng chứng kiến biết bao đổi thay, cùng những thăng trầm của thành phố Huế. Sông Hương cứ thế tồn tại như vậy, trải qua biết bao sự việc, cùng những năm tháng không thể nào quên của cố đô Huế nói riêng và thành phố Huế nói chung.
Chỉ với những câu văn giản dị, tinh tế, cùng với tình yêu chân thành tha thiết đối với mảnh đất và con người xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc hình ảnh dòng sông Hương thơ mộng, lãng mạn hơn bao giờ hết. Dòng sông Hương trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến cho ai đã từng đọc qua đều mong muốn được một lần đặt chân đến nơi đây, để được đắm mình trong những gì nên thơ nhất của xứ Huế.
Tiếp theo đón đọc 🌟 Phân Tích Vợ Chồng A Phủ 🌟 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Nghị Luận Bài Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Đơn Giản – Mẫu 14
Bài văn mẫu nghị luận bài Ai đã đặt tên cho dòng sông đơn giản dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo những ý văn ngắn gọn và súc tích.
Ai đó đã từng viết “Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương, để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Vâng, “một dòng sông để thương, để nhớ” của mỗi người rất khác nhau.
Nếu tên tuổi Văn Cao gắn liền với sông Lô hùng tráng; nếu Hoàng Cầm là nỗi nhớ của ta khi ngang qua “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh”; nếu Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày thao thiết chở phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã song hành cùng sông Hương đi vào trái tim người đọc với “Ai đã đặt tên cho dòng sông?.”…
Có một huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một ngôi làng trồng rau thơm ở Huế: Vì yêu quý con sông xinh đẹp, người dân hai bên bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước xanh thắm ấy mãi mãi thơm tho.
Phải chăng đó là cách lý giải tên của Hương Giang – con sông gắn liền với Huế, gắn liền với tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường? Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết năm 1981, khi tác giả đã sống bên bờ sông Hương, sống trong lòng Huế hơn 40 năm trời, tình yêu máu thịt đối với quê hương cứ lớn lên từng ngày và nó hiện hữu ở mọi thời gian, mọi không gian.
Khi tác giả ngồi đọc truyện Kiều giữa mùa thu, trong một khu vườn xưa cổ, nơi có những loài hoa đang nở, trái cây đang chín, yên tĩnh và khoáng đạt – khu vườn tọa lạc trên vùng đất mà Nguyễn Du từng sống nên thiên nhiên của “mảnh đất Kinh xưa” đã in bóng trong thơ Nguyễn, ngược lại sông Hương và Huế đã gợi cho tác giả hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng: Kim Kiều.
Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một dòng chảy nào đáng yêu đến thế, sông Hương đến với Huế qua cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang hình ảnh một cô gái mỹ miều đến với tình yêu.
Hãy ngắm nhìn nàng trước khi gặp Huế, đó là “một cô gái Digan phóng khoáng và man dại” “bản lĩnh và gan dạ” có một tâm hồn “tự do và trong sáng”, đó là hình ảnh “bản trường ca của rừng già” rầm rộ và mãnh liệt nhưng cũng có lúc “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, nàng đã chế ngự sức mạnh bản năng của mình để đến lúc ra khỏi rừng già sẽ trở nên dịu dàng và trí tuệ.
Để đến với Huế, sông Hương phải băng qua một hành trình, phải chuyển dòng liên tục, như một cuộc kiếm tìm thiết tha và rạo rực, vô vàn địa danh mà dòng nước ấy đã trôi qua Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ…
người con gái Digan ấy đã đột ngột uốn mình theo một đường cong thật mềm nhưng “vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẳm”, nàng vẫn còn mang một vẻ buồn trầm mặc như triết lý, như cổ thi… cho đến khi gặp được tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng “mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”
Cái phút ban đầu để đến với “người tình” của sông Hương như thế đấy! Nàng đã tự làm mới mình để hiến tặng những gì đẹp nhất cho người yêu.
Sông Hương – dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất – đã rời cuộc sống hoang dã của rừng để đến với Huế và chỉ Huế mà thôi, nàng như “sông Seine của Paris, sông Ðanuýp của Buđapét…” chảy trong lòng thành phố yêu quý của mình nhưng khác ở chỗ nàng đẹp một cách huyền hồ như đang che khuôn mặt diễm kiều bằng tấm voan sương khói, nàng trôi lặng lẽ với ngàn ánh hoa đăng vào hội rằm tháng 7 bồng bềnh chao nhẹ trên mặt nước như vương vấn một nỗi lòng.
