Phân Tích Nhân Vật Bô Lão Phú Sông Bạch Đằng [21+ Mẫu Siêu Hay]

21+ Mẫu Phân Tích Nhân Vật Bô Lão Phú Sông Bạch Đằng Hay. SCR.VN Giới Thiệu Tuyển Tập Bài Văn Nghị Luận Về Hình Tượng Nhân Vật Văn Học.

Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Bô Lão Phú Sông Bạch Đằng

Tham khảo dàn ý phân tích nhân vật bô lão Phú sông Bạch Đằng chi tiết dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được bố cục và hệ thống luận điểm cơ bản để triển khai bài viết.

I. Mở bài phân tích nhân vật bô lão Phú sông Bạch Đằng:

  • Giới thiệu về tác giả Trương Hán Siêu và tác phẩm “Bạch Đằng giang phú”.
  • Giới thiệu nội dung cần phân tích – hình tượng nhân vật bô lão.

II. Thân bài phân tích nhân vật bô lão Phú sông Bạch Đằng:

1.Các bô lão kể về những chiến tích trên sông Bạch Đằng:

  • Hình ảnh bô lão: Có thể là những nhân vật có thật, là các vị cao niên ở hai bên bờ sông, cũng có thể là hư cấu, sự phân thân của tác giả để khách quan kể về những chiến công trên sông Bạch Đằng.
  • Thái độ của các bô lão với khách: “vái”, “thưa”- hiếu khách, tôn kính khách.
  • Các chiến công tiêu biểu: Ngô quyền đánh quân Nam Hán, Hoằng Tháo thua trận và chết ở sông Bạch Đằng năm 938 và Trùng Hưng nhị thánh bắt sống Ô Mã năm 1288.

-Không khí chiến trường xưa:

  • Sự chuẩn bị của quân nhà Trần: thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới, hùng hổ sáu quân, gươm giáo sáng chói
  • Chuẩn bị kĩ lưỡng, binh lực hùng hậu, hào khí ngút trời.

-Diễn biến trận đánh:

  • Cách nói “được thua chửa phân”, “bắc nam chống đối”, hình ảnh phóng đại “nhật – nguyệt phải mờ, bầu trời đất sắp đổi”
  • Trận đánh gay go, quyết liệt, giằng co căng thẳng.
  • Quân giặc: “những tưởng gieo roi một lần quét sạch Nam bang bốn cõi”. Thái độ kiêu căng, hống hách, ngạo mạn

-Kết thúc trận đánh: Hung đồ hết lối, khác nào… chết trụi.

  • Thủ pháp so sánh tăng cấp tô đậm, nhấn mạnh thất bại thảm hại, nhục nhã, ê chề của kẻ thù.
  • Khẳng định tình yêu và niềm tự hào dân tộc.

2.Lời suy ngẫm, bình luận của các bô lão về những chiến công:

  • Nguyên nhân thắng lợi: đất trời cho nơi hiểm trở, nhân tài giữ được cuộc điện an, đại vương coi thế giặc nhàn.
  • Nhấn mạnh ba yếu tố làm nên thắng lợi thiên thời – địa lợi – nhân hòa, trong đó nhấn mạnh vai trò của con người.
  • Gợi lên hình ảnh Trần Quốc Tuấn và so sánh với những người xưa
  • Khẳng định sức mạnh, tài năng của con người nhất là người lãnh đạo. Thể hiện giá trị nhân văn của tác phẩm.

3.Suy ngẫm về hưng vong của đất nước:

  • Hình tượng sông Bạch Đằng: mênh mông, rộng lớn, hùng vĩ, hiểm trở. Thể hiện tình yêu, niềm tự hào về cảnh sắc quê hương, về dòng sông lịch sử.
  • Mượn quy luật của tự nhiên để khái quát quy luật của con người: Mọi dòng sông đều dồn về biển cả, những kẻ bất nghĩa sẽ tiêu vong, anh hùng lưu danh muôn đời.

4.Nghệ thuật:

  • Bố cục chặt chẽ, cách kể tả sinh động
  • Xây dựng các hình tượng nhân vật sinh động, đặc sắc mang ý nghĩa triết lí.
  • Ngôn ngữ cô đọng, trong sáng, hào hùng.

III. Kết bài phân tích nhân vật bô lão Phú sông Bạch Đằng:

  • Khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
  • Mở rộng: Sông Bạch Đằng là đề tài, niềm cảm hứng lớn trong văn chương với rất nhiều tác phẩm nổi tiếng khác.

