12+ Mẫu Phân Tích Cố Hương Ngắn Gọn (Hay Nhất)

12+ Mẫu Phân Tích Cố Hương Ngắn Gọn, Hay Nhất. Tham Khảo Tuyển Tập Bài Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Phân Tích Truyện Ngắn Của Lỗ Tấn.

Giới Thiệu Tác Phẩm Cố Hương

“Cố Hương” là một trong những truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Lỗ Tấn, được viết vào năm 1923 và nằm trong tập truyện “Gào Thét”. Dưới đây là một số điểm nổi bật về tác phẩm này:

Nội dung chính

  • “Cố Hương” kể về chuyến trở về quê hương sau hơn 20 năm xa cách của nhân vật “tôi”. Trong chuyến đi này, nhân vật “tôi” chứng kiến sự thay đổi tiêu cực của quê hương: cảnh vật xơ xác, con người trở nên đần độn và chua ngoap. Đặc biệt, nhân vật “tôi” gặp lại người bạn thời thơ ấu là Nhuận Thổ, người cũng đã thay đổi nhiều so với ký ức.

Ý nghĩa nhan đề

  • Nhan đề “Cố Hương” mang ý nghĩa về quê cũ, gợi lên những ký ức và tình cảm sâu sắc của nhân vật “tôi” đối với quê hương. Tên gọi này cũng nhấn mạnh vào sự thay đổi và tàn tạ của xã hội nông thôn Trung Quốc thời bấy giờ.

Giá trị nội dung:

  • Tác phẩm phản ánh bức tranh xã hội Trung Quốc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, với những biến đổi tiêu cực và sự suy tàn của làng quê. Qua đó, Lỗ Tấn đặt ra vấn đề về con đường đi của người nông dân và toàn xã hội, khơi gợi suy ngẫm về tương lai.

Giá trị nghệ thuật:

  • Bố cục chặt chẽ: Tác phẩm được chia thành ba phần rõ ràng, tương ứng với ba giai đoạn trong chuyến về quê của nhân vật “tôi”.
  • Miêu tả tâm lý nhân vật: Lỗ Tấn sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lý tinh tế, khắc họa rõ nét sự thay đổi trong cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật.
  • Kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật: Tác phẩm kết hợp tự sự, miêu tả, biểu cảm và nghị luận, tạo nên một bức tranh sống động và sâu sắc về quê hương

Cùng với phân tích bài Cố hương, xem nhiều hơn 🌹 Sơ Đồ Tư Duy Cố Hương Lỗ Tấn 🌹 6 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay

Cách phân tích tác phẩm Cố Hương

Để phân tích tác phẩm “Cố Hương” của Lỗ Tấn một cách chi tiết và sâu sắc, bạn có thể làm theo các bước sau:

  1. Giới thiệu chung
    • Tác giả: Lỗ Tấn là một trong những nhà văn lớn của Trung Quốc, nổi tiếng với những tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội và đấu tranh cho sự tiến bộ.
    • Tác phẩm: “Cố Hương” là một truyện ngắn nổi tiếng, nằm trong tập “Gào Thét” xuất bản năm 1923
  2. Tóm tắt nội dung
    • Bối cảnh: Nhân vật “tôi” trở về quê hương sau hơn 20 năm xa cách và chứng kiến sự thay đổi tiêu cực của quê hương.
    • Nhân vật chính: Nhân vật “tôi”, Nhuận Thổ, mẹ của “tôi”, và các nhân vật phụ khác như chị Hai Dương, cháu Hoằng.
  3. Phân tích chi tiết

a. Diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi”

    • Trên đường về quê: Cảm xúc lẫn lộn giữa hy vọng và thất vọng khi thấy quê hương thay đổi.
    • Khi ở quê: Nhân vật “tôi” cảm nhận sự tiêu điều, hoang vắng của làng quê và sự thay đổi của những người thân quen.
    • Khi rời quê: Sự buồn bã và trăn trở về tương lai của quê hương và con người nơi đây.

    b. Hình ảnh quê hương

    • Quê hương trong ký ức: Đẹp đẽ, yên bình và đầy kỷ niệm.
    • Quê hương hiện tại: Tiêu điều, xơ xác và đầy sự thay đổi tiêu cực.

    c. Nhân vật Nhuận Thổ

    • Trong ký ức: Một cậu bé nông dân khỏe mạnh, lanh lợi và tháo vát.
    • Hiện tại: Một người nông dân già nua, nghèo khổ và đần độn, phản ánh sự suy tàn của xã hội nông thôn.

    Giá trị nội dung và nghệ thuật

      • Giá trị nội dung: Phản ánh hiện thực xã hội Trung Quốc đầu thế kỷ XX, sự suy tàn của làng quê và trăn trở về con đường đi của người nông dân.
      • Giá trị nghệ thuật: Bố cục chặt chẽ, miêu tả tâm lý tinh tế, kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật như tự sự, miêu tả, biểu cảm và nghị luận.

      Kết luận

        • Tổng kết: “Cố Hương” là một tác phẩm sâu sắc, phản ánh chân thực hiện thực xã hội và mang lại nhiều suy ngẫm về quê hương và con người.
        • Cảm nhận cá nhân: Bạn có thể chia sẻ cảm nhận của mình về tác phẩm, những điều bạn học được và cảm xúc khi đọc truyện.

        Hy vọng những gợi ý trên sẽ giúp bạn phân tích tác phẩm

        Tặng bạn: Thẻ Mobi Miễn Phí

        Dàn Ý Phân Tích Bài Cố Hương Lớp 9

        Lập  dàn ý phân tích bài Cố hương lớp 9 sẽ giúp các em học sinh nắm được bố cục và những luận điểm chính khi phân tích bài  Cố hương. Tham khảo dàn ý chi tiết phân tích bài Cố hương như sau:

        1.Mở bài phân tích Cố hương:

        • Giới thiệu vài nét về tác giả Lỗ Tấn: Một nhà văn tài năng với mong muốn dùng văn chương làm vũ khí tinh thần chống lại sự ngu dốt lạc hậu
        • Giới thiệu mề nội dung cần phân tích – bài Cố hương là một tác phẩm chứa đựng những trăn trở của nhà văn thông qua hành trình trở về quê của nhân vật “tôi”

        2.Thân bài phân tích Cố hương:

        a. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật “tôi” trong bài Cố hương:

        -Trên đường về quê:

        • Hoàn cảnh: Trời giá lạnh, đang độ giữa đông, nhân vật “tôi” về quê sau hơn 20 năm xa cách
        • Mục đích: Ý định là để từ giã lần cuối cùng, đem gia đình đến đất khách tôi đang làm ăn sinh sống.
        • Không gian làng quê: Trời u ám, thôn xóm tiêu điều, hoang vắng nằm im lìm dưới trời vàng úa… ⇒ Lòng tôi se lại vì “trong ký ức làng cũ đẹp hơn kia”, thất vọng, hụt hẫng vì làng xóm tiêu điều, hoang vắng quá khác xưa.

        -Bức tranh làng quê ảm đạm, héo hon, làm rõ tình cảnh sa sút của xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX

        b. Phân tích những ngày “tôi” ở quê trong bài Cố hương: Nhân vật “tôi” cảm nhận mọi thứ trên quê hương mình:

        -Phân tích khung cảnh trong bài Cố hương:

        • Sáng tinh mơ, trên mái ngói, mấy cọng rơm khô phất phơ
        • Các gia đình đã dọn đi nhiều, càng hiu quạnh.
        • không gian hoang vắng, hiu quạnh, gợi cảm giác buồn

        -Phân tích con người trong bài Cố hương:

        • Mẹ: “mừng rỡ, nét mặt ẩn một nỗi buồn”: nỗi buồn của người sắp phải từ giã nơi mình sinh ra và lớn lên mà chưa hẹn ngày gặp lại. Tâm trạng lưu luyến, buồn của một người sắp xa quê.
        • Cháu Hoằng: nhìn “tôi” chòng chọc vì nó chưa gặp “tôi” lần nào, thấy tôi khác xa những người ở quê mà hằng ngày nó được gần gũi tiếp xúc. Nhấn mạnh sự đổi thay của quê hương, của bên trong con người, khiến Hoằng lạ lẫm với tôi so với nhữn người, nếp sống, suy nghĩ quen thuộc ở quê.
        • Chị Hai Dương: 20 năm trước là một người phụ nữ duyên dáng, được mọi người yêu mến, sau 20 năm trở thành người phụ nữ xấu cả bề ngoài lẫn tính tình
        • Nhuận Thổ: Lúc nhỏ còn là cậu bé nông dân khoẻ mạnh, lanh lợi tháo vát, hiểu biết nhiều, hiện tại là người nông dân già nua, nghèo khổ đần độn, mụ mẫm, cam chịu số phận. Nguyên nhân: sự thay đổi này do cách sống lạc hậu của người nông dân từ hiện thực đen tối, xã hội phong kiến đang suy tàn.
        • Nhân vật Thủy Sinh: Giống hệt bố ở tính nhút nhát, chỉ núp sau lưng bố, so với Nhuận Thổ 20 năm về trước “gầy còm, vàng vọt cổ không đeo vòng bạc”. Nghèo khổ, lam lũ hơn, không đẹp đẽ như tuổi thơ Nhuận Thổ xưa. Tác giả cũng ngầm lo lắng về tương lai thế sau như Thủy Sinh liệu có như Nhuận Thổ bây giờ.
        • Nhà văn đang nhìn thẳng vào hiện thực xã hội tha hóa con người và dùng văn chương, phơi bày hiện thực để thức tỉnh con người “chữa bệnh tinh thần cho dân tộc”

        c. Phân tích “tôi” trên đường rời xa quê trong bài Cố hương:

        • Hoàn cảnh: Chiều hoàng hôn, dụng ý nghệ thuật bố cục đầu cuối tương ứng, mặt khác thời gian hoàng hôn còn gợi buồn, suy tư
        • Tâm trạng: lòng không chút lưu luyến, cảm thấy vô cùng lẻ loi, ngột ngạt.
        • Mơ về một cuộc sống khác: tươi đẹp, hạnh phúc hơn lúc này.
        • Mong ước: Chúng nó (bọn trẻ) không giống chúng tôi không bao giờ phải áp bức nhau … “Chúng nó cần phải sống một cuộc đời mới” sống giữa làng quê tươi đẹp, con người tử tế thân thiện.

        d. Phân tích hình ảnh con đường trong bài Cố hương:

        • Con đường sông, đường thủy (nghĩa đen): đi mãi cũng thành đường thôi. Đó là con đường mà tôi và cả gia đình đang đi.
        • Con đường cho cả dân tộc Trung Hoa xây dựng, đổi mới, đó là niềm hy vọng của các nhà văn về một ngày mai tươi sáng đối với cả dân tộc (nghĩa bóng).
        • Vấn đề đặt ra: Xây dựng những cuộc đời mới, những con đường mới tốt đẹp hơn cho tương lai. Hi vọng vào thế hệ trẻ làm thay đổi quê hương, đem đến tự do hạnh phúc cho con người

        3 Kết bài phân tích Cố hương:

        • Khái quát lại những giá trị nghệ thuật tiêu biểu làm nên thành công của tác phẩm
        • Liên hệ tới con đường đất nước, con đường bản thân

        Ngoài phân tích bài Cố hương, tại SCR.VN còn có: Tóm Tắt Cố Hương Lỗ Tấn

        Bài Văn Phân Tích Cố Hương Lỗ Tấn – Mẫu 1

        Tham khảo bài văn phân tích Cố hương Lỗ Tấn dưới đây để có được những định hướng cụ thể  nhất, từ đó hoàn thành tốt bài viết phân tích truyện ngắn Cố hương.

        Trong các nhà văn Trung Quốc đã học, không thể không kể đến Lỗ Tấn (1881 – 1936). Ông là nhà văn cách mạng nổi tiếng với truyện ngắn Cố hương. Nó man mác một tình quê vơi đầy, ghi lại một cách chân thực, cảm động ký ức tuổi thơ. Nó phản ánh số phận những con người quê hương với bao nỗi buồn thương và hi vọng. Các nhân vật như tôi, mẹ tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, Thủy Sinh, chị Hai Dương – là những con người của quê hương, gợi ra bao nỗi buồn vui về nơi chôn rau cắt rốn sâu nặng nghĩa tình.

        Sau 20 năm xa cách “tôi” về thăm quê. Phải vượt qua 2000 dặm giữa một mùa đông lạnh giá. Lòng “tôi” bồi hồi khôn xiết. Gió lạnh vi vu thổi vào khoang thuyền. Gần về đến làng, trời càng u ám, xóm thôn xa dần, thấp thoáng tiêu điều, hoang vắng… lòng “tôi” se lại, về quê thì phải vui sao lại buồn? “Tôi” tự hỏi có phải đây là làng cũ thân yêu trong ký ức nữa không?

        Chuyến về thăm quê này rất đặc biệt, về để bán nhà, giao nhà lại cho chủ mới. Về để từ giã ngôi nhà cũ – nơi cả đại gia đình “chúng tôi” đời đời ở chung với nhau. Sao không buồn được, vì sau 20 năm đi xa, lần này “tôi” trở về là để “vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn sinh sống”.

        Quê hương thường gắn liền với phần mộ tổ tiên ông bà nhưng trong Cố hương không thấy nói đến. Tác giả chỉ xúc động nói đến ký ức tuổi thơ khoảng chừng 30 năm về trước. Một tình bạn đẹp tuổi thơ độ lên mười với Nhuận Thổ – con trai của một người làm thuê cho gia đình “tôi”.

        Nhờ Nhuận Thổ mà “tôi” được biết bao chuyện kỳ lạ: cách bẫy chim trên tuyết, con “tra” lông da trơn như mỡ biết ăn dưa; bên bờ biển quê hương có nhiều vỏ sò đẹp và lạ: sò “mặt quỷ” và sò “tay Phật”. Nhờ Nhuận Thổ mà tôi cảm nhận được vẻ đẹp quê hương, với bao cảnh tượng thần tiên: “Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lơ lửng trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn”.

        Quê hương cũ với bao kỷ niệm thời thơ bé. Đó là những ngày mà “thầy tôi hãy còn”, cảnh nhà sung túc… năm ấy nhà tôi đến lượt lo giỗ tổ. Giỗ vào tháng giêng. Lễ vật rất nhiều, các đồ tế rất sang, người đến lễ cúng rất đông… Quê hương trong ký ức bao giờ cũng cảm động. Lỗ Tấn đã nói về hình ảnh quê hương trong hiện tại và trong quá khứ, lúc ở trên đường trở về, lúc gặp lại bạn cũ, người xưa. Có niềm vui nỗi buồn, 30 năm đã trôi qua, nhưng không bao giờ có thể quên được quê hương và tuổi thơ.

        Mẹ đã già. ” Tôi” đã trưởng thành, đi làm ăn xa, lưu lạc 20 năm trời nay mới về thăm quê, thăm mẹ. Lâu nay chỉ “gặp mẹ” và hỏi thăm mẹ qua những cánh thư. Con vừa bước vào nhà, mẹ “đã chạy ra đón”. Mẹ già “rất mừng rỡ’’ gặp lại con trai sau những năm dài xa cách, thế nhưng “nét mặt vẫn ẩn nỗi buồn thầm kín”.

        Chắc là mẹ buồn vì thương nhớ người đã khuất, mẹ buồn vì cảnh nhà sa sút, phải bán nhà, theo con trai đến nơi đất khách quê người? Mẹ vẫn hiền hậu, săn sóc “tôi” như ngày “tôi” còn thơ bé: “Mẹ bảo tôi ngồi xuống nghỉ ngơi, uống trà…”.

        Mẹ nói với con trai chuyện dọn nhà… Mẹ vẫn hiền từ như xưa: “Con hãy nghỉ ngơi vài hôm, đi thăm các nhà bà con một chút rồi mẹ con mình lên đường ”. Nhắc đến Nhuận Thổ… “Mẹ tôi” động lòng. Gặp 2 bố con Nhuận Thổ, mẹ ân cần vồn vã. Mẹ thở than cho cảnh nhà anh ta, mẹ bàn với “tôi”: “Cái gì không cần chở đi thì cho anh ta hết. Cứ để cho tùy ý chọn, lấy cái nào thì lấy!”. Thương con cháu và thương người đó là hình ảnh người mẹ trong Cố hương.

        Có một nhà thơ trẻ Việt Nam đã viết: “Quê hương là cầu tre nhỏ – Mẹ về nón lá nghiêng che”. Đọc Cố hương của Lỗ Tấn, nếu ai đó không hiểu được người mẹ thì làm sao cảm nhận được hình ảnh quê hương thân yêu. Bởi lẽ mẹ là quê hương, quê hương là mẹ! Tình yêu quê hương luôn luôn gắn liền thiết tha với người mẹ hiền mà ta yêu quý.

