Phân Tích Nhân Vật Ông Giáo ❤️️21+ Bài Văn Ngắn Hay Nhất ✅ Giới Thiệu Tuyển Tập Bài Viết Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Chương Trình Ngữ Văn Lớp 8.
Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Ông Giáo Trong Truyện Ngắn Lão Hạc
Tham khảo dàn ý phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc dưới đây để xác định được bố cục và nội dung khi làm bài.
1.Mở bài phân tích nhân vật ông giáo:
- Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Lão Hạc: “Lão Hạc” là truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn hiện thực- nhân đạo Nam Cao.
- Giới thiệu và khái quát những nét chính về nhân vật ông giáo: Nhân vật ông giáo trong tác phẩm tuy không phải là nhân vật chính nhưng lại vô cùng quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng của tác giả.
2.Thân bài phân tích nhân vật ông giáo:
a. Luận điểm 1: Lý lịch và hoàn cảnh nhân vật.
-Ông giáo là một tri thức nghèo ở nông thôn, có hoàn cảnh khó khăn:
- Nếu như với một người nông dân như lão Hạc, sự nghèo đói khiến lão phải bán đi con chó – người bạn thân nhất của lão, thì với một trí thức như ông giáo, thứ ông quý trọng nhất, nâng niu nhất nhưng cuối cùng ông vẫn phải bán chúng đi để chữa bệnh cho con – đó là sách.
- Cuộc sống khó khăn của ông giáo còn được thể hiện qua hình ảnh người vợ của ông. Sự nghèo đói, khổ cực đã khiến thị trở nên ích kỉ với tất cả mọi người, ngoại trừ những đứa con của thị.
- Cuộc sống khó khăn bao trùm lên ngôi làng nhỏ, dù là một người trí thức cũng không thể thoát khỏi vòng vây của cái đói, cái khổ.
b. Luận điểm 2: Ông giáo là một người giàu tình cảm, giàu lòng yêu thương.
-Ông giáo khác vợ ông ở chỗ, dù nghèo đói, túng quẫn, nhưng ông vẫn giữ được cái phẩm chất, cái lòng thương người, đồng cảm của mình, đặc biệt là với ông bạn già – lão Hạc:
- Từ khi con trai lão Hạc ra đi, ngoài cậu Vàng thì có lẽ, ông giáo chính là người thấu hiểu và đồng cảm với lão nhất, ông luôn lắng nghe mọi tâm sự của lão Hạc, từ việc con trai không có tiền cưới vợ phải bỏ đi đồn điền, đến việc lão muốn bán chó, muốn gửi vườn, gửi tiền,…
- Ông giáo luôn muốn giúp đỡ lão Hạc, dù chỉ là củ khoai, chén rượu, khi lão Hạc từ chối sự giúp đỡ của ông, ông giáo vừa buồn vừa thông cảm. Sự giúp đỡ duy nhất của ông dành cho lão, có lẽ là giữ vườn và tiền làm ma hộ lão.
-Không chỉ với lão Hạc, ông giáo cũng hiểu và thông cảm cho sự ích kỉ của người vợ: “ Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi”
c. Luận điểm 3: Ông giáo là một trí thức vừa đáng thương vừa đáng quý.
- Tưởng như trong câu chuyện này, lão Hạc đã là người khổ nhất, đáng thương nhất, nhưng nếu như nhìn lại tất cả, có lẽ ông giáo mới là người đáng thương nhất.
- Ông giáo là nhân vật đại diện cho tầng lớp trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ.
- Sự bế tắc ấy được thể hiện ở chỗ ông chính là người chứng kiến mọi đau khổ của lão Hạc, con lão, của vợ ông, và có lẽ của rất nhiều người khác, những ông chỉ có thể đứng nhìn mà không thể cứu giúp họ khỏi cái khổ đau ấy.
- Ông giáo không chỉ gánh trên vai sự thiếu thốn về vật chất mà còn gánh cả nỗi đau về tinh thần, đó là sự dày vò, day dứt khi không thể làm gì cho xã hội, cho đất nước, như chính trách nhiệm của một nhà nho, nhà trí thức đương thời.
- Khi vợ ông ích kỉ với lão hạc, ông chỉ “buồn chứ không nỡ giận”, khi nghe Binh Tư nói lão Hạc muốn đánh bả chó, ông chỉ biết thốt lên “Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Và cho đến khi chứng kiến cái chết của lão Hạc, điều duy nhất ông có thể làm đó là giữ trọn lời hứa với lão.
- Tình cảnh bế tắc và tấm lòng nhân đạo của ông giáo khiến người đọc thấy đâu đó trong con người ông là nỗi lòng, tâm sự của chính tác giả – nhà văn Nam Cao.
3.Kết bài phân tích nhân vật ông giáo:
- Khẳng định lại phẩm chất của nhân vật ông giáo và vai trò của nhân vật trong toàn bộ tác phẩm: Ông giáo có những phẩm chất đại diện cho tầng lớp trí thức đương thời.
- Liên hệ và đánh giá về cảm hứng nhân đạo, nhân văn của truyện: Đọc truyện, người ta thấy lấp ló đằng sau nhân vật ông giáo ấy chính là hình ảnh tác giả với tấm lòng nhân đạo cao cả và nỗi lòng bế tắc trước cảnh ngộ của những người dân lao động.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Tóm Tắt Văn Bản Lão Hạc 🍀 17 Bài Mẫu Ngắn Hay Nhất
Viết Đoạn Văn Phân Tích Nhân Vật Ông Giáo
Gợi ý viết đoạn văn phân tích nhân vật ông giáo dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách triển khai ý văn.
Nam Cao là cây bút truyện ngắn hiện thực năng lực, tài giỏi. Truyện của ông gắn liền với nông dân, làng quê. Đề tài này dường như trở thành quen thuộc với các tác phẩm của ông. “Lão Hạc” cũng là một trong số những truyện ngắn nổi bật của ông có đề tài về người nông dân. Trong truyện ngắn không chỉ nhớ đến nhân vật trung tâm là Lão Hạc mà còn nổi bật hình ảnh ông giáo – người bạn, người hàng xóm của lão.
Trong truyện, nhân vật ông giáo là hàng xóm của lão Hạc. Đây là nhân vật làm nghề dạy học, một nghề cao quý, đối với thời đấy là mooth nghề thanh danh, được nhiều người kính nể. Ông sống gần gũi, thân tình với lão Hạc, được lão Hạc trân trọng và tin tưởng. Trong mối quan hệ với lão Hạc nhân vật chính của truyện thì ông giáo là người biết thấu hiểu, đồng cảm sâu sắc, xót xa với lão Hạc. Điều ấy được Nam Cao khắc hoạ tài tình qua nhiều chi tiết.
Lão Hạc thường qua nhà ông giáo chơi, trò chuyện : sẻ chia giãi bày mọi chuyện trong nhà những băn khoăn nỗi niềm tâm trạng về cậu con trai, con chó Vàng, những khó khăn tring cuộc sống nỗi niềm nhớ thương con, những tính toán sane xuất rồi việc nhà,… Ông giáo đều nghe, thấu hiểu và thương cho từng hoàn cảnh của Lão Hạc bởi vậy mà ông luôn chăm chú nghe và thâm tâm luôn trào niềm thương cảm.
Ông giáo lắng nghe tất cả chuyện của lão ,từ chuyện nhỏ đến to, đến cả những việc chẳng mấy quan trọng hay có ý nghĩa. Chuyện con Vàng bữa ăn như thế nào, chuyện con Vàng thông minh, gần gũi như người bạn,… Hơn một ai trong làng ấy, chỉ có ông giáo hiểu sâu sắc hoàn cảnh của lão Hạc. Ông hiểu lão Hạc chỉ có con Vàng làm banh vì vợ mất sớm, con trai vì phẫn quất không lấy được vợ mà bỏ đi đồn điền cao su.
Ông giáo cũng là người hiểu rõ tâm tư tình cảm những nỗi đau niềm yêu thương, tấm lòng nhân hậu, lương thiện của một lão nông nhân hậu, một người cha thương con. Khi lão Hạc báo tin bán chó. Ông giáo ngạc nhiên và thấy đáng thương cho lão Hạc. Nhìn giọt nước mắt của lão mà ông giáo thương cảm vô vàn. Ông băn khoăn khi lão Hạc gửi hết tiền cho mình. Vẫn lặng lẽ quan sát thấy lão Hạc vất vả, khó nhọc kiếm được gì ăn nấy, muốn giúp đỡ mà cũng bất lực vì hoàn cảnh của mình cũng khó như lão.