Xem nhiều hơn 🌹 Tóm Tắt Phú Sông Bạch Đằng 🌹 12 Bài Mẫu Ngắn Hay Nhất

Phân Tích Hình Tượng Các Bô Lão Trong Phú Sông Bạch Đằng – Mẫu 1

Bài văn mẫu phân tích hình tượng các bô lão trong Phú sông Bạch Đằng dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.

“Trăm năm bia đá cũng mòn
Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ!”

Trong những áng văn viết về trận thủy chiến Bạch Đằng, bài phú của Trương Hán Siêu ra đời sớm hơn tất cả và cũng là áng văn “không tiền khoáng hậu”. Bạch Đằng giang phú là tác phẩm mà tính chất trữ tình và màu sắc anh hùng ca được hòa quyện nhuần nhuyễn và tinh tế. Nổi bật trong tác phẩm là hình tượng nhân vật bô lão với những bình luận về sự hưng vong của đất nước.

Sự xuất hiện của nhân vật khách với trạng thái trầm tư có ý nghĩa như một cách gợi mở, dẫn dắt cho sự xuất hiện của nhân vật tập thể các bô lão. Đó là số đông đa dạng về tuổi tác: người rất già phải chống gậy, người trẻ còn khỏe bơi được thuyền nhỏ nhưng tất cả đều nhiệt tình, nhạy cảm và hiếu khách. Họ hết lời thăm hỏi:

Bên sông bô lão,
Hỏi ta sở cầu.

Tác giả không nhắc lại câu hỏi của khách, nhưng qua sự sốt sắng của các bô lão, qua phương thức nói chuyện của khách và các bô lão ta có thể hiểu chủ đề câu chuyện: các bô lão mang tư cách là người địa phương và có thể nhiều người đã là nhân chứng của trận chiến oanh liệt đã dẫn khách tham quan chiến địa cũ và thuyết minh cho ông về trận chiến lịch sử với những chiến tích:

Có kẻ gậy lê chống trước
Có người thuyền nhẹ bơi sau
Vái ta mà thưa rằng
– Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá phách Hoàng Thao.

Những bô lão đã hào hứng, sôi nổi kể lại trận đánh “đương khi ấy” bằng tất cả hồ hởi, niềm tin, lòng tự hào vào truyền thống yêu nước và tinh thần quật khởi của dân tộc:

Thuyền bè muôn đội
Tinh kỳ phấp phới
Tì hổ ba quân
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh thư hùng chửa phân,
Chiến lũy Bắc Nam chống đối.
Đó cũng là trận đánh ác liệt “kinh thiên động địa”:
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổ

Tính chất ác liệt của trận chiến đến từ quy mô, lực lượng so sánh và cũng đến sự đối đầu về ý chí của hai bên đối phương. Và chính ở trận Bạch Đằng quân nhà Trần cũng như quân Ngô Quyền trước đó phải đối đầu với đội quân mưu sâu, chước quỷ hung đồ:

Kìa:

Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chước đối.
Những tưởng tung roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.

Trận chiến quyết liệt, khó khăn, nhiều tổn thất đến nỗi “sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”, đến nỗi bao nhiêu năm sau các nhà thơ qua đó đều vẫn có chung cảm giác nước sông còn loang máu đỏ như Trần Minh Tông từng viết:

Ánh nước chiều hôm màu đỏ khé,
Tưởng rằng máu giặc vẫn chưa khô

Chính vì tính chất khó khăn, quyết liệt đó mà hơn ai hết, các bô lão hiểu rằng trận chiến đấu và chiến thắng của dân tộc mình không chỉ có ý nghĩa với một thời:

Khác nào:

Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay.
Trận hợp phì, giặc Bồ Kiên phút giây chết trụi.
Đến nay nước sông tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao
Muôn đời ca ngợi.

Như vậy, trận chiến trên sông Bạch Đằng hay chính là trận chiến chống quân Mông Nguyên không chỉ có ý chí kiên gan bền bỉ của đội quân hùng mạnh mà còn có sự giúp đỡ từ hồn thiêng núi sông cũng có nghĩa là nó bao gồm cả ba nhân tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa.

Ở đây, các bô lão còn nhấn mạnh vai trò của con người, của những đôi vai sẵn sàng chinh chiến, gánh vác trọng trách mà đất nước giao phó. Đó là các bậc sánh với “Vương sư họ Lã” trong hội Mạch Tần; với “ Quốc sĩ họ Hàn” trong trận Duy Thủy và đặc biệt là Đại vương Trần Quốc Tuấn, một người có tài thao lược nhất là tầm nhìn xa trông rộng đến muôn đời:

Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm đồn mãi,
Bia miệng không mòn.