Tôi chợt nhớ đến một câu nói “có những dòng tình cảm, rất sâu nên rất đỗi lặng lờ”, dòng chảy êm đềm của sông Hương hay chính là tình yêu sâu lắng mà nàng dâng tặng cho thành phố Huế? Vẻ đẹp của sông Hương còn là vẻ đẹp của một nền văn hóa, vẻ đẹp của người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh sôi trên mặt sông này và hơn thế khắp lưu vực sông còn vang vọng những điệu hò dân dã, những điệu hò thấm đẫm tấm chung tình, thấm đẫm lời thề của sông Hương trước phút chia tay với Huế mà trôi về biển cả.
Nhưng chẳng phải bao giờ sông Hương cũng là người con gái đằm thắm, dịu dàng, mềm mại trong lòng Huế, đã có một thời sông Hương “mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam” của Tổ quốc, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, “dòng sông của thời gian ngân vang”, của lịch sử viết giữa màu cỏ xanh, lá biếc…
Sông Hương được nhìn như một người con gái đến với tình yêu, dâng tặng những vẻ đẹp mà mình có được cho người yêu, đắm mình trong tình yêu để khám phá và hoàn thiện bản thân. Từ một dòng sông hoang dại, bí ẩn, nàng đã trở thành một sông Hương rất mực dịu dàng, rất mực tài hoa, rất mực kiên cường, rất mực hy sinh…
Cho nên, từ khi có được sông Hương, Huế – chàng Kim của nàng cũng có nhiều thay đổi. Từ hoang sơ với “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” hay kiêu hãnh âm u với những lăng tẩm đền đài đồ sộ, đã hóa thành vẻ đẹp cổ kính mà thơ mộng, khiến người con của Huế dù đến Pari, Buđapét hay Leningrad vẫn đau đáu nhớ về một thành phố với nguyên dạng đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông.
Huế càng lung linh hơn khi sông Hương chở trong lòng Huế những nét đặc thù của hội Hoa đăng, của ca Huế, man mác tiếng rơi của những mái chèo khuya. Có sông Hương, Huế trở thành biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, Huế chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Đại Việt, Huế là kinh thành của người anh hùng Nguyễn Huệ, Huế cùng sông Hương đi vào Cách mạng tháng 8 bằng những chiến công rung chuyển.
Huế đã cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc trong cuộc trường chinh máu lửa bên cạnh sông Hương – dòng sông của sử thi đã tự hiến đời mình làm một chiến công.
Tình yêu của sông Hương và Huế – một tình yêu lãng mạn và âm vang sức sống, một tình yêu như một cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, bản hợp xướng diệu kỳ giữa thi ca và âm nhạc.
Tình yêu ấy được vun đắp bởi ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đứa con thân yêu của Huế, yêu Huế, yêu sông Hương, nhìn ngắm sông Hương khi gần kề để phát hiện ra dòng sông ấy “đang đổi sắc không ngừng dưới ánh nắng và mùi hương của hoa trái trong vườn”, lúc xa xôi gần nửa vòng trái đất, nhìn Neva để sông Hương tìm về trong niềm nhớ.
Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của con người, những tài nữ đánh đàn, những người dân Châu Hóa lái thuyền xuôi ngược, những người con anh dũng đã hi sinh, những Nguyễn Du, những bà huyện Thanh Quan, những Tố Hữu…đã viết thơ trên dòng chảy long lanh in bóng mây trời.
Cũng như tình yêu của sông Hương với Huế, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương cũng là quá trình dâng tặng, khám phá và hoàn thiện chính mình. Tuy nhiên, vì sông Hương là hóa thân của huyền thoại nên câu hỏi bâng khuâng của một người Hà Nội khi lặng lẽ ngắm nhìn dòng nước: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” vẫn là một câu hỏi lửng lơ chưa có lời giải đáp, câu hỏi đã thành tên cho một thiên bút ký tuyệt vời…
Giới thiệu tuyển tập ☀️ Phân Tích Vợ Nhặt Kim Lân ☀️ 15 Mẫu Phân Tích Tác Phẩm Hay
Nghị Luận Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Lớp 12 – Mẫu 15
Đón đọc bài văn nghị luận Ai đã đặt tên cho dòng sông lớp 12 dưới đây sẽ là tư liệu tham khảo cần thiết hỗ trợ các em học sinh trong quá trình làm bài.
Ai đã một lần đến với Huế chắc hẳn sẽ không thể nào quên dòng sông Hương xinh đẹp. Những nét đẹp cổ kính, trầm mặc, thơ mộng trên mảnh đất này đều ít nhiều mang dáng hình của sông Hương. Bởi vậy khi viết về sông Hương, các nhà thơ, nhà văn luôn dành cho dòng sông này một tình cảm thiết tha, nâng niu và trân trọng.
