Phân Tích Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh ❤️️22+ Mẫu ✅ Giới Thiệu Tuyển Tập Bài Văn Hay Và Đặc Sắc Nhất Giúp Bạn Đạt Kết Quả Cao Cho Bài Viết.
Dàn Ý Phân Tích Phân Tích Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh
Đón đọc và tham khảo mẫu dàn ý phân tích phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh chi tiết dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được bố cục và những luận điểm chính để triển khai bài viết.
1.Mở bài phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh:
- Giới thiệu về tác giả Phạm Đình Hổ và tác phẩm “Vũ Trung tùy bút”
- Giới thiệu đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh”.
2.Thân bài phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh:
a. Thói ăn chơi hưởng lạc sa hoa, vô độ của chúa Trịnh Sâm:
-Sự xa hoa trong cuộc sống của chúa Trịnh Sâm đã được ghi chép lại chân thực, tỉ mỉ:
- Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài chỉ để thỏa mong muốn “thích chơi đèn đuốc”
- Việc xây dựng đền đài vì mục đích cá nhân này đã làm cho nhân dân hao tiền tốn của
- Chúa thường xuyên tổ chức các cuộc dạo chơi Tây Hồ ba bốn lần một tháng, mỗi cuộc dạo chơi lại huy động rất nhiều người hầu hạ cùng những trò giải trí lố lăng, tốn kém
- Việc tìm thu vật “phụng thủ” chính là cướp đoạt những vật quý giá trong thiên hạ. Việc tập trung miêu tả việc đưa một cây đa cổ thụ về ừ bên kia sông, cần tới cơ binh hàng trăm người, thể hiện sự kì công, cũng cho thấy sự sa hoa tốn kém
-Thói ghi chép tỉ mỉ, chân thực, khách quan, không đưa thêm bất cứ một lời bình luận nào nhưng cũng đủ để cho thấy sự xa xỉ ăn chơi, không màng đến quốc gia đại sự của một người nắm binh quyền. Thể hiện sự dự báo trước sụp đổ, suy vong là điều không tránh khỏi đối với một triều đại chỉ ăn chơi hưởng lạc
b. Sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền:
-Sự sa hoa hưởng lạc của người đứng đầu đưa đến thói nhũng nhiễu của quan lại dưới trướng:
- Bọn hoạn quan được sủng ái vì giúp vua trong những trò chơi sa hoa nên ỷ thế hoành hành, tác oai tác quái
- Chúng tìm thu vật “phụng thủ” mà thực ra chính là vừa ăn cướp, vừa la làng ⇒ người dân bị cướp đến hai lần, hoặc phải tự hủy bỏ những sản vật quý giá của mình, mà chúng thì lại vừa vơ vét làm của riêng lại vừa được tiếng mẫn cán
- Phạm Đình Hổ kể câu chuyện từ chính gia đình mình khi bà mẹ ông phải sai chặt đi một cây kê và hai cây lựu quý chỉ vì muốn tránh tai họa, qua đó càng tăng sức thuyết phục cho sự chân thực của những ghi chép
-Qua cách ghi chép, tác giả đã kín đáo bộc lộ thái độ bất bình, phê phán của tác giả
c. Đặc sắc nghệ thuật:
- Cách ghi chép hết sức tỉ mỉ, chân thực, ngòi bút Phạm Đình Hổ là một ngòi bút trầm tĩnh mà sâu sắc,…
- Miêu tả chân thực cuộc sống xa hoa của vua chúa và thói nhũng loạn của quan lại
- Bộc lộ kín đáo cảm xúc của mình.
3.Kết bài phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh:
- Tác phẩm không chỉ mang giá trị văn chương mà còn mang giá trị lịch sử đáng ghi nhận
- Mở rộng trình bày suy nghĩ bản thân về những nội dung phản ánh trong đoạn trích
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Tóm Tắt Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh 🍀 15 Bài Mẫu Hay
Phân Tích Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh Hay Nhất – Mẫu 1
Tham khảo bài văn mẫu phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây:
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh được trích từ Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ. Tác phẩm đã ghi lại một cách chân thực bức tranh trong phủ chúa Trịnh Sâm với thói ăn chơi xa xỉ, vô độ; sự hống hách ngang ngược của bọn quan lại, đồng thời cho thấy cuộc sống khốn khổ của nhân dân.
Trước hết tác giả phác họa bức tranh ăn chơi xa xỉ trong phủ chúa Trịnh và các quan lại hầu cận. Để chứng minh thói ăn chơi vô độ của chúa Trịnh Sâm, Phạm Đình Hổ đã liệt kê trên nhiều phương diện. Trước hết, chúa cho xây dựng nhiều đền đài, cung điện để thỏa mãn thú “đi chơi ngắm cảnh đẹp”, việc xây dựng triền miên hết năm này qua năm khác, không chỉ hao tiền tốn của mà còn bòn rút hết sức lực của người dân, khiến cuộc sống của họ cùng cực, đói khổ.
Không chỉ vậy, chúa Trịnh còn thường rong chơi, trong một tháng dạo chơi trên hồ đến ba bốn lần. Những cuộc dạo chơi đó còn phải huy động rất nhiều người hầu, kẻ hạ “binh lính dân hầu vòng quanh bốn mặt hồ” sẵn sàng thực hiện mệnh lệnh của chúa. Chúa Trịnh còn bày ra nhiều trò giải trí lố lăng, tốn kém tiền bạc như cho các nội thần ăn mặc giả đàn bà bày hàng bán quanh hồ, thuyền ngự dạo trên hồ, thỉnh thoảng lại ghé vào mua bán.
Thực là một cảnh lố lăng, kệch cỡm chưa từng có trong lịch sử nước nhà. Đến sự việc thứ ba thì càng đáng trách hơn nữa, không chỉ bày ra những trò chơi kệch cỡm, phủ chúa còn ngang nhiên cướp đoạt trắng trợn những “loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh” trong dân gian mang về phủ chúa.
Để làm rõ hơn điều đó, tác giả lấy dẫn chứng hết sức chân thực về việc di chuyển một cây cổ thụ: “cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ bình mới khiêng nổi” ấy vậy mà phủ chúa nhất quyết phải đem cho được cây cổ thụ ấy về. Những việc làm, hành động đó càng cho thấy rõ hơn sự ngang ngược, lộng hành của chúa Trịnh Sâm.
Cuối đoạn văn, tác giả đã khẳng định: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu, vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường”. Đây là những suy nghĩ, cảm nhận được nhà văn trực tiếp bộc lộ.
Suốt cả đoạn văn phía trước ông chỉ kể lại, trần thuật lại bằng giọng đều đều bình bình, không nhấn nhá, không cảm xúc, nhưng đến đây ông cũng phải cất lên tiếng thở dài não nùng. Những kẻ thức giả, có hiểu biết sẽ nhận ra rằng đây là những dấu hiệu bất thường, báo hiệu sự suy yếu tất dẫn đến bại vong của một triều đại. Triều đại chỉ lo ăn chơi, hưởng lạc, chà đạp lên đời sống người dân ắt sẽ sụp đổ.