Cho dù nhiều bảo lão Hạc gàn dở nhưng ông giáo một lòng trân trọng vì ông biết lão Hạc chết vì quyết giữ vườn cho con. Ông giáo nhận ra nét đẹp trong con người lão Hạc Đức hi sinh cao cả của người cha, lòng tự trọng đẹp đẽ của con người. Tuổi tác, nghề nghiệp, vị trí xã hội khác nhau nhưng không ngăn cách hai tâm hồn. Ông giáo và lão Hạc vẫn thân thiết, tin tưởng và thấu hiểu nhau. Từ đó ta thấy ông giáo là người có trái tim nhân hậu, yêu thương con người, đặc biệt với những người nghèo đói, khó khăn.
Trước cái chết của lão Hạc, ông giáo từng buồn bã thất vọng vì nghĩ lão Hạc đã mất đi tấm lòng trong sáng. Nhưng chứng kiến cái chết ăn bả chó của lão để giữ tấ Nhân vật ông giáo tuy không phải nhân vật trung tâm nhưng luôn gắn bó chặt chẽ với nhân vật chính như một người bạn, tri kỉ, chứng kiến và kể lí chân thật câu chuyện.
Ông giáo là sự hoá thân của nhà văn Nam Cao, bày tỏ tình cảm thái độ về số phận của những người nông dân bất hạnh và phẩm chất cao đẹp của họ. Qua nhân vật ông giáo ta không chỉ thấy nhân vật hiện lên mà còn thấy cả tác giả với thái độ tình cảm và cảm nhận được cả đời sống nông dân thời bấy giờ.
Mời bạn tham khảo 🌠 Sơ Đồ Tư Duy Lão Hạc Nam Cao 🌠 12 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay
Phân Tích Nhân Vật Ông Giáo Hay Nhất – Mẫu 1
Đón đọc bài văn mẫu phân tích nhân vật ông giáo hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Viết truyện ngắn Lão Hạc Nam Cao không lạnh lùng khách quan mà chân thực, gắn bó, không thờ ơ, hững hờ mà tha thiết cảm động. Nhà văn coi mình là người trong cuộc (ý của Hà Minh Đức). Ấy là bởi có nhân vật ông giáo. Truyện ngắn Lão Hạc nếu mất đi nhân vật ông giáo quả là một sự thiếu sót. Ông giáo đã làm sáng lên, nêu bật nội dung tư tưởng sâu sắc của tác phẩm.
Nam Cao được đánh giá là nhà văn hay trăn trở về cuộc đời, trăn trở về thân phận con người, Nhân vật ông giáo được đặt vào tác phẩm không phải là không có chủ định. Với vai trò là người dẫn chuyện, kể chuyện, ông giáo trực tiếp thổ lộ, biểu hiện những tình cảm của mình một cách tự nhiên, khái quát. Tác phẩm trở nên phong phú như được phả vào một luồng tình cảm chắt lọc từ một con người có tấm lòng chân chính – ông giáo.
Ốm dậy, tôi về quê. Hành lí chỉ vẻn vẹn có một cái va-li đựng toàn những sách. Ôi những quyển sách rất nâng niu. Sau cùng, chỉ còn có năm quyển, tôi nhất định dù có phải chết cùng không chịu bán. Ấy thế mà tôi cũng, bán! Mới cách đây có hơn một tháng thôi, đứa con nhỏ của tôi bị chứng kiết lị gần kiệt sức… Không! Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu? Những lời chua chát đắng cay thấm vào từng câu chữ.
Ông giáo đã có một thời cao vọng, đầy những say mê, nhiệt huyết, nguyện cống hiến cho đời tất cả tài năng trí tuệ. Nhưng hình như cuộc sống thực tại đã trói chặt và xóa mờ những ước mơ đó. Cái gì đẹp hơn là một con người nguyện cống hiến toàn bộ lí tưởng đó lại bị một bức tường ngăn trước mặt. Tính cách của ông giáo có sung sướng lão Hạc. Nhân vật này là hình bóng của nhân vật trí thức tiểu tư sản nghèo của Nam Cao, là đối tượng của nhà văn khai thác. Đó cũng là hình bóng, là hiện thân của Nam Cao.
Là một con người được nếm trải-và chứng kiến bao cảnh sống, ông giáo luôn canh cánh bền lòng nỗi trăn trở về cuộc đời, về con người. Trong tác phẩm đã rất nhiều lần ông giáo phải thốt lên những lời đắng cay, chua xót về mối quan hệ giữa con người và con người, sự biến mất ở mỗi con người: Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương. Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác.
Sự lo lắng, băn khoăn của ông giáo cũng là nỗi niềm của Nam Cao. Tâm sự của nhân vật mang một nỗi đau về thời thế. Thật sâu sắc và trân trọng. Nhưng đó cũng là con người bất lực – “lực bất tòng tâm”, chỉ biết kêu lên những lời ca tha thiết. Ông giáo không biết và không chỉ ra được con đường thoát cho lão Hạc cũng không tìm được con đường thoát cho chính mình. Đó cũng là đặc điểm của bao nhân vật tiểu tư sản nghèo trong tác phẩm của Nam Cao.
Được học hành, nếm trải ông giáo có một sự hiểu biết và lòng thương yêu rất mực đối với con người, một lòng thương quê mình. Đối với vợ – một người hay đánh giá lầm lạc về con người, ông giáo chỉ có thể buồn chứ không nỡ giận. Bởi hiểu biết về quy luật khắc nghiệt của cuộc sống, ông giáo đã sẵn sàng tha thứ tính xấu hay những lầm lạc của con người. Một sự bao dung nhìn nhận con người một cách đúng đắn.
Đặc biệt với nhân vật lão Hạc, ông giáo càng thể hiện tấm lòng mình. Ông là người biết nhìn nhận cái đẹp và trân trọng cái đẹp. Chính vì vậy mà đã có lúc ông lo sợ cái đẹp ở con người lão Hạc có thể biến mất. Ông giáo đã tìm thấy con người bề ngoài có vẻ lẩm cẩm kia chứa đựng bên trong một vẻ đẹp sáng ngời. Chính vì thế mà ngòi bút của Nam Cao qua nhân vật ông giáo, ban đầu thì lạnh lùng, nhưng càng về sau càng tha thiết càng gắn bó.
Sống trong một xã hội mà con người lừa dối lẫn nhau, có được một sự hiểu biết đúng đắn và một trái tim như ông giáo quả là đáng quý. Ông giáo có cách nhìn nhận về người nông dân có lúc lầm lạc, nhưng cuối cùng thì ông cũng thấy được vẻ đẹp đáng trân trọng ở họ. Dù phải sống trong một hoàn cảnh không sung sướng gì nhưng ông giáo luôn luôn giúp đỡ những người đói khổ hơn mình: Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc.
Trên cương vị là nhân vật xưng tôi, ông giáo đã không giấu giếm những suy nghĩ, tình cảm đối với người đọc. Đó cũng là cách khai thác nội tâm nhân vật của Nam Cao. Ông giáo trở thành tri kỉ của những con người đau khổ như lão Hạc. Ông giáo đã chứng kiến và thực sự xúc động trước nỗi đau của lão Hạc. Đôi mắt lão dâng dâng nước, Lão hu hu khóc.
Người ta đánh giá Ngô Tất Tố là nhà văn trân trọng người nông dân nhất, còn Nam Cao, thông qua nhân vật ông giáo cũng đã thể hiện một tấm lòng rất mực thông cảm đối với người nông dân. Ông giáo đến với lão Hạc, làm bạn với lão Hạc, đó là sự đến với con người.
Truyện ngắn Lão Hạc khép lại với tiếng thổn thức tận đáy lòng ông giáo. Sự tiếc cho một cái đẹp đã vĩnh viễn mất đi, tấm lòng và sự hiểu biết của ông giáo quả là không thể thiếu được trong tác phẩm.
Dù còn những mặt hạn chế, nhưng nhân vật ông giáo là một tấm gương hiếm hoi về lòng đôn hậu, về cách nhìn nhận và trân trọng những phẩm chất cao đẹp của những con người đau khổ ở cái xã hội rối ren đầy cạm bẫy. Ông giáo cũng là nhân vật Nam Cao trân trọng và gửi gắm tấm lòng mình.
Chủ nghĩa nhân đạo qua nhân vật ông giáo đã giúp cho tác phẩm một tiếng nói của con người chứng kiến và cảm nhận câu chuyện. Từ lúc mở đầu cho đến kết thúc. Đồng thời qua nhân vật ông giáo, ta còn phát hiện được những điều độc đáo, mới mẻ trong cách xây dựng nhân vật của Nam Cao. Ông giáo được xây dựng qua dòng suy nghĩ, tình cảm của tác giả. Nhân vật ông giáo đã ghi một dấu ấn khó quên trong lòng người đọc và chiếm một vai trò quan trọng
Trong tác phẩm nhân vật còn hướng chúng ta tới những điều chân, thiện, mĩ. Cho nên không chỉ bằng nhân vật lão Hạc mà bằng nhân vật ông giáo, tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao đã truyền được hơi thở của cuộc sống, những băn khoăn day dứt của con người đến chúng ta và do đó truyền được cái đẹp đến với chúng ta.
Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Thuyết Minh Về Truyện Ngắn Lão Hạc 🌺 15 Bài Văn Hay
Phân Tích Nhân Vật Ông Giáo Ngắn Gọn – Mẫu 2
Tham khảo bài văn mẫu phân tích nhân vật ông giáo ngắn gọn dưới đây với cách hành văn súc tích và đầy đủ nội dung.
Mỗi nhân vật trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một mảnh đời, một số phận. Ta thương cảm xót xa cho cái chết đầy đau đớn dữ dội của lão Hạc, nhưng cũng không quên đi một ông giáo đầy bất hạnh. Nung nấu trong mình những ý định lớn lao, nhưng tất cả đều sụp đổ bởi “cơm áo không đùa với khách thơ”.
Hai tiếng ông giáo đầy kính trọng, thiêng liêng. Ở cái đất quê mùa, ít học ấy mấy ai được người đời tôn xưng là ông giáo. Đó phải là người hiểu luân lí, lắm chữ nghĩa mới được gọi như vậy. Và ông giáo chính là một người như vậy.
Dưới sự giới thiệu của Nam Cao, người đọc được biết đôi nét về tiểu sử của ông giáo.Thời trẻ ông giáo là một người chăm chỉ, ham học hỏi, sống có mục đích, lí tưởng, thứ ông quý hơn sinh mạng của mình chính là những cuốn sách. Nhưng cuộc sống đưa đẩy, đầy éo le, vào Sài Gòn lập nghiệp không được bao lâu, ông giáo ốm, trận ốm ấy đã khiến ông bán gần hết những gia sản mình có và mang về được một va li sách.
Nếu như lão Hạc yêu quý cậu Vàng như thế nào thì ông lão cũng nâng niu những cuốn sách của mình như vậy. Nhưng lấy vợ, rồi cái nghèo cứ đeo bám, ông bán dần bán mòn những quyển sách của mình và giữ lại đúng năm quyển, tự hứa sẽ không bán chúng đi nữa. Nhưng cuộc đời cũng thật biết trêu đùa, con ông ốm đau, sài đẹn, ông phải làm sao? Đành bán vợi, bán dần những cuốn còn lại kia. Cuộc đời của ông giáo cũng chính là một bi kịch khác, bi kịch của một người trí thức nghèo.
Ông giáo còn là một người có tâm lòng nhân hậu, luôn biết yêu thương và san sẻ với mọi người. Ông giáo là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho lão Hạc. Ông giao là nơi để lão Hạc chia sẻ tâm sự, vợi bớt đi bao nỗi buồn, đặc biệt là tư ngày con lão Hạc bỏ đi đồn điền cao su. Những bức thư con lão gửi về cũng chính là ông giáo đọc, để lão thỏa vơi nỗi nhớ con.
Rồi khi lão Hạc bán chó, đau đớn, xót xa, tự trách mình, cũng chính ông giáo đã ở bên an ủi, động viên: “Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: bây giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm nước chè tươi thật đặc; ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào. Thế là sướng”.
Đối với ông giáo, lão Hạc là một người thân trong gia đình, ông thương cảm cho số phận bất hạnh của lão Hạc, vợ mất, một mình gà trống nuôi con, nay lại lụi cụi một mình khi đứa con trai bỏ đi. Lão Hạc nào có ai bên cạnh chăm sóc, ngoài sự quan tâm, sẻ chia của ông giáo.
Dù gia cảnh cũng không khấm khá gì hơn lão Hạc. Nhưng nhìn cảnh lão Hạc sau khi gửi tiền tang ma sau này và giao mảnh vườn lại để cho con, phải ăn uống kham khổ, lấy củ khoai, củ ráy ăn thì ông giáo động lòng thương cảm muốn giúp đỡ. Ông giúp bằng chính cái tâm của mình, nhưng lại bị lão Hạc từ chối gần như là hách dịch. Ông hiểu lắm, bởi lão là người có lòng tự trọng, nên không muốn ai thương hại mình.
Cái chết của lão Hạc cũng làm ông giáo bàng hoàng đau đớn. Đến bấy giờ ông mới thực sự hiểu hết con người lương thiện, nhân cách cao đẹp của lão Hạc: “Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt. Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào…”.
Ông giáo cũng là người rất hiểu chuyện, nắm bắt rõ tâm lí con người. Khi ông đem chuyện lão Hạc kể với vợ, mụ vợ gắt phắt đi vì cho rằng chính lão tự làm lão khổ nên mặc kệ lão. Ông giáo không trách vợ bởi: “Vợ tôi không ác nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên dược cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu?Khi người ta đau khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”.
Ông giáo là nhân vật tư tưởng của nhà văn Nam Cao, ông đại diện cho Nam Cao phát biểu những suy nghĩ, quan niệm nhân sinh ở đời. Xây dựng nhân vật với chiều sâu tâm lí cho thấy biệt tài của tác giả, đồng thời cũng thể hiện niềm cảm thong sâu sắc của Nam Cao với những trí thức nghèo đương thời.
Đọc nhiều hơn 🌻 Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Nhân Vật Lão Hạc 🌻 15 Bài Văn Hay
Phân Tích Nhân Vật Ông Giáo Ngắn Nhất – Mẫu 3
Bài văn mẫu phân tích nhân vật ông giáo ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài kiểm tra viết.
Truyện ngắn “Lão Hạc của nhà văn Nam Cao chính là một tác phẩm tiêu biểu cho con đường sáng tác nghệ thuật văn chương của Nam Cao. Truyện ngắn thể hiện tình cảnh vô cùng đáng thương của những người nông dân khốn khổ vào giai cấp tri thức nghèo trước những năm cách mạng tháng Tám thành công.
Những con người nghèo đói, bị xã hội xô đẩy tới đường cùng chính là nguyên nhân gây ra những kết cục bi thảm của số phận những con người khốn khổ này. Nhưng dù có nghèo khổ thì nhân phẩm, đức hạnh của người nông dân, những người tri thức nghèo khổ vẫn giữ được tấm lòng thanh bạch, tâm hồn thanh cao đáng trân trọng của họ.
Nhân vật chính trong truyện ngắn “Lão Hạc” chính là ông lão. Nhưng bên cạnh đó có những nhân vật thứ chính cũng không kém phần quan trọng. Đó chính là thầy giáo, một người hàng xóm tốt bụng, có học thức, nhân cách, đang xoay vần trong cuộc sống với nhiều bi kịch của cuộc sống cơm áo gạo tiền, và bi kịch của toàn xã hội, của kiếp sống nô lệ lầm than.
Nhân vật thể hiện một tuyên ngôn văn chương của nhà văn Nam Cao về sự sống, về những số phận của con người đau khổ. Nhân vật ông giáo là người có phẩm chất, nhân cách là người có cái nhìn thấu tình đạt lý, có tư tưởng nhân văn. Nhân vật ông Giáo trong truyện ngắn “Lão Hạc” chính là người bạn thân duy nhất, là người mà ông lão vô cùng tin tưởng có thể sẻ chia mọi thứ với người bạn tâm giao.
Mặt khác, ông Giáo cũng chính là nhân chứng sống về cuộc đời số phận Lão Hạc, ông Giáo là người có chữ là người đáng kính trọng, nên hễ có việc gì quan trọng lão Hạc đều qua tâm sự với ông Giáo tìm lời khuyên. Khi lão Bá Kiến âm mưu cướp không mảnh vườn của lão Hạc, lão đã sang tâm sự với ông Giáo ngay lập tức, để mong tìm lời khuyên thấu tình đạt lý.
Trước sức ép của cuộc sống của giai cấp thống trị, cường hào ác bá, mà lão Hạc quyết định tìm tới cái chết. Trước khi chết lão đã bán đi con chó của mình con Vàng người bạn thân thiết mà lão coi như là con trai mình. Người luôn đồng hành lắng nghe câu chuyện của lão Hạc chính là nhân vật thầy Giáo. Lúc đầu thầy giáo “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc.”
Tuy nhiên, trước khi chết lão Hạc đã sang thăm thầy Giáo nhờ giữ hộ giấy tờ nhà đất, và một ít tiền mà lão đã dành dụm được từ rất lâu. Sự đồng cảm của thầy Giáo khiến cho lão Hạc hoàn toàn tin tưởng trao trọn cơ ngơi của mình cho người hàng xóm tốt bụng này.
