Liên Hệ Vợ Chồng A Phủ ❤️ 26+ Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Hay ✅ Tổng Hợp Các Bài Văn Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Vợ Chồng A Phủ Đặc Sắc Nhất.
Cách Liên Hệ Bài Vợ Chồng A Phủ Của Tô Hoài
Xem ngay các bước liên hệ đơn giản bài “Vợ chồng A Phủ” cùng SCR.VN nhé!
- Bước 1: Phân tích bài “Vợ chồng A Phủ”
- Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị
- Phân tích nhân vật A Phủ
- Phân tích đặc sắc nghệ thuật
- Bước 2: Liên hệ
- Lựa chọn 1 tác phẩm/1 nhân vật hoặc 1 tình tiết trong câu chuyện nào đó để liên hệ với “Vợ chồng A Phủ”.
- Nêu điểm tương đồng giữa 2 câu chuyện.
- Điểm tương đồng giữa 2 tác giả,…
- Lưu ý: Bạn cần đọc và tham khảo nhiều tài liệu vì đề bài liên hệ khá khó, đòi hỏi người viết phải có kiến thức rộng.
- Bước 3: Kết luận
- Giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Liên hệ bản thân/rút ra bài học.
Liên Hệ Vợ Chồng A Phủ Với Tác Phẩm Nào
Tham khảo các bài có thể liên hệ với “Vợ chồng A Phủ” mà SCR.VN chia sẻ bên dưới nhé!
- Liên hệ nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ” với nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên để thấy được sự thức tỉnh của họ dù chỉ trong 1 đêm ngắn ngủi.
- Liên hệ nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ” với thị trong “Vợ nhặt” để thấy dù trong hoàn cảnh khó khăn, họ vẫn khao khát hạnh phúc.
- Liên hệ nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ” với nhân vật chị Dậu trong “Tắt đèn” để thấy số phận của người phụ nữ ở mọi vùng miền trước 1945.
- Liên hệ nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ” với chị em Liên trong “Hai đứa trẻ” để thấy khát vọng nhỏ bé của những con người tầm thường.
Đọc ngay 🌸 Tóm Tắt Vợ Chồng A Phủ 🌸 ngắn gọn!
Những Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Vợ Chồng A Phủ Hay Nhất
Dưới đây là các bài văn liên hệ mở rộng “Vợ chồng A Phủ” hay nhất, xem ngay nhé!
Liên Hệ Vợ Chồng A Phủ Với Chí Phèo Đặc Sắc
Chia sẻ đến bạn bài văn liên hệ mở rộng “Vợ chồng A Phủ” với “Chí Phèo” đặc sắc nhất!
Thưởng thức tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Chí Phèo của Nam Cao. Người đọc chẳng thể nào quên được hai nhân vật chính, linh hồn của câu chuyện, đó là Mị và Chí Phèo. Nhất là sự hồi sinh nhân tính trong tình huống truyện của họ.
Người ta thường nói, văn chương là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu. Và Tô Hoài, Nam Cao đã gặp gỡ, đồng cảm về tư tưởng, cốt cách. Đó cũng chính là tiếng lòng ấp ủ của nhà văn dành cho nhân vật của mình. Dẫu trước đó, họ sống dưới vực thẳm của xã hội, nhưng chỉ cần tình người được đặt đúng chỗ. Thì bao nhiêu vẻ đẹp của tâm hồn đã được hồi sinh.
Nếu như Mị hồi sinh nhân cách trong đêm tình mùa xuân tràn ngập yêu thương. Thì Chí lại thức tỉnh nhân cách sau đêm gặp Thị Nở tại vườn chuối, với bát cháo hành ấm áp. Nếu như Mị chịu sự tác động của cảnh vật, sự vật để hồi tỉnh. Thì Chí lại nhờ vào tình người để đánh thức phần “người” đã ngủ quên trong anh bấy lâu.
Gấp lại truyên ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Chí Phèo của Nam Cao. Ta thấy được giá trị nhân văn, nhân đạo mà tác giả muốn gửi gắm. Đọc vợ chồng A Phủ để liên hệ Chí Phèo và ngược lại. Dẫu cuộc sống, hoàn cảnh của hai nhân vật khác nhau. Nhưng sự hồi sinh về nhân cách lại mang vẻ đẹp tương đối giống nhau. Phải chăng, đó là tiếng lòng đầy thương cảm của tác giả dành cho những số phận hẩm hiu.