Người xưa vẫn thường nói rằng: “Thượng bất chính , hạ tắc loạn” tức để nói nếu bề trên làm việc không nghiêm túc, làm những điều sai trái thì tất yếu kẻ bề dưới cũng vì thế mà làm theo. Trong phủ chúa Trịnh, mọi việc đã diễn ra đúng như vậy. Chúa Trịnh tham lam, chỉ lo hưởng lạc nên tất yếu sinh ra những kẻ hầu cận, quan cấp dưới ỷ thế mà ức hiếp dân lành, chúng dùng nhiều thủ đoạn để nhũng nhiễu, vơ vét của nhân dân.
Bọn hoạn quan bày trò cướp đoạt, vu cáo, phá hoại tài sản của người dân trắng trợn. Chúng “dò xem” nhà nào có vật quý thì biên ngay vào hai chữ “phụng thủ”. Ở đoạn văn này tác giả sử dụng hàng loạt động từ, kết hợp với miêu tả cho thấy sự ngang ngược, bất nhân của chúng: “trèo qua tường thành lẻn ra” “lấy phăng đi” “buộc tội”,… đó là hành động của kẻ cướp, chúng vừa ăn cắp, vừa la làng. Những người bị vu vạ phải chạy vạy tiền của hoặc tự tay phá đi “núi non bộ” “cây cảnh” để không rước tai vạ vào thân.
Người dân phải chịu biết bao bất công, phi lí. Để làm cho đoạn văn tăng tính xác thực, Phạm Đình Hổ kể một chuyện xảy ra với chính gia đình mình. Gia đình nhà ông có cây lê cao lớn, đẹp đẽ, lúc hoa nở trắng xóa, thơm lừng; ngoài ra còn có trồng hai cây lựu trắng và lựa đỏ lúc ra quả rất đẹp nhưng bà cung nhân cũng phải sai chặt đi. Đoạn văn cuối tác phẩm đã góp phần tố cáo, tăng ý nghĩa phê phán với bọn quan lại lúc bấy giờ.
Tác phẩm không chỉ hấp dẫn ở nội dung đặc sắc mà còn gây hứng thú cho bạn đọc ở ngòi bút tài hoa. Phạm Đình Hổ đã ghi chép một cách chân thực những gì mình đã chứng kiến. Ngôn ngữ, giọng điệu tự nhiên, trôi chảy, không bị gò bó bởi cốt truyện. Kết hợp hài hòa giữa kể và tả vạch trần bộ mặt xấu xa, độc ác, bất nhân của chúa Trịnh và bè lũ tay sai.
Với thể tùy bút linh hoạt, phóng khoáng Phạm Đình Hổ đã ghi lại một cách chân thực, sinh động khung cảnh sinh hoạt sa đọa, lối sống xa hoa, vô độ trong phủ chúa và sự lộng hành, nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền. Đằng sau bức tranh đó còn cho thấy đời sống khổ cực, bị đè nén, áp bức của nhân dân.
SCR.VN chia sẻ 🌹 Sơ Đồ Tư Duy Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh 🌹 8 Mẫu Ngắn Gọn
Phân Tích Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh Ngắn Gọn – Mẫu 2
Bài văn phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo những ý văn súc tích và giàu ý nghĩa biểu đạt.
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), quê ở tỉnh Hải Dương. Ông sinh ra trong một gia đình làm quan cuối thời Lê – Trịnh. Phạm Đình Hổ là người rất tài giỏi. Điều này được minh chứng rất rõ khi ông còn rất nhỏ, khi còn đi học. Ông sáng tác rất nhiều văn thơ chữ Hán có giá trị về nhiều mặt. Nổi bật nhất phải kể đến tác phẩm “Vũ trung tùy bút”, đây là tác phẩm gắn liền với tên tuổi của Phạm Đình Hổ. Trong đó, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trang tùy bút nổi bật trong tác phẩm.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh được viết dựa vào câu chuyện khoảng năm Giáp Ngọ – Ất Mùi. Đó là những ngày tháng nhung lụa của chúa Trịnh Sâm. Trịnh Sâm sống trong xa hoa, quyền quý với những thú vui sa đọa. Điều này được thể hiện rõ qua những chi tiết như Chúa thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, tháng ba bốn lần.
Việc đón tiếp Chúa cũng phải linh đình long trọng không thua kém bất kì lễ hội nào. Thuyền Chúa dừng lại đâu thì các quan lại ghé vào bờ mua bán tấp nập. Chùa Trấn Quốc đã trở thành nơi hòa tấu nhạc, mua vui của lũ nhạc công ở cung đình. Đình, điện được xây dựng, trùng tu để thỏa mãn cuộc sống ăn chơi trác táng của vua chúa cũng như bọn quan lại Lê – Trịnh. Tất cả kinh tế, tiền của của nhân dân đều phục vụ cho mục đích đó của chúng.
Sống trong xa hoa, hưởng lạc nên từ chúa đến lũ quan lại đều trở thành những “lũ cướp” trắng trợn nhân dân. Phạm Đình Hổ đã khắc họa rất cụ thể, chi tiết về thú vui chơi đến táo bạo, khác lạ bóc lột nhân dân của chúa Trịnh Sâm “thu lấy trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian không thiếu một thứ gì”. Có những cây to, khó chở phải điều động nhân lực và vận chuyển vô cùng vất vả về đến phủ Chúa.
Trong phủ chúa, vườn tược đều được điểm xuyết những loại cây quý được đưa từ khắp nơi về. Cuộc sống xa hoa, trác táng không bao giờ bền vững, kéo dài. Đó chính là lí do của sự sụp đổ ngai vàng của Chúa. Năm 1782, chúa Trịnh Sâm qua đời, cảnh loạn binh xảy ra, Nguyễn Huệ khởi nghĩa khiến sự nghiệp của họ Trịnh tan biến trong chớp mắt.
Cảnh loạn lạc xảy ra khắp mọi nơi. Lũ hoạn quan với những thủ đoạn thâm độc đã ngang ngược phá hủy đồ đạc, công trình của triều đình. Lũ nhà giàu thì mưu mô, xảo quyệt. Nhiều gia đình phải li tán, gặp khó khăn về mọi mặt. Trước tình hình đó, tác giả cũng đề cập phần ít đến việc gia đình mình. Mẹ Phạm Đình Hổ là bà cung nhân phải sai người chặt cây lê “cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng”, hai cây lựu trắng, lựu đỏ lúc ra quả trông rất đẹp.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một câu chuyện có thật do chính tác giả quan sát và ghi chép lại. Đây là một câu chuyện có giá trị to lớn về mọi mặt, đặc biệt là giá trị lịch sử với những chi tiết, sự kiện lịch sử nổi bật. Chính ngòi bút sắc lạnh nhưng có phần sâu cay, chua xót đã góp phần tạo nên nội dung ý nghĩa của câu chuyện. Trải qua nhiều năm tháng nhưng giá trị của câu chuyện vẫn còn mãi đối với người đọc và là một trong những câu chuyện nổi bật thuộc thể loại tùy bút.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Đoạn Trích Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh Ngắn Nhất – Mẫu 3
Tham khảo bài văn phân tích đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh ngắn nhất dưới đây với những ý văn hàm súc và luận điểm cơ bản nhất.