Cảnh thứ nhất là Bạch Đằng lúc đương đại, thiên nhiên hùng tráng đẹp như “từ có vũ trụ” song đối với thế tình nó như đã nhuốm mùi dâu bể, như đã chìm vào tĩnh lặng, đi vào ngủ quên để cho chính hồn thơ như khách phải nặng lòng bùi ngùi. Bạch Đằng đương đại khoác trên mình vẻ đẹp vừa đơn sơ lại rất nên thơ, trữ tình.

Cảnh thư hai là Bạch Đằng trong lịch sử đã được sống dậy trong sự hồi tưởng của các bô lão rất đậm tính chất anh hùng ca. Tuy nhiên, khi làm sống dậy quá khứ say sưa và bình luận về nó là khi họ phải lật giở từng trang quá khứ, trở về với hoài niệm để sống lại một thời tuổi trẻ của cả non sông:

Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
Lâm nhan lưu hề hậu nhan.

Với tư cách là những người trong cuộc, là chứng nhân của mảnh đất anh hùng các bô lão thấy đau xót, hổ thẹn khi nó bị bỏ rơi đến nỗi dấu tích hào kiệt trở thành hoang phế, mộ phần người bỏ mình cho sự sống còn của dân tộc đã bị lẫn lộn trong đám “cốt khô gầy gò” và hổ thẹn với chính mình bởi những trọng trách quá nặng nề trên đôi vai nhỏ bé khi bước chân nối tiếp truyền thống vẻ vang anh hùng của cha anh để dựng xây đất nước.

Khi cuộc chơi sông Bạch Đằng kết thúc là khi dòng sông lịch sử đi vào hoài niệm để bài phú được kết thúc bằng hai lời ca và thực sự đó là lời tổng luận của các bô lão và của khách. Nếu như các bô lão, những người dân bình thường nhấn mạnh một lẽ đời mang tính chất quy luật như nước sông cuồn cuộn chảy về biển cả, đó là:

Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh

Quả đúng như đánh giá của Bùi Quang Nguyên “Bạch Đằng giang phú” đã khắc họa một cảnh trí mỹ lệ của Tổ quốc với cả hình bóng chiến công oanh liệt của quân dân ta thời trước. là một bài phú mẫu mực chẳng những thể hiện đậm nét hào khí Đông A của văn học thời Trần mà còn có giá trị to lớn trong lịch sử văn học nước nhà.”

Đừng bỏ qua 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Phú Sông Bạch Đằng 🔥 8 Mẫu Ngắn Hay

Phân Tích Nhân Vật Bô Lão Phú Sông Bạch Đằng Hay Nhất – Mẫu 2

Đón đọc bài văn phân tích nhân vật bô lão Phú sông Bạch Đằng hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn đặc sắc.

Dòng sông Bạch Đằng vẫn thản nhiên chảy mãi, mà Đằng Giang tự cổ huyết do hồng, mà nhục quân thù khôn rửa nổi! Đó là những lời bình luận tâm huyết của Trương Hán Siêu về ý nghĩa của những chiến công trên sóng nước Bạch Đằng. Cảm hứng tác phẩm bắt nguồn từ hồn thiêng Bạch Đằng với thiên nhiên kì vĩ được lồng ghép với tâm sự hoài cổ, ưu thời mẫn thế. Điều đặc biệt là những chất liệu nội dung đó được thể hiện một cách khéo léo, với một bút pháp nghệ thuật hết sức điêu luyện được thể hiện qua hình tượng các bô lão.

Ở đoạn 1, nhân vật “khách” là cái tôi của nhà văn thì ở đoạn 2 nhân vật các bô lão là hình ảnh của tập thể, vừa đại diện cho người bản địa, vừa là những cá nhân đã trực tiếp chiến đấu đồng thời cũng có sự phân thân của tác giả. Sự xuất hiện của họ làm cho việc miêu tả chiến trận thêm sinh động, đồng thời việc chuyển ý được tự nhiên.

Nhân vật các bô lão là những chứng nhân lịch sử, từ đó dựng lên những trận thủy chiến Bạch Đằng (qua lời kể). Họ là đại diện cho những người nơi bản địa. Mở đầu, các bô lão giới thiệu cho khách biết: Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã và củng là bãi đất xưa Ngô chúa phá Hoằng Thao. Bằng hai câu dài (mỗi câu 12 âm tiết), tác giả xây dựng không gian nghệ thuật đầy ấn tượng với những tôn nghiêm và trang trọng như bước nền chắc chắn để bước vào chiến trận ở phần tiếp theo.