        Nhuận Thổ trước hết là tình bạn tuổi thơ. Ba mươi năm trước, “tôi” và Nhuận Thổ đã sống với nhau trong suốt một tháng giêng mà suốt đời “tôi” không thể nào quên được. Hình ảnh hắn thuở lên 10, lần đầu gặp tôi: “Khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng…”.

        Hắn “bẽn lẽn” với mọi người, nhưng “không bẽn lẽn” với chỉ riêng tôi. Hắn nói lên tỉnh, hắn được trông thấy những điều hắn chưa bao giờ trông thấy cả. Cũng như “tôi” nghe hắn nói chuyện bẫy chim sẻ, chuyện cầm đinh ba đâm con “tra” khi đi canh dưa, chuyện vỏ sò, vỏ ốc, v.v… là những chuyên lí thú, kỳ lạ. Ba mươi năm rồi, “tôi” nhớ đến Nhuận Thổ là nhớ đến gói quà hắn gửi cho tôi: một bọc vỏ sò và mấy thứ lông chim rất đẹp.

        Không có tuổi thơ thì không có quê hương. Tình bạn tuổi thơ làm cho tình yêu quê hương mãi mãi tươi thắm. Đúng như Lỗ Tấn đã viết: “Bây giờ mẹ tôi nhắc đến Nhuận Thổ, kí ức tôi bỗng dưng sáng bừng lên trong chốc lát. Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi. Hình ảnh Nhuận Thổ ấu thơ là hình ảnh quê hương, là “vành trăng non trên bầu trời xanh miền thơ ấu”. Nhuận Thổ là một phần rất nhỏ của Cố hương, là tình yêu quê hương.

        Hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại là nỗi đau, nỗi buồn về quê hương. Sau 30 năm xa cách nay găp lại, Nhuận Thổ thay đổi quá nhiều. Nước da “vàng xạm”, những nếp nhăn trên mặt “sâu hóm”. Cặp mắt, mí mắt “viền húp đỏ mọng lên”. Đầu đội một cái mũ lông chiên “rách tươm”, mặc một cái áo bông “mỏng dính” giữa lúc trời rét dữ! Người “co ro cúm rúm”, đôi bàn tay “vừa thô kệch, vừa nặng nề nứt nẻ như vỏ cây thông”.

        Thời gian đã tàn phá một con người về mặt ngoại hình. Sự nghèo khổ và vất vả làm tàn tạ một con người vốn cường tráng và dẻo dai. Gặp lại bạn cũ, Nhuận Thổ “vừa hớn hở vừa thê lương” mấp máy đôi môi nói không ra tiếng, sau mới “cung kính” nói được hai tiếng: “Bẩm ông!”.

        Lễ giáo và tôn ti trật tự của xã hội phong kiến đã tạo nên giữa đôi bạn “một bức tường khá dày ngăn cách”. “Tôi” như bị “điếng người” khi nghe anh ta nói. Nhìn người và nghe Nhuận Thổ nói “tôi” nặng trĩu trong lòng “trông anh ta phảng phất như một pho tượng đá” vô hồn và vô cảm.

        Hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại là hình ảnh một xứ sở, một miền quê xơ xác, tiêu điều, người nông dân bị bần cùng hóa, bị áp bức và bóc lột đến tận xương tủy: “mất mùa, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào…”, “chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả”.

        Thông qua việc tường thuật chuyến về quê lần cuối cùng của “tôi”, thông qua những rung cảm của “tôi” trước sự thay đổi, tàn tạ ghê gớm của làng quê, đặc biệt là Nhuận Thổ, tác giả đã lên án tội ác của chế độ phong kiến đối với nông dân, từ đó đặt ra vấn đề quyền sống và hạnh phúc của nhân dân trên con đường đi tới.

        Nói đến con người quê hương trong Cố hương không thể nào không nhắc tới hình ảnh chị Hai Dương – “Tây Thi đậu phụ”, ngày xưa “phấn son” nổi danh tài sắc bây giờ đã trở thành một “bỉ vỏ” trơ tráo, lúc thì ăn cướp đôi tất tay, lúc thì lấy cái “cẩu khí sát” rồi chạy biến. Cũng không thể không nghĩ tới cháu Hoàng và Thủy Sinh, con trai thứ năm của Nhuận Thổ. Trẻ con xưa nay vẫn hồn nhiên và đáng yêu.

        Nghĩ đến những con người quê hương, “tôi” mong muốn những em bé quê hương sẽ không còn “phải khốn khổ và tàn nhẫn…”, mong mỏi chúng nó được sống “một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống”.

        Phần cuối truyện Cố hương tác giả viết một câu văn rất lạ mà hay. Sau khi ông nói đến mọi thứ “tượng gỗ” và “sùng bái tượng gỗ”, nói đến mong ước “gần gũi” và “xa vời”, nói đến “thực” và “hư’’ trong “hy vọng”, rồi ông hạ bút. Đó là suy ngẫm của “tôi”: “ Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Có con đường mưu sinh phải xa quê.

        Có con đường tình nghĩa, không quản xa xôi, cách trở đã về thăm lại quê. Có con đường khổ ải. Có con đường hạnh phúc. Con đường gần, con đường xa, con đường hi vọng đi lên phía trước. Có con đường mòn… Cũng có chuyện phá lối mở đường. Con đường đến với mỗi người là con đường số phận. Con đường của mỗi dân tộc là con đường cách mạng. Phải chăng đó là ý tưởng sâu sắc về hình tượng con đường trong Cố hương.

        Ca dao có câu:

        Quê hương nghĩa nặng tình sâu,
        Bể dâu biến đổi biết đâu là nhà

        Đọc Cố hương của Lỗ Tấn, tôi bâng khuâng mãi về tiếng hát ấy từng vang vọng khắp miền Trung thân yêu của quê mẹ…

        Bài Văn Phân Tích Cố Hương Hay Nhất – Mẫu 2

        Phân tích bài Cố hương- truyện ngắn nổi tiếng của Lỗ Tấn là một trong những nội dung trọng tâm của chương trình học. Đón đọc bài văn mẫu bài văn phân tích Cố hương hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.

        Lỗ Tấn (1881 – 1936) là nhà tư tưởng lớn, nhà văn hiện thực nổi tiếng của Trung Quốc vào thời kì đầu thế kỉ XX. Sự nghiệp sáng tác mà ông để lại cho đời rất đồ sộ và đa dạng, trong đó có 17 tập tạp văn và hai tập truyện ngắn xuất sắc là “Gào thét” (1923) và “Bàng hoàng” (1926). Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của tập “Gào thét” là truyện ngắn “Cố hương”.

        Thông qua việc kể lại chuyến về quê lần cuối cùng và những suy ngẫm, rung cảm của bản thân trước sự thay đổi của cảnh vật và con người ở quê hương, tác giả đã kín đáo phê phán chế độ phong kiến hủ bại, đồng thời đề cập đến con đường giải phóng nông dân ra khỏi những ràng buộc vô hình, những nghiệt ngã của xã hội đương thời.

        Sau hai mươi năm sống xa nhà, tác giả về thăm quê cũ giữa mùa đông lạnh giá. Ngồi trên thuyền, thấy khung cảnh ven sông tiêu điều, lòng ông dâng lên cảm xúc buồn thương khó tả. Đây là lần ông về quê để cùng người thân giải quyết chuyện bán nhà, đưa gia đình đến nơi khác làm ăn.

        Về đến nơi, ông được mẹ già chạy ra đón. Mọi người đang bận rộn thu dọn đồ đạc. Nghe mẹ nhắc tới Nhuận Thổ, tác giả lập tức nhớ lại những kỉ niệm thần tiên của thời thơ ấu. Nhuận Thổ là con trai người làm mướn cho gia đình tác giả cách đây hơn hai chục năm. Lúc ấy, Nhuận Thổ mới lên mười. Mỗi lần theo cha đến nhà, Nhuận Thổ thường kể cho “tôi” nghe cách bẫy chim sẻ, cách bắt con tra hay ăn trộm dưa và nhiều chuyện khác, khiến “tôi” say mê, thán phục.

        Tác giả gặp lại mấy người hàng xóm cũ, trong đó có Nhuận Thổ. Cuộc sống vất vả, lam lũ đã khiến Nhuận Thổ thành một người hoàn toàn khác. Hình dáng tiều tụy, thảm hại, mặt mũi ngơ ngác, đần độn. Không còn chút dấu vết nào của Nhuận Thổ khi xưa.

        Mấy ngày sau, cả gia đình tác giả rời quê. Khi con thuyền đã xa làng, tác giả vẫn trĩu nặng nỗi suy tư về cảnh vật và con người ở cố hương. Ông cố gắng tìm ra nguyên nhân của sự thay đổi đáng buồn ấy và cầu mong cho con cháu của Nhuận Thổ sau này sẽ tìm ra cách sống mới để không còn phải khổ cực như ông cha nữa.

        Chất trữ tình đậm đà của tác phẩm thể hiện ở diễn biến tâm trạng của nhân vật. Từ phảng phất buồn đến đau xót (trên đường về quê). Từ đau xót đến bi quan (những ngày ở quê). Cuối cùng, lại nhen nhóm hi vọng (trên đường rời quê). Tuy vậy, dù buồn bã, đau xót hay hi vọng cũng đều là biểu hiện của tình cảm yêu mến quê hương sâu nặng. Cái hay của tác phẩm là thể hiện diễn biến tâm trạng ấy một cách sinh động, chân thật và hợp lí.

        Mở đầu bài văn, tác giả bộc bạch tâm trạng của mình trong chuyến trở về cố hương: Tôi không quản trời lạnh giá, về thăm làng cũ, xa những hai ngàn dặm mà tôi đã từ biệt hơn hai mươi năm nay. Chuyến đi này có tầm quan trọng và ý nghĩa rất lớn nên tác giả không thể không về, dẫu phải đi qua hai ngàn dặm đường, trong thời tiết mùa đông giá lạnh.

        Cố hương là quê cũ, là những gì gắn bó tha thiết, thiêng liêng đối với mỗi người. Sau hai mươi năm phiêu bạt nơi đất khách, nay tác giả mới về quê nhà, mà về lần này là để đón cả gia đình đến nơi mình đang làm ăn sinh sống. Trở về không phải để sum họp mà là để biệt li, có thể là biệt li mãi mãi. Cho nên, tâm trạng tác giả trĩu nặng một mỗi buồn và nỗi buồn ấy lan sang cả cảnh vật:

        Đang độ giữa đông. Gần về đến làng, trời lại càng u ám. Gió lạnh lùa vào khoang thuyền. Nhìn qua các khe hở mui thuyền, thấy xa gần thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng, nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng úa. Không nén được, lòng “tôi” se lại.

        Trải qua thời gian dài đằng đẵng, biết bao vật đổi sao dời. Cảnh quê vốn tiêu điều, hoang vắng, nay hiện lên trước mắt người xa xứ càng nhuốm sắc thê lương, ảm đạm. Tác giả không tin vào kí ức của mình và cho rằng vì tâm trạng mình đang buồn nên nhìn cảnh mới ra như thế:

        “Hình ảnh làng cũ trong kí ức tôi không giống hẳn như thế này. Làng cũ tôi đẹp hơn kia. Nhưng nếu phải nhớ rõ đẹp như thế nào, nói rõ đẹp ở chỗ nào thì thật không có hình ảnh ngôn ngữ nào diễn tả ra cho được. Phảng phất thì cũng có hơi giống đấy. Tôi nghĩ bụng: Hẳn làng cũ mình vốn chỉ như thế kia thôi, tuy chưa tiến bộ hơn xưa, nhưng cũng vì tắt đèn nên thê lương như mình tượng. Chẳng qua là tâm tình mình đã đổi khác, bởi vì về thăm chuyển này, lòng mình đang không vui.

        Về thăm quê chuyến này, ý định là để từ giã nó lần cuối cùng. Ngôi nhà cũ nơi cả đại gia đình chúng tôi đời đời ở chung với nhau, mà chúng tôi đã phải đồng tình bán cho người ta rồi, nội năm nay, phải giao cho họ. Vì thế, tôi cần phải về trước Tết, vĩnh biệt ngồi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu, đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống”.

        Đoạn văn phản ánh sự thay đổi theo chiều hướng đáng buồn của cố hương và những cảm xúc bâng khuâng khó tả trong tâm trạng nhân vật. Đặt chân lên bờ, tác giả thấy quang cảnh trong làng cũng giống như quang cảnh ven sông: “Tinh mơ sáng hôm sau, tôi về tới cổng nhà. Trên mái ngói, mấy cọng tranh khô phất phơ trước gió, đủ rõ nhà không đổi chủ không được. Những gia đình khác có lẽ đã dọn đi rồi, cho nên cảnh tượng càng hiu quạnh”.

        Về đến nhà, bàn chuyện dọn nhà xong xuôi, bà mẹ kể rằng có anh Nhuận Thổ lần nào đến chơi cũng nhắc đến con và rất mong có ngày được gặp con. Mẹ đã nhắn tin cho anh ấy biết chừng ngày nào con về. Có lẽ anh ấy cũng sắp đến thôi. Nghe mẹ nói, bất chợt trong kí ức nhà văn, hình ảnh làng quê với những cảnh vật và con người năm xưa- hiện lên rõ ràng từng chi tiết:

        Lúc bấy giờ, trong kí ức tôi bỗng hiện ra một cảnh tượng thần tiên, kì dị: Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lửng lơ trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn. Giữa ruộng dưa, một đứa bé trạc mười một, mười hai tuổi, cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba, đang cố sức đâm theo một con tra. Con vật bỗng quay lại, luồn qua háng đứa bé, chạy mất.

        Tác giả nhớ như in hình ảnh của người bạn nhỏ cách đây hai chục năm. Bắt đầu là cảnh Nhuận Thồ xuất hiện vào ngày giỗ lớn của gia đình tác giả. Đó là cậu bé xinh xắn, khỏe mạnh, khuôn mật tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng, … Tiếp sau đó là những kỉ niệm về người bạn đáng yêu thuở thiếu thời.

        Nhuận Thổ hay kể chuyện bẫy chim: Làng em toàn đất cát, hễ tuyết xuống là em quét lấy một khoảng đất trống, dùng một cây que ngắn chống một cái nong lớn, rắc ít lúa lép, thấy chim tước xuống ăn, đứng đằng xa giật mạnh sợi dây buộc vào cái que, thế là chim bị chụp vào nong hết. Thứ nào cũng có: sẻ đồng, chào mào, “bột cô”, sẻ xanh lưng. Hết chuyện bẫy chim đến chuyện rủ “cậu ấm” đi chơi bờ biển: “Đến mùa hè, anh xuống nhà em chơi. Ban ngày, chúng mình ra biển nhặt vỏ sò, màu đỏ có, màu xanh có, đủ cả. Có cả sò “mặt quỷ”, sò “tay phật””.

        Rồi chuyện về con tra kì lạ như trong cổ tích: Ở làng em, người đi qua đường khát nước hái một quả dưa ăn, không kề là lấy trộm. Canh là canh lợn rừng, nhím, tra. Này nhé! Sáng trăng. Có tiếng sột soạt. Tra đang ngốn dưa đấy! Thế là cầm đinh ba khe khẽ tiến lên…”

        Thời ấy, trước con mắt của “cậu ấm” con chủ nhà thì Nhuận Thổ là tiểu anh hùng, là người từng trải: “Trời! Nhuận Thổ hẳn biết nhiều chuyện lạ lùng lắm, kể không xiết! Những chuyện đó, bạn bè tôi từ trước đến nay, không ai biết cả. Chúng nó không biết là vì trong khi Nhuận Thổ sống bên bờ biển thì chúng nó, cũng như tôi, chỉ nhìn một mảnh trời vuông trên bốn bức tường cao bao bọc lấy cái sân mà thôi!”

        Tình bạn tuổi thơ giữa tác giả và Nhuận Thổ thật trong sáng và đằm thắm. Nhưng tiếc thay, đã hết tháng giêng. Nhuận Thổ phải về quê hắn. Lòng tôi xốn xang, tôi khóc to lên. Hắn lẩn trong bếp, cũng khóc mà không chịu về. Nhưng rồi bố hắn cũng lôi hắn đi. Sau đó, hắn có nhờ bố hắn mang lên cho tôi một bọc vỏ sò và mấy thứ lông chim rất đẹp. Tôi căng cổ vài lần gửi cho hắn ít quà. Nhưng từ đấy chúng tôi không hề gặp mặt nhau nữa.