Nhắc đến tác giả văn học Phạm Đình Hổ là nhắc đến tập “Vũ Trung Tùy Bút” nổi tiếng của ông. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán ghi lại những sự việc, những câu chuyện xảy ra vào cuối đời Lê. Tập tùy bút đã phản ánh được hiện thực xã hội một cách chân thực nhất. Đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của tập tùy bút này.
Sinh thời, vua Trịnh Sâm ăn chơi sa đoạ, cậy quyền thế, tiền bạc mà ham xây đền đài cung điện chỉ để thưởng ngoạn, ngắm cảnh. Bao cảnh ăn chơi sa đoạ trác táng của vua quan khiến người đọc không khỏi căm phẫn. Tháng ba bốn lần tổ chức đi chơi, ngắm cảnh đây đó.
Binh lính nô tì mặc áo đàn bà giải trí cho vua quan, đón tiếp vua thì lòng trọng hơn cả những lễ hội xưa, phí phạm bao tiền bạc, của cải. Nhạc cung đình chờ sẵn khắp nơi, hòng khi cần thì tấu lên vài bạn mua vui, nội thần thì nhau bày bách hóa chung quanh hồ mà bán, kẻ mua người bán được tổ chức như một phiên chợ. Cảnh thật nhàn nhã, sung sướng.
Nhưng trớ trêu thay, vua Lê chúa Trịnh đang ăn chơi trên xương máu, mồ hôi, tiền bạc của nhân dân, của những người nghèo khổ. Chúng dùng cường quyền, mượn gió bẻ măng mà doạ nạt nhân dân. Chúng chực chờ những của quý, cây cảnh, chim chóc hiếm trong nhà nhân dân, mượn cớ dâng lên vua chúa mà chiếm đoạt. Chúng tàn bạo đến mức “ăn cắp la làng” nhằm đày đoạ người vô tội mà ăn tiền, mà cướp bóc.
Đời sống nhân dân khổ cực lầm than chúng chẳng hề xót xa lay động, quan quân thì nhau hoành hành, tàn phá của cải, trấn lột nhân dân. Còn gì đốn mạt, đê hèn hơn. Những hưởng lạc trác táng của bọn vừa chúa lúc bấy giờ khiến không khỏi nghi ngại về một tương lai tan tành, tăm tối: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ đổ tan tành, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường.”.
Trang tùy bút đã vạch mặt được bản chất tham nhũng, đê hèn chỉ biết hưởng thụ của một bầy vua tôi nhu nhược. Chúng sung sướng trên sự khổ đau của nhân dân. Vua tôi càng giàu có, càng chuyên quyền bao nhiêu thì nhân dân càng khổ cực, càng đau đớn và căm phẫn bấy nhiêu. Sự “triệu bất tường” trong dòng suy nghĩ của tác giả như điềm dự báo cho sự suy vong của triều đại này trong tương lai. Là điều cảnh báo và lời cảnh tỉnh cho vua quan chúa Trịnh lúc bấy giờ.
Thực tế lịch sử đã chứng minh cho sự tàn nhẫn đó khi vào năm 1782 chúa Trịnh qua đời, thành Thăng Long bị đánh phá tan tành bởi loạn kiêu binh, không một quân tướng nào chống đỡ nổi, sự nghiệp, cơ độ tàn tành trong chớp mắt. Có chăng, sự ân hận cũng đã muộn màng.
Chúng như những con ma giết người, ngang nhiên cho quân lính vượt tường nhà dân mà cướp đi của cải rồi hăm doạ. Chúng buộc nhân dân đến đường cùng khi phải phá bỏ của cải chính mình làm ra để tránh tai vạ. Mẹ Phạm Đình Hổ cũng buộc phải thuê người chặt cây lê, cây lựu quý trước nhà để tránh sự nhũng nhiễu của lũ quan tham kia.
Bằng ngòi bút chân thực, khách quan, tác giả đã tái hiện lại cảnh tượng xa hoa thời vua Lê chúa Trịnh. Đồng thời gián tiếp tố cáo tội ác “vô nhân đạo” của vua quan lúc bấy giờ và cất lên tiếng nói thương cảm đối với cuộc sống cơ cực khốn khổ của nhân dân. Đoạn trích tuy ngắn nhưng mỗi lời, mỗi chữ viết ra đều thâm trầm, sâu sắc, cho thấy được tài năng và tấm lòng thiết tha bởi dân với nước của một hiền tài dân tộc.
Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh 🌳 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Tác Phẩm Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh Chi Tiết – Mẫu 4
Bài văn phân tích tác phẩm Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh chi tiết dưới đây sẽ giúp các em học sinh đi sâu phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Nhắc tới Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), người đời nhớ tới tác phẩm Vũ trung tùy bút của ông. Một bút pháp nghệ thuật tinh tế, tài hoa, một phong thái thư nhàn cao nhã, ông tiêu biểu cho cốt cách kẻ sĩ Bắc Hà cuối thời Lê – Trịnh và thời kì đầu nhà Nguyễn. Chuyên cũ trong phủ chúa Trịnh là một trang tùy bút đặc sắc, rút trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.
Tùy hứng mà viết, tùy bút mà viết, cảm hứng dào dạt, dâng trào, cảnh ăn chơi xa hoa của chúa Trịnh Sâm, cảnh bán hàng của bọn nội thần nội thị, cảnh tấu nhạc của bọn nhạc công cung đình tại chùa Trấn Quốc nơi Hồ Tây giữa thế ki XVIII, sự nhũng nhiễu của bọn hoạn quan khắp chốn dân gian… đã được tác giả Vũ Trung tùy bút chấm phá qua một vài nét, thế mà ta chỉ đọc qua một lần là có thể nhớ mãi.
Chuyện cũ… đã xảy ra vào khoảng năm Giáp Ngọ – Ất Mùi (1774 – 1775), đó là lúc Đàng Ngoài “vô sự”, là những năm tháng hoàng kim của Thịnh Vương (Trịnh Sâm); khi mà người ngọc Đặng Thị Huệ được chúa sủng ái trở thành nguyên phi. Trịnh Sâm sống trong xa hoa: Thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy.
Chúa ra chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ mỗi tháng ba bốn lần. Cảnh đón tiếp với các thứ nghi lễ thật tưng bừng độc đáo. Có “binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ” Có tổ chức hội chợ, do quan nội thần cải trang “đều bịt khăn, mặc đồ đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán”
Thuyền ngự đi tới đâu thì các quan hô tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ… Gác chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi hòa nhạc của bọn nhạc công cung đình. Đình đài, cung điện được xây dựng “liên tục” nhằm thỏa mãn cuộc sống ăn chơi của vua chúa và bọn quan lại thời Lê – Trịnh. Bao nhiêu tiền của, vàng bạc, châu báu, nước mắt mồ hôi của nhân dân bị bòn vét đến kiệt cùng. Phạm Đình Hổ đã được mắt thấy tai nghe những Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh nên cách kể, cách tả của ông rất sống động.