Bài tùy bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường “Ai đã đặt tên cho dòng sông” in trong tập sách cùng tên cũng đã dành cho sông Hương những tình cảm như thế. Bằng những rung cảm tinh tế và những lời văn giàu chất trữ tình, lối liên tưởng phong phú, tác giả đã mang người đọc đến với vẻ đẹp của một dòng sông đầy mê đắm, thân thương.
Sông Hương mang trong mình vẻ đẹp trù phú, vô tận mà thiên nhiên trao tặng. Từ thượng nguồn, sông Hương mang vẻ đẹp rất đỗi oai hùng, hoang dại, “chảy rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy rừng bí ẩn”.
Sông Hương mang sức sống mãnh liệt, tự do, dòng sông như “một cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại”. Song, có lúc, cũng dịu dàng, đằm thắm, sâu sắc vô bờ “trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở- đẹp dịu dàng và trí tuệ”. Nàng Hương xinh đẹp ấy cũng vô cùng yêu kiều giữa những bông hoa đỗ quyên nơi rừng già “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
Sau những cuộc du hành của mình đến với bao địa điểm mới lạ và hấp dẫn như: Điện Hòn Chén, Nguyệt Biều, Lương Quán, chùa Thiên Mụ,.. sông Hương sẽ đến với Huế thương. Giữa những cánh đồng mênh mông, êm đềm, nàng Hương như “người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”. Đường cung uốn mình đầy điệu nghệ và dẻo dai của sông Hương đưa nàng đến với Huế sau khi vỗ về ôm ấp chùa Thiên Mụ.
Nằm trong lòng cố đô, nàng mỉm cười với Huế trong niềm háo hức và hạnh phúc khôn nguôi, có lẽ sau bao vất vả, đến được với người thương của mình khiến nàng không khỏi xúc động, và có lẽ với niềm thương chân thành ấy mà sông Hương lúc này đây đang dâng tặng trọn vẹn sự đẹp đẽ của mình cho Huế.
Giữa lòng thành phố thương yêu, sông Hương mềm mại như một dải lụa, lững lờ trôi êm đềm trông vô cùng xinh đẹp và dịu dàng, điểm xuyết giữa dòng là những chiếc thuyền bé nhỏ, lập lòe trong màn đêm, là những ánh đèn nhỏ trên thuyền trông đẹp và thơ mộng biết bao. Sông Hương lúc này đây như một điệu “slow” ngọt ngào dành riêng cho Huế ,cho mỗi mình Huế mà thôi.
Sông Hương còn là nơi ghi dấu bao nét văn hoá của dân tộc, đó là những làn điệu ca Huế trên sông khi về đêm, là tiếng đàn tinh tế của người tài nữ trên khoang thuyền khi về khuya. Là những câu hò dân gian khiến bao người mê đắm. Tiếng nhạc hòa cùng hồn thiên nhiên vang vọng mãi trong lòng người.
Không chỉ mang vẻ đẹp của thiên nhiên, mang dấu ấn của văn hoá, sông Hương còn là chứng nhân cho bao thời kỳ lịch sử của vùng đất kinh kỳ này. Từ xa xưa, nó đã là một dòng sông biên thùy xa xôi, qua thời kì trung đại, dòng Linh Giang đã cùng người anh dũng chiến đấu với quân thù.
Trải qua bao mồ hôi, máu và nước mắt, sông Hương cùng nhân dân nước Việt lập nên bao chiến công hiển hách, hào hùng. Dường như sông Hương như một người mẹ hiền từ và bao dung, suốt đời mình lặng lẽ đồng hành, dõi theo từng bước trưởng thành của đất Huế cho tới bây giờ.
Có lẽ, với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã trở thành một phần đặc biệt của vùng đất cố đô. Sông Hương như hồn thơ của những người thi sĩ, có buồn, có vui, có thương, có nhớ, có mãnh liệt, có dịu dàng, e ấp và cả khí phách quật cường, kiên trinh. Sông Hương mang dáng hình của những người con gái Huế, mang cốt cách của con người Huế, chân thành, bình dị, đằm thắm, tin yêu.
Bằng khát khao tìm kiếm, sự đam mê khám phá cùng những rung cảm tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường viết nên những dòng bút kí đầy chất thơ, chạm đến tâm hồn người đọc một cách nhẹ nhàng mà đầy chân tình.
Đọc xong đoạn bút kí, em thấy thêm yêu, thêm quý những cảnh đẹp quê hương mình. Vẻ đẹp thực chẳng cần tìm kiếm ở đâu xa, nó đến từ những điều bình dị gần gũi nhất của đất nước, quê hương. Hy vọng rằng, em sẽ có dịp được đến với thành phố Huế mộng mơ để đắm chìm và cảm nhận những nét đẹp của dòng sông Hương này.
Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Rừng Xà Nu 🌳 15 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm Hay