        Tác giả đã lấy hình ảnh tươi đẹp trong quá khứ đối chiếu với hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại để nêu bật chủ đề tác phẩm. Sau hai mươi năm cách biệt, nay hai người mới gặp lại nhau: “Người đi vào là Nhuận Thổ. Tuy tôi nhận ra ngay là Nhuận Thổ, nhưng lại không phải là Nhuận Thổ trong kí ức tôi. Anh cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đã đổi thành sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm. Cặp mắt giống hệt cặp mắt anh ngày trước, mi mắt viền đỏ húp mọng lên.

        Tôi không lấy làm lạ, ở miền biển, gió thổi suốt ngày, đại để ai cũng thế cả. Anh đội một cái mũ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và một tẩu thuốc lá dài. Bàn tay này cũng không phải là bàn tay tôi còn nhớ, hồng hào, lanh lẹ, mập mạp, cứng rắn, mà vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông…

        Nhuận Thổ đứng dừng lại, nét mặt vừa hớn hở vừa thê lương, môi mấp máy, nhưng cũng nói không ra tiếng. Rồi bỗng anh lấy một dáng điệu cung kính, chào rất rành mạch: Bẩm ông! Sau đó, anh ta rón rén đưa ra một gói giấy và ấp úng: – Ngày đông tháng giá chẳng có gì, chỉ có ít đậu xanh của nhà phơi khô, xin ông…”

        Nghệ thuật tả thực của tác giả thật sắc sảo. Ông đã khắc họa sinh động chân dung một nông dân lam lũ, nghèo khó và đầy mặc cảm tự ti. Qua đó, ta có thể hình dung ra cảnh sống cơ cực, điêu đứng của Nhuận Thổ nói riêng và nông dân nói chung lúc bấy giờ. Người bạn nhỏ khỏe mạnh, đáng yêu thuở nào giờ đây là một nông xơ xác, da mặt vàng xạm vì nghèo đói. Ngày xưa, Nhuận Thổ là một cậu bé có khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên, cổ đeo vòng bạc sáng loáng, được bố cưng chiều.

        Về hình thức, Nhuận Thổ giờ đây đã hoàn toàn thay đổi, nhưng tận đáy lòng, Nhuận Thổ vẫn giữ nguyên tình bạn sâu nặng với “cậu chủ” ngày xưa. Nghe nói “cậu chủ” đã về nên Nhuận Thổ đến ngay và dù rất nghèo nhưng cũng không quên mang chút quà “cây nhà lá vườn” đến tặng “cậu chủ”. Chính điều đó làm cho những thay đôi trong quan hệ giữa hai người giờ đây trở nên phi lí.

        Hai biện pháp nghệ thuật chính được tác giả sử dụng trong truyện là hồi ức và đối chiếu được kết hợp một cách nhuần nhuyễn, khéo léo để làm nổi bật sự thay đổi của con người và cảnh vật. Đồng thời, tác già đặt ra cho người đọc câu hỏi tại sao lại có sự thay đổi ghê gớm vậy?

        Qua truyện, tác giả muốn nói đến tình cảnh đói nghèo của nông dân dù nạn áp bức, tham nhũng nặng nề ở nông thôn. Song điều ông quan tâm hơn cả là sự thay đổi theo chiều hướng xấu của họ, thể hiện qua tính cách của thím Hai Dương, của những người khách mượn cớ đưa tiễn để lấy đồ đạc, đặc biệt là qua tính cách của Nhuận Thổ. Trong mọi thay đổi, điều làm cho tác giả ngạc nhiên, đau xót đến “điếng người đi” chính là mối quan hệ giữa Nhuận Thổ và mình.

        Bằng thủ pháp đối chiếu và tương phản, tác giả đã phản ánh tình cảnh suy thoái về mọi mặt của xã hội phong kiến Trung Quốc đầu thế kỉ XX. Ông phân tích nguyên nhân và lên án các thế lực hủ bại đã đẩy xã hội vào thực trạng đáng buồn. Bên cạnh đó, Lỗ Tấn cũng chỉ ra những mặt tiêu cực nằm ngay trong tâm hồn, tính cách của người lao động.

        Những nông dân như Nhuận Thổ không chỉ khổ vì con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại mà còn khổ sở, đau đớn hơn nhiều bởi những quan niệm cũ kĩ về đẳng cấp, bởi sự đè nén, áp bức của giai cấp thống trị, bởi mê tín dị đoan… Nhuận Thổ xin bằng được đồ thờ của gia đình chủ cũ chắc là để mong cho đời mình đỡ khổ: Khi Nhuận Thổ xin chiếc lư hương và đôi đèn nến, tôi cười thầm, cho rằng anh ta lúc nào cũng không quên sùng bái tượng gỗ.

        Để làm nổi bật sự thay đổi ghê gớm đó, tác giả không chỉ đối chiếu tính cách của từng nhân vật trong quá khứ với hiện tại mà còn đối chiếu nhân vật này với nhân vật kia, đặc biệt là đối chiếu giữa Nhuận Thổ ngày xưa với Thủy Sinh, con trai anh ta bây giờ. Cậu bé Nhuận Thổ cách đây hơn hai mươi năm hồng hào, khỏe mạnh, cổ đeo vòng bạc. Còn Thủy Sinh bây giờ ốm yếu vàng vọt, cổ không đeo vòng bạc…

        Hình ảnh cố hương trong tác phẩm không chỉ mang ý nghĩa là nơi chôn nhau cắt rốn mà còn là bức tranh thu nhỏ của xã hội. Những thay đổi mà Lỗ Tấn đã miêu tả trong “Cố hương” là những thay đổi có tính điển hình của xã hội Trung Quốc thời cận đại. Bởi vậy, qua việc miêu tả sự thay đổi cụ thể của một làng quê, Lỗ Tấn đã đặt ra vấn đề vô cùng bức thiết là phải xây dựng một cuộc đời mới tốt đẹp:

        Tôi đang mơ màng thì trước mắt tôi hiện ra cảnh đồng cát, màu xanh biếc, cạnh bờ biển, trên vòm trời xanh đậm lơ lửng một vầng trăng tròn vàng thắm. Tôi nghĩ bụng: Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.

        Trên mặt đất vốn dĩ không có đường. Đường là do con người giẫm nát cỏ ở chỗ chưa có đường mà tạo ra, là khai phá chỗ gai góc mà có… Trong cuộc sống, bất kể là gặp bao nhiêu gian nan trắc trở, chúng ta cần kiên định, bền gan vững chí để mở đường đi tới tương lai tươi sáng. Đó là thông điệp tâm huyết mà nhà văn Lỗ Tấn muốn gửi đến tất cả chúng ta.

        Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

        Bài Phân Tích Tác Phẩm Cố Hương Ngắn Gọn – Mẫu 3

        Tham khảo bài văn phân tích tác phẩm Cố hương ngắn gọn dưới đây với những ý văn súc tích và linh hoạt vận dụng để hoàn thành tốt bài viết phân tích truyện ngắn Cố hương trên lớp.

        Nhà văn Lỗ Tấn được biết đến là một nhà văn cách mạng lừng danh của Trung Quốc. Nhắc đến ông không thể không nhắc đến truyện ngắn “Cố hương” được. Tác phẩm Cố hương là một thành công của ông nó mang đến cho người đọc một thứ tình cảm vô cùng dịu nhẹ và thấm đẫm cảm xúc tình yêu quê hương. Tác phẩm giống như một thức phim đã ghi lại cho chúng ta những hồi ức vô cùng dịu ngọt của những con người ở quê hương với những nỗi buồn, sự hi vọng.

        Truyện ngắn “Cố Hương” có những nhân vật như tôi, mẹ tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, Thủy Sinh, chị Hải Dương. Họ chính là những con người của quê hương và cũng chính họ đã gợi ra biết bao nhiêu những kỷ niệm buồn vui và sâu nặng với quê hương – nơi cho họ biết bao nhiêu kỷ niệm cũng như những ký ức đẹp đẽ.

        Trong khoảng thời gian 20 năm xa cách thì nhân vật “tôi” lúc này về thăm quê hương, nhân vật phải trải qua 2000 dặm với cái lạnh đến thấu xương khiến cho lòng của nhân vật tôi như bồi hồi khôn xiết. Những cơn gió lạnh như thật vi vu và đã thổi về khiến cho bao nhiêu ký ức dội về trong lòng nhân vật. Chuyến về quê lần này dường như cũng thật đặc biệt vì công việc về để bán cũng như giao lại cho chủ mới. Về để nói lời tạm biệt ngôi nhà vô cùng thân yêu và gắn bó với ký ức tuổi thơ của nhân vật sau 20 năm xa cách.

        Thực sự cứ mỗi lần nói đến quê hương là thường nói đến tổ tiên ông bà, quê hương cũng chính là một nơi để thể hiện sự tôn kính phụ dưỡng đối với ông bà cha mẹ. Thế nhưng trong tác phẩm ta không thấy nói đến. Ở đây, tác giả Lỗ Tấn dường như cũng chỉ xúc động nói đến ký ức tuổi thơ của mình trong khoảng ba mươi năm về trước.

        Ta như nhận thấy được ở đó có một tình bạn đẹp với Nhuận Thổ con của một gia đình làm thuê cho nhà của nhân vật “tôi”. Cũng chính vì nhờ nhân vật Nhuận Thổ mà nhân vật tôi biết được nhiều chuyện kỳ lạ. Bởi cũng vì nhờ Nhuận Thổ mà tôi dường như lại còn cảm nhận được vẻ đẹp quê hương, với bao cảnh tượng thần tiên thật đẹp nơi nhân gian.

        Có thể nói rằng quê hương cũ với bao kỷ niệm thời thơ bé, thế rồi cũng chính cái ngày mà thầy của “tôi” cũng cứ vẫn còn cảnh nhà sung túc sang trọng. Đặc biệt hơn vào ngày giỗ tổ các đồ ăn thức uống được bày sang trọng. Hình ảnh của quê hương trong ký ức mỗi người bao giờ cũng đẹp và thật thân thương biết bao nhiêu.

        Khi nhà văn Lỗ Tấn nói đến quê hương hiện tại và quê hương trong quá khứ trong lúc ông trở về gặp bạn cũ người xưa. Tất cả dường như đều có những niềm vui và nỗi buồn, tất cả như cứ ùa về và khiến cho tác giả không thể nào có thể quên được.

        Người mẹ của tác giả cũng đã già và tác giả giờ đây cũng đã lại trưởng thành., đi làm ăn xa lưu lạc 20 năm trời nay thì mới về thăm quê thăm mẹ. Khi gặp lại thì mẹ như mừng lắm, nét mặt như lại ẩn chứa biết bao nhiêu vẻ buồn. Chắc hẳn là mẹ cũng buồn vì cảnh nhà như sa sút và phải theo người con trai đến miền đất mới, rời xa quê hương yêu dấu đã gắn bó biết bao nhiêu năm.

        Khi tác giả nhắc đến Nhuận Thổ thì người mẹ dường như cũng đã lại thở than cho cảnh nhà anh ta. Khi mẹ cũng cứ bàn với tác giả dọn nhà cái gì mang được đi thì mang đi còn không thì cho Nhuận Thổ hết.

        Nhân vật Nhuận Thổ chính là tình bạn tuổi thơ. Ta có thể nhận thấy được hình ảnh thuở lên 10 của Thổ với khuôn mặt tròn trĩnh, cùng với đó là nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tý tẹo và trên của cổ đeo vòng bạc sáng loáng. Quan trọng hơn hết là Nhuận Thổ cũng lại dạy cho tôi nhiều trò lạ và tình yêu quê hương trong lòng tôi.

        Thực sự cũng không có tuổi thơ thì không có quê hương, ta như nhận thấy được tình bạn tuổi thơ đã làm cho tình yêu quê hương cũng cứ mãi mãi tươi thắm. Có thể khẳng định tuổi ấu thơ là hình ảnh quê hương đó chính là một vành trăng non trên bầu trời xanh miền thơ ấu.

        Xây dựng lên hình ảnh nhân vật Nhuận Thổ trong hiện tại là nỗi đau, lại là nỗi buồn về quê hương. Nhất là sau 30 năm xa cách nay gặp lại Nhuận Thổ dường như cũng đã có bao thay đổi. Nước Nhuận Thổ vàng sạm, những nếp nhăn trên mặt sâu hóm. Đôi mắt thì đỏ mọng lên, trên đầu thì đội cái mũ lông chiên rách tơi, thế rồi Nhuận Thổ như mặc chiếc áo bông mỏng dính giữa trời rét dữ. Khi gặp lại bạn cũ Nhuận Thổ lúc này cũng lại vừa hấn hở vừa thê lương, mấp máy đôi môi không ra tiếng sau mới thể hiện được sự cung kính.

        Nhuận Thổ hiện tại được xây dựng lên chính là hình ảnh một xứ sở , một miền quê xơ xác tiêu điều và đây cũng chính là một người nông dân bị bần cùng hóa bị áp bức đến tận xương tủy. Chỉ với việc thông qua hình ảnh Nhuận Thổ tác giả Lỗ Tấn dường như cũng đã lên án những tội ác của chế độ phong kiến đối với nhân dân từ đó đặt ra quyền sống cũng như quyền hạnh phúc của nhân dân trên đường đi tới.

        Nói đến quê hương trong cố hương thực sự không thể không nhắc đến hình ảnh chị Hai Dương, hay còn đó là nhân vật chị Tây Thi đậu phụ ngày xưa son phấn nổi danh tài sắc bây giờ đã trở thành một vỏ bỉ trơ tráo.

        Tác phẩm “Cố hương” của nhà văn Lỗ Tấn chứa được hình ảnh quê hương tươi đẹp trong tuổi thơ của tôi bỗng ùa về. Và quê hương đó ngày càng một phát triển cũng như để sánh vai với các cường quốc năm châu. Mai sau này cho dù có đi xa trên khắp nẻo đường thì hình ảnh quê hương sẽ mãi hiện hữu và làm đắm say níu giữ bước chân ta tìm về.

        Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Bàn Về Đọc Sách 🍀 10 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

        Bài Văn Phân Tích Truyện Ngắn Cố Hương Chi Tiết – Mẫu 4

        Bài văn phân tích truyện ngắn Cố hương chi tiết dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh trong quá trình học và phân tích tác phẩm Cố hương của Lỗ Tấn.

        Hình ảnh quê hương đã in dấu lại trong sáng tác của rất nhiều những nghệ sĩ trong đó có Lỗ Tấn. Nhắc đến ông là nhắc đến một nhà văn nổi tiếng, có nhiều đóng góp cho kho tàng văn chương Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung. Các tác phẩm tiêu biểu của Lỗ Tấn phải kể đến: “AQ chính truyện”, “Thuốc”, “Nhật kí của một người điên”,… và sẽ là một thiếu sót lớn nếu chúng ta không nhắc đến truyện ngắn “Cố hương”.

        Truyện ngắn này được Lỗ Tấn sáng tác vào năm 1923, nằm trong tập “Gào thét”. Nhan đề “Cố hương” có nghĩa là quê cũ, nơi mình đã sinh ra và lớn lên nhưng hiện tại mình không ở đó nữa. Truyện kể về việc nhân vật “tôi” trở về quê hương sau hơn hai mươi năm xa quê.

        Cảnh vật làng quê trở nên tiêu điều, hoang vắng chứ không còn là một làng quê tươi đẹp đến nỗi không có hình ảnh ngôn ngữ nào có thể diễn tả được như trong trí nhớ của nhân vật. “Tôi” về quê lần này với mục đích nhằm đưa gia đình đến nơi đất khách để làm ăn, sinh sống. Mang trong mình nỗi buồn thương, xót xa, nhân vật “tôi” ra đi với mong ước cuộc sống của làng quê mình sẽ tốt đẹp hơn.

        Mở đầu tác phẩm là hình ảnh cố hương hiện ra với sự u ám, thôn xóm, cảnh vật hoang tàn và thê lương “nằm im lìm dưới bầu trời màu vàng úa”. Chứng kiến khung cảnh đó, nhân vật “tôi” không nén được cảm xúc, “lòng se lại”. Trong trí nhớ của nhân vật, làng cũ vốn đẹp hơn và cũng không xơ xác, ảm đạm như thực tại. Quê hương trong kí ức của nhân vật “tôi” là những ngày “thầy tôi hãy còn, cảnh nhà còn sung túc, tôi đàng hoàng là một cậu ấm” và cả những kỉ niệm của tuổi thơ thật đáng nhớ.