Để được sống trong xa hoa, hưởng lạc đế vương, từ chúa đến quan đều trở thành bọn cướp ngày ra sức hoành hành, trấn lột khắp chốn cùng quê. Chúa thì “sức thu lấy” trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian “không thiếu một thứ gì”. Có những cây cảnh “cành lá rườm rà… như cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng” phải dùng đến một cơ binh mới khiêng nổi, từ bên bắc chở qua sông đem về.
Trong phủ chúa “điểm xuyết” bao núi non bộ trông lạ mắt như “bốn bể đầu non”. Vườn ngự uyển, trong những đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm “ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn”. Nếu như trong Thượng kinh kí sự, Lê Hữu Trác ngạc nhiên viết:
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào.
Thì ở đây, Phạm Đình Hổ ái ngại nghĩ: “Kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Cuộc sống cực kì xa hoa ấy là nguyên nhân cho sự sụp đổ ngai vàng ngày một ngày hai sẽ nổ ra. Đó là năm 1782, Trịnh Sâm qua đời; loạn kiêu binh nổ ra, kinh thành Thăng Long bị đốt phá tan hoang; năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, cơ nghiệp họ Trịnh tan tành trong nháy mắt! “Cái triệu bất tường” mà Phạm Đình Hổ nghĩ tới thật linh nghiệm. Quy luật cuộc đời vô cùng sòng phẳng, cay nghiệt:
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh.
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát, tan tành còn đâu?
(Văn chiêu hồn – Nguyễn Du)
Bọn hoạn quan trong phủ chúa vừa trắng trợn vừa xảo quyệt, như dân gian đã khinh bỉ chửi vào mặt: “Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Chúng dùng thủ đoạn “nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm”. Chỉ bằng hai chữ “phụng thủ” biên ngay vào chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu hay của bất cứ nhà nào là chúng cướp được.
Chúng còn lập mưu đêm đến cho tay chân sai lính lẻn vào “lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền”. Chúng ngang ngược “phá nhà hủy tường” của dân để khiêng hòn đá hoặc cây cối gì mà chúng cướp được! Đối với nhà giàu thì chúng lập mưu vu cho là “giấu vật cung phụng” để hành hạ, để làm tiền, nhiều người phải “bỏ của ra kêu van chí chết”, có gia đình “phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ”
Gia đình tác giả thuộc hàng quan lại, quý tộc thời Lê – Trịnh. Trước sự nhũng nhiễu hoành hành, mẹ Phạm Đình Hổ là bà cung nhân phải sai người nhà chặt cây lê “cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng”, hai cây lựu trắng, lựu đỏ “lúc ra quả trông rất đẹp”. Chi tiết này, tình tiết này rất sống, rất thực. Tác giả đã kể lại một chuyện có thật của gia đình mình ở phường Hà Khẩu để vừa tạo nên niềm tin cho người đọc mai hậu, vừa phê phán bộ mặt tham lam, ghê tởm của bọn quan lại thời Lê – Trịnh, vạch trần sự thối tha trong phủ chúa.
Trang tùy bút Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ có giá trị lịch sử sâu sắc, nó đã làm hiện lên cảnh vật và con người, cuộc sống xa hoa ăn chơi của vua chúa, hành động ăn cướp, làm tiền trắng trợn của bọn quan lại trong phủ chúa. Ngòi bút của Phạm Đình Hổ rất trầm tĩnh và sâu sắc. Mọi cảm xúc, ý nghĩ của ông về nhân tình thế sự được gửi gắm qua những chi tiết, tình tiết, mẩu chuyện rất sống động, rất chọn lọc, đậm đà, nhã thú.
Xem nhiều hơn 🌟 Sơ Đồ Tư Duy Vào Phủ Chúa Trịnh 🌟 10 Mẫu Tóm Tắt Hay
Phân Tích Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh Nâng Cao – Mẫu 5
Tham khảo bài văn phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh nâng cao dưới đây để trau dồi những ý văn hay và đặc sắc.
“Vũ Trung tùy bút” là tác phẩm gồm tám mươi tám mẩu chuyện nhỏ, được ghi chép tùy hứng, tản mạn bàn về lễ nghi phong tục, … hay về những việc xảy ra ở xã hội những năm đầu thời Nguyễn của tác giả Phạm Đình Hổ. Trong đó, “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” là đoạn trích được trích ra từ tập sách chữ Hán này.
Đoạn trích tuy ngắn gọn nhưng đã ghi chép thật chân thực, cụ thể, sinh động những thú vui xa hoa, hưởng thụ của vua chúa, cùng với đó là sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới thời Lê – Trịnh. Đồng thời, thông qua đó, ông muốn lên án, tố cáo một xã hội thối nát từ tận cùng, khiến cho dân chúng không thể yên ổn.
Mở đầu đoạn trích, bằng ngòi bút chân thực, không câu nệ của Phạm Đình Hổ, người đọc chúng ta được chứng kiến một cuộc sống ăn chơi với những thú vui chơi xa xỉ của chúa Trịnh Sâm cùng với bọn quan hầu cận. Vốn là một vị chúa, Trịnh Sâm phải quan tâm đến triều đình, giải quyết các quyết sách cùng nhà vua. Nhưng không, Trịnh Sâm không hề quan tâm đến việc triều chính, hắn chỉ lo hưởng thụ cuộc sống xa hoa, lãng phí.
Chúa Trịnh cho xây dựng đền đài, cung điện bên bờ Tây Hồ để phục vụ mỗi lần vua ra chơi. Cái việc “xây dựng đình đài”, cung điện liên miên ấy chỉ để thỏa mãn cái thú chơi đèn đuốc, “đi chơi ngắm cảnh đẹp” của chúa. Không chỉ ở Tây Hồ, chúa còn cho xây dựng ở nhiều nơi chúa thường lui tới như núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Đi tới đâu cũng kéo theo việc xây dựng đình đàm gây hao tốn công sức và tiền của của người dân nghèo.
Ở đây, Phạm Đình Hổ đặc biệt miêu tả lại một cuộc dạo chơi của chúa ở phủ Tây Hồ. Khi chúa đến phủ Tây Hồ để thăm thú, chúa Trịnh Sâm thường “ngự ở li cung”, binh lính thì “dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ”, các quan lại, nội thần thì “đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa quanh hồ bán”.
Lúc thuyền chúa ngự tới đâu, lại có những kẻ đại thần ghé vào hàng quán ấy mua đồ “như ở cửa hàng trong chợ. Ở “gác chuông chùa Trấn Quốc hay dưới bóng cây bến đá nào đó”, bọn nhạc công phải ngồi tấu nhạc mua vui. Phải nói, cuộc vui chơi ấy thật giả dối và lố lăng hết sức. Vậy mà mỗi tháng, nó diễn ra tới tận “ba bốn lần”. Thật tốn kém tiền của đến vô cùng!
Ngòi bút khách quan, chân thực của Phạm Đình Hổ đã cho chúng ta thấy một bức tranh về cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc đầy giả dối, nực cười, lố lăng của vua chúa và quan lại thời Lê – Trịnh. Những thú chơi tiêu khiển ấy không chỉ khiến người khác cảm thấy lố lăng mà còn làm hao tốn tiền của, công sức của những người dân lao động trong xã hội lúc bấy giờ nữa.