Trận thuỷ chiến được khắc họa với những câu ngắn từ 4 đến 6 âm tiết: .

Thuyền bè muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Tì hổ ba quân,
Giáo gương sáng chói.
… Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ
Bầu trời đất chừ sắp đổ.

Trong không khí hoài niệm về quá khứ với những vang dội trong chiến thắng “buổi trùng hưng”, các bô lão chậm rãi, ôn tồn thuật lại bằng tất cả trân trọng. Khi “Muôn đội thuyền bè tinh kì phấp phới”, khí thế “hùng hổ”, “sáng chói” đến “ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/Bầu trời đất chừ sắp đổi”. Trận đánh “kinh thiên động địa” được tái hiện bằng những nét vẽ vừa chân thực, vừa cụ thể dưới con mắt đa chiều kết hợp tài tình cả âm thanh, màu sắc, trực cảm và tưởng tượng tạo nên không khí trận mạc quyết liệt trên sông.

Người đọc có thể hình dung khá rõ sự đông đảo của lực lượng tham chiến, lẫn khí thế quyết chiến của hai bên và sự khốc liệt, dữ dội của một cuộc chiến mà cả hai đều ngang tài, ngang sức (Trận đánh thư hùng chưa phân – chiến luỹ Bắc Nam chống đối), thậm chí làm biến đổi cả trời đất, xoay chuyển vũ trụ (khiến cho mặt trăng, mặt trời phải mờ đi, trời đất phải đổi).

Sau những trận chiến không khoan nhượng đầy kiên gan và quả cảm các bô lão nhận xét về đặc điểm của mỗi bên tham chiến. Bên địch bên ta đều có điểm mạnh điểm yếu, địch kia hùng hậu lại gian manh (Tất Liệt thế cường – Lưu Cung chước đối) đã từng: Quét sạch Nam Bang bốn cõi. Còn ta, ta mạnh ở ý chí chiến đấu, ở trái tim một lòng hướng về dân tộc.

Nhưng trái tim ấy sẽ trở thành điểm yếu khi ta chiến đấu vì chính nghĩa, chính nghĩa dù không khoan nhượng nhưng phải đồng thuận trên dưới, thuận với lẽ trời (trời cũng chiều người). Bởi cha ông ta từng răn dạy dù cuộc chiến có cam go ác liệt thì chính nghĩa luôn chiến thắng, phải chính trực, đứng về phía chính nghĩa, trừng phạt kẻ bạo tàn. Thêm vào đó, ta lại có điều kiện tự nhiên hiểm yếu (Trời đất cho nơi hiểm trở), thêm vào đó là khối óc đại tài, có tầm nhìn thấu sáu cõi của người chỉ huy kết hợp đường lối chiến thuật, chiến lược đứng đắn.

Những yếu tố đó đủ để dân tộc ta chiến thắng vinh quang, đập tan bè lũ cướp nước. Bởi vậy mà thời gian có qua đi, đất trời có đổi thay, nước sông ngày ngày cuồn cuộn gột rửa mà cái nhục của quân thù vẫn không rửa nổi. Các bô lão không nói nhiều đến phía quân ta chỉ nhấn mạnh lòng biết ơn sâu nặng. Nó ghi dấu mốc son chói lọi trong hành trình đấu tranh của dân tộc, nó trở thành chiến thắng lừng lẫy trong suốt chiều dài lịch sử. Yếu tố tinh thần luôn được nhấn mạnh dẫn đến những lời bình ở phần tiếp theo:

Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

Lời bình không chỉ là lời nói đơn thuần của những người địa phương mà còn như lời tâm sự của những bàn tay đã cầm súng, những đôi chân từng trải. Đến đây, không gian và thời gian không còn rành rọt mà như hòa làm một. Cách đặt thời gian với không gian để câu chuyện không chỉ ở bề nổi mà còn có chiều sâu, không chỉ là kể mà còn là bộc bạch, không đơn thuần là tái hiện mà còn là lưu giữ. Chính điều đó tạo sự lôi cuốn, tạo dấu ấn làm cho câu chuyện tránh được sự tẻ nhạt, đơn điệu.

Như vậy qua hình tượng các bô lão ta thấy nhiều suy ngẫm triết lí. Mỗi lời đáp của các bô lão là một lời ca mang âm vang lịch sử của dòng sông cuộc đời. Ta cũng hiểu ra một chân lý vĩnh cửu cũng chảy mãi như dòng sông: Bất nghĩa thì tiêu vong, anh hùng thì lưu danh thiên cổ.