        Hình ảnh con người ở làng quê dần được hiện lên qua sự khắc họa tài tình của tác giả. Người mẹ thấy con về đã “chạy ra đón” bằng vẻ mặt rất mừng rỡ nhưng “vẫn ẩn một nỗi buồn thầm kín”. Người mẹ ấy đã gắn bó với quê hương bao nhiêu năm, nay phải rời xa nó nên trong lòng cũng lưu luyến, thương nhớ. Những ngày ở quê, nhân vật tôi còn gặp một số người khác như Nhuận Thổ, chị Hai Dương, cháu Hoàng,…

        Nghe tin nhân vật “tôi” về quê, Nhuận Thổ đã đến chơi. Trong kí ức của “tôi”, Nhuận Thổ là một đứa bé chạc mười tuổi, “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”. Hắn ta là một cậu bé khỏe mạnh, lanh lợi, biết nhiều chuyện lạ lùng không thể kể xiết. Nhân vật “tôi” và Nhuận Thổ có mối quan hệ chủ tớ do trước đây bố con Nhuận Thổ đi ở tháng cho nhà “tôi”. Hai người thân nhau và trở thành bạn bè. Đây là mối quan hệ bình đẳng, gắn bó với nhau.

        Nhưng trong quá khứ Nhuận Thổ khôi ngô, lanh lợi bao nhiêu thì con người anh ta ở hiện tại lại hoàn toàn trái ngược bấy nhiêu. Nhuận Thổ “cao gấp hai trước, nước da màu vàng sạm, lại có thêm những nếp nhăn sâu hoắm”, “mi mắt viền đỏ húp mọng lên”.

        Anh ta đội “cái mũ lông rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và một tẩu thuốc lá dài”. Bàn tay “hồng hào, lanh lẹ, mập mạp, cứng rắn” trước đây không còn nữa mà thay vào đó là đôi bàn tay “vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông”.

        Cuộc sống khốn khó, vất vả đã khiến Nhuận Thổ trở nên như vậy. Khi trông thấy người bạn tuổi thơ năm xưa của mình, Nhuận Thổ “vừa hớn hở, vừa thê lương, môi mấp máy nhưng cũng nói không ra tiếng” rồi anh lấy một dáng điệu “cung kính” chào. Điệu bộ, cử chỉ ấy phần nào bộc lộ mặc cảm về thân phận hèn kém của mình. Hoàn cảnh “con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đọa thân anh khiến anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi”.

        Sự thay đổi ở con người Nhuận Thổ khiến nhân vật “tôi” rất buồn và xót xa. Nhuận Thổ biến đổi như vậy cũng là vì sự sa sút kinh tế, những hà khắc của xã hội phong kiến Trung Quốc và do lối sống lạc hậu của những người nông dân không biết đứng lên đấu tranh cho chính mình.

        Làng quê ấy không chỉ có Nhuận Thổ mà còn có chị Hai Dương được mệnh danh là “nàng Tây Thi đậu phụ”. Ngày xưa chị đẹp người, đẹp nết, trẻ trung còn bây giờ chị đã là một người đàn bà trên dưới 50 tuổi, “lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính, hai tay chống nạnh, không buộc thắt lưng, chân đứng chạng ra, giống hệt cái com-pa trong bộ đồ vẽ, có hai chân bé tí”. Những lời nói ngoa ngoắt của chị đã bộc lộ một tính cách chua ngoa, đanh đá.

        Bằng biện pháp so sánh tương phản, Lỗ Tấn đã khắc họa rõ nét sự thay đổi về ngoại hình lẫn tính cách của hai nhân vật này. Qua đó, ông cũng tái hiện lại sự sa sút về các mặt của đời sống xã hội, sự suy thoái, những thay đổi tiêu cực trong lối sống của con người lao động.

        Quê hương đẹp đẽ của nhân vật “tôi” chỉ còn đọng lại trong kí ức nên khi rời đi, nhân vật này “không chút lưu luyến”. Nhân vật “tôi” chỉ cảm thấy xung quanh là “bốn bức tường vô hình, nhưng rất cao, làm cho tôi vô cùng lẻ loi, ngột ngạt”. Ngột ngạt bởi cảnh vật làng quê hiu hắt, tiêu điều và sự thay đổi tiêu cực của con người. Họ trở nên tàn tạ, nghèo khổ, đần độn, ngoa ngoắt và vụ lợi. Có người đến để đưa chân, nhưng cũng có người đến để lấy đồ đạc.

        Họ lấy tất cả những đồ đạc trong ngôi nhà cũ, “hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như tuyết”. Nằm nghe nước vỗ vào mạn thuyền, nhân vật “tôi” mong ước cho Thủy Sinh và Hoàng không bị cách bức nhau như mình và Nhuận Thổ.

        Đồng thời “tôi cũng không muốn chúng nó vì thân thiết nhau mà phải vất vả, chạy vạy như tôi, cũng không muốn chúng nó phải khốn khổ mà đần độn như Nhuận Thổ, cũng không muốn chúng nó phải khốn khổ mà tàn nhẫn như bao nhiêu người khác”. Bọn trẻ phải sống một cuộc đời mới tốt đẹp hơn.

        Tác giả đã khép lại “Cố hương” bằng hình ảnh con đường giàu ý nghĩa biểu tượng. Đây không chỉ là con đường đi thường ngày mà còn là con đường hướng con người đến cuộc sống tươi sáng, hạnh phúc hơn ở tương lai. Nhân vật “tôi” đã khẳng định: “kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Con đường không có sẵn trong tự nhiên mà do chính con người tạo nên.

        “Tôi” luôn có niềm tin vào con đường mới sẽ giúp con người có một cuộc sống tự do, no ấm, đầy đủ hơn. Tình yêu quê hương mãnh liệt của nhân vật “tôi” được thể hiện qua niềm tin vào sự đổi thay của làng quê và con người theo hướng tích cực. Đó cũng là tư tưởng nhân đạo mà Lỗ Tấn kí thác trong tác phẩm của mình.

        Truyện đã sử dụng linh hoạt những thủ pháp nghệ thuật như hiện tại, hồi ức, đối chiếu và xen kẽ nhau tạo nên một mạch truyện liên kết chặt chẽ. Bằng nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, nhà văn đã khắc họa được những nhân vật một cách rõ nét, sinh động và chân thực. Việc sử dụng hình ảnh biểu tượng và các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên sự thành công của tác phẩm.

        Qua truyện ngắn này, bạn đọc có thể thấy được tiếng nói tố cáo, phê phán xã hội phong kiến cũ đồng thời ông cũng đặt ra vấn đề con đường đi của người nông dân lao động và toàn thể xã hội. Ông đã dùng thứ vũ khí lợi hại là ngôn từ để “biến đổi tinh thần” nhân dân đang trong tình trạng “ngu muội” và hèn nhát”.

        Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Tiếng Nói Của Văn Nghệ 🌳 6 Bài Văn Mẫu Hay

        Bài Phân Tích Văn Bản Cố Hương Đầy Đủ – Mẫu 5

        Đón đọc bài văn phân tích văn bản Cố hương đầy đủ để nắm vững những giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, từ đó hoàn thành tốt bài kiểm tra viết phân tích truyện ngắn Cố hương.

        Ai đã từng đọc Cố hương của Lỗ Tấn, chắc hẳn sẽ bị cuốn hút vào dòng cảm xúc của nhân vật tôi với bao kỉ niệm sống dậy mãnh liệt trong lần thăm quê cuối cùng. Quá khứ đẹp đẽ ấy đã đối mặt với thực tại đầy biến đổi đến bàng hoàng của quê hương tạo nên những khoảnh khắc diễn biến phức tạp thấm đượm nỗi xót xa của tôi trong tác phẩm.

        Một câu chuyện cảm động có nhiều chi tiết từ chính cuộc đời của nhà văn nhưng điều chủ yếu nằm trong ý nghĩa tư tưởng lớn lao của tác phẩm: từ hiện tại buồn thương vẫn không tắt nguồn hi vọng vào tương lai, cùng niềm mong ước tốt đẹp về con đường cho những người dân thoát cảnh bần cùng đen tối.

        Bối cảnh làng quê trong ngày trở lại của tôi thật buồn, với những chi tiết tô đậm cảm giác lạnh lẽo của khung cảnh mùa đông: “Gần về đến làng, trời lại càng u ám, Gió lạnh lùa vào khoang thuyền, vi vu. Nhìn qua các khe hở mui thuyền, thấy xa gần thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng, nằm im lìm dưới bầu trời màu vàng úa. Không nén được, lòng tôi se lại”.

        Không gian ấy dường như dự báo cho một viễn cảnh ảm đạm về cuộc sống thực tại ở quê hương. Thực tế khác hẳn hình dung của một người hai mươi năm mới trở về làng cũ. Kỉ niệm bao giờ cũng lưu lại những hình ảnh đẹp trong tâm trí nhưng đôi khi thực tại lại gieo vào lòng người cảm giác choáng váng, gần như một nỗi thất vọng.

        Tâm trạng buồn lại càng đậm nét hơn khi cuộc trở về này chỉ nhằm mục đích nói lời giã biệt. Còn gì buồn hơn khi phải rứt bỏ những hình ảnh đã từ lâu in hằn trong tâm trí ? Trở về làng cũ mà ngỡ như lạc lõng trước cảnh vật đổi khác.Không gian u ám, hơi lạnh giữa đông như phụ trợ cho niềm cảm khái của con người. Có ai diễn tả nỗi niềm ấy thấm thía như Lỗ Tấn trong đoạn văn này: Làng cũ tôi đẹp hơn kia ! Nhưng phải nhớ rõ đẹp như thế nào, nói rõ đẹp ở chỗ nào thì thật không có hình ảnh ngôn ngữ nào diễn tả ra cho được.

        Nói vậy có nghĩa là dù đã cách xa hai mươi năm, kí ức vẫn vẹn nguyên những vẻ đẹp của làng. Nỗi niềm li khách hiện lên ngay trong khoảnh khắc trở về. Trở về không chỉ thăm lại mà là biệt li, một đi không trở lại.

        Tâm trạng của ngày trở về thật nặng nề ám ảnh khiến câu văn hạ xuống thật buồn: Vì thế, tôi cần phải về trước Tết, vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu, đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống. Nhưng nỗi buồn ấy có thể gặp ở bất cứ người nào cùng cảnh ngộ, và nếu chỉ dừng lại ở đó thì câu chuyện chẳng có gì đáng nói.

        Nỗi buồn phảng phất như càng lúc càng nặng nề hơn khi bước chân lữ khách đã trở về làng cũ, để được sống những ngày cuối cùng với ngôi nhà thân yêu trước khi phải giao bán cho người khác. Ngôi nhà ấy đã lưu dấu bao kỉ niệm tuổi thơ mà mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn thấy như “hiện ra một cảnh tượng thần tiên kì dị”.

        Trước khi phải chia tay những gì mình yêu mến nhất, có lẽ ai cũng phải trải qua khoảnh khắc tâm trạng này. Kí ức của tôi hiện về những hình ảnh như trong một cuốn phim quay chậm, với câu chuyện gắn cùng kỉ niệm về người bạn thân thương Nhuận Thổ.

        Đây, cảnh tượng êm đềm: “Giữa ruộng dưa, một đứa bé mười một, mười hai tuổi, cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba, đang cố sức đâm theo một con tra. Con vật bỗng quay lại, luồn qua háng đứa bé, chạy mất”. Hình ảnh ấy là tưởng tượng từ thời cậu bé Tấn còn vui đùa bên Nhuận Thổ. Một tình bạn thật đẹp giữa cậu chủ và đứa con của người ở, vượt qua những ranh giới.

        Tuổi thơ hạnh phúc trong tình bạn sẽ là dấu ấn theo suốt cuộc đời. Tình bạn ấy đẹp đẽ biết bao vì chưa bị ngăn cách bởi những ý thức thành kiến giai cấp. Đó là nỗi khát khao được gặp người cùng trang lứa để rồi lúc được gặp thì “chưa đầy nửa ngày chúng tôi đã thân nhau”. Người đọc chắc hẳn cũng được chia sẻ niềm vui có bạn của cậu bé Tấn ngày ấy. Bởi Nhuận Thổ chính là người mở cánh cửa thế giới sống động cho cậu bé Tấn, vốn chỉ biết thế giới qua “một mảnh trời vuông trên bốn bức tường cao bao bọc lấy cái sân mà thôi”.

        So với Tấn, Nhuận Thổ hạnh phúc làm sao: bẫy chim sẻ, canh dưa, nhặt vỏ sò hòa mình với thiên nhiên. Hạnh phúc thay khi một đứa trẻ được tắm trong bầu không gian thiên nhiên trong lành, thả hồn cùng bao giấc mộng dưới trời xanh, vui đùa tung tăng trên những cánh đồng, hít đẫm hương vị của sự sống thiên nhiên mãnh liệt. Nỗi nhớ về Nhuận Thổ là sự cắt nghĩa thật đơn giản mà chính xác: “Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm ra được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi”.

        Nhưng kỉ niệm càng đẹp bao nhiêu thì thực tại càng đau xót bấy nhiêu. Cuộc gặp gỡ với thím Hai Dương dường như đã phá tan kí ức của cậu bé Tấn hai mươi năm trước, kéo anh trở về thực tại của một “ông chủ” đang chuẩn bị bán nhà. Nàng Tây Thi đậu phụ lẳng lơ bây giờ đã thành một mụ nạ dòng lắm điều. Một đoạn đối thoại với đầy những lời lẽ dung tục tính toán khôn vặt đã cho thấy thái độ xa lạ hằn học của những kẻ ganh ghét gia đình tôi.

        Cái hố ngăn cách đầy thành kiến như đang được khoét rộng ra cùng những lời chì chiết của mụ đàn bà lắm lời tham lam bần tiện. Ngạc nhiên không kịp phản ứng là phải, bởi tôi giờ đây dưới mắt người đàn bà ấy chỉ là hiện thân của bọn nhà giàu lắm của. Đáng buồn là sau thái độ rỉa rói bới móc ấy lại là thái độ cầu cạnh, lợi dụng bòn của. Người đàn bà ấy như làm tăng mối ác cảm và xót xa cho chốn làng quê nghèo cực khiến con người như trở nên bần tiện hơn.

        Nhưng cuộc gặp gỡ với Nhuận Thổ mới thực sự là nỗi thất vọng lớn nhất. Nhuận Thổ cũng như tôi , đều rất trân trọng tình bạn tuổi thơ. Cuộc gặp gỡ ấy đã đem đến sự tan vỡ của một giấc mộng đẹp. Còn đâu chú bé “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng” thuở nào, chỉ còn một người đàn ông với khuôn mặt vàng đội một cái mũ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm, và bàn tay vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như một vỏ cây thông.

        Nhưng sự thất vọng lớn nhất là thái độ Nhuận Thổ “lấy lại dáng điệu cung kính”cùng với lời nói như xát muối vào lòng: “Bẩm ông”. Bức tường dày ngăn cách hai tầng lớp xã hội đã được dựng lên giữa hai người đàn ông trưởng thành. Hai người bạn cũ trong hiện tại không còn gì chung hết, ngoại trừ tình bạn đẹp được xây nên từ khi mới lên mười.

        Tấm lòng Nhuận Thổ vẫn như xưa, cũng giống như tôi nhưng mặc cảm cũng như thành kiến xã hội đã làm cho hai người thành xa lạ. Còn gì buồn hơn, nỗi buồn khiến tôi điếng người ! Điều gì đã khiến cho người bạn năm xưa trở nên mặc cảm đến vậy ?

        Câu chuyện ngỡ như rôm rả cùng bao kỉ niệm tuổi thơ đã tan biến cùng tâm trạng bi đát dâng lên trong lòng tôi khi nghe gia cảnh Nhuận Thổ từ chính miệng người bạn: “Chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả. Mùa lại mất. Trồng được gì là gánh đi bán tất. Chỉ đóng góp vài lần là cụt vốn rồi. Không đem bán thì lại thối mục hết”.

        Nhuận Thổ đã khác xa so với hình dung của anh Tấn, nhưng vẫn còn đó chút dư âm của tình bạn ấm áp thuở nào, trong món quà quê thơm thảo: “Ngày đông tháng giá, chẳng có gì. Đây chỉ là ít đậu xanh của nhà phơi khô, xin ông…”. Lời nói tắc nghẹn giữa chừng khiến người đọc hiểu thêm: tình bạn đẹp ngày xưa đã không vượt qua nổi mặc cảm trong hiện tại.

        Trước tình cảnh Nhuận Thổ, tấm lòng của mẹ con anh Tấn không khỏi ái ngại, xót thương, than thở, buồn cho cảnh nhà anh: con đông, mùa mất ,thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đọa thân anh khiến anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi”.

        Qua tâm trạng ấy, có thể nhận ra hình ảnh một cố hương không còn yên bình êm ả như xưa. Gia đình trung lưu thì phải tha hương, người dân quê càng xơ xác. Hoàn cảnh làm thay đổi tâm tính con người. Sự đổi thay trong tình làng nghĩa xóm, tình bạn tình người cũng nhạt nhẽo hơn đem lại nỗi buồn vô hạn cho đến tận ngày đi. Đó cũng là thời khắc anh Tấn cùng người thân phải giã biệt ngôi nhà thân yêu.