Thông qua những ghi chép cụ thể này, Phạm Đình Hổ âm thầm tố cáo xã hội, vua chúa cùng tầng lớp quan lại chỉ biết hưởng thụ cuộc sống xa hoa mà không quan tâm gì đến dân chúng cũng như các vấn đề của xã hội thời bấy giờ.
Không chỉ có thú hưởng lạc giả dối, lố lăng, khác người, chúa Trịnh Sâm và bọn quan lại còn có thú chơi cây cảnh cũng thật dị thường. Khắp cung vua, “bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu cây hoa cảnh chốn nhân gian” đều có, nhưng đều là những đồ vật bị vua “thu lấy”, đoạt lấy một cách hết sức trắng trợn.
Bằng những từ ngữ sống động, Phạm Đình Hổ cũng khắc họa lại công cuộc đem một cây đa to nhiều cành lá về tô điểm cho cung vua. Nào là phải có “một cơ binh mới khiêng nổi”, nào là “bốn người đi kém, đều cầm gươm, đánh thanh la, đốc thúc quân lính khiêng cho đều tay”. Chỉ một thú chơi thôi mà phải huy động tới một cơ binh hàng trăm người để mang về cho phủ chúa. Thú chơi ấy thật mất nhiều công sức, thời gian và tiền bạc.
Chưa kể, trong phủ, bốn bề đều “điểm xuyết bày vẽ hình non bộ, trông như bến bể đầu non”, rồi những loài chim, loài vượn, đều được phủ chúa hết sức thu về, bày vẽ trong đó, khiến cho phủ lúc nào cũng ồn ào như “trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn”. Đây cũng là một sự bộc lộ cảm xúc rất kín đáo, tế nhị của Phạm Đình Hổ về thú chơi trong phủ chúa.
Ông cảm thấy dù trong phủ chúa có thật nhiều chim muông, thú lạ, cây cảnh đẹp, nhưng lại vang lên những tiếng kêu thật như tiếng “tan đàn”, “mưa sa bão táp”, đều là những điều không may. Bởi tiếng kêu của chim, tiếng hú của vượn, phải chăng là tiếng than của muôn loài đang bị nhốt trong lồng cũi, là tiếng của thiên nhiên, vạn vật đang giận dữ kêu than? Đó như là lời dự đoán về sự sụp đổ của một triều đại đã thối nát từ tận xương tủy, chỉ biết ăn chơi, biết hưởng lạc, sa đọa trên mồ hôi, công sức, máu thịt của nhân dân!
Phạm Đình Hổ không chỉ để ý ghi chép về thói ăn chơi vô độ, nhố nhăng của vua tôi Trịnh Sâm mà còn để ý ghi chép cả thói nhũng nhiễu của những kẻ làm quan dưới trướng Trịnh Sâm nữa. Đó là những kẻ nổi lên, được trọng dụng bởi thói nịnh nọt, là tay sai đắc lực trong công cuộc hưởng lạc của vua. Chính thói ăn chơi, hưởng lạc ấy của chúa Trịnh đã tạo ra đám tham quan với thói nịnh bợ, nhũng nhiều.
Điển hình, để lấy được những vật quý báu của dân chúng trong dân gian “chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay”, chúng bày trò, “nhờ gió bẻ măng”, biên hai chữ “phụng thủ” để mà cướp đi một cách trắng trợn. Không chỉ thế, chúng còn lẻn vào nhà người ta, “cắt phăng” những cây cảnh, chậu hoa ấy rồi giá họa, bắt dân chúng bỏ của ra mà kêu để không bị buộc tội. Với những cây cối to lớn, bọn quan lại còn sai người phá hủy tường để khiêng ra, gây tổn thất với tiền của của người dân.
Thế nhưng, chúng ỷ thế giúp vua bày những trò sa hoa, được vua chúa hậu thuẫn nên càng tác quái, hoành hành hơn nữa. Chúng mượn cớ đi tìm vật báu dâng lên vua, nhưng thực chất đang vơ vét tiền của của dân chúng để làm của riêng, vậy nên mới bày trò để những nhà giàu phải “bỏ của ra kêu oan” hay phải tự tay đập bỏ núi non bộ, phá hủy cây cảnh.
Để chính minh cho tính chân thực của câu chuyện, tác giả còn kể lại câu chuyện của chính gia đình mình. Vốn nhà Phạm Đình Hổ ở Hà Khẩu, Thọ Xương có cây lê “cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng xóa thơm lừng”, rồi có trồng hai cây lựu trắng và đỏ rất đẹp, nhưng vì sợ thói nhũng nhiều của bọn quan lại dưới trướng chúa Trịnh mà “bà cung nhân” nhà ông phải sai người chặt đi để tránh bị bọn chúng quấy nhiều.
Bằng những câu chứ chân thực, cụ thể mà sống động, Phạm Đình Hổ qua đó, kín đáo bộc lộ thái độ phê phán, phê bình thói ăn chơi hưởng lạc của vua chúa, dẫn đến sự nhũng loạn của đám quan lại dưới quyền. Ông cũng bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với những số phận con người bị áp bức dưới triều đại phong kiến này.
Với lối ghi chép rất chân thực của mình, “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” của Phạm Đình Hổ đã phơi bày cuộc sống xa hoa với những thú chơi rất giả dối, lố lăng cùng thói nhũng nhiễu dân chúng của vua chúa và quan lại dưới thời vua Lê chúa Trịnh. Không chỉ vậy, ông còn ngầm gửi vào đó sự phê phán về xã hội đương thời thối nát và đứng về phía những người dân bị áp bức. Đoạn trích vừa giàu tính hiện thực, sinh động với những sự việc người thật việc thật, vừa giàu giá trị nghệ thuật.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Hoàng Lê Nhất Thống Chí 🍀 15 Bài Văn Mẫu Hay
Phân Tích Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh Học Sinh Giỏi – Mẫu 6
Đón đọc bài phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học nâng cao.
Trong các áng văn xuôi thời kì trung đại ở nước ta, bên cạnh Truyền kì mạn lục – một “Thiên cổ kì bút” – người đời thường nhắc tới Vũ trung tuỳ bút (Theo ngọn bút viết trong khi mưa) của Phạm Đình Hổ. Tác phẩm ra đời vào đầu thế kỉ XIX. Khác với Truyền kì mạn lục, tập sách “viết trong mưa” ấy thuộc thể loại tuỳ bút. Dùng văn tuỳ bút, danh nho Phạm Đình Hổ đã tuỳ theo hứng thú và suy nghĩ của riêng mình, ghi chép lại những sự việc, những câu chuyện cụ thể chân thực, những điều tai nghe, mắt thấy trong cuộc sống.
Khi đọc Truyền kì mạn lục, chúng ta bắt gặp đây đó những yếu tố lãng mạn, huyền ảo, còn trong Vũ trung tuỳ bút thì đậm đặc chất hiện thực. Một trong những bức tranh hiện thực ấy là những chuyện trong phủ chúa Trịnh Sâm. Viết lại những câu chuyện cũ ấy, tác giả dự báo “đó là triệu bất tường”, là những dấu hiệu không lành, những điềm gở.