Liên Hệ Vợ Chồng A Phủ Với Vợ Nhặt
Mời bạn đọc xem ngay 1 số bức tranh mẫu đẹp nhất về ở ngay bên dưới:
Tô Hoài và Kim Lân đều là những nhà văn nổi tiếng, tài giỏi của nền văn học hiện đại Việt Nam.Các ông đã để lại cho người đọc và nền văn học nước nhà một kho tàng đồ sộ các tác phẩm quý giá. Trong đó nổi bật nhất vẫn là “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”. Tác phẩm đã thể hiện thành công số phận và vẻ đẹp của người lao động.
Nhân vật trung tâm trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là Mị, cô gái trẻ trung, xinh đẹp nhưng số phận lại vô cùng bất hạnh. Không chỉ xinh đẹp, mà Mị còn rất tài năng, tài thổi sáo của Mị nức tiếng gần xa, biết bao người mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.
Dù gia cảnh nghèo nàn, vẫn luôn nợ tiền nhà thống lí Pá Tra, nhưng khi biết nhà thống lí muốn bắt mình về làm con dâu để gạt nợ, cô đã lập tức cầu xin cha cho mình được đi làm để trả nợ dần: “Con sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố”. Dù Mị hội tụ đầy đủ những phẩm chất để được hưởng một cuộc sống tự do, hạnh phúc nhưng số phận lại vô cùng bất hạnh, bị các thế lực, thần quyền và cường quyền chà đạp, áp bức.
Vì món nợ truyền kiếp, cuối cùng Mị bị A Sử con trai thống lí Pá Tra bắt về làm con dâu gạt nợ. Cũng chính từ giờ phút đó cuộc sống bi kịch đổ ập xuống đời cô. Ban đầu khi mới về nhà thống lí, trong Mị vẫn mong manh xuất hiện ý thức phản kháng: đêm nào cô cũng khóc, và đến cuối cùng cô đã đi đến quyết định ăn lá ngón tự tử. Nhưng tình yêu thương gia đình đã khiến Mị từ bỏ ý định đó, vì nếu cô chết đi, món nợ vẫn còn, cha cô lại phải gánh chịu. Mị chấp nhận quay trở lại với cuộc sống lầm lũi, bất hạnh.
Khi người ta sống trong đau đớn và khổ cực trong một thời gian quá dài, tự nhiên sẽ mất đi cảm giác về cái khổ, cái bất công. Từ một người con gái trẻ trung, đầy sức sống, Mị biến thành công cụ lao động, mất đi ý niềm về thời gian, về tuổi trẻ. Không chỉ vậy Mị còn phải gánh chịu nỗi đau khổ về tinh thần: “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Và chính Mị cũng tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa trong nhà này. Đặc biệt là hình ảnh ẩn dụ về căn buồng mà Mị ở : “kín mít, chỉ có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào nhìn ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Đây thực chất không phải là nơi để con người sinh sống mà nó như một địa ngục trần gian, dùng để giam hãm cuộc đời Mị. Và nó cũng chẳng khác gì một nấm mồ chôn vùi thanh xuân, tuổi trẻ và hạnh phúc của một người con gái lương thiện, giàu sức sống.
Nhưng ẩn sâu trong tâm hồn tưởng chừng như đã héo úa, không còn niềm tin ấy nữa lại là sức sống tiềm tàng vô cùng mãnh liệt. Sức sống ấy được thể hiện rõ nhất trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo “Rập rờn trong đầu Mị”. Mị sống lại những khát khao được yêu đương, khát vọng được sống hạnh phúc của ngày xưa, từ cõi vô cảm, quên lãng, Mị trở về cõi nhớ. Đồng thời cũng không thể thiếu đi chất xúc tác của hơi men, Mị uống cả hũ rượu, uống ừng ực từng bát, Mị say rồi ngồi lịm đi, mơ màng nhớ về quá khứ tự do.
Trong lòng Mị thấy phơi phới trở lại, cái cảm giác mà tưởng rằng bấy lâu nay đã mất. Mị ý thức được rằng: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Nhưng sự thật phũ phàng, Mị muốn đi chơi nhưng lại không được đi, nên Mị quay về buồng. Mị lấy ống mỡ, sắn một miếng thắp lên cho sáng, đây không chỉ là hành động thắp sáng vật lí đơn thuần mà nó còn biểu tượng cho khát vọng, niềm tin được giải thoát, thắp sáng chính cuộc đời Mị.