Đón đọc tuyển tập 🌹 Thuyết Minh Phú Sông Bạch Đằng 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất

Phân Tích Nhân Vật Bô Lão Phú Sông Bạch Đằng Ngắn Gọn – Mẫu 3

Bài văn phân tích nhân vật bô lão Phú sông Bạch Đằng ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích và cô đọng nội dung.

“Phú sông Bạch Đằng” – một tác phẩm tiêu biểu cho đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam. Tác giả Trương Hán Siêu đã bằng những hoài niệm quá khứ để thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc về chiến công lừng lẫy trên sông Bạch Đằng.

Có thể nói bài phú chứa đựng những giá trị tư tưởng nhân văn sâu sắc, đó là truyền thống anh hùng bất khuất và đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam ta. Điều này được thể hiện rõ nét qua lời luận bàn của nhân vật bô lão.

Vẻ đẹp trong cảnh sắc thiên nhiên nơi chiến tích sông Bạch Đằng vừa mang vẻ hùng vĩ lại có vẻ kỳ vĩ tráng lệ. Tuy nhiên, là nơi chiến tích xưa nên cảnh sông Bạch Đằng không thiếu đi vẻ hoang vu, đìu hiu. Vị khách đứng trước cảnh tượng ấy không khỏi buồn thương và nuối tiếc trước sự thay đổi của cảnh vật và thương xót cho những người đã ngã xuống nơi đây.

Hình tượng các bô lão xuất hiện đã mang đến những câu chuyện kể về chiến tích trên sông Bạch Đằng:

“Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã
Cũng là bãi đất xưa, Ngô chúa phá Hoằng Thao…”

Các bô lão không chỉ kể ra các chiến công tiêu biểu lừng lẫy lịch sử mà còn tái hiện lại khung cảnh chiến trường xưa một cách hào hùng, chân thực và sống động “thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới”, “hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”.

Hơn thế các bô lão còn kể lại diễn biến trận đánh cho thấy đây là một trận đánh quyết liệt, căng thẳng “nhật nguyệt chừ phải mờ”, “trời đất chừ sắp đổi”, quân giặc là những kẻ hống hách, hung tàn và ngạo mạn đã phải chịu thất bại thảm hại, nhục nhã ê chề “nước sông tuy chảy hoài” mà “nhục quân thù khôn rửa nổi!”.

Sau thời khắc sống lại những giây phút hào hùng thắng lợi của quân dân ta, các bô lão đã nhận định về nguyên nhân dẫn đến thắng lợi:

“Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an”

Trong đó, ba yếu tố được nhấn mạnh đến chính là thiên thời – địa lợi – nhân hòa, vai trò của con người là yếu tố quan trọng nhất, đặc biệt hình ảnh của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được so sánh với những người hùng thế hệ xưa như một lời khẳng định sức mạnh, sự anh minh, tài năng lãnh đạo nghĩa quân của ông “Bởi đại vương coi thế giặc nhàn”. Trong bài phú, riêng hai bài ca cuối bài được chuyển sang thể lục bát, đó là bài ca của các bô lão và lời ca của kẻ khách:

“Sông Đằng một dải dài ghê…
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”

“Anh minh hai vị thánh quân…
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao”

Lời ca của các bô lão đã ca ngợi hình tượng con sông Bạch Đằng mênh mông, rộng lớn và hiểm trở, thể hiện niềm tự hào về dòng sông lịch sử, đồng thời khẳng định một quy luật tất yếu muôn đời kẻ bất nghĩa sẽ tiêu vong, người anh hùng sẽ được lưu danh muôn đời.

Qua bài “Bạch Đằng giang phú”, người đọc nói chung và nhân dân Việt Nam ta nói riêng được ôn lại những trang lịch sử dân tộc vẻ vang, hào hùng, củng cố thêm niềm tự hào và tự tôn dân tộc. Có thể nói đây là bài phú viết bằng chữ Hán được xếp vào loại hay bậc nhất văn học trung đại Việt Nam.

Phân Tích Nhân Vật Bô Lão Phú Sông Bạch Đằng Nâng Cao – Mẫu 4

Với bài phân tích nhân vật bô lão Phú sông Bạch Đằng nâng cao dưới đây, các em học sinh có thể luyện tập trau dồi những ý văn hay.