        Cảnh biệt li được cảm nhận bằng câu văn lạnh lùng không chút luyến lưu: “Kẻ đến đưa chân, người đến lấy đồ đạc. Có kẻ vừa đưa chân vừa lấy đồ đạc”. Và phút rời chân đi thì “tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ, hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét”. Không còn gì lưu dấu, như chính lòng người cũng trở nên trống rỗng.

        Hành trình giã biệt quê hương in đậm nỗi buồn của buổi hoàng hôn, trên chiếc thuyền lẻ loi, in bóng đen sẫm như một vệt tối ám ảnh lòng người. Rời quê trong tâm trạng nặng nề như vậy, cứ ngỡ tình cảnh bi đát của đời sống vật chất và tinh thần dân quê sẽ gieo vào lòng tôi cảm giác thất vọng, bi quan. Nhưng nhà văn đã gửi gắm ao ước lạc quan vào trong hình tượng Thủy Sinh con Nhuận Thổ và tình bạn vừa nhen lên với Hoàng – đứa cháu của nhân vật tôi.

        Có thể nói từ những chi tiết ngoại hình cho đến tính chất tình bạn giữa hai đứa trẻ chẳng khác gì một bản sao của tình bạn Nhuận Thổ – Tấn thuở xưa. Thủy Sinh cũng khuôn mặt tròn trĩnh, dáng vẻ bẽn lẽn như Nhuận Thổ ngày nào, dẫu thiếu chiếc vòng bạc trên cổ nhưng vẫn hồn nhiên trong sáng và gần gũi thân thiết biết bao với thằng bé Hoàng.

        Chưa bao giờ, cái ranh giới giả tạo phân biệt giai cấp lại hiện hình rõ như thế qua sự lặp lại vô tình này. Niềm tin của tôi thật mãnh liệt dù cho không tránh khỏi thoáng chút mơ hồ, nhưng ở đó là niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của người dân quê. Chẳng qua, những biến đổi thời cuộc tác động đến gia cảnh đã làm thay đổi tính cách tốt đẹp của họ mà thôi.

        Những hi vọng được nhen nhóm từ suy ngẫm về người bạn cũ – sùng bái tượng gỗ một cách mê muội kì thực cũng là một cách nuôi hi vọng. Bản thân nhân vật tôi cũng đang hi vọng một tương lai sáng sủa hơn. Họ đã gặp nhau trong hi vọng đổi đời, nhưng lại rất khác nhau về con đường của mỗi người.

        Hình tượng con đường ở phần cuối tác phẩm chứa đựng những suy ngẫm về thực trạng xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ. Con đường mà tác giả cảm nhận được về thực tại là sự phân rẽ của các tầng lớp xã hội, một điều đáng buồn và ray rứt tâm tư của nhà văn. Nhiệt tình cải tạo xã hội đã thành câu kết đầy triết lí thể hiện sâu sắc tư tưởng nhà văn: kì thực trên mặt đất làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi. Đó là sự khẳng định cho quyết tâm vượt qua những định kiến xã hội lạc hậu.

        Con đường mà nhà văn muốn nói chính là con đường chung – thay đổi số phận, thay đổi nếp nghĩ để kết lại tình bạn như thuở nào tốt đẹp vô tư, để người sống với người hoà đồng thân ái. Muốn vậy, mỗi người phải tự vạch con đường cho mình, không giẫm lên những vết mòn vẹt của định kiến cũ. Cảm hứng của nhà văn hướng về việc cải tạo xã hội ngày càng tốt đẹp.

        Tác phẩm một lần nữa thể hiện quan niệm dùng văn chương “chữa bệnh tinh thần” cho dân tộc Trung Hoa của nhà văn vĩ đại Lỗ Tấn. Xuất phát từ tình yêu với quê hương và con người nghèo khổ, Lỗ Tấn đã viết nên những trang cảm động về tình bạn ấu thơ, nỗi xót xa truớc tình trạng khốn cùng và suy thoái tinh thần của người dân tại cố hương.

        Tấm lòng nhiệt thành và ý thức đấu tranh chống xã hội bất công thấm đượm trong từng trang sách. Ông đã đưa ra những dự đoán thiên tài về cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc Trung Hoa khi tìm ra con đường chân chính tự giải phóng mình.

        Cố hương không phải là những dư âm nhạt nhòa mà còn mang ý nghĩa thời sự nóng hổi. Chừng nào nhân loại còn gánh chịu những bất công vô lí, còn những số phận khốn khổ như Nhuận Thổ và những người dân quê, thì chúng ta còn cần đến một tấm lòng Cố hương để chia sẻ nỗi niềm, khơi dậy ý thức xoá bỏ ranh giới giàu nghèo, để giúp cho người mãi đến với nhau bằng tấm lòng bè bạn.

        Đón đọc tuyển tập ☀️ Phân Tích Chuẩn Bị Hành Trang Vào Thế Kỉ Mới ☀️ 10 Mẫu Hay Nhất

        Văn Mẫu Phân Tích Cố Hương Nâng Cao – Mẫu 6

        Tham khảo bài văn mẫu phân tích Cố hương nâng cao dưới đây với những nội dung phân tích văn học chuyên sâu để tìm hiểu đầy đủ những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài Cố hương.

        Trong tiến trình phát triển của nền văn học Trung Quốc, ta không thể không nhắc đến một nhà văn đặc biệt với quan điểm “Văn chương là phương thuốc chữa căn bệnh tinh thần cho quốc dân” – Lỗ Tấn. Ông đã để lại cho đời biết bao công trình nghiên cứu cũng như các tác phẩm văn chương có giá trị, trong đó hai tập truyện ngắn xuất sắc là Gào thét và Bàng hoàng. Trong tập Gào thét, nổi bật nhất là tác phẩm Cố hương, ở đó hiện lên hình ảnh một cố hương của bao năm xa cách và những con người nơi ấy với bao nỗi buồn thương, hi vọng.

        Mở đầu tác phẩm, Lỗ Tấn đã tái hiện lại hỉnh ảnh quê nhà sau 20 năm xa cách. Theo lẽ thường, sau thời gian cách xa quê hương như vậy nay đã trở về thì có lẽ phải là sự hồi hộp, vui mừng phấn khởi, mong ngóng ấy thế nhưng tâm trạng của tác giả lúc này có gì đó khác thường. Ngồi trên thuyền mà nhìn ra thấy “thôn xóm, tiêu điều, hiu hắt, nằm im lìm dưới nền trời vàng úa” vì thế “lòng tôi se lại”. Phải rồi! Không buồn, không đau lòng sao được khi quê hương nay đâu còn như trước.

        Và tác giả nghĩ “Tuy chưa tiến bộ hơn xưa nhưng vị tất đến nỗi thê lương”. Bên cạnh đó, “lòng tôi se lại” còn vì một lẽ khác nữa. Đó là lần này về quê không phải là thăm quê, thăm nhà mà là để “vĩnh biệt ngôi nhà thân yêu và từ giã làng cũ thân yêu đem gia đình đến nơi đất khách làm ăn sinh sống”. Lòng đã buồn và lại cộng thêm cái ảm đạm, tiêu điều hiu hắt của quê hương thế nên lòng càng trĩu nặng và thảng thốt “làng cũ tôi đẹp hơn kia”.

        Trong quá khứ của tác giả, quê hương gắn với bao kỉ niệm tuổi thơ êm đềm, tươi đẹp. Đó là những ngày mà “thầy tôi hãy còn”, cảnh nhà sung túc. Năm ấy nhà tôi đến lượt lo giỗ tổ. Giỗ vào tháng giêng. Lễ vật rất nhiều, các đồ tế rất sang, người đến lễ cũng rất đông. Kẻ ra người vào tập nập. Cố hương còn là nơi có một tình bạn đẹp với Nhuận Thổ với biết bao chuyện kỳ lạ của một cậu bé xuất thân từ vùng biển.

        Nhắc đến Nhuận Thổ là cả một kí ức về một miền quê thanh bình tuyệt đẹp hiện về: “Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lơ lửng trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn”. Những kỉ niệm ấy theo mãi trong tâm trí của tác giả để rồi hằn sâu vào kí ức về một quê nhà thật đẹp, thật hạnh phúc. Như vậy ta thấy hình bóng quê nhà được tác giả gợi lên ở hai thời điểm quá khứ và hiện tại. Quê hương trong kí ức là những điều tươi đẹp còn trong hiện tại là sự tiêu điều, thê lương đầy xót xa.

        Quê hương đã đổi thay, đâu còn như trước. Vậy người dân quê thì sao? Họ như thế nào, có thay đổi không? Người đầu tiên đón “tôi” đó là mẹ “Mẹ tôi mừng rỡ nhưng ẩn một nỗi buồn thầm kín”. Niềm vui của mẹ không trọn. Vui vì con đã về nhưng buồn vì cảnh nhà sắp phải dời đi, lìa xa quê nhà, ròi bỏ quê cha đất tổ.

        Việc li hương mẹ đã biết và đã chuẩn bị sắp đặt mọi thứ nhưng phải xa nơi chôn nhau cắt rốn không buồn sao được. Mặc dù vậy mẹ vẫn chu đáo, ân cần, hiền từ ” mẹ bảo tôi ngồi xuống, nghỉ ngơi, đi thăm các nhà bà con”. Mẹ còn nói đến chuyện Nhuận Thổ và động lòng. Mẹ vẫn vậy, vẫn thương con và thương người. Nếu có khác thì là bây giờ trong lòng mẹ đang chất chữa nỗi buồn xa quê.

        Con người nơi cố hương trong hồi ức của “tôi” hằn sâu hơn cả ấy là Nhuân Thổ. Chẳng thế mà khi nghe mẹ nhắc đến Nhuân Thổ lập tức kí ức tôi bỗng dưng sáng bừng lên trong chốc lát. “Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm ra được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi”. Trong tâm trí “tôi” là hình ảnh cậu bé trạc mười một, mười hai tuổi, khuôn mặt bầu tròn trĩnh, nước da bánh mật, đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòn bạc sáng loáng”.

        Cậu bé ấy mang đến bao câu chuyện kì thú mà tôi chưa bao giờ được nghe. Nào là chuyện bắt Tra vào ban đêm để trông ruộng dưa đến kì thu hoạch, nào là sự kì thú của việc bẫy chim trên tuyết, rồi đến cả việc đi nhặt vỏ sò trên biển với đủ loại kì lạ. Những câu chuyện trẻ thơ ấy khiến cho tôi và Nhuận Thổ “thân nhau lắm”, gọi nhau là anh em. Chẳng thế mà khi hết vụ, Nhuận Thổ phải theo cha về mà chúng tôi đã khóc, buồn lắm, chỉ mong đến vụ sau để được gặp nhau.

        Trong kí ức thơ bé của tôi, Nhuận Thổ là một phần tươi đẹp của cố hương. Đó là Nhuận Thổ trong quá khứ. Còn Nhuận Thỏ trong hiện tại thì sao. Biết tin gia đình “tôi” chuyển nhà, Nhuận Thổ đến chơi. Sau bao nhiêu năm xa cách nay gặp lại, Nhuận Thổ thay đổi quá nhiều. Nước da bánh mật mạnh khỏe trước kia nay đã “vàng xạm” đi và điểm thêm trên đó là những nếp nhăn trên mặt “sâu hóm”. Cặp mắt, mí mắt “viền húp đỏ mọng lên”.

        Vì yêu quý mà cha Nhuận Thổ đội cho cậu chiếc mũ long chiên tươm tất, đeo vòng bạc nhưng nay là chiếc mũ lông chiên “rách tươm”. Trên người anh chỉ mặc một cái áo bông “mỏng dính” giữa lúc trời rét dữ. Cái vẻ nhanh nhẹn đâu còn thay vào đó là dáng người “co ro cúm rúm”. Vì vất vả nên đôi bàn tay giờ đây “vừa thô kệch, vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông”. Ngoại hình, dáng vẻ của Nhuận Thổ khác xưa quá!

        Gặp lại bạn cũ, Nhuận Thổ lẽ ra phải vui mừng khôn xiết thế nhưng đan xen vào đó có cả sự “thê lương”. Anh mấp máy đôi môi nói không ra tiếng, sau mới “cung kính” nói được hai tiếng: “Bẩm ông!”. Hai tiếng “Bẩm ông” nghe sao nhói lòng, xa cách quá đỗi làm ”tôi như bị điếng người”. Trong tư tưởng của Nhuận Thổ, “tôi” không còn là người bạn thuở niên thiếu nữa, không phải là anh em nữa mà là bề trên, người trên, hạng trên. Cách xưng hô ấy mới đúng tôn ti trật tự xã hội phong kiến.

        Nhân vật tôi nhìn người và nghe Nhuận Thổ nói cảm thấy nặng trĩu, chua xót trong lòng. Không chỉ vậy, có thể vì đói nghèo mà Nhuận Thổ còn giấu bát đĩa vào đống tro để ít nữa mang về như lời thím Hai Dương nói.

        Nhuận Thổ của trước kia đâu còn nữa, thay vào đó là một Nhuận Thổ khốn khổ, đói nghèo, bé nhỏ. Đẩy Nhuận Thổ vào tình cảnh như thế, đó là “mất mùa, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào…chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả”. Như vậy, Nhuận Thổ là nạn nhân đau khổ của xã hội phong kiến đầy bất công, bóc lột người nông dân đến tận xương tủy.

        Nhân vật thứ hai do hoàn cảnh mà thay đổi tâm tính, đó là Thím Hai Dương – nàng Tây Thi đậu phụ với dáng người compa trông đến lạ. Trước kia thím “hay bế tôi”. Nay gặp lại thím tôi thấy lạ bởi cái giọng “the thé, lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính, hai tay chống nạnh, chân đứng chạng ra giống hệt cái compa, hai chân bé tí”.

        Tôi càng lạ và buồn hơn khi thím xin các đồ gỗ không được thì lẩm bẩm và khi ra về “tiện tay giật luôn đôi bít tất tay của mẹ tôi giắt vào lưng quần”. Có lần thím tự ý lấy cái” cẩu khí sát rồi chạy biến”. Người phụ nữ này cũng đã đổi khác có lẽ do họ nghèo quá, bần cùng quá mà sinh ra những “tàn nhẫn”. Thím hai Dương cũng là một nạn nhân nữa của xã hội phong kiến.

        Sự thay đổi của quê nhà và của những con người nơi đây – Nhuận Thổ và thím Hai Dương đã làm tôi rất đau lòng, xót xa. Từ đây “tôi” đặt ra một niềm hi vọng về một xã hội tốt đẹp hơn, cuộc sống của người nông dân đỡ cực nhọc hơn.

        Niềm hi vọng ấy được đặt vào Bé Hoàng và Thủy Sinh “tôi muốn chúng không phải khốn khổ…chúng cần một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống”. Niềm hi vọng ấy được tôi nâng lên thành một niềm tin ” Cũng giống như trên mặt đất làm gì có đường, kì thực người ta đi mãi thì thành đường thôi”.

        Như vậy có thể nói, Cố hương đã thuật lại chuyến về quê lần cuối của nhân vât tôi. Qua đó ta thấy được những cảm xúc rất thật, rất tinh tế của tôi trước sự đổi thay của làng quê và những con người nơi đây. Từ sự đổi thay đó, Lỗ Tấn muốn lên án, phê phán xã hội phong kiến nhiều bất công, ngang trái và đặt ra một con đường đi mới cho người nông dân.

        Không chi có phân tích bài Cố hương, đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Chiếc Lược Ngà 🔥 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

        Phân Tích Cố Hương Học Sinh Giỏi – Mẫu 7

        Bài văn phân tích Cố hương học sinh giỏi dưới đây sẽ giúp bạn trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.

        Lỗ Tấn (1881 – 1936) là nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc, sinh trưởng trong một gia đình quan lại sa sút. Từ khi còn trẻ, ông đã từ giã gia đình, quyết tâm đi tìm đường lập thân mới. Ông lần lượt theo học các ngành hàng hải, địa chất, rồi y học. Nhưng cuối cùng, ông đã quyết định chuyển sang hoạt động văn học, vì nghĩ rằng văn học là vũ khí lợi hại để “biến đổi tinh thần” dân chúng đang ở tình trạng “ngu muội” và “hèn nhát”.

        Ông đã để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ và đa dạng. Cố hương là một truyện ngắn xuất sắc thể hiện một cách sinh động về cuộc sống khổ cực cũng như trạng thái tinh thần của nông dân Trung Quốc dưới chế độ nửa phong kiến, nửa thuộc địa dưới cái nhìn và suy ngẫm của nhân vật “tôi”.