Có lẽ trong cái xã hội tranh tối tranh sáng này, người tốt thì ít người xấu thì nhiều, chỉ có một ông Giáo là người có thể tin tưởng được. Sự đồng cảm của ông Giáo khiến cho ông phát hiện một sự thật vô cùng đau lòng, khi nghe vợ mình nói những điều không hay tàn nhẫn về lão Hạc.
Ông lão đã vô cùng đau đớn mà nói ra rằng “ Chao ôi, đối với những người quanh ta nếu ta không cố mà hiểu họ thì chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi toàn những cớ để ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương”. Những lời của ông Giáo chính là nội dung tư tưởng nghệ thuật, giá trị nhân đạo của Nam Cao được thể hiện trong tác phẩm Lão Hạc.
Nhân vật ông Giáo chính là hình ảnh đại diện cho tư tưởng, cái nhìn nhân sinh quan của tác giả với những cảnh đời bất hạnh của người nông dân xung quanh mình. Nó thể hiện tấm lòng bao dung, nhân văn, nhân đạo của tác giả với những mảnh đời bất hạnh khốn khổ cùng đinh trong xã hội.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Suy Nghĩ Của Em Về Nhân Vật Lão Hạc 🌟 13 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Ông Giáo Chi Tiết – Mẫu 4
Tham khảo bài văn phân tích nhân vật ông giáo chi tiết dưới đây với những nội dung kiến thức trọng tâm.
Có nhà phê bình từng nhận định: Dù viết về đề tài nào, truyện của Nam Cao cũng thể hiện một tư tưởng chung, nỗi băn khoăn đến đau đớn trước thực trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới. Trong truyện ngắn Lão Hạc, ta bắt gặp những con người với số phận bất hạnh nhưng ở họ vẫn toát lên tấm lòng và nhân cách cao đẹp, chứa chan tình yêu thương con người. Nhân vật ông giáo đã để lại trong tâm trí chúng ta ấn tượng về một người tri thức nghèo trong xã hội.
Nhân vật ông giáo vừa đóng vai trò dẫn dắt câu chuyện, vừa làm người tham gia vào câu chuyện của nhân vật chính, qua đó thể hiện những suy nghĩ, tâm tư của bản thân ông trước những bão giông của cuộc đời. Không rõ tên họ là gì, nhưng hai tiếng “Ông giáo” đã toát lên vị thế của ông – một con người nhiều chữ nghĩa và khiến mọi người đều nể trọng. Lão Hạc mỗi khi nói về ông giáo đều thể hiện sự cung kính, trọng vọng nhưng cũng thể hiện sự tin tưởng, thân tình “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ!”; “Vâng ông giáo dạy phải…”
Ông giáo có một hoàn cảnh sống đầy những khó khăn. Tuổi trẻ bôn ba, ông từng vào Sài Gòn với niềm tin và khát khao cao đẹp nhưng cuộc sống không phải là ước mơ màu hồng với người tri thức nghèo khó. Sau một trận ốm nặng ở Sài Gòn về quần áo bán gần hết, chỉ còn một va li sách. Nếu lão Hạc quý cậu Vàng bao nhiêu thì ông giáo quí những quyển sách của mình bấy nhiêu. Cái nghèo cứ đeo đẳng mãi.
Quý sách là vậy mà ông giáo cứ phải bán sách dần đi, cuối cùng chỉ còn lại 5 quyển với lời nguyền: “dù có phải chết cũng không bán”. Thế rồi, như một kẻ cùng đường phải bán máu. Đứa con thơ bị chứng kiết lị gần kiệt sức, ông giáo phải bán nốt đi 5 quyển sách. Gia tài nhỏ nhoi ấy nhưng ông giáo cũng không giữ lại được cho mình. Cuộc sống của ông cứ cùn dần, mòn dần trước những khốn cùng của cuộc đời, ông phải hi sinh cả những ước mơ, hạnh phúc của chính bản thân mình.
Thế nhưng, giữa những biến chuyển đầy khổ đau trong cuộc đời, ông vẫn giữ cho mình nhân cách cao đẹp và là người có trái tim nhân hậu đáng quý. Trở về làng, ông là chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi cho lão Hạc. Ông giáo luôn cảm thông với hoàn cảnh của người cha nghèo, cô đơn và tội nghiệp. Ông giáo là nơi để lão Hạc san sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn. Lão có thể tâm sự mọi chuyện về mảnh vườn, về đứa con trai, san sẻ nỗi đau khi phải bán cậu Vàng hay có lúc chỉ là sẻ chia một bát nước chè xanh hoặc điếu thuốc lào.
Khi lão Hạc rơi vào tình trạng khốn khổ, ông giáo đã ngấm ngầm giúp đỡ cho lão, dù gia đình ông cũng rất khó khăn. Ông giáo cũng là chỗ tin tưởng để lão hạc gửi gắm số tiền ít ỏi, lão dành dụm để để khi lão chết không phải phiền đến hàng xóm. Có lẽ những đồng cảm về khó khăn trong cuộc sống đã xích họ lại gần nhau hơn, cảm thông hơn. Một tình bạn giữa những con người khốn khổ thật ấm áp tình người.
Nếu như nhân vật người nông dân trong sáng tác của Nam Cao chịu những nỗi khổ về vật chất, họ bị đẩy vào bước đường của cái đói, cái nghèo thì những nhân vật tri thức trong trang văn của ông còn là những dằn vặt, đau đớn về tinh thần. Họ luôn phải trăn trở trong những suy nghĩ. Chứng kiến cuộc sống của lão Hạc ngày càng khốn khó, bi thương, ông giáo đã phải thốt lên: “Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày trôi qua thật đáng buồn”.
Khi biết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư, ông càng buồn hơn, phải chăng bản năng đã chiến thắng nhân tính con người. Nhưng trước cái chết của lão Hạc, ông cảm thấy cuộc đời không hẳn đáng buồn. Cái chết ấy đã chứng minh cho tấm lòng trong sạch, của lòng tự trọng trước bờ vực của sự tha hóa. Ông giáo ngỡ ngàng nhận thấy cuộc đời vẫn buồn theo một nghĩa khác, một người tốt như lão Hạc nhưng cuối cùng vẫn phải tìm đến cái chết để giải thoát cho mình.
Trước cái chết dữ dội của lão Hạc, ông giáo xót xa, khẽ cất lời than trước vong linh người láng giềng hiền lành, tội nghiệp: “Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão…” Ông cảm thấy bất lực trước những đau thương mà chính ông và cà lão Hạc phải chịu đựng.
Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng sâu sắc và tinh tế, Nam Cao đã khắc họa thành công những diễn biến trong tâm trạng của ông giáo. Có thể coi hình tượng ông giáo chính là hình bóng của nhà văn Nam Cao. Thông qua nhân vật ông giáo, người đọc như hiểu hơn về cuộc đời và số phận của lão Hạc, góp phần tô đậm giá trị nhân đạo của truyện ngắn thấm đượm tình người.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Hình Tượng Nhân Vật Ông Giáo Đầy Đủ – Mẫu 5
Bài văn phân tích hình tượng nhân vật ông giáo đầy đủ dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
“Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã xây dựng nên một nhân vật thứ chính – nhân vật ông giáo để qua đó bày tỏ những quan điểm nhân sinh sâu sắc.
Xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật tôi là người bạn, là chỗ dựa tinh thần của lão Hạc. Những suy nghĩ của nhân vật này giúp người đọc hiểu rõ hơn về con người lão Hạc. Nhân vật lão Hạc đẹp, cao quý thực sự thông qua nhân vật tôi.
Ông giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải bán đi con vật bầu bạn trung thành của mình. Cảm giác ân hận theo đuổi dày vò lão tạo nên đột biến trên gương mặt: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”.
Cái hay của tác phẩm này chính là ở chỗ tác giả cố tình đánh lừa để ngay cả một người thân thiết, gần gũi với lão Hạc như ông giáo vẫn có lúc hiểu lầm về lão. Sự thật nhân vật tôi cố hiểu, cố dõi theo mới hiểu hết con người Lão Hạc. Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin bã chó, ông giáo ngỡ ngàng, chột dạ: “Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có cái ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày lại thêm đáng buồn”.
Chi tiết này đẩy tình huống truyện lên đến đỉnh điểm. Nó đánh lừa chuyển ý nghĩ tốt đẹp của ông giáo và người đọc sang một hướng khác: Một con người giàu lòng tự trọng, nhân hậu như lão Hạc cuối cùng cũng bị cái ăn làm cho tha hoá, biến chất sao? Nếu Lão Hạc như thế thì niềm tin về cuộc đời về ông giáo sẽ sụp đổ, vỡ tan như chồng ly thủy tinh vụn nát.
Nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn dữ dội vì ăn bã chó của lão Hạc, ông giáo mới vỡ oà ra: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn hay vẫn đáng buồn theo một nghĩa khác”.
Đến đây truyện đi đến hồi mở nút, để cho tâm tư chất chứa của ông giáo tuôn trào theo dòng mạch suy nghĩ chân thành, sâu sắc về lão Hạc và người nông dân… “Chao ôi! Đối với những người xung quanh ta, nếu không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dỡ, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa bỉ ổi … toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương”.
Có lẽ đây là triết lý sống xen lẫn cảm xúc xót xa của Nam Cao. Ở đời cần phải có một trái tim biết rung động, chia xẻ, biết yêu thương, bao bọc người khác, cần phải nhìn những người xung quanh mình một cách đầy đủ, phải biết nhìn bằng đôi mắt của tình thương.
Với Nam Cao con người chỉ xứng đáng với danh hiệu con người khi biết đồng cảm với những người xung quanh, biết phát hiện, trân trọng, nâng niu những điều đáng quý, đáng thương. Muốn làm được điều này con người cần biết tự đặt mình vào cảnh ngộ cụ thể của người khác để hiểu đúng, thông cảm thực sự cho họ.
Đau đớn, xót xa nhưng không bi lụy mà vẫn tin ở con người. Nam Cao chưa bao giờ khóc vì khốn khó, túng quẫn của bản thân nhưng lại khóc cho tình người, tình đời. Ta khó phân biệt được đâu là giọt nước mắt của lão Hạc, đâu là giọt nước mắt của ông giáo: Khi rân rân, khi ầng ực nước, khi khóc thầm, khi vỡ oà nức nỡ. Thậm chí nước mắt còn ẩn chứa trong cả nụ cười: Cười đưa đà, cười nhạt, cười và ho sòng sọc, cười như mếu …
Việc tác giả hoá thân vào nhân vật tôi làm cho cách kể linh hoạt, lời kể chuyển dịch trong mọi góc không gian, thời gian, kết hợp giữa kể và tả, hồi tưởng với bộc lộ cảm xúc trữ tình và triết lý sâu sắc… Chuyện được kể ở ngôi thứ nhất, nhân vật tôi trực tiếp kể lại toàn bộ câu chuyện cho nên ta có cảm giác đây là câu chuyện thật ngoài đời đang ùa vào trang sách. Thông qua nhân vật tôi, Nam Cao đã thể hiện hết Con người bên trong của mình.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích Nhân Vật Lão Hạc 🌹 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Ông Giáo Nâng Cao – Mẫu 6
Tham khảo bài văn phân tích nhân vật ông giáo nâng cao dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Trở đi trở lại trong sáng tác của nhà văn Nam Cao là hình ảnh người nông dân và người trí thức. Họ là nơi để nhà văn ký thác những quan điểm về nghệ thuật và cuộc đời, nơi nhà văn bộc lộ tâm sự của mình. Người trí thức trong sáng tác của ông là những nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh sống đầy nghiệt ngã.
Những kiếp đời mòn mỏi, sống mòn, sống thừa, bị áo cơm ghì sát đất. Đau khổ hơn, họ lại là người trí thức – người luôn ý thức được những nỗi khổ đau của mình trước cuộc đời. Nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một con người như vậy.
Ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc được nhà văn giao cho rất nhiều trọng trách. Nhân vật này đứng thứ hai sau nhân vật lão Hạc, vừa như người chứng kiến vừa như người tham gia vào câu chuyện của nhân vật chính, vừa đóng vai trò dẫn dắt câu chuyện vừa trực tiếp bày tỏ thái độ, tình cảm, tâm trạng của bản thân. Đó cũng là chỗ gần gũi và khác cách kể chuyện trong tiểu thuyết – tự truyện Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng.
Ông giáo cũng là một con người có hoàn cảnh sống đầy những khó khăn. Tuổi trẻ ông đã từng đi nhiều nơi, vào tận Sài Gòn với những niềm tin và bao khát khao cao đẹp. Một con người như thế rồi cũng bị ném trả lại vùng nông thôn nghèo khổ, nơi hi vọng bị diệt trừ và 11 tưởng chỉ là một giấc mộng mãi không thành.
Những cuốn sách mà ông đã nâng niu quý trọng “mỗi lần mở một quyển ra, chưa kịp đọc dòng nào, tôi đã thấy bừng lên trong lòng tôi như một rạng đông cái hình ảnh tuổi hai mươi trong trẻo, biết yêu và biết ghét…”, rồi cũng phải tự tay mình bán đi vì con ốm, vì đã cùng đường đất sinh nhai. Đọc những trang văn của Nam Cao, mặc dù nhà văn không hề miêu tả kĩ cuộc sống của ông giáo nơi quê nhà nhưng tôi cứ có cảm giác một nỗi buồn man mác bao phủ lên cảnh sống của ông.
Ông giáo là một nhân vật giàu lòng yêu thương. Có lẽ chính những điều đó là chỗ gần gùi làm cho ông và lão Hạc xích lại gần nhau hơn. Ông giáo tỏ ra cảm thông, thương xót cho hoàn cảnh của lão Hạc — người láng giềng già, tốt bụng, tìm cách an ủi, giúp đỡ lão. Nhất là từ khi thằng con lão Hạc đi xa và khi lão bán cậu Vàng thì ông giáo dường như là chỗ dựa tinh thần, nơi duy nhất của lão Hạc bộc bạch tâm sự của mình.
Khi lão Hạc bán cậu Vàng, sang nhà ông giáo với tâm trạng tột cùng đau khổ, thi ông giáo đã ở bên, động viên lão với tấm lòng cảm thông rất mực chân thành. Khi lão Hạc bòn mót tất cả để gửi gắm lại phần để dành cho con, phần để dành lo cho hậu sự của mình, trong khi lão càng ngày càng rơi vào cảnh sống đói khổ, thì ông giáo là người duy nhất hiểu lão: “Tôi giấu giếm vợ, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc”. Người hàng xóm tốt bụng và giàu tình thương của lão Hạc khiến ta xúc động và trân trọng, đó là một nhân cách cao cả.
Cũng giống như biết bao nhân vật người trí thức trong sáng tác của Nam Cao, họ đều là những con người đáng thương. Nếu là một người nông dân bình thường thì cái đói, cái nghèo có lẽ là nỗi khổ duy nhất và lớn nhất. Nhưng với những người trí thức của Nam Cao, họ còn phải gánh trên vai cả nỗi khổ về tinh thần.
Những con người có học thức ấy luôn bị dày vò, luôn phải trăn trở trong nghĩ suy. Đi hết câu chuyện, ta nhận ra ông giáo là người luôn phải chứng kiến nỗi đau của người khác. Nhìn xung quanh cuộc sống mình không có lấy một niềm vui, một ánh sáng của sự sống. Cuộc đời bi thương, bất hạnh của gia đình lão Hạc, cách nghĩ của chính vợ ông khiến ông đau xót thốt lên: “Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”.
Là người giàu lòng yêu thương nhưng ông cũng bất lực trước hoàn cảnh của người khác. Lão Hạc luôn bên ông, luôn chia sẻ với ông tâm sự những suy ngẫm về cuộc đời nhưng rồi, ông giáo có giữ nổi lão Hạc ở lại cõi đời này đâu. Kết thúc, lão vẫn chết một cách thê thảm, đáng thương. Vợ ông giáo có cái nhìn lệch lạc về lão Hạc nhưng ông cũng chỉ ngậm ngùi “bởi thị khổ quá rồi, có bao giờ thị nhìn thấy nỗi khổ của người khác đâu”. Ta thấy ông giáo là một nhân vật vừa đáng thương vừa đáng trọng.
Những triết lí sống rút ra về nỗi buồn trước cuộc đời và con người đã tạo cho ông một tiếng nói riêng trong truyện. “Chao ôi, đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố” mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi, toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương”. Ông giáo không chỉ tỏ ra rất hiểu vì sao mà vợ ông lại không chịu giúp lão Hạc và cảm thông với những nỗi khổ của thị.
Ông giáo chỉ buồn mà không nỡ giận và còn nhắc nhở mình phải cố tìm hiểu họ, đồng cảm với họ. Mặt khác ông còn buồn vì thấy lão Hạc gần như làm ngơ trước sự giúp đỡ của ông làm cho hai người dần xa nhau. Nhưng khi biết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư, nghe câu nói đầy mỉa mai của y dành cho lão Hạc thì ông còn buồn hơn. Ông cảm thấy thất vọng trước sự thay đổi cách sống do không chịu đựng được đói khổ, “túng ăn vụng, đói làm càn” của một người vốn có bản tính trong sạch, giàu lòng tự trọng như lão Hạc.