Bài phú trên sông Bạch Đằng là một bài ca bất hủ, một áng văn xuôi mẫu mực được xếp vào hàng “thiên cổ hùng văn” của văn học nước nhà. Trương Hán Siêu bằng hiểu biết sâu rộng và ngòi bút đầy tài hoa của mình đã khắc hoạ nên một cảnh tượng chiến đấu trên sông Bạch Đằng đầy hào hùng, sống động và vô cùng chân thực. Qua lời kể các bô lão, trận chiến như diễn ra trước mắt người đọc đầy khí thế, oanh liệt.

Nếu như nhân vật khách là kẻ đã đi nhiều nơi, chu du khắp thiên hạ, vui thú trước bao cảnh nước non kì vĩ của thế giới thì nhân vật các bô lão là những người đã chứng kiến trận chiến giữa quân dân Trần Hưng Đạo trên sông Bạch Đằng trong cuộc chiến của quân Mông – Nguyên nói riêng và hàng loạt chiến thắng của dân tộc ta trên dòng sông này nói riêng.

Bởi vậy, khi nhân vật khách trầm tư, hoài cảm, tỏ ý thương tiếc thì các bô lão bằng kinh nghiệm của mình đã hiểu ý khách có điều đang thắc mắc, băn khoăn bèn cất lêng tiếng chào như một câu hỏi thân thương:

“Bên sông bô lão hỏi,
Hỏi ý ta sở cầu.”

Các bô lão bằng sự nhiệt thành, lòng hiếu khách, trân trọng những vị khách ghé thăm đã đóng vai trò như một “vị hướng dẫn viên du lịch”, giới thiệu chiến địa trên sông Bạch Đằng và cảnh chiến trận trên sông đầy cụ thể, sinh động. Là người dân địa phương, họ vô cùng tự hào trước chiến công hiển hách ấy, kể lại bằng giọng điệu vừa phấn khởi vừa vô cùng xúc động.

Mở đầu, nhân vật các bô lão kể về trận chiến vua Trần bắt tên Ô Mã cầm đầu, và đây cũng là nơi mà vua Ngô đại phá quân Hoằng Thao, là dòng sông đã kinh quá nhiều chiến trận. Trận chiến của vua tôi Trần Hưng Đạo được chuẩn bị vô cùng kĩ lưỡng, cẩn thận và chu đáo. Không khí chiến trận đầy quyết liệt:

“Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.”

Đội quân chiến đấu vô cùng hùng mạnh, vũ khí giáo gươm sáng chói, phương tiện thuyền bè nhiều vô kể, khí thế dũng mạnh ngút trời, cờ chiến tung bay pháp phới giữa trời trận mạc. Cuộc chiến đấu khiến cho ánh nhật nguyệt cũng phải mờ, bầu trời ước chừng đổ sập. Đó là trận chiến mà cả hai bên đều khó phân thắng bại, kẻ tám lạng người nửa cân, ngang sức , ngang tài.

Theo lời các bô lão, mỗi bên tham chiến theo sách lược khác nhau. Quân giặc vạn binh, lực lượng mạnh lại thêm mưu hèn kế bẩn, dối trá gian manh. Kiêu ngạo, khoác lác, hống hách:

“Kìa:
Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.”

Còn quân ta là phe chính nghĩa, lực lường hùng hậu cũng không kém lại được lòng người, thuận ý trời, trên dưới đoàn kết một lòng. Như đạo lí ở đời, kẻ cường bạo ắt phải chịu nhục nhã, phe chính nghĩa nhận thắng lợi về tay. Quân ta thắng lợi vẻ vang, nghìn năm lưu danh sử sách, lúc này lời các bô lão đầy hứng khởi, tự hào:

“Thế nhưng:
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao,
Nghìn xưa ca ngợi.”

Dù cho nước sông ngàn năm vẫn chảy mãi thì nỗi nhục quân thù vẫn ngàn năm chẳng thể phai. Dùng các trận thua đau đớn của Tào Tháo trong trận Xích Bích, Bồ Kiên thất bại ở Hợp Phì để mỉa mai quân địch và ca ngợi thắng lợi của ta. Các bô lão khẳng định thêm một lần nữa khẳng định về tính chất chính nghĩa của cuộc chiến dân tộc. Đó là chân lí đời đời sáng rõ.

Trong niềm hân hoan chiến thắng ấy, các bô lão đã tự ca ngợi, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với người lãnh đạo tài ba. Giặc thất bại là nhờ thế đất hiểm trở, nhân kiệt tài năng, thông minh mưu lược, dũng cảm nơi chiến địa. Con người tài đức sức mạnh và trí tuệ là yếu tố tiên quyết của thắng lợi này.

“Đã có giang san.
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.”