        Cố hương của Lỗ Tấn mang cả một nỗi buồn thê lương. Nét thê lương từ cảnh vật đến con người. Hai mươi năm xa cách, tôi phải vượt qua chặng đường những hai ngàn dặm trở về thăm làng củ giữa một ngày mùa đông lạnh giá. Trên đường về gần đến làng trời lại càng u ám, lòng “tôi” bồi hồi, nao nao về những hình ảnh làng quê xa xưa vẫn còn nguyên trong ký ức. Nhìn qua các khe hở của mui thuyền hiện ra trước mắt “tôi” xa gần thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng, nằm im lìm dưới vòm trời vàng úa.

        Nhìn cảnh vật mà lòng “tôi” se lại. Hình ảnh làng cũ trong kí ức “tôi” không giống hẳn như thế này – làng cũ đẹp hơn kia. Tôi tự hỏi: “chẳng qua là tâm tình mình đổi khác, bởi vì về thăm chuyến này, lòng mình vốn không vui”, về để bán nhà, giao lại cho chủ mới. về để từ giã ngôi nhà cũ thân yêu, nơi cả đại gia đình “chúng tôi” đời đời ở chung với nhau. Và cũng là để từ giã làng, nơi chôn nhau cắt rốn, để đem cả “gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống”.


        Về đến nhà vào một buổi sáng tinh mơ, tôi nhìn trên mái ngói, mấy cọng tranh khô phất phơ trước gió “đủ rõ nhà không đổi chủ không được”. Thấy tôi mẹ rất mừng rỡ, nhưng nét mặt vẫn ẩn một nỗi buồn thầm kín. Có lẽ mẹ buồn vì tình cảnh nhà ta sa sút, buồn vì xóm làng hiu quạnh, thê lương, và cũng có thể là buồn vì chuyện phải bán nhà…

        Mẹ “tôi” vẫn như xưa, ân cần, săn sóc, coi “tôi” như hồi còn thơ bé. Bà còn nhắc “tôi” đi thăm các nhà bà con xóm giềng và còn nhắc đến anh Nhuận Thổ. Và bà đã báo tin cho anh ấy biết chừng nào thì “tôi” về.

        Nhắc đến Nhuận Thổ, kí ức “tôi” bỗng hiện ra một cảnh tượng thần tiên, kỳ dị: “Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lững lờ trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn.

        Giữa ruộng dưa, một đứa bé trạc mười một, mười hai, cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba, đang cố sức đâm một con trai.” dù đã là hơn hai mươi năm xa cách, nhưng “tôi” cũng còn nhớ rõ như in về ngày đầu tiên Nhuận Thổ đến nhà – Hắn sinh tháng nhuận, ngũ hành khuyết thổ nên bố hắn đặt tên hắn là Nhuận Thổ.

        Bấy giờ hắn có “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí teo, cố đeo vòng bạc sáng loáng”. Hắn thấy ai cũng bẽn lẽn, chỉ không bẽn lẽn với một mình “tôi” thôi. Hắn nói lên tỉnh hắn mới được trông thấy những điều hắn chưa bao giờ trông thấy cả. Cũng như “tôi” chưa bao giờ được nghe thấy về những chuyện về bẫy chim sẻ đồng, chào mào, bột cô, sẻ xanh lưng; chưa hề biết đến vỏ sò, nào là sò “mặt quỷ”, sò “tay Phật”. Và cũng chưa biết con tra là con gì, chỉ tưởng tượng nó như con chó con nhưng dữ tợn hơn.

        Nhuận Thổ biết được nhiều điều mới lạ, vì trong khi đó Nhuận Thổ sống ở bờ biển, còn “bạn bè tôi”, cũng như “tôi” chỉ nhìn mảnh trời vuông trên bốn bức tường bao bọc lấy cái sàn thế thôi.

        Đã qua bao nhiêu năm rồi, bây giờ mẹ “tôi” nhắc đến Nhuận Thổ, kí ức “tôi” bỗng như bừng sáng lên, “tôi” cảm thấy tựa hồ tìm được quê hương của mình đẹp ơ chỗ nào rồi. Tuổi thơ gắn liền với quê hương mỗi con người sinh ra ai cũng có một quê hương đế yêu và để nhớ dù chỉ là một miền quê nho nhỏ, một góc phố thân thương… Hình ảnh Nhuận Thổ ấu thơ là hình ảnh của quê hương mà “tôi” cũng có một mảnh đời trong đó.

        Hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại là nỗi đau, sự tàn tạ đến thê lương của một con người, là nỗi buồn quê hương sau hơn hai mươi năm xa cách của nhân vật tôi. Nhuận Thổ trong hiện tại nước da trở thành “vàng sạm”, lại có thêm những nếp nhăn “sâu hoắm”, mí mắt “viền đỏ húp mọng lên”. Đầu đội một cái mũ lông chiên “rách tươm”, mặc một chiếc áo bông “mỏng dính”, người “co ro cúm rúm”, tay cầm một bọc giấy và một tẩu thuốc lá dài.

        Bàn tay không còn là bàn tay hồng hào, lanh lẹ, mập mạp, cứng rắn như trước kia mà “vừa thô kệch, vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông”. Thời gian và sự nghèo khó, vất vả đã làm thay đổi diện mạo tinh thần của con người. Gặp lại “tôi” nét mặt Nhuận Thổ “vừa hớn hở vừa thê lương”, môi mấp máy, nói không ra tiếng. Sau đó, với dáng điệu cung kính, cất lời chào: “Bẩm ông!”.

        Thật là một điều rất bất ngờ, “tôi” như điếng người đi, vì trong lòng “tôi” đang sửa soạn cho một cuộc gặp gỡ của tình thân ái một thời mà tuôn ra như nước chảy, những gì mà họ khát khao tâm sự và lưu giữ những gì ở quá khứ để làm hành trình cho mai sau.

        Nhưng rồi mọi cái đều bị chọn lại, có lẽ tôn ti trật tự và lễ giáo phong kiến đã tạo ra “một bức từng khá dày ngăn cách” giữa đôi bạn ngày nào, “tôi” hỏi thăm gia đình anh, “anh cứ lắc đầu”. Những nếp nhăn khắc sâu trên mặt anh “tuyệt nhiên không động đậy”, trông anh phảng phất như “một pho tượng đá” vô hồn.

        Nhuận Thổ khổ vì “con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào” đày đọa thân anh khiến anh trở thành “đần độn, mụ mẫm”. Song Nhuận Thổ còn đau đớn vì gánh nặng tinh thần, vì mê tín, vì quan niệm cũ kĩ về đẳng cấp. Nhuận Thổ là hiện thân của những khổ đau, bi kịch của tầng lớp nhân dân Trung Quốc dưới chế độ phong kiến thối nát, là hình ảnh của làng quê xơ xác, tiêu điều.

        Qua đó, tác giả đã cực lực lên án tội ác của chế độ đương thời, từ đó đặt ra vấn đề quyền sống và hạnh phúc của người dân trên con đường đi tới. Điều này đã được nói tới trong bài tạp văn Vì sao tôi viết tiểu thuyết, Lỗ Tấn nói rõ ông hay chọn những người bất hạnh làm đề tài. Chọn như vậy, trong điều kiện lịch sử đương thời có thể làm một công đôi việc, vừa có điều kiện vạch trần ung nhọt của “xã hội bệnh tật”, vừa có điều kiện “lôi hết bệnh tật” của chính những người lao động ra “làm cho mọi người chú ý tìm cách chạy chữa”.

        Sự tàn tạ về diện mạo tinh thần cũng phải nói đến nhân vật thím Hai Dương – “nàng Tây Thi đậu phụ”, ngày xưa “phấn son” nên nhiều người đắm đuối vì sắc đẹp của chị. Ngày nay “lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính” lại có những lời nói năng xoi mói; những hành động bỉ ổi, lúc thì lấy đôi bít tất, lúc thì lấy cái “câu khi sát”… thím Hai Dương cũng là hiện thân của sự bần cùng hóa của tầng lớp nông dân đương thời.

        Còn Thủy Sinh là hình ảnh của Nhuận Thổ hơn hai mươi năm về trước, chỉ có điều khác là Nhuận Thổ trong quá khứ “cổ đeo vòng bạc”, Thủy Sinh trong hiện tại “cổ không đeo vòng bạc”; Nhuận Thổ trong quá khứ “khuôn mặt tròn trĩnh”, Thủy Sinh trong hiện tại: “vàng vọt, gầy còm…”

        Với biện pháp nghệ thuật hồi ức và đối chiếu, Lỗ Tấn đã phản ánh tình cảnh sa sút về mọi mặt của xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX, đồng thời chỉ ra những nguyên nhân và lên án các thế lực phong kiến đã tạo nên tình cảnh đau thương lên từng số phận con người từ những miền quê xơ xác, tiêu điều mà tiêu biểu là nhân vật Nhuận Thổ.

        Và cũng phải nói thêm rằng, trong đời sống tinh thần, tính Cách của người lao động bấy giờ cũng quá nặng về lễ giáo phong kiến, những tôn ti trật tự lỗi thời cũng là nguyên nhân đẩy họ vào con đường bế tắc, luẩn quẩn, không có khả năng tìm đường như Lỗ Tấn đã lựa chọn ngay từ buổi thiếu thời.

        Những ngày ở quê, lòng “tôi” không khỏi phải xót xa, trăn trở vì phải chứng kiến cảnh tàn lụi của quê hương, sự bần cùng hóa của người dân ở đó. Vì hoàn cảnh đói nghèo, vất vả, nên con người ở quê nhân tính phần nào đã thay đổi, đó là sự tham lam, nhó nhen, thậm chí có những hành động bỉ ổi như thím Hai Dương. Thật ra họ là những con người cũng đáng được chia sẻ, thương cảm, đặc biệt là Nhuận Thổ.

        Gần tối, “gia đình tôi” xuống thuyền để rời quê, về nơi ở mới. Trong hoàng hôn, những dãy núi, hai bên bờ sông “đen sẫm lại”, nối tiếp nhau chạy lùi về phía sau lái, ngôi nhà cũ xa dần, phong cảnh làng cũ cũng mờ dần. Tồi ngồi trong khoang thuyền cảm thấy mình “vô cùng lẻ loi, ngột ngạt”.

        “Tôi” nghĩ bụng: “Tôi và Nhuận Thổ tuy cách bức đến như thế này, nhưng con cháu chúng tôi vẫn còn thân thiết với nhau. Chẳng phải là cháu Hoàng đang mơ tưởng nhớ đến Thủy Sinh đó ư? Tôi mong ước chúng nó sẽ không giống chúng tôi, không bao giờ phải cách bức nhau cả… Nhưng tôi cũng không muốn chúng nó vì thân thiết với nhau mà phải vất vả, chạy vạy như tôi….. chúng nó cần phải sống một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống”. Đó là những khát khao, trăn trở lẫn niềm hy vọng cô hương sẽ được đổi mới.

        Kết thúc tác phẩm, hình ảnh con đường hiện ra sẽ được đổi mới suy ngẫm của “tôi”: “Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”.

        Hình ảnh “con đường” là một tín hiệu biểu hiện niềm tin vào sự đổi thay xã hội, tìm một đường đi mới cho nhân dân Trung Quốc, trong những năm đầu của thế kỉ XX, con đường học tập sáng tạo, tìm tòi cái mới. Và cũng có thể là con đường tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, con đường của cách mạng.

        Truyện ngắn Cố hương có một kết cấu đầu cuối tương ứng phù hợp với diễn biến cảm xúc và suy tư của nhân vật tôi. Từ chỗ phảng phất buồn của tôi trên đường về quê và kết thúc là niềm hy vọng trên đường rời quê. Đó là dụng ý nghệ thuật mà Lỗ Tấn muốn thể hiện tình cảm yêu mến quê hương của nhân vật xưng “tôi” một cách chân thực, sinh động và hợp lý.

        Cố hương là truyện ngắn có tính hồi kí. Thuật lại chuyến về quê lần cuối cùng của nhân vật “tôi”, những rung cảm của “tôi” trước sự thay đổi của cô hương, đặc biệt là Nhuận Thổ, Lỗ Tấn đã phê phán xã hội phong kiến, lễ giáo phong kiến, đồng thời đặt ra con đường đi của người dân Trung Quốc vào những năm đầu thế kỉ XX để mọi người suy ngẫm.

        Truyện có phương thức biểu đạt tự sự là chính nhưng có sự kết hợp một cách sinh động với các yếu tố miêu tả, biểu cảm và nghị luận tạo cho truyện giàu màu sắc hiện thực cùng những thái độ, suy tư của tác giả trước hiện thực của cố hương.

        Gợi ý cho bạn 🌹 Phân Tích Nhân Vật Bé Thu Trong Chiếc Lược Ngà 🌹 14 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất

        Phân Tích Cố Hương Facebook – Mẫu 8

        Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích Cố hương facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.

        Lỗ Tấn (1881- 1936) là nhà văn cách mạng nổi tiếng nhất của Trung Quốc. Ông sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước Trung Hoa đang trì trệ và lạc hậu cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Cố Hương là một tác phẩm nổi bật được in trong tập Gào thét. Đây là một tác phẩm thấm đẫm tình cảm quê hương của tác giả, không chỉ là sự xót xa ở vẻ đìu hiu của quê hương, của ngôi nhà cần đổi chủ mà còn là những suy ngẫm về sự thay đổi của bản tính con người và niềm hi vọng vào một con đường, một tương lai nào khác của Lỗ Tấn.

        Ngay từ đầu tác phẩm, hình ảnh “quê hương” đã được đặt trong một bầu không khí u ám với bầu trời “đang độ giữ đông”,”gió lạnh lùa vào khoang thuyền”. Mang tâm trạng náo nức của một người con xa quê hơn 20 năm về thăm lại quê cũ,”không ngại trời giá lạnh, đi đường hơn hai ngàn dặm”.

        Thế nhưng khi vừa nhìn thấy “xa gần thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều”, lòng tác giả “se lại”. Ông cảm thấy hoài nghi chính những ký ức tốt đẹp về quê hương của mình hơn 20 năm trước. Bởi trong kí ức của Lỗ Tấn, làng quê ngày xưa rất đẹp chứ không tiêu điều như bây giờ. Tác giả đã phải tự chấn an mình rằng “do tâm hồn mình đang đổi khác” và “lòng mình vốn đã không vui”. Ngay từ đoạn đầu của câu truyện, hình ảnh quê hương của Lỗ Tấn đã hiện lên thật buồn và đem lại ít nhiều sự hụt hẫng.

        Chuyến về thăm quê lần này của tác giả thật là đặc biệt, bởi đây lần từ giã cuối cùng ngôi nhà cũ nơi mà không biết bao đời nhà tác giả đã sinh sống, nơi chôn nhau cắt rốn để đến nơi đất khách quê người làm ăn sinh sống. Chuyến về thăm quê mang nặng ý nghĩa như vậy, nhưng cảnh đầu tiên mà tác giả thấy lại là căn nhà hiu quạnh, không còn chút ấm áp, thân thuộc nào. Đó là “mấy cọng tranh khô phất phơ trước gió”, ngôi nhà được dọn hết đồ lại làm cảnh “càng thêm hiu quạnh”.

        Mẹ của tác giả cùng cháu Hoằng chạy ra đón. Người mẹ thì vẫn vậy, sau hơn 20 năm chỉ được trò chuyện qua những cánh thư thì đã được gặp con, mẹ “rất mừng rỡ” ân cần chăm sóc, bảo con “nghỉ ngơi, uống trà” và đặc biệt là không đả động đến câu chuyện dọn nhà làm tác giả buồn, thế nhưng chính tác giả cũng nhận ra “nét mặt ẩn một nỗi buồn thầm kín” của bà.

        Có thể nói đây là một bà mẹ chu đáo. Bà lo con đi đường xa mệt, sắp xếp thời gian thư thả rồi hãy lên đường, còn viết thư trước vài ngày báo cho Nhuận Thổ – người bạn thân tuổi thơ của con, đến để gặp mặt và chia tay con. Bà cũng lo tươm tất chuyện dọn nhà, không để tác giả phải phiền lòng và cũng rất hạn chế nhắc đến chuyện này để tránh buồn cho người con.

        Nhân vật mẹ còn là một người hiền lành và giàu lòng trắc ẩn, gặp hai bố con Nhuận Thổ, bà ân cần, vồn vã hỏi han. Bà còn bàn với con trai của mình: “Cái gì không cần chở đi thì cho anh ta hết. Cứ để tùy ý chọn, lấy cái nào thì lấy”. Có một nhà thơ Việt Nam đã từng viết” Quê hương là cầu tre nhỏ/Mẹ về nón là nghiêng che”. Không có mẹ thì làm sao có quê hương? Mà hình ảnh người mẹ hiền từ, ấm áp và chu đáo khiến cho hình ảnh quê hương trong tác giả có những nét đẹp và êm đềm đến vậy.