Trước hết là những câu chuyện về thói ăn chơi xa xỉ, vô độ của chúa Trịnh Sâm và các quan lại hầu cận trong phủ chúa. Tác giả Phạm Đình Hổ kể ba sự việc tiêu biểu. Việc thứ nhất: Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở các nơi để thỏa mãn ý thích “đi chơi ngắm cảnh đẹp”, ý thích đó cứ triền miên, nối tiếp tưởng đến không cùng. Vì vậy, nhà văn viết “Việc xây dựng đình đài cứ liên miên”.
Nghĩa là việc huy động sức dân, thu tiền bạc, chiếm đất đai, bắt nhân công liên tục diễn ra hàng tháng, hàng năm, nơi này, nơi khác. Việc thứ hai: Những cuộc rong chơi của chúa Thịnh Vương (Trịnh Sâm). Chúa thường thích đi chơi, thường ngự – tới ăn ngủ, ngắm cảnh đẹp, hưởng của ngon, vật lạ, thỏa mãn thú vui cả thể xác lẫn tinh thần – ở các li cung (cung điện, lâu đài xa kinh thành) trên Hồ Tây, núi Tử Trầm, núi Dũng Thuý.
Trong những chuyến du lịch ấy của chúa đặc biệt nhất là cuộc dạo chơi trên Hồ Tây. Vòng quanh bốn mặt hồ, binh lính phải “dàn hầu”, vừa để bảo vệ vừa sẵn sàng làm theo lời chúa sai bảo. Cũng vòng quanh bốn mặt hồ, các quan trong triều phải “đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà” cải trang là những thị dân buôn bán, bày hàng hoá như một khu chợ sầm uất, đông vui, vui cho thiên hạ thì ít mà vui cho chúa thì nhiều.
Thuyền ngự đến đâu thì chúa và các hỗ tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua bán. Chúa và cận thần tới, thì nhạc công phải tấu lên những khúc nhạc dặt dìu gần xa vẳng từ dưới bóng cây, bến đá nào đó. Đúng là bức tranh cuộc sống phồn hoa mà giả dối. Tác giả chỉ ghi chép khách quan, không một lời nhận xét, mà sự việc nó cứ tự phơi bày những nét rởm hợm, nực cười, đáng chê trách.
Việc thứ ba – đáng chê trách hơn – là câu chuyện chúa “sức thu lấy” – ra lệnh bằng văn bản – cướp đoạt một cách trắng trợn tất cả “những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh” trong nhân dân. Chọn một cảnh điển hình của những cuộc cướp đoạt ấy – cảnh lính tráng chở một cây đa cổ thụ về phủ chúa – tác giả miêu tả bằng những từ ngữ sống động, một giọng văn thật nặng nề.
Cây đa to, cành lá rườm rà, được rước qua sông”… như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay”. Đó là một đám rước công phu, tốn kém. Cây đa ấy vốn ở đầu non hốc đá tự do – phóng khoáng giữa rừng núi nay bị rước về vườn nhà chúa bề ngoài có vẻ oai phong, song nhìn kĩ thấy tội nghiệp quá.
Bởi vì từ nay, đa đâu còn là biểu tượng trường tồn, bất diệt, biểu tượng cho sức sống của con người, của quê hương, đất nước. Đa đã bị ép buộc để “điểm xuyết, bày vẽ” thành thứ đồ chơi riêng của nhà chúa. Cây đa cũng giống như thân phận của muôn loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch, chậu hoa cây cảnh trong dân gian đã bị cầm tù, bị tha hoá. Bao nhiêu cái đẹp của tự nhiên, những thú vui tao nhã, chính đáng của nhân dân đã bị nhà chúa chiếm đoạt. Số phận của cây trời, đá núi, hoa lá,… vô tri thì như thế, hỏi số phận con người ra sao?
Người viết tùy bút, danh nho Phạm Đình Hổ đã đưa ra những sự việc cụ thể chân thực và khách quan, không bình luận mà các hình ảnh, chi tiết cứ hiện lên đầy ấn tượng. Ấn tượng nhất là cảnh đêm nơi vườn nhà chúa: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”…
Tiếng chim kêu, vượn hót khắp bốn bề giữa đêm khuya thanh vắng, hay là tiếng muôn loài than thở? Trận mưa sa gió táp ồn ào hay sự giận dữ của trời đất? Những âm thanh ấy gợi cảm giác ghê rợn như một điều gì đó đang tan tác đổ vỡ, suy sụp đau đớn, chứ không phải là một cảnh đẹp bình yên, phồn thực, no ấm. Nghe những âm thanh ấy “kẻ thức giả” – nhà nho Phạm Đình Hổ biết “đó là triệu bất tường”.
Đến dòng văn cuối của những câu chuyện nhà chúa, cảm nghĩ của tác giả bộc lộ trực tiếp, nhưng lời văn vẫn nhẹ nhàng, tế nhị, gián tiếp bằng một danh từ chung là “kẻ thức giả”. Kẻ thức giả là những người có học vấn, có hiểu biết sâu rộng. Viết câu văn ấy, Phạm Đình Hổ là một người có tầm phán đoán, dự cảm chính xác.
Ông đã thấy rõ những cuộc ăn chơi xa hoa, vô độ của chúa Trịnh Sâm là “triệu bất tường”, những dấu hiệu không lành, những điềm gở. Nó báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ chăm lo việc ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của dân lành. Quả thực, điều đó đã xảy ra không lâu sau khi Trịnh Sâm mất.
Sách xưa có câu “Thượng bất chính, hạ tắc loạn” – cấp trên không chân chính, nghiêm túc thì cấp dưới tất sẽ làm loạn. Chúa ở ngôi cao mải mê ăn chơi, sa đọa, tất yếu các quan cấp dưới ỷ thế làm càn. Do đó, từ những câu chuyện của chúa, Phạm Đình Hổ chuyển ý, kể đến chuyện các quan “bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm…”.
Ở đoạn văn thứ hai này, tác giả tập trung kể một sự việc. Đó là việc bọn hoạn quan bày trò cướp đoạt, vu cáo, phá hoại tài sản của nhân dân một cách trắng trợn, tàn ác. Chúng thực hiện công việc rất “bài bản”. Động tác một: “Dò xem” nhà nào có vật quý, thì biên vào hai chữ “phụng thủ” nghĩa là lấy để dâng chúa.
Động tác thứ hai: “Trèo qua tường thành lẻn ra”… “lấy phăng đi”… Động tác thứ ba: Nếu nhà nào phản ứng, thì “buộc cho tội giấu vật báu” của vua chúa… Ở đoạn văn tùy bút này nhà văn sử dụng liên tục các động từ miêu tả thái độ và hành động bọn hoạn quan trong ba câu văn đặc tả với những từ ngữ nhấn mạnh: “Dò xem”, “trèo”, “lẻn”, “lấy phăng”, “buộc tội”, “dọa dẫm”, … Đúng là những thái độ, hành động của một lũ đầu trâu mặt ngựa, vừa ăn cướp, vừa la làng, “Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” (Truyện Kiều).