Lời kể của các bô lão có lúc nhiệt thành hân hoan, có lúc lại buồn thương tiếc nuôi , lúc trang nghiêm, trầm lắng để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc. Một trận chiến không chỉ để lại bài học về mưu lược, mà còn là bài học về chính nghĩa, về đạo lí sống muôn đời.

Tiếp tục tham khảo 🌹 Phân Tích Bạch Đằng Giang Phú 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất

Phân Tích Nhân Vật Bô Lão Phú Sông Bạch Đằng Học Sinh Giỏi – Mẫu 5

Tài liệu văn phân tích nhân vật bô lão Phú sông Bạch Đằng học sinh giỏi dưới đây sẽ giúp bạn tham khảo những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.

Trương Hán Siêu là một danh sĩ đời Trần, sau lúc qua đời được vua Trần truy phong là Thiếu Bảo. Ông còn để lại bốn bài thơ và ba bài văn “Dục Thuý sơn khắc thạch”, “Linh Tế Tháp ký”, “Khai Nghiêm tự bi”, “Bạch Đằng giang phú”,… Trong thơ văn cổ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng nhưng “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu được xếp vào hạng kiệt tác.

Các bô lão – nhân vật thứ hai xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả và trữ tình, nhà thơ chuyển sang tự sự, ngôn ngữ sống động biến hoá hẳn lên. Cảm hứng lịch sử mang âm điệu anh hùng ca dâng lên dào dạt như những lớp sóng trên sông Bạch Đằng vỗ. Khách và bô lão ngắm dòng sông, nhìn con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng oanh liệt của tổ tiên:

“Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô mã,
Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”.

Sau và trước, gần và xa, ta và giặc, người chiến thắng và kẻ thảm bại được đặt trong thế tương phản đối lập đã khắc sâu và tô đậm niềm tự hào sông núi. “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” vì nó là mồ chôn lũ xâm lược phương Bắc. Năm 938, Ngô Quyền dùng mưu đại phá quân Nam Hán:

“Bạch Đằng một trận giao phong
Hoằng Thao lạc vía, Kiều công nộp đầu”

Năm 1288, Trần Quốc Tuấn mở một trận quyết chiến – chiến lược bắt sống Ô Mã Nhi và tiêu diệt hàng vạn quân xâm lược Nguyên – Mông:

“Bạch Đằng một cõi chiến tràng,
Xương bay trắng đất, máu màng đỏ sông”.

Trở lại bài phú: “Đương khi ấy…” đó là ngày 9 tháng 4 năm 1288, trận thuỷ chiến đã diễn ra ác liệt trên sông Bạch Đằng. Dòng sông nổi sóng với “muôn đội thuyền bè”. Cảnh tượng chiến trường vô cùng tráng liệt: “Tinh thần phấp phới – Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng chói”. Các dũng sĩ nhà Trần với quyết tâm “Sát Thát, với dũng khí mạnh như hổ báo xung trận. Chiến sự dữ dội ác liệt, giằng co: “Trận đánh thư hùng chửa phân – Chiến lũy Bắc Nam chống đối”.

Khói lửa mù trời. Tiếng gươm giáo, tiếng quân reo, tiếng sóng vỗ. Ngựa hí, voi gầm. Thuyền giặc bị đốt cháy, bị va vào cọc gỗ bịt sắt nhọn vỡ đắm tan tành. Máu giặc nhuộm đỏ dòng sông. Trận đánh kinh thiên động địa được tái hiện bằng những nét vẽ, những chi tiết phóng bút, khoa trương rất thần tình. Âm thanh và màu sắc, trực cảm và tưởng tượng được tác giả phối hợp vận dụng, góp phần tô đậm trang sử vàng chói lọi:

“Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ
Bầu trời đất chừ sắp đổi”.

“Đại Việt sử ký” ghi rõ: Các tướng như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ… đều bị bắt sống, hàng vạn giặc bị tiêu diệt. Quân ta thu hơn 400 chiến thuyền. Giặc đã lần lượt nếm mùi thất bại, nhục nhã. Dòng sông Bạch Đằng như một chứng nhận lịch sử:

“Đến nay sông nước tuy chảy hoài
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”.

Trận thủy chiến sông Bạch Đằng của tổ tiên mang tầm vóc và quy mô hoành tráng, kỳ vĩ. Cũng như trận Xích Bích, trận Hợp Phì “quân Tào Tháo tan tác tro bay”, “quân Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi”, trận Bạch Đằng giang đã đập tan âm mưu bành trướng xâm lược của Lưu Cung, của Tất Liệt: “Trời cũng chiều người – Hung đồ hết lối”. Hung đồ là một cách nói khinh bỉ đối với lũ giặc phương Bắc.