        Về quê hương sau hơn 20 năm trời xa cách, không chỉ có cảnh vật, ngôi nhà mà đến cả những con người cũng làm tác giả cảm thấy xa lạ. Nhân vật tôi không còn nhận ra chị Hai Dương – “nàng Tây Thi đậu phụ” ở xế cưa năm nào nữa. Giờ chị đã thành “mụ com – pa” hay tức giận, miệng liên tục xỉa xói.

        Cô thiếu nữ xinh đẹp ngày nào đã trở thành một người xấu tính, hay bòn rút và cơ hội, “ngày nào chị ta cũng sang” để nhặt nhạnh đồ đạc nhà tác giả mang về, “lấy ngay cái cẩu sát khí rồi chạy biến”, hoặc “giật luôn đôi bít tất” giắt vào lưng quần rồi cút thẳng. “Mụ com – pa” hay những người dân thường xuyên đến nhặt nhạnh, xin đồ nhà nhân vật tôi hiện lên cùng với sự đói rách, cực khổ.

        Nhưng, cái cực khổ và đổi thay rõ nhất ở con người quê hương tác giả lại hiện lên rõ ràng hơn cả khi tác giả kể về cuộc gặp gỡ với nhân vật Nhuận Thổ, người bạn thân thiết của tuổi thơ.

        Ngay khi người mẹ nhắc về Nhuận Thổ, kí ức của tác giả đã “sáng bừng lên trong chốc lát”. Chỉ từ một Nhuận Thổ mà tác giả có thể cảm nhận “quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi” Có thể nói đây là người bạn vô cùng quan trọng đại diện cho vẻ đẹp thời ấu thơ cũng như vẻ đẹp của cả quê hương cho nhân vật tôi, là “vành trăng non trên bầu trời xanh miền thơ ấu”. Những ký ức ngày xưa của tác giả về Nhuận Thổ càng đẹp bao nhiêu, sáng rõ bao nhiêu thì đến lúc gặp lại càng làm hai người xa cách và đau khổ bấy nhiêu.

        Hình ảnh Nhuận Thổ của hiện tại chỉ có buồn đau và lam lũ. Khoảng thời gian 20 năm đã thay đổi hoàn toàn một con người, “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật” được thay bằng màu “vàng xạm, lại có thêm những nếp răn sâu hóm”. Đôi mắt “viền đỏ húp mọng lên”.

        Chiếc mũ lông chiên bé tí tẹo năm nào đã được thay bằng “mũ lông chiên rách tươm”, trên người chỉ có “chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm”. Cậu bé Nhuận Thổ rắn rổi, nước da bánh mật khỏe khắn cầm cây đinh ba ngày xưa đã không còn nữa mà thay vào đó là sự già nua, đau khổ, gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai.

        Biết bao nhiêu năm được gặp lại người bạn thân cũ, vậy mà Nhuận Thổ “vừa hớn hở vừa thê lương”, chỉ có thể mấp máy đôi môi nói không ra tiếng, sau mới “cung kính” nói được “Bẩm ông!”. Lễ giáo, trật tự của xã hội phong kiến đã đẩy đôi bạn ra xa nhau, xây lên giữa họ “một bức tường khá dày ngăn cách”. Nhân vật “tôi” đã “điếng người” khi nghe người bạn thân thiết khi xưa của mình nói vậy.

        Gặp lại Nhuận Thổ, tác giả nặng trĩu trong lòng bởi người bạn của mình đã quá khác xưa, thay đổi đến độ tác giả cảm thấy xa cách, “trông anh ta phảng phất như một pho tượng đá ” vô hồn và vô cảm. Nhuận Thổ của ngày xưa đẹp đẽ, hồn nhiên bao nhiêu thì giờ lại xơ xác, đau khổ bấy nhiêu.

        Sự thay đổi của Nhuận Thổ cũng có lẽ là đại diện cho sự thay đổi của một miền quê. Ở đó mọi thứ xơ xác tiêu điều, người nông dân bị bần cùng hóa, sưu cao thuế nặng chồng lên nhau. Nào là “mất mùa, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào… chốc nào cũng hỏi tiền, cũng có luật lệ”.

        Thông qua chuyến thăm quê lần cuối cùng, nhân vật “tôi” đã khắc họa rõ nét sự thay đổi của quê hương mình, từ cảnh vật đến con người. Đặc biệt là sự thay đổi của nhân vật Nhuận Thổ. Qua đó, tác giả đã lên án tội ác của chế độ lúc bấy giờ đối với nhân dân, từ đó đặt ra vấn đề về quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của những người dân.

        Ở phần cuối cùng của truyện ngắn, tác giả có đề cập đến chuyện con đường: “Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Con đường ở đây có thể chỉ là con đường thoát nghèo, đường đi tìm hạnh phúc, nhưng cũng có thể đó là con đường đi đến tương lai.

        Tác giả đã liên hệ giữa hi vọng và con đường. Phải chăng tác giả đang hi vọng, tin tưởng rằng sẽ có một con đường nào đó đến với số phận của những người dân nghèo, một con đường cách mạng để đi đến tương lai? Câu cuối cùng đã làm tăng sức nặng triết lí của truyện ngắn và thể hiện tầm nhìn, nỗi đau đáu đi tìm hạnh phúc cho dân tộc của Lỗ Tấn.

        Có lẽ sau khi đọc xong Cố hương của Lỗ Tấn, người ta sẽ không thôi ám ảnh về những ảm đạm, đìu hiu, về sự thay đổi của con người nơi miền quê cực khổ đó. Nhưng có lẽ cũng không ai quên hi vọng về một tương lai tốt đẹp để tìm ra những “con đường” mới.

        Ngoài phân tích bài Cố hương, có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Nhân Vật Ông Sáu Trong Chiếc Lược Ngà 🌼 15 Mẫu Hay Nhất

        Phân Tích Nhân Vật Tôi Trong Bài Cố Hương – Mẫu 9

        Bài văn phân tích nhân vật tôi trong bài Cố hương sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình những gợi ý hay để vận dụng khi làm bài.

        Sau bao năm xa cách quê hương, ai mà không muốn tìm lại nó – nơi chôn rau cắt rốn – nơi đã nuôi ta lớn lên từng ngày và cho ta biết bao kỉ niệm đẹp thời thơ ấu. Thật buồn khi phải từ biệt quê hương, quên người, quên cảnh. Vậy mà nhân vật Tấn đã trải qua những nổi buồn ấy vì cuộc sống mưu sinh. Những cảm xúc ấy đã được Lỗ Tấn khắc họa qua truyện ngắn “Cố Hương”.

        Và câu chuyện bắt đầu từ chuyến về nhà sau hai mươi năm xa cách với nổi buồn phảng phất trong lòng “tôi”. Cái buồn trước không gian u ám, vi vu, tiêu điều, hoang vắng; buồn vì sự thay đổi của làng quê: thê lương!

        Chuyến về làng này, Tấn đã gặp lại Nhuận Thổ – người bạn thân thuở bé của anh và từ đây lại xuất hiện tình cảm giữa Hoàng – đứa cháu của anh, Thủy Sinh – con của Nhuận Thổ. Về lần này, anh tính lên thành phố ở luôn trên ấy. Bổng mẹ anh nhắc đến việc Nhuận Thổ sẽ đến chơi làm cắt ngang sự suy tư của anh và bao nhiêu hồi ức thuở ấu thơ tràn về.

        “Một đứa trẻ có khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mủ lông chiên bé tí tạo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng” – đó là sự hồi tưởng của Tấn về người bạn thân từ bé của mình. Người bạn ấy đã cho anh biết bao điều lí thú: ra biển nhặt vỏ sò; đi bẩy chim, nào là sẻ đồng, chào mào, “bột cô”, xanh lưng.

        Khi thủy triều dâng lên thì cả hai đi xem “cá nhảy”. Anh và Nhuận Thổ còn đi canh dưa, canh con tra. Anh nhớ Nhuận Thổ đã bảo: “này nhé! Sáng trăng. Có tiếng sột soạt. Tra đang ngốn dưa đấy! Thế là cầm đi ba khẽ tiến lên…”. Từ nhỏ, Tấn học hỏi được rất nhiều điều từ người bạn thân của mình là Nhuận Thổ.

        Rồi Nhuận Thổ cũng đã đến, bên cạnh là Thủy Sinh. Hai đứa trẻ Hoàng và Thủy Sinh cùng dắt nhau đi chơi. Với sự ngây ngô và ham chơi của chúng, không biết chúng đã thân thiết với nhau tự lúc nào nữa. Nói về Tấn và Nhuận Thổ. Khi anh gặp lại Nhuận Thổ – nước da bánh mật, khuôn mặt tròn trĩnh trước kia nay đổi thành vàng sạm. Những nếp nhăn sâu hoắm, mi mắt viền đỏ húp mộng lên trên gương mặt ấy. Tấn vừa mừng khi gặp lại bạn nhưng thấy bạn như vậy lại chạnh lòng.

        Chợt… “Bẩm ông!” – một tiếng gọi làm anh điếng cả người. Tấn chợt nhận ra: “Giữa chúng tôi đã có một bức tường khá dày ngăn cách. Thật là bi đát. Tôi cũng không nói lên lời”. Đó cũng là lễ giáo cổ hủ thời phong kiến. “Lạy ông!”, “Lạy cụ!”, “thưa”, “cụ”, “ông”. Dường như cao nào cũng là lễ giáo. Đây là một bức tường vô hình ngăn cách họ.

        Một người nữa mà Tấn gặp khi về quê lần này là thím Hai Dương – “nàng Tây Thi đậu phụ”. Có lẽ do cuộc sống quá nghèo khổ mà chị trông gầy còm: “lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính, không buộc thắt lưng, chân đứng chạng ra, giống hệt cây com-pa trong bộ đồ vẽ, có hai chân bé tí” với những tính cách hết sức kỳ quái.

        Nào là trách móc anh quên mình, nào là giật đôi bít tất của mẹ anh giắt vào lưng quần, lại còn vu oan cho Nhuận Thổ và lấy ngay cây “cẩu khí sát” rồi chuồn thẳng. Chiều hôm tấn và gia đình lên thành phố, khách khứa rất nhiều. “Kẻ đưa chân, người lấy đồ đạc”. Tất cả đồ đạc trong nhà cũ, hư hỏng, tốt xấu đều bị dọn sạch. Tất cả như dọn sạch đi những quá khứ tươi đẹp ngày nào của anh.

        Quá khứ tươi đẹp ngày nào đâu còn nữa mà hiện tại lại quá đau buồn nên phải hướng tới một tương lai tươi đẹp hơn. Với tư tưởng, ý nghĩa như vậy, Tấn đã ra đi không một chút luyến tiếc. Hoàng hôn buông xuống cũng là lúc cảnh vật lùi lại phía sau. Thằng Hoàng cháu anh chọt nói với anh câu: “Nhưng mà thằng Thủy Sinh nó hẹn cháu đến nhà nó chơi cơ mà!” làm anh lại nhớ về tuổi thơ giữa mình và Nhuận Thổ. Anh hi vọng một tương lai tươi sáng sẽ đến với thế hệ trẻ không giống như thời quá khứ của anh.

        Truyện ngắn “Cố Hương” không chỉ ý nghĩa ở nội dung mà còn hay ở nghệ thuật xây dựng. Bằng cố truyện khá đơn giản xoay quanh lần về quê sau cùng, số lượng nhân vật phải nói là ít, Lỗ Tấn đã làm nổi bật chất tình của tác phẩm. Một cái hay nữa ở đây là sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, nghị luận và các hình thức đối thoại, độc thoại nội tâm… đã làm nổi bật tâm trạng, cảm xúc của nhân vật Tấn xuyên suốt câu chuyện.

        Đặc biệt, hình ảnh con đường trong câu: “Kì thực trên mặt đất làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.” là một câu nói hàm chứa nhiều ý nghĩa. Hình ảnh con đường mang hai tầng ý nghĩa. Đó vừa là con đường cho chúng ta đi lại hàng ngày bị mòn do bước chân ta. Đó cũng vừa là con đường tự do, con đường của sự hi vọng về một tương lai tươi sáng. Con đường ấy không phải ai mà chính chúng ta phải khai phá và vượt qua nó. Ta phải nổ lực, cố gắng mới hi vọng vào một con đường vững bước và tương lai tốt đẹp.

        Truyện ngắn Cố Hương (Cố Hương như một bức tranh thu nhỏ của toàn cảnh đất nước) đã phê phán sâu sắc xã hội phong kiến với sự cực khổ của bá tánh, với các hủ tục lạc hậu. Ai dám đảm bảo là sẽ mãi gắn bó với quê hương nếu nó quá là thê lương như thế. Chỉ có tình yêu quê hương là còn mãi trong trái tim của mỗi người!

        Tiếp tục tham khảo 🌹 Phân Tích Lặng Lẽ Sa Pa 🌹 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

        Phân Tích Bài Cố Hương 9 Nhân Vật Nhuận Thổ – Mẫu 10

        Đón đọc văn mẫu phân tích bài Cố hương 9 nhân vật Nhuận Thổ dưới đây sẽ giúp các em học sinh đi sâu phân tích hình tượng nhân vật này trong bài Cố hương.

        Lỗ Tấn (1881-1936), là nhà văn nổi tiếng người Trung Quốc, từng học nhiều ngành nghề khác nhau, thế nhưng qua một sự kiện khi ông học tập ở Nhật, Lỗ Tấn đã nhận ra một chân lý rằng chữa bệnh cho con người ở thể xác không bằng chữa bệnh cho con người ở tinh thần. Từ đó ông đã đổi hướng từ học y khoa sang làm văn chương để thay đổi tư tưởng cổ hủ, lạc hậu đậm chất phong kiến của người dân Trung Quốc giai đoạn bấy giờ, nhằm thay đổi xã hội một cách triệt để, nhằm cách mạng hóa đất nước.

        Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông bao gồm tập truyện ngắn như AQ chính truyện, Bàng hoàng, Gào thét,… Các đề tài chính của Lỗ Tấn chủ yếu xoay quanh người nông dân, người lao động trong xã hội Trung Quốc cũ. Truyện ngắn Cố hương là một tác phẩm nằm tập truyện ngắn Gào thét in năm 1923.

        Trong tác phẩm ngoài sự xuất hiện của nhân vật chính còn có một nhân vật khác góp phần làm nên nội dung chính của câu chuyện ấy là Nhuận Thổ, người bạn từ thuở tấm bé của nhân vật “tôi”. Mà trong lần trở về sau hai mươi năm xa cách quê hương, nhân vật “tôi” đã đặt rất nhiều những hy vọng, mộng tưởng về cuộc hội ngộ tốt đẹp, thì sự thay đổi của Nhuận Thổ khi trưởng thành đã khiến anh vô cùng thất vọng và buồn rầu.

        Sau hai mươi năm sinh sống học tập và làm việc ở nơi xa, nhân vật “tôi” trở về quê hương để bán đi ngôi nhà cũ và đưa cả gia đình đến nơi ở mới. Cuộc trở về ấy đối với tác giả không hề vui vẻ gì, bởi nốt lần này nữa thôi có lẽ anh sẽ không còn quay lại đây nữa, nơi vốn đã gắn bó với nhân vật “tôi” trong suốt những ngày thơ ấu. Cảnh vật quê hương xơ xác tiêu điều, hoang vắng, im lặng dưới vòm trời vàng úa, một thực cảnh in dấu sự thê lương.

        Và tại đây tác giả không chỉ chứng kiến sự thay đổi của cảnh vật mà còn phải chứng kiến cả sự thay đổi mạnh mẽ của con người, trong đó nhân vật Nhuận Thổ chính là nhân tố làm nên cái hồn của tác phẩm. Khi nghe tin Nhuận Thổ sẽ đến thăm, vốn tâm trạng đang buồn rầu của tác giả trước thực cảnh của quê hương lại trở nên phấn khởi và vui mừng, trong lòng nhân vật “tôi” vô cùng háo hức mong chờ cái lúc được hội ngộ với người bạn từng thân thiết năm nào.

        Trong lúc ấy ký ức của nhân vật chính liên tục tràn về những ngày gia đình còn khá giả sung túc, vào cái ngày giỗ tổ linh đình 30 năm mới có một lần và cuộc gặp gỡ giữa hai đứa trẻ ngây thơ. Trong ký ức của nhân vật “tôi” Nhuận Thổ khi ấy là một đứa trẻ có ngoại hình đáng yêu, tràn đầy sức sống “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bí tí teo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”, rồi thì bàn tay “hồng hào, lanh lẹn, mập mạp”.