Ông giáo buồn vì bản năng đã chiến thắng nhân tính mất rồi! Nhưng sau cái chết bất ngờ và bi thảm của lão, tâm trạng của ông lại biến chuyển, có thêm những suy nghĩ khác. Trước hết ông thấy cuộc đời không thật đáng buồn vì có những cái chết mang tinh thần hi sinh đầy cao đẹp như của lão Hạc.
Cái chết cho thấy nhân tính đã chiến thắng, lòng tự trọng vẫn giữ chân con người trước bờ vực của sự tha hóa. Ông giáo ngỡ ngàng nhận thấy: “nhưng cuộc đời lại đáng buồn theo một nghĩa khác” là ở chỗ, những người tốt như lão Hạc, đáng thương, đáng thông cảm như thế nhưng cuối cùng vẫn có hoàn cảnh bế tắc, hoàn toàn vô vọng, vẫn phải tìm đến cái chết như là cứu cánh duy nhất, như là sự giải thoát tự nguyện và bất đắc dĩ.
Và càng đáng buồn hơn vi không phải ai cũng hiểu hết ý nghĩa cái chết của lão. Tâm trạng của ông giáo chứa chan một tình yêu thương và lòng nhân ái sâu sắc nhưng cũng thâm trầm với giọng điệu buồn và bi quan. Chỉ còn đó một chút niềm an ủi với vong linh người vừa chết kia là ông giáo cố’ gắng giữ trọn lời hứa, giữ trọn mảnh vườn để có dịp gặp và trao tận tay người con trai lão Hạc.
Có một điều không phải dễ dàng bạn đọc nào cũng nhận ra rằng: người đau khổ nhất truyện chưa hẳn đã là những con người nhỏ bé, bất lực như lão Hạc, con lão Hạc, Binh Tư,… mà lại là ông giáo – con người biết tất cả mọi nỗi đau của mọi kiếp người mà đành bất lực “ngậm đau khổ để gửi vào im lặng”.
Xây dựng nhân vật ông giáo, Nam Cao như muốn tặng cho lão Hạc một người bạn để an ủi, chia sẻ nhưng cũng với nhân vật này, nhà văn muốn bày tỏ quan điểm, suy ngẫm về kiếp người và cuộc đời. Ta như bắt gặp hình bóng của Nam Cao trong ông giáo. Những nét tương đồng của nhân vật này và nhà văn như một lời tâm sự chân thành mà tác giả gửi vào trang viết. văn chính là người.
Một trái tim ấm nóng tình nhân đạo, lòng yêu thương với con người cứ bùng lên mãnh liệt trong trang viết của Nam Cao. Có thể không thể thay đổi cuộc đời của những người trí thức trong sáng tác của mình nhưng ta vẫn tin rằng dù cuộc đời có nghiệt ngã đến đâu thì họ vẫn giữ được những nét nhân cách đáng trọng của mình.
Gợi ý cho bạn 🌟 Phân Tích Nhân Vật Chị Dậu 🌟 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Ông Giáo Học Sinh Giỏi – Mẫu 7
Đón đọc bài văn phân tích ông giáo học sinh giỏi dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.
Đọc truyện “Lão Hạc”, ta bắt gặp bao con người, bao số phận, bao mảnh đời đáng thương, bao tấm lòng đáng trọng: Lão Hạc và cậu con trai “phẫn chí” đi phu đồn điền cao su, ông giáo và người vợ, Binh Tư và thằng Mục, thằng Xiên,… Giữa bóng tối cuộc đời cùng quẫn sau xóm làng quê bùn đọng, ta vẫn tìm thấy ít nhiều ánh sáng tâm hồn nhân hậu, chứa chan tình thương yêu. Bên cạnh nhân vật lão Hạc là ông giáo, một nhân vật để lại bao ấn tượng đối với mỗi chúng ta vẻ người trí thức nghèo trong xã hội cũ.
Không rõ họ tên là gì. Hai tiếng “ỏng giáo” đã khẳng định vị thế của một con người giữa làng quê trước năm 1945 “nhiều,chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể”. Hai tiếng “ông giáo” từ miệng lão Hạc nói ra, lúc nào cũng đượm vẻ thân tình, cung kính, trọng vọng: “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ”,…”Vâng, ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng”…, “Tôi cắn rơm, cắn có tôi lạy ông giáo !”.
Hãy đi ngược thời gian, tìm về thời trai trẻ của ông giáo. Là một con người chăm chỉ, ham mê, sống vì một lí tưởng đẹp với bao mộng tưởng. Ông đã từng lăn lộn vào tận Sài Gòn, “hòn ngọc Viễn Đông” thời ấy, để làm ăn, để học tập, để gây dựng sự nghiệp. Cái va-li “đựng toàn những sách” được người thanh niên ấy rất “nâng niu”; cái kỉ niệm “đầy những say mê đẹp và cao vọng” ấy, hơn sáu chục năm sau còn làm cho ta xúc động và quý trọng một nhân cách đẹp.
Con người “nhiều chữ nghĩa” ấy lại nghèo. Sau một trận ốm nặng ở Sài Gòn, quần áo bán gần hết, về quê chỉ có một va-li sách. Nếu lão Hạc quý cậu Vàng bao nhiêu thì ông giáo lại quý những quyển sách của mình bấy nhiêu. Bởi lẽ những quyển sách ấy đã làm bừng lên trong lòng ông “như một rạng đông” thời trai trẻ, làm cho cuộc đời thêm sắc màu ý vị, sống say mê, “trong trẻo, biết yêu và biết ghét”.
Cái nghèo vẫn đeo đẳng ổng giáo mãi, “ông giáo khổ trường tư”. Vận hạn xảy ra luôn luôn như ông nghĩ: “Đời người ta không chỉ khổ một lần”. Sách cứ bán dần đi. Chỉ còn giữ lại 5 quyển sách với lời nguyền: “… dù có phải chết cũng không bán”.
Như một kẻ cùng đường phải bán máu. Đứa con thơ bị chứng kiết lị gần kiệt sức, ông giáo đã phải bán nốt đi 5 cuốn sách cuối cùng, cái gia tài quý giá nhất của người trí thức nghèo. “Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?”, lời than ấy cất lên nghe thật não nuột, đã thể hiện một nhân cách đẹp trước sự khốn cùng: biết sống và dám hi sinh vì cuộc sống!
Ông giáo là một trí thức có trái tim nhân hậu rất đáng quý. Ông là chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi, tin cậy của lão Hạc. Ông giáo là nơi để lão Hạc san sẻ bao nỗi đau, nỗi buồn. Nhờ đọc hộ một lá thư, nhờ viết hộ một lá thư cho đứa con trai đi phu đồn điền. Tâm sự về mảnh vườn và chuyện đứa con trai “phần chí” không lấy được vợ. San sẻ về nỗi đau buồn sau khi bán cậu Vàng cho thằng Mục, thằng Xiên,… Có lúc là một điếu thuốc lào, một bát nước chè xanh, một củ khoai lang… “Lúc tắt lửa tối đèn có nhau”.
Ông giáo đã đồng cảm, đã thương xót, đã san sẻ với lão Hạc với tất cả tình người. Ai đã từng là độc giả của Nam Cao, chắc sẽ không bao giờ quên mẩu đối thoại này:
… Tôi bùi ngùi nhìn lão, bảo:
-Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?
-Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?
Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão,ôn tồn bảo:
-Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: bây giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm chè tươi thật đặc; ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào… Thế là sướng.
-Vâng! Ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng”…
Ông giáo đã thương lão Hạc “như thể thương thân”. Không chỉ an ủi, động viên, mà ông còn tìm mọi cách để “ngấm ngầm giúp” khi biết lão Hạc đã nhiều ngày ăn rau, ăn khoai, ăn củ ráy… Trong lúc đàn con của ông giáo cũng đang đói; cái nghĩa cử “Lá lành đùm lá rách” ấy mới cao đẹp biết bao!
Ông giáo nghèo mà đức độ lắm. Trước khi ăn bả chó, lão Hạc đã gửi ông giáo 30 đồng để phòng khi chết “gọi là của lão có tí chút…”, gửi lại ông giáo ba sào vườn cho đứa con trai… Tình tiết ấy cho thấy lão Hạc rất tin ông giáo. Ông giáo là người để lão Hạc “chọn mặt gửi vàng.