Đất hiểm và nhân tài. Nhà thơ từ miêu tả, tự sự đến suy ngẫm về vinh, nhục, về thắng, bại trong lịch sử. Tổ quốc mãi mãi vững bền và nhờ có hai nhân tố quan trọng: đất hiểm và nhân tài. Tính tư tưởng của áng văn này rất sâu sắc. Tác giả đã nêu lên bài học lịch sử vô giá:

“Quả là trời đất cho nơi hiểm trở
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an”.

Bạch Đằng, Chi Lăng… là đất hiểm trở. Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung… là nhân tài. “Cuộc điện an” là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hòa bình, yên vui cho đất nước. Bằng lối so sánh, Trương Hán Siêu nhắc lại vai trò to lớn của Lã Vọng, Hàn Tín bên Trung Quốc đã để lại võ công lừng lẫy một thời, qua đó tác giả tự hào ngợi ca Hưng Đạo Vương, người anh hùng vĩ đại thuở “bình Nguyên” oanh liệt”:

“Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng
Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn”.

“Thế giặc nhàn” là thế giặc dễ đánh thắng. Quả đúng như vậy lần thứ 3 giặc Nguyên – Mông sang xâm lược nước ta đã bị đại bại. Con người anh hùng “coi thế giặc nhàn”, tên tuổi sống mãi với Bạch Đằng giang, với đất nước Đại Việt: “Tiếng thơm đồn mãi – Bia miệng không mòn”.

Đoạn văn miêu tả dòng sông, đoạn kể lại trận thủy chiến là đặc sắc nhất. Màu sắc tráng lệ. Hình ảnh kỳ vĩ. Phép đối được vận dụng rất tài tình để biểu lộ niềm tự hào dân tộc và sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Trương Hán Siêu đã bày tỏ một quan niệm về đất hiểm và nhân tài về vinh và nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng… trong cuộc đời và trong lịch sử. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả một cách tráng lệ, nên thơ, tạo nên vẻ đẹp văn chương của “Bạch Đằng giang phú”.

“Cốt minh đức cao” .Phần cuối bài phú là bài ca về dòng sông, về đất nước và con người Việt Nam. Sông Bạch Đằng hùng vĩ “một dải dài ghê” là mồ chôn lũ xâm lăng. “Sóng hồng cuồn cuộn trôi về biển Đông”. Máu giặc như mãi mãi nhuộm đỏ dòng sông. Một cách nói hào hùng. Giặc bất nghĩa nhất định bị tiêu vong. Các anh hùng để lại tiếng thơm muôn đời, lưu danh sử sách. Nhà thơ dành cho hai vua Trần những lời đẹp đẽ nhất:

“Anh minh hai vị thánh quân
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh”

“Thánh quân” là Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ 2 và lần thứ 3 đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Nhờ những nhân tài mà đất nước được “điện an”; nhờ những ông vua tài giỏi, sáng suốt, anh minh mà Đại Việt được “thanh bình muôn thuở”. Một lần nữa tác giả lại khẳng định bài học lịch sử giữ nước: “bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”.

Đức cao là lòng yêu nước thương dân, là tinh thần đại đoàn kết dân tộc, là tinh thần cảnh giác trước hiểm họa ngoại xâm. Một nét đặc sắc trong thơ văn đời Trần là ngoài “hào khí Đông A” còn nêu cao bài học xây dựng bảo vệ đất nước: “Thái bình nên gắng sức – Non nước ấy ngàn thu” (Trần Quang Khải). “Đức cao” là nguyên nhân thắng lợi, như Trần Quốc Tuấn đã nói: “Vua tôi đồng long, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” – đó là nguồn sức mạnh Việt Nam.

Tóm lại, “Bạch Đằng giang phú” là một bài ca yêu nước tự hào dân tộc. Tên tuổi Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn trường tồn với dòng sông lịch sử. Lời văn hoa lệ, tư tưởng tình cảm sâu sắc, tiến bộ. Chất trữ tình sâu lắng. Âm điệu anh hùng ca, không khí trang trọng cổ kính. Tài hoa trong miêu tả, hùng hồn trong tự sự, u hoài trong cảm xúc, sáng suốt lúc bình luận… là những thành công của Trương Hán Siêu.

SCR.VN chia sẻ 🌹 Cảm Nhận Về Nhân Vật Khách Trong Bài Phú Sông Bạch Đằng 🌹 Văn Mẫu Đặc Sắc

Viết một bình luận