Cô quấn lại tóc, lấy cái váy chuẩn bị đi chơi thì bị A Sử chặn đứng lại bằng hành động vô cùng thô bạo. Mị bị trói đứng ở cột, nhưng A Sử chỉ trói được thân xác Mị, chứ không thể trói được khát vọng, sức sống trong Mị. Trong tâm tưởng cô vẫn thả hồn theo tiếng sáo và những cuộc chơi. Sáng hôm sau Mị tỉnh lại và tiếp diễn chuỗi ngày sống mòn, sống mỏi.
Và để cho cuộc vượt thoát của Mị được thành công, Tô Hoài đã tạo ra tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa Mị và A Phủ. A Phủ là người ở của thống lí, do làm mất bò nên bị trói đứng. Sau đêm tình mùa xuân Mị rơi vào trạng thái tê liệt, nhưng gặp A Phủ đã thức dậy trong cô khát vọng sống. Giọt nước mắt “mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã có tác động mạnh mẽ đế Mị, khiến Mị ý thức được nỗi đau khổ của mình, tự thương thân và thương người. Điều đó đã dẫn đến hành động cởi dây trói và bỏ đi theo A Phủ, hướng đến cuộc đời tự do, hạnh phúc phía trước.
Xây dựng nhân vật Mị, Tô Hoài đã phơi bày một cách chân thực số phận cực khổ của người dân lao động Tây Bắc dưới ách áp bức của giai cấp thống trị miền núi. Đồng thời thể hiện niềm cảm thương với số phận khổ đau của nhân vật Mị. Và phát hiện, trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của tâm hồn của Mị với sức sống tiềm tang, mãnh liệt.
Ngoài nhân vật Mị, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật A Phủ. A Phủ là người có số phận bất hạnh, cha mẹ mất, cậu trở thành món hàng trao đổi, mất tự do ngay từ khi còn bé. Nhưng dù vậy A Phủ lại mang trong mình những phẩm chất hết sức đẹp đẽ, A Phủ mang trong lối sống phóng khoáng, mạnh mẽ, tự lực kiếm sống, vươn lên hoàn cảnh khắc nghiệt để sống là một con người dũng cảm, tự tin, yêu đời.
Nét nghệ thuật đắc sắc nhất trong tác phẩm là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Mị được xây dựng theo kiểu nhân vật tâm trạng, còn A Phủ là kiểu nhân vật hành động. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, cũng như phong tục tập quán tài tình. Ngôn từ giản dị, linh hoạt, giàu cảm xúc, mang đâm chất dân tộc. Các yếu tố nghệ thuật đó đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.
Tác phẩm “Vợ nhặt” có một nhan đề thật lạ nhưng cũng hết sức hấp dẫn, gây sự chú ý cho bạn đọc. Theo Kim Lân, “nhặt” có nghĩa là nhặt nhạnh, lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Vợ nhặt là vợ theo không, không cưới xin, lễ nghi đàng hoàng, tử tế. Thông thường, người ta chỉ nhặt cọng rơm, cọng rác chứ không ai nhặt được vợ. Trong hoàn cảnh này, thân phận con người rẻ rúng hơn bao giờ hết.
Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện bất ngờ nhưng cũng đầy nghịch cảnh, bi hài. Giữa nạn đói, giữa lúc thân mình còn chưa biết có lo nổi hay không thì anh cu Tràng lại nhặt được vợ. Chỉ bằng vài câu nói đùa, bốn bát bánh đúc mà một anh chàng xấu trai, nghèo khổ lấy được vợ. Và cũng có thể do hoàn cảnh đói khát đến cùng quẫn mà thị chịu theo không Tràng
Cô dâu đã xuất hiện cùng Tràng vào buổi chiều “xác xơ”, “heo hút” trước ánh mắt ngạc nhiên của biết bao nhiêu người dân xóm ngụ cư. Thậm chí có người còn lo lắng thay cho anh: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không”?
Nổi bật giữa ranh giới của sự sống và cái chết là hình ảnh anh cu Tràng, bà cụ Tứ và người vợ theo không Tràng. Họ đã cưu mang, đùm bọc nhau cùng vượt qua sự khắc nghiệt của hoàn cảnh.
Sự xuất hiện của người vợ nhặt trong cuộc đời anh cu Tràng đã khiến tính nết của anh thay đổi. Từ một con người ngộc nghệch, anh trở thành một người có trách nhiệm, biết chăm lo cho gia đình. Tràng sửa soạn cho người