        Tác phong thì nhanh nhẹn, hay nói hay cười, hiểu nhiều biết nhiều, biết bẫy cả chim khổng tước, lại biết cả bờ biển có những vỏ sò tuyệt đẹp, hay việc canh tra khỏi vào ăn dưa hấu,… Tất cả những điều ấy khiến cho một cậu thiếu gia cả ngày chỉ sống trong 4 bức tường bọc vuông lấy cái sân như nhân vật “tôi” vô cùng thích thú, và hai đứa trẻ con mau chóng trở nên thân thiết mà không hề có khoảng cách.

        Điều đó thể hiện rõ nhất thông qua cái cách mà nhân vật Nhuận Thổ xưng hô “anh-em” với nhân vật chính, thân thiết gần gũi vô cùng. Đặc biệt lúc hai đứa trẻ phải chia tay, Nhuận Thổ cứ khóc mãi mà không chịu về, sau đó ở dưới quê cậu còn nhờ bố gửi lên cho người anh em của mình mấy cái lông chim và một bọc vỏ sò, để nhắc nhở về tình cảm thân thiết đáng quý giữa cả hai.

        Một điểm sáng nữa ở nhân vật Nhuận Thổ lúc bé mà nhân vật “tôi” nhớ mãi và trân trọng ấy chính là cái vẻ thông minh lanh lợi, tự tin toát ra từ trong lời nói, tác phong và hành động của nhân vật này. Ngoài ra còn đáng quý ở chỗ Nhuận Thổ tuy là một cậu bé thế nhưng rất biết giữ lời hứa, trân trọng tình bạn dẫu chỉ ngắn ngủi có một tháng tròn.

        Tất cả những hồi ức tốt đẹp về người bạn bé thơ đã xa nhau hơn hai chục năm đang tràn đầy trong tâm trí, khiến nhân vật “tôi” trở nên mong chờ và háo hức với cuộc hội ngộ của cả hai thì hiện thực lại đem đến cho nhân vật này những sự thất vọng và buồn bã, đó là sự thay đổi hoàn toàn của Nhuận Thổ khi trưởng thành về tất cả mọi mặt.

        Nhuận Thổ đã không còn là Nhuận Thổ khi xưa, có lẽ rằng cuộc sống khó khăn đã mài dũa bào mòn khiến anh dường như biến thành một người khác.

        Không còn là một cậu bé mập mạp, tràn đầy sức sống như xưa, Nhuận Thổ trở thành một người đàn ông trưởng thành với thân hình cao lớn “nước da vàng sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm, …mi mắt viền đỏ húp mọng lên”, “anh đội một cái mũ lông chiên rách rưới, mặc một chiếc áo lông mỏng dính, người co ro cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và một chiếc tẩu thuốc lá dài”, “bàn tay vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông”.

        Tác phong thì trở nên co ro, khúm núm, mất hẳn cái vẻ linh hoạt nhanh nhẹn lúc bé, “dáng người phảng phất như một pho tượng đá”, trở nên trầm ngâm và lặng lẽ không còn hay nói hay cười như khi còn bé.

        Tuy nhiên tất cả những thay đổi ấy mới chỉ làm cho tác giả hụt hẫng và buồn rầu đôi chút vì giấc mộng bị sụp một góc nhỏ, thế nhưng chính những thay đổi về tình cảm, thái độ của Nhuận Thổ mới lại chính là cái khiến nhân vật “tôi” trở nên bằng hoàng, khiến tác giả “như điếng người đi” bởi hai tiếng “Bẩm ông!” khuôn phép, khúm núm của Nhuận Thổ.

        Như vậy đã không còn một Nhuận Thổ suốt ngày líu lo, xưng anh em với nhân vật chính nữa rồi, điều đó khiến ông thấy buồn bã và nuối tiếc vô cùng, không khí trở nên gượng gạo và tất cả những điều nhân vật “tôi” muốn nói dường như nghẹn bứ lại ở cổ, không cách nào nói tiếp được, chỉ còn cách im lặng, nhạt nhẽo. Bên cạnh đó dưới cái nhìn của nhân vật “tôi” tính cách của Nhuận Thổ cũng không còn như xưa mà trở nên biến đổi dữ dội qua hai mươi năm của cuộc đời sóng gió, khó nhọc và nghèo túng.

        Sự nhanh nhẹn hoạt bát đã biến mất thay vào đó là sự nhu nhược, sống cam chịu, mất hẳn cái khí thế xông pha, tay cầm đinh ba sẵn sàng đâm con tra ăn trộm dưa lúc nhỏ. Giờ đây người ta chỉ thấy ở người đàn ông khốn khổ cái sự chậm chạp, trầm lặng, ngu độn bởi bị cái nghèo đói đày đọa. Và rồi điều khiến tác giả buồn bã hơn cả ấy là không chỉ trở nên đần độn mà Nhuận Thổ giờ đây lại còn sinh ra cả tính gian dối, khi vùi mấy chục bát vào đống tro bếp để toan khi xúc tro mang đi thì lấy luôn.

        Như vậy nguyên nhân chính dẫn tới sự ngăn cách giữa nhân vật tôi và Nhuận Thổ có lẽ bước đầu xuất phát từ sự khác nhau giữa người tri thức và người lao động, do chế độ phân biệt đẳng cấp trong xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Bên cạnh đó sự thay đổi hoàn toàn của nhân vật của Nhuận Thổ lại chính là bắt nguồn từ chế độ phong kiến của Trung Quốc đã khiến cho con người ta trở nên tha hóa, đánh mất dần hết những vẻ đẹp nguyên sơ, thiên chân của một con người.

        Cố hương đã đem lại cho người đọc những trang văn mang hơi hướng hồi ký, không chỉ đơn thuần là thuật lại chuyến hồi hương cuối cùng của tác giả, mà bên cạnh đó qua việc kể lại sự thay đổi của người bạn thuở nhỏ Nhuận Thổ, tác giả còn gián tiếp lên án phê phán xã hội phong kiến, đồng thời đặt ra vấn đề về con đường đi của người nông dân như Nhuận Thổ và xã hội lúc bấy giờ để độc giả cùng suy ngẫm.

        Tiếp theo phân tích bài Cố hương, khám phá thêm 💕 Phân Tích Nhân Vật Anh Thanh Niên 💕 14 Bài Văn Hay Nhất

        Phân Tích Hình Ảnh Con Đường Trong Truyện Ngắn Cố Hương – Mẫu 11

        Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích hình ảnh con đường trong truyện ngắn Cố hương để các em học sinh cùng tham khảo:

        Xa quê hương mấy chục năm xa cách
        Mãi trong ta nhớ miền quê yêu dấu
        Cánh đồng xanh lưng trâu chim sáo đậu
        Nghe quê hương đất mẹ gọi ta về.​

        Đó chính là tâm trạng của một con người sau bao nhiêu năm xa quê, từng hình ảnh, từng kỷ niệm của tuổi thơ có lẽ sẽ không bao giờ quên được. Và cũng cái tâm trạng ấy, con người ấy còn đi vào các tác phẩm văn học. Một trong những tác phẩm văn học có để lại dấu ấn sâu sắc trong tôi là Cố Hương của Lỗ Tấn. Và trong truyện, có lẽ hình ảnh ‘con đường’ được tác giả nhắc đến để lại cho người đọc nhiều cảm xúc nhất, nổi bâng khuâng, suy nghĩ chất chứa trong lòng.

        Truyện ngắn kể về một chuyến đi về quê cũ của nhân vật “Tôi” sau hơn 20 năm xa cách với không gian và thời gian vô cùng đặc sắc. Có thể đây là lần cuối cùng anh về thăm lại quê. Lần này, nhân vật tôi trở về để đưa gia đình đi nơi khác định cư. Trên con thuyền trong một chiều hoàng hôn, nền trời vàng như lớp mỡ gà.

        Con đường về quê lần này đã không như mong đợi, những làng xóm thưa thớt, tiêu điều cùng với cái không gian trông im lặng và hoang vu khiến tâm trạng của “tôi” lại càng buồn hơn. Về đến nhà gặp mẹ, gặp lại những người đã từng là một phần tuổi thơ của “tôi”.

        Được mẹ kể về “Nhuận Thổ” người bạn cùng lứa. Trước kia Nhuận Thồ là một đứa trẻ mụ mẫm, lanh lợi, nhưng giờ đây gặp lại, hắn là một người ốm yếu với làn da đen sạm, nhà thì đông con. “Tôi” thấy thật buồn cho cậu ấy. Còn thím Hải Dương trước kia được mệnh danh là nàng Tây Thi đậu phụ, hàng đậu bán đắt vô cùng nhờ có chị ta.

        Chị ấy bảo “lúc cậu còn nhỏ tôi bế cậu hoài mà cậu không nhớ tôi à?” Có lẽ là vì thím ấy thay đổi quá nhiều, những kí ức đẹp đẽ kia đã bị lấn át ra ngoài hết. Trước kia thùy mị nết na là thế còn bây giờ ngược lại hoàn toàn: chanh chua, đanh đá, thô lỗ, gian xảo,…cứ thấy nhà tôi thấy có cái gì lạ là tìm cách xin cho bằng được.

        Xã hội phong kiến đã đẩy những người nông dân nghèo khổ vào bước đường cùng. Họ là những con người đáng thương, bị xã hội đẩy xuống đáy, tận cùng, nhưng họ không đủ cam đảm để tìm cho mình một con đường mới để giải thoát, để thay đổi số phận. Giờ đây, “Tôi” phải đưa gia đình của “tôi” đi nơi khác, để cho cháu Hoàng và Thủy Sinh không sống một cuộc sống như “tôi” từng sống ở đây. Cũng trên con thuyền, dòng song và hoàng hồn đã mở đầu cho một hành trình mới, để bắt đầu cho một cuộc sống mới, tốt đẹp hơn.

        Cháu Hoàng và Thủy Sinh có hỏi về vấn đề quay lại nơi này nhưng không hiểu sao “tôi” không còn một chút lưu luyến gì, muốn rời đi và sẽ không trở lại. Quê hương “tôi” sinh ra, những con người ở đây ai cũng thay đổi, mọi thứ thay đổi theo một chiều hướng tiêu cực. “Tôi” lại suy nghĩ “Kỳ thực trên mặt đất làm gì có đường, người ta đi mãi cũng thành đường đó thôi”.

        Có lẽ mong muốn một xã hội phát triển, phải có một người đứng lên, mở đường trước , đi trước mới có thể thay đổi được. Con đường của cách mạng, con đường lí tưởng, con đường của những con đường yêu nước.

        Nếu là dân tộc Việt Nam khi đọc tác phẩm “Cố Hương” lại càng rút ra được nhiều bài học. Bác Hồ đã mở đường lối mới cho dân tộc, đem tư tưởng Mac-Lê nin đến mọi thế hệ, vậy bây giờ con người Việt phải làm gì? Để tiếp nối với những gì Bác đã làm. Có lẽ từ giờ bản thân phải xác định được con đường riêng cho mình và cố gắng theo mục tiêu ấy. Và con đường mà tác giả nhắc tới cuối bài còn là con đường của niềm tin, hi vọng, không chỉ một người làm nên mà là cả một dân tộc, một thế hệ góp sức cùng xây dựng.

        Tất cả mọi thứ đến như xuất phát từ sâu thẫm đáy lòng yêu quê hương của anh. Hình ảnh làng quê trẻ thơ sẽ chẳng bao giờ phai nhạt. Một con người luôn mong ước người khác được ấm no- hạnh phúc. Có những con đường xa, đường gần, con đường khổ đau, con đường trắc trở nhưng ta cứ dũng cảm đi thì mọi con đường đều trở nên tốt đẹp và hạnh phúc.

        Chia sẻ 🌼 Phân Tích Làng Của Kim Lân 🌼 18 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

        Phân Tích Câu Cuối Bài Cố Hương – Mẫu 12

        Bài văn mẫu phân tích câu cuối bài Cố hương dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết hỗ trợ các em học sinh trong quá trình làm bài.

        Lỗ Tấn – một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc, có tư tưởng tiến bộ và muốn thay đổi bộ mặt xã hội Trung Quốc. Truyện ngắn “Cố hương” in trong tập “Gào thét” tường thuật lại chuyến về thăm quê lần cuối của ông với những rung cảm trước cảnh quê và con người quê.

        Ẩn trong bức tranh quê hương ấy là thực trạng xã hội phong kiến Trung Quốc đương thời với những bế tắc, lầm than, suy đồi và xuống cấp, cần phải thay đổi. Lỗ Tấn đã hiểu bản chất của xã hội, ông đặt ra vấn đề cần tìm con đường mới cho người nông dân nói riêng và toàn xã hội nói chung bởi: “Kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”.

        Câu nói của Lỗ Tấn “Kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi” ngoài mang ý nghĩa thực ám chỉ một con đường để đi lại, thực ra nó mang đậm ý nghĩa biểu tượng, “con đường” ở đây là hướng đi của suy nghĩ, tư tưởng và lối sống mới.

        Lỗ Tấn không nói về những con đường vốn đã sẵn có, bởi kỳ thực chẳng có con đường nào vốn có, chỉ có tự mình tìm ra con đường mới mà đi thì đó chính là con đường của khai hóa văn minh, mở mang văn hóa. Đối với hoàn cảnh cuộc sống của con người nơi quê hương Lỗ Tấn, rất cần có con đường mới khai sáng cho họ, dẫn dắt họ ra khỏi những u mê, ấu trĩ và sai lệch, đó là một con đường tư tưởng mới.

        Khi nghĩ về số phận và tương lai của những đứa trẻ như Thủy Sinh, chúng còn quá ngây thơ, Lỗ Tấn khao khát có một con đường mở ra tương lai tươi sáng hơn, cuộc sống tốt đẹp hơn cho chúng, là cách thức để giải quyết những vấn đề trong đời sống xã hội, con đường của văn minh và với Lỗ Tấn đó chính là con đường cách mạng.

        Nếu không có cách mạng sẽ không có cách nào có thể thay đổi nếp suy nghĩ cổ hủ, thói quen lạc hậu của lễ giáo phong kiến, không thay đổi được tư duy của Nhuận Thổ và thím Hai Dương thì đến đời Thủy Sinh vẫn chìm đắm trong u mê. Con đường đó không thể trông cậy vào ai khác ngoài chính những con người nơi đây, chính họ là người hắt hủi chiến sĩ cách mạng, coi thường họ, coi họ là giặc, là thằng khốn thì chính họ phải thay đổi suy nghĩ đó.

        Họ phải tự xây dựng tư duy cho mình tạo thành lối suy nghĩ mới, rồi dần dần để suy nghĩ đó ăn sâu, bám rễ vào trong tâm thức, giống như việc lối đi mòn nhiều rồi cũng thành con đường. Cứ “đi mãi thì thành đường thôi”, không có lối đi nào chỉ một lần đã thành đường, muốn có đường phải có ý chí quyết tâm, kiên trì và nhất quán sẽ thành công. Khi đã có đường, con đường đó sẽ phục vụ cho chính người dân nơi đây, sẽ dẫn dắt họ đi tới hạnh phúc, ấm no, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.

        Tác giả tin rằng, chỉ cần người dân quê hương ông nói riêng và người dân Trung Hoa nói chung muốn thay đổi thì sẽ làm được, bởi vốn chẳng có gì là bất biến nhưng tư tưởng và suy nghĩ lại là thứ có thể thay đổi, chỉ cần họ tin vào sự đổi mới của con đường cách mạng tư tưởng, văn hóa, tri thức. Chỉ có thoát ra khỏi được những lối mòn suy nghĩ u mê kia, thoát khỏi lạc hậu mới xóa sổ được những hình ảnh nàng “Tây Thi đậu phụ” hay Nhuận Thổ.

        Câu nói của Lỗ Tấn không chỉ thể hiện cái nhìn thương đời thương người của ông, ông lo cho sự nghiệp ấm no hạnh phúc của nhân dân, lo cho bộ mặt xã hội và mong muốn được thay đổi xã hội Trung Hoa tốt đẹp hơn. Hình ảnh con đường trong câu nói của Lỗ Tấn không chỉ khai thông tư tưởng của ông, giúp ông tìm ra được hướng đi của mình mà hơn thế ông còn cho người dân Trung Hoa biết cách tạo ra con đường cách mạng tư tưởng đúng đắn, đưa họ tới một kỉ nguyên mới thoát khỏi lễ giáo phong kiến suy đồi, lạc hậu.

        Mời bạn khám phá thêm 💕 Phân Tích Nhân Vật Ông Hai Trong Truyện Ngắn Làng 💕 16 Mẫu Hay Và Đặc Sắc

        Viết một bình luận