Hậu quả của những vụ cướp bóc trắng trợn ấy là: Người dân bị buộc tội phải nộp tiền, phải “phá nhà huỷ tường… bỏ của ra kêu van chí chết” và tự mình phải “đập bỏ núi non bộ hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ”. Người dân phải chịu biết bao nhiêu cảnh đau đớn, bao nhiêu bất công, phi lí. Chính tại gia đình Phạm Đình Hổ – một gia đình quý tộc cận kề phủ chúa – cũng bị cái hoạ ăn cướp kia gieo xuống.
Trước nhà tiền đường trồng một cây lê hoa trắng xoá thơm lừng, trước nhà trung đường trồng hai cây lựu ra quả trông rất đẹp … “Bà cung nhân ta đều sai chặt đi cũng là vì cớ ấy”. So với giọng văn kể chuyện các gia đình khác quanh kinh thành bị quấy nhiễu, giọng kể ở đoạn văn cuối này có vẻ như nhẹ nhàng hơn, song nó tô đậm thêm tính hiện thực, tăng thêm ý nghĩa phê phán, tố cáo.
Bởi vì, nạn cướp bóc, sách nhiễu ở thời Trịnh Sâm đã trở thành cơn sốc trong xã hội, không chỉ gây đau khổ cho dân thường mà còn đe dọa cả những gia đình quyền quý, quan lại, không chỉ cướp bóc của cải vật chất mà còn huỷ diệt cả những thú vui tao nhã mang tính văn hoá truyền thống của biết bao gia đình Việt Nam chúng ta.
Những từ ngữ cuối đoạn văn dừng lại, nhưng lời kể của tác giả vẫn còn vương vấn ngân nga trong lòng chúng ta những cảm giác xót xa, nuối tiếc, thương cho cây đẹp, hoa thơm, cảm thống với những con người phải sống trong một xã hội phong kiến hỗn loạn mục nát đến như vậy.
Đoạn tùy bút Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh ấy không chỉ có giá trị hiện thực, phơi bày bộ mặt xấu xa của chúa, của bọn quan lại, lính tráng mà còn hấp dẫn bạn đọc bởi một ngòi bút tài hoa. Phạm Đình Hổ đã ghi chép người thực, việc thực rất cụ thể, chính xác, theo trí nhớ, cảm xúc, suy nghĩ của riêng mình.
Từ ngữ câu văn tự nhiên, trôi chảy, không bị gò bó bởi cốt truyện, nhân vật…như trong truyện ngắn. Khi kể chuyện, lúc chuyển sang miêu tả, ngẫu hứng thì điểm vào một dự cảm, dự báo, nhịp văn lúc khoan thai, khi dồn dập nhấn mạnh,… ngỡ như buông thả tự do nhưng tác phẩm vẫn tập trung vào một chủ đề, toát lên cảm xúc trữ tình rõ nét của tác giả.
Nói tóm lại, bằng thể văn tùy bút ghi chép tùy hứng những sự việc một cách cụ thể, chân thực, sinh động, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh giúp chúng ta hiểu về đời sống xa hoa vô độ của bọn vua chúa, quan lại phong kiến thời vua Lê, chúa Trịnh suy tàn nửa cuối thế kỉ XVIII. Đó là một xã hội đầy rẫy những dấu hiệu không lành, những điềm gở đáng chê trách và đáng xóa bỏ. Lịch sử đã xóa bỏ cái xã hội ấy.
Có thể bạn sẽ thích 🌟 Phân Tích Chuyện Người Con Gái Nam Xương 🌟 Chọn Lọc Và Tuyển Tập 14 Mẫu
Phân Tích Bài Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh Đơn Giản – Mẫu 7
Bài văn phân tích bài Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh đơn giản dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập cho bài viết trên lớp.
Cùng với “Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm tác giả Ngô gia văn phái và “Thượng kinh kí sự” của Lê Hữu Trác, “Vũ Trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ là thiên kí tiêu biểu xuất sắc trong mảng văn xuôi giàu giá trị hiện thực của nền văn học trung đại Việt Nam, ở thế kỉ XVIII. Dưới con mắt tinh anh của người viết sử, Phạm Đình Hổ đã ghi chép thật chi tiết, khách quan, chân thực về đời sống xã hội thời kì bấy giờ trên rất nhiều phương diện: nghi lễ, phong tục, tập quán…
Trong đó, tiêu biểu có đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh”, tác giả đã ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe về đời sống xa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê – Trịnh. Qua đó, phản ánh một xã hội thối nát, gián tiếp thể hiện thái độ lên án vua chúa quan lại Lê – Trịnh và bộc lộ niềm thương cảm với cuộc sống của nhân dân thời kì bấy giờ.
Tiếp đến, nhà văn chỉ ra nỗi thống khổ của nhân dân trước sự tham lam nhũng nhiễu của vua chúa quan lại Lê – Trịnh. Tác giả đã dẫn ra những chi tiết sự việc vô cùng chân thực, kèm theo những bình phẩm, đánh giá để làm nổi bật lên sự yếu hèn, nhu nhược, tham lam, ích kỉ của vua chúa quan lại, khi chúng dựa vào quyền thế để tìm và cướp lấy những vật quí báu trong thiên hạ.
Đối với chúa: trong mỗi lần dạo chơi li cung, bao nhiêu trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, chúa đều ra sức thu lấy, không thiếu thứ gì. Có khi lấy cả cây đa cổ thụ, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về, “phải một cơ bình mới khiêng nổi”. Trong phủ chúa bày vẽ, trang trí đủ loại “hình núi non bộ trông như bến bể đầu non”.
Đặc biệt là cảnh đêm nơi vườn chúa ngự: “Mỗi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu, vượn hót ran khắp bốn bể, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường”. Câu văn không chỉ đơn thuần là cảnh thực, tả khung cảnh tự nhiên trong phủ chúa mà ẩn sau đó chính là “triệu bất thường”.
Nhà văn đã dự báo về cái điềm chẳng lành của triều đại Lê – Trịnh tất sẽ bại vong, suy tàn. Và như một lẽ tất yếu của lịch sử, mọi sự việc đi ngược lại với lợi ích của nhân dân thì tất yếu sẽ bị đào thải. Đó là vào năm 1782, chúa Trịnh Sâm qua đời, nội bộ lục đục, binh biến nổ ra, kinh thành Thăng Long bị đốt phá hoang tàn. Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ đã dẫn quân ra Bắc chinh phạt, cơ nghiệp của triều đại Lê-Trịnh sụp đổ hoàn toàn.
Còn đối với quan lại trong phủ chúa, bọn chúng thường “mượn gió bẻ măng”, dựa vào quyền thế của chúa mà cướp đoạt, nhũng nhiễu, vơ vét của dân bằng những thủ đoạn tráo trở, vừa ăn cắp lại vừa la làng. Chúng dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu hay thì biên ngay vào hai chữ “phụng thủ”. Đêm đến thì trèo tường vào nhà dân lấy phăng đi, rồi vu vạ buộc cho tội giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền.
Thậm chí, có hòn đá hay cây cối gì to quá, bọn chúng còn phá nhà hủy tường của người dân để mà khiêng ra cho bằng được. Nhà giàu thì bị họ vu vạ cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ tiền bỏ của ra mà kêu van chí chết, có khi phải tự tay đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để khỏi bị tai bay vạ gió.