Giữa cái xã hội đen bạc thời ấy, một bà cô dành cho đứa cháu nội bát nước cháo đã vữa ra như một sự bố thí (Những ngày thơ ấu), vợ tên địa chủ bắt bí, bóp nặn người đàn bà khốn cùng để mua rẻ đứa con gái lên bảy tuổi và ổ chó (Tắt đèn), một tên phụ mẫu ăn bẩn đồng hào của chị nhà quê (Đồng hào có ma)…, ta mới thấy niềm tin, sự kính trọng của kẻ khốn cùng đối với ông giáo thật là thánh thiện.
Trước cái chết “dữ dội” của lão Hạc, cái chết “đau đớn và bất thình lình”, chỉ có ông giáo và Binh Tư hiểu… Ông giáo khẽ cất lời than trước vong linh người láng giềng hiền lành tội nghiệp. Trong giọt lệ là những lời hứa của một nhân cách cao đẹp, đáng trọng: “Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt ! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tỏi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào…”.
Cùng với ông giáo Thứ trong “Sống mòn”, Điển trong “Trăng sáng”, nhân vật “tôi” trong “Mua nhà”, hình ảnh ông giáo trong truyện “Lão Hạc” đã kết tinh cái tâm và cái tài của Nam Cao trong nghệ thuật xây dựng nhân vật – nhà văn nghèo, ông giáo khổ trường tư – trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là những con người nghèo mà trong sạch, hăm hở và nhiệt tâm từng ôm ấp bao mộng đẹp, sống nhân hậu, vị tha. Có người đã cho rằng, ông giáo là một nhân vật tự truyện, mang dáng dấp hình bóng Nam Cao. Ý kiến ấy rất lí thú.
Trong truyện “Lão Hạc”, ông giáo vừa là nhân vật, vừa là người dẫn chuyện. Không phải là nhân vật trung tâm, nhưng sự hiện diện của ông giáo đã làm cho “Bức tranh quê’ ngày xa xưa ấy thêm sáng tỏ. Nhân vật ông giáo là chiếc gương soi sáng cuộc đời và tâm hồn lão Hạc, đã góp phần tô đậm giá trị nhân đạo của truyện ngắn đặc sắc này.
Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Trong Lòng Mẹ 🔥 16 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Về Nhân Vật Ông Giáo Ngắn Hay – Mẫu 8
Bài văn mẫu phân tích về nhân vật ông giáo ngắn hay dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý làm bài phong phú hơn.
Truyện ngắn Lão Hạc là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, truyện ngắn thể hiện sâu sắc được tình cảnh đáng thương của những người nông dân nghèo trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Họ bị cái đói, cái nghèo đẩy đến bước đường cùng và là nguyên nhân gây ra những bi thảm trong số phận của họ. Tuy nhiên, cũng trong đói nghèo thì nhân phẩm của con người cũng được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết, đó là những vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng của những người nông dân.
Nhân vật trung tâm của tác phẩm chính là nhân vật lão Hạc. Để làm nổi bật lên nhân vật Lão hạc, nhà văn Nam Cao đã dựng lên một nhân vật tư tưởng, nhân vật thể hiện được tuyên ngôn của nhà văn về sự sống, về số phận của con người: nhân vật ông Giáo. Nhân vật ông Giáo trong truyện ngắn lão Hạc là người bạn thân nhất, người mà Lão Hạc tin tưởng nhất để chia sẻ những suy nghĩ, tâm sự của mình. Mặt khác, ông Giáo cũng đóng vai trò là người kể chuyện về cuộc đời và số phận bi thảm của lão Hạc.
Ông Giáo trong cảm nhận của lão Hạc, đó là con người có nhiều chữ, có học, một người đáng kính trọng, bởi vậy mà mọi câu chuyện, tâm sự sâu kín ông đều sang và tâm sự với ông Giáo. Trước quyết định bán chó của Lão Hạc, lão đã nói rất nhiều lần, đã vô cùng trăn trở trước quyết định này.
Tuy nhiên, lúc đầu ông Giáo đã không tin lão Hạc sẽ bán chó nên khi nghe Lão nói nhiều về việc bán chó, ông đã có suy nghĩ khá dửng dưng, hời hợt: “Tôi vừa thở khói vừa gà gà đôi mắt của người say, nhìn lão để làm ra vẻ chú ý đến câu nói của lão đó thôi. Thật ra trong lòng tôi rất dửng dưng.Tôi nghe câu ấy đã nhàm rồi. Tôi lại biết rằng: Lão nói để đó thôi, chẳng bao giờ lão bán đâu. Vả lại, có bán thật thì đã sao?làm quái gì một con chó mà lão có vẻ băn khoăn thế chứ”.
Ông Giáo cho rằng con chó chỉ là con vật vô tri vô giác, bán hay không cũng không thể thay đổi được gì. Không như những cuốn sách của ông, nó là sản phẩm của sáng tạo, của trí tuệ nên rất đáng trân trọng. Và sâu trong suy nghĩ của mình, ông giáo cho rằng con chó của lão Hạc không thấm vào đâu so với những quyển sách của mình: “ lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi…”
Như vậy, lúc đầu ông Giáo có lắng nghe câu chuyện của Lão Hạc nhưng không có chút đồng cảm nào với câu chuyện ấy, thậm chí còn cho rằng lão Hạc có chút quái gở, không bình thường. Phải đến khi lão Hạc bán cậu Vàng và sang nhà mình với tâm trạng đầy đau khổ thì ông mới có suy nghĩ khác đi: “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót xa năm quyển sách của tôi quá như trước nữa”.
Đến lúc này, ông Giáo mới hiểu được tấm lòng đáng trân trọng của Lão Hạc và đã có sự đồng cảm chân thành với lão. Sự đồng cảm của ông Giáo khiến cho ông phát hiện ra một sự thật đau lòng, nghiệt ngã ở đời khi nghe người vợ nói những lời không hay về lão Hạc.
Lời của ông giáo cũng là nội dung tư tưởng mà Nam Cao muốn thể hiện qua tác phẩm: “ Chao ôi, đối với những người quanh ta nếu ta không cố mà hiểu họ thì chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi…toàn những cớ để ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương”.
Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm của mọi thời, bi kịch của đời thường đã trở thành bi kịch vĩnh cửa. Con người với những gì cao cả, thấp hèn đều có trong tác phẩm. Thông qua nhân vật “tôi” – ông giáo, tác giả đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu lấy con người, hãy bảo vệ nhân phẩm con người trong con lũ cuộc đời sẵn sàng xoá bỏ mạng sống và đạo đức. Cho nên chúng ta nên đặt nhân vật tôi ở một vị trí tương xứng hơn khi tìm hiểu tác phẩm.
Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Chiếc Lá Cuối Cùng 🌠 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Phân Tích Truyện Ngắn Lão Hạc Nhân Vật Ông Giáo Đơn Giản – Mẫu 9
Tham khảo bài văn phân tích truyện ngắn Lão Hạc nhân vật ông giáo đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và luận điểm cơ bản nhất.
Truyện ngắn “lão Hạc” là một trong những thành công của Nam Cao trong việc xây dựng những hình tượng người nông dân Việt Nam sống dưới ách thống trị nặng nề trong xã hội thực dân nửa phong kiến, những con người phải sống trong cuộc đời đầy đau khổ nhưng vẫn mang một vẻ đẹp tâm hồn cao quý.
Nếu là lão Hạc thì hình tượng nhân vật gây xúc động bởi tình phụ tử thiêng liêng và nhân cách cao thượng thì ông giáo cũng là điểm sang về tình thương người, về cách nhìn đầy cảm thông trân trọng đối với người nông dân nghèo đói đương thời.
Trước hết ta thấy nhân vật “tôi” trong tác phẩm chính là một người tri thức nghèo. Nghề giáo trong xã hội ấy thường bị thất nghiệp. mọi ước mơ, lí tưởng, nhiệt tình sôi nổi của tuổi trẻ đành bỏ dở và phai nhạt dần. Kể cả những cuốn sách quý giá ông giáo cũng đành bán đi để chữa bệnh cho con. Ông giáo, do đó, rất cảm thông với nỗi đau xót của lão Hạc. Ông tâm sự như muốn nói với người bạn đồng cảnh ngộ: “lão Hạc ơi Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu? Lão quý con chó Vàng cảu lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi!”
Từ kinh nghiệm, từ nỗi đau của bản thân ông giáo dễ dàng thông cảm với lão Hạc. ông thấy được phẩm chất cao quý của lão Hạc và rất trân tọng lão Hạc. Ông đã nhận xét nếu không hiểu sau tâm hồn phẩm chất của họ, ta chỉ thấy họ ngu dốt, gàn dở, xấu xa! Ngược lại đã hiểu và yêu quý lão ông giáo ngầm giúp đỡ lão đến nỗi vợ của ông còn phàn nàn trách cứ. đó là thời buổi cái khổ và chết choc đang rình rập bất cứ ai! Hiểu nhau ở tinh thần thể hiện bằng hành động giúp đỡ cụ thể điều đó rõ là tình cảm sâu xa, nhân hậu.
Tuy nhiên, cả một xã hội đang bị cảnh chết đói đe dạo, có người còn giữ được đạo đức nhân cách có người phải trộm cắp để mà sống. Vì vậy, thấy lão hạc xin bả chó Binh Tư, ông giáo lầm tưởng lão Hạc cũng từ bỏ nhân cách, đói nghèo đến liều lĩnh rồi. Dù vậy ông giáo cũng suy nghĩ rất nhân hậu: lão Hạc lại nối gót Binh Tư làm nghề trộm chó để sống, lẽ nào một con người hiền lành chất phác ấy mà lại có hành động xấu xa đến thế?
Vừa kính nể về nhân cách, vừa thương bì hoàn cảnh túng cùng, ông giáo cảm thấy buồn trước sự suy thoái đạo đức. đến lúc nghe về cái chết bi thảm của lão Hạc ông mới chợt nhận ra: Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo nghĩa khác”.
Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn vì lão Hạc vẫn là con người đạo đức, có nhân cách cao quý, lão vẫn xứng đáng với niềm tin cậy cảu ông, chưa mất đi nhân phẩm. ông giáo buồn vì con người mà ông đang yêu thương, quý trọng lại nghèo đến nỗi không có cái ăn để tồn tại trên cõi đời này. Cuộc đời con người lương thiện lạn bi thảm đến thế? Vậy chân lí “hiền lành” liệu còn tồn tại ?
Đối với lão Hạc còn gì quý hơn lời hứa thực hiện điều ông trăn trối: Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lồng mà nhắm mắt! lão đừng lo gì cho cái vườn của lão…..cái vườn mà lão nhất định không chịu bán đi một sào”. Ta như nghe ông giáo đang thề nguyện trước vong linh người đã khuất, ta tin rằng ông sẽ làm tròn trách nhiệm lời hứa của lão Hạc.
Truyện ngắn “lão Hạc” đã cho ta thấy xã hội đương thơi có nhiều cảnh bi thương, dồn con người lương thiện vào đường cùng không giúp được, không cưu mang nổi nhau để cuối cùng phải tự kết liễu đời mình một cách thảm thương. Ý nghĩa tố cáo của truyện thật sâu sắc!
Tóm lại ông giáo là người tri thức, không may mắn trong xã hội đương thơi nhưng vẫn có tấm lòng nhân hậu cao quý, có cái nhìn sâu sắc để cảm thông chia sẻ và quý trọng một người chất phác thật thà như lão Hạc. Biết bao người có tấm lòng nhân hậu mà không giúp nhau vượt qua bi kịch của cuộc sống! Qua ông giáo ta hiểu cái nhìn cảm thông tin tưởng của Nam Cao đối với nhân cách đáng quý: dù có là tri thức hay nông dân họ vẫn là tri kỉ, họ có thể kí thác những điều hệ trọng, thiêng liêng nhất đời mình.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Cô Bé Bán Diêm 🌼 12 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Ông Giáo Trong Bài Lão Hạc Lớp 8 – Mẫu 10
Bài văn phân tích nhân vật ông giáo trong bài Lão Hạc lớp 8 dưới đây sẽ là tư liệu hay để các em học sinh tham khảo trong quá trình làm bài.
Cuộc sống không phải lúc nào cũng màu hồng như chúng ta mơ ước, có những chuyện trên đời xảy ra vô lý, có những bất hạnh chẳng biết từ đâu bỗng chốc ập đến đè bẹp cuộc đời con người. Đôi khi chúng ta có thể thấu hiểu, cảm thông và lý giải được nguyên nhân của những thứ đang diễn ra trước mắt thế nhưng rồi lại bất lực nhìn trong vô vọng vì sức người có hạn, đến bản thân mình còn đang phải chịu sự chà đạp của cuộc đời thì làm sao đủ sức để thay đổi cuộc đời người khác.
Trong tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao chúng ta đã thấy một hình ảnh ông Giáo rất lương thiện và cao quý, là một người từng trải với những suy nghĩ và trăn trở về cuộc đời và số phận con người. Ông Giáo là hiện thân của cái đẹp, là tư tưởng lỗi lạc nhưng sinh nhầm thời thế.
Ông Giáo trong tác phẩm đóng vai trò là người kể chuyện, là nhân vật mà Nam Cao trực tiếp đặt mình vào đó để thổ lộ và giãi bày những tâm tư của lòng mình. Là một người có lòng yêu sách hơn cả, cuộc đời của ông gắn bó khăng khít với sách thế nhưng sau cùng với hoàn cảnh đẩy đưa khiến ông phải bán những đứa con tinh thần của mình để chạy vạy cho cuộc sống, để chữa bệnh cho đứa con tội nghiệp của mình.
Cùng sống và chịu đựng những đớn đau dày vò từ cuộc sống nên ông Giáo thấu hiểu và dễ đồng cảm với những người xung quanh. Ông nhận ra được vẻ đẹp cao quý nơi con người Lão Hạc, mặc cho hoàn cảnh sống của mình cũng đang đói khổ đến khốn đốn nhưng ông vẫn không ngần ngại đưa tay ra giúp đỡ Lão Hạc hết mức có thể.
Ông Giáo lo sợ hoàn cảnh sống khốn khó sẽ khiến cho lão Hạc đánh mất đi vẻ đẹp của mình nhưng ông cũng không biết làm cách nào để giải quyết cho vấn đề của lão cũng như giải thoát cho cuộc đời mình, sau cùng đó cũng chỉ là những trăn trở suy nghĩ mà chẳng có cách nào cứu chữa.
Ông còn nhận ra vẻ đẹp ẩn sâu trong mỗi người, ai cũng có những câu chuyện, ai cũng có những nỗi khổ riêng của họ, không có người xấu xa chỉ có những con người bị khuất phục bởi hoàn cảnh. Cuộc đời dài đằng đẵng sống để mà lo cho cuộc đời mình thôi đã mỏi mệt lắm rồi vậy nên con người ta không còn tâm trí để suy nghĩ cho người khác nữa vậy nên họ trở nên ích kỉ, nhưng tất cả đều có nguyên nhân của nó.
Và ông đã thấu hiểu quy luật cuộc sống nên càng biết trân trọng và thương yêu những người xung quanh mình hơn, ông không trách hay phán xét bất kỳ một ai mà chỉ tự đặt mình vào vị trí của họ để rồi suy nghĩ mà cảm thông, ông không chỉ sống cho mình mà còn lo nghĩ cho cả cuộc sống của người khác.
Khác hẳn với ông Giáo thì vợ ông lại là một người tiêu cực hay có những suy nghĩ lầm lạc về người khác, thế nhưng ông không trách cũng không giận mà ông chỉ thấy buồn, ông sẵn sàng tha thứ cho người khác để hiểu rõ hơn về bản thân họ, để cùng sẻ chia và cảm thông.
Thế nhưng con người đầy lạc quan và triết lý ấy lại có lúc lo sợ người khác đánh mất bản chất tốt đẹp của họ để rồi trăn trở đau lòng. Đó là khi ông Giáo biết tin Lão Hạc, người mà ông vô cùng nể phục và tôn trọng xin Binh tư bả chó, thoạt đầu ông buồn và thất vọng về bản chất con người, rằng cái đẹp, cái cao quý của con người có thể bị mất đi nếu như con người ta rơi vào cảnh bần cùng, sau cùng thì những thì tươi đẹp sẽ bị vấy bẩn mà không cách nào cứu vãn được.
Tưởng rằng như đã tuyệt vọng và mất niềm tin vào đạo đức của con người thế nhưng sau đó ông lại nhận ra được việc làm đầy nghĩa khí của lão Hạc, lão thà tự tay kết liễu cái mạng già thoi thóp kia chứ nhất quyết không chịu vứt đi lòng tự trọng của mình, nhất quyết không đầu hàng số phận. Con người nhỏ bé là thế nhưng lại kiên cường và rắn rỏi đến không ngờ, và điều đó làm cho ông Giáo phải thốt lên đầy thán phục.
Cuộc sống nhân sinh đầy rẫy những đau thương và khốn khổ và không phải ai cũng giữ được tỉnh táo và cái nhìn lạc quan đối với cuộc đời mỏi mệt này, vậy nên có thể nói ông Giáo là một trong số những người hiếm hoi đủ tỉnh táo để nhìn nhận thế giới, nhìn nhận cuộc đời đúng đắn theo cách của mình.
Giới thiệu tuyển tập 🌹 Phân Tích Đánh Nhau Với Cối Xay Gió 🌹 9 Mẫu Hay Nhất