Đoạn văn cuối, tác giả kể lại sự việc xảy ra chính trong gia đình của mình: Mẹ của tác giả vì sợ hãi, muốn tránh sự phiền hà của quan lại mà đành phải tự chặt đi cây lê và hai cây lựu quí trong vườn nhà mình. Chi tiết này có tác dụng làm tăng tính xác thực, sinh động, thuyết phục. Đồng thời gián tiếp thể hiện thái độ phê phán, bất bình trước cuộc sống xa hoa, hưởng lạc và bản chất yếu hèn, nhu nhược và tham lam, độc ác của vua chúa quan lại Lê Trịnh nửa cuối thế kỉ XVIII.
Tóm lại, “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” là một tác phẩm độc đáo, có giá trị đặc biệt quan trọng. Các sự việc được tác giả đưa ra cụ thể, chân thực (có thời gian, địa điểm rõ ràng), miêu tả tỉ mỉ, chi tiết và có kèm theo những lời bình, cảm xúc, thái độ phê phán. Tất cả đều có giá trị phản ánh khách quan bản chất hiện thực xã hội đương thời. Vì thế, chuyện không chỉ có giá trị văn học mà còn là tư liệu lịch sử quí giá.
Đồng thời, qua tác phẩm, người đọc cũng thấy được công lao đóng góp của Phạm Đình Hổ đối với thể loại tùy bút, bước đầu chỉ ra những đặc điểm của thể loại này: ghi chép sự việc cụ thể, chân thực, sinh động.
Tham khảo trọn bộ ☔ Phân Tích Phong Cách Hồ Chí Minh ☔ 8 Bài Văn Mẫu Hay
Phân Tích Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh Facebook – Mẫu 8
Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh Facebook mang đến cho các em học sinh những gợi ý làm bài phong phú hơn.
Là bậc vua chúa đáng lẽ ra phải chăm lo cho đời sống nhân dân nhưng chúa Trịnh Sâm lại chỉ lo ăn chơi vô độ, không quan tâm đến dân lành. “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” được trích từ tập “Vũ trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ đã tái hiện lại chân thực lối sống xa hoa, trác táng ấy. Đó là cơ sở để tạo nên giá trị hiện thực của đoạn trích.
Giá trị hiện thực là toàn bộ hiện thực cuộc sống mà tác giả muốn phản ánh thông qua tác phẩm của mình. Đó là sự tố cáo những thói ăn chơi sa đọa của các bậc vua chúa, sự cực khổ của dân lành hay những bất công của chế độ xã hội,…Trong đoạn trích này, giá trị hiện thực được thể hiện qua sự quan sát, miêu tả chi tiết, chân thực của Phạm Đình Hổ về thói ăn chơi trụy lạc của chúa Trịnh.
Mở đầu đoạn trích, bạn đọc có thể dễ dàng nhận thấy lối sống xa xỉ của Trịnh Sâm khi chúa xây dựng các đình đài liên miên để phục vụ cho công cuộc ăn chơi hưởng lạc. Chúa sống trong sự giàu có và sung sướng còn nhân dân thì phải lao động cực khổ theo lệnh chúa để xây xong các đình đài. Chỉ vì thú chơi đèn đuốc mà Trịnh Sâm bóc lột sức lao động của dân lành. Điều đó thật bất nhân.
Chúa Trịnh không quan tâm việc triều chính mà chỉ quan tâm đến những trò tiêu khiển tốn kém, những trò mua vui cho bản thân: “Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên bên bờ Tây hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán”. Một cảnh tượng nhốn nháo, nực cười đang hiện lên trước mắt người đọc.
Cuộc vui chơi ấy không chỉ có chúa mà còn có cả các quan và binh lính. Họ mặc áo đàn bà để làm trò mua vui cho Trịnh Sâm. Ngoài ra còn có các nhạc công “ngồi trên gác chuông chùa Trần Quốc hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc” để không khí cuộc mua bán trở nên sôi động hơn. Thay vì luyện tập để bảo vệ chủ quyền thì các binh lính lại được huy động để bảo vệ cho những cuộc chơi vô bổ, lố lăng của chúa.
Không chỉ có sở thích đèn đuốc, Trịnh Sâm còn có thú chơi cây cảnh. Chúa vơ vét, cướp đoạt từ tay nhân dân tất cả loài cây quý hiếm. Chúa ra sức thu lấy những loài “trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian”. Ngay cả cây đa to “giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng” chúa cũng cho “một cơ binh mới khiêng nổi, lại bốn người đi kèm, cầm gươm đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng cho đều tay” để “từ bên bắc chở qua sông đem về”.
Bọn hoạn quan thì mượn gió bẻ măng, ức hiếp dân lành để phục vụ lợi ích cho bản thân. Chúng dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt, khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” rồi đêm đến thì đem lính tới lấy và buộc những người dân vô tội vào tội “đem giấu vật cung phụng” nhằm lấy tiền của họ. Bọn chúng dùng thủ đoạn để chèn ép và cướp bóc tài sản của nhân dân ta. Thậm chí chúng “phá nhà hủy tường” để lấy bằng được hòn đá hay cây cảnh quý về trang trí cho phủ chúa.
Cuộc sống của nhân dân lầm than bao nhiêu thì sự cướp bóc của hoạn quan lại trắng trợn bấy nhiêu. Trước hành động tàn nhẫn đó, những nạn nhân vô tội chỉ còn cách nộp tiền, để chúng “phá nhà hủy tường” hoặc “phá cây cảnh để tránh khỏi tai vạ”.
Cũng vì cớ ấy mà bà cung nhân nhà Phạm Đình Hổ sai người chặt đi hai cây lựu trắng, lựu đỏ để tránh sự dòm ngó của hoạn quan. Tác giả đã kể thêm câu chuyện có thật ở gia đình mình để tăng tính thuyết phục cho những hành động bỉ ổi của bọn quan lại. Lấy được lòng tin tưởng của chúa nên bọn chúng ra sức thực hiện những hành vi cướp đoạt, vu khống nhân dân.
Với lối kể chuyện tự nhiên, sinh động, Phạm Đình Hổ không chỉ liệt kê chi tiết những việc làm của chúa và bọn hoạn quan mà còn thể hiện thái độ bất bình của mình trước những hành động đó. Đó là cảm giác “triệu bất tường” khi mỗi đêm nghe thấy “tiếng chim kêu vượn hót vang khắp bốn bề hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp,vỡ tổ tan đàn”.
Trước hiện thực rối ren như vậy thì đó là dự cảm chẳng lành về sự suy tàn của một triều đại. Vua chúa, quan lại ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi công sức, xương máu của nhân dân mà không chăm lo cho đời sống của họ thì sự suy vong lại càng đến gần.
Giá trị hiện thực của đoạn trích được Phạm Đình Hổ thể hiện bằng ngòi bút trung thực và khách quan. Vì lẽ đó mà “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” nói riêng và tập “Vũ trung tùy bút” nói chung đã chiếm được vị trí nhất định trong lòng bạn đọc.
Đón đọc tuyển tập 💧 Phân Tích Truyện Kiều Nguyễn Du 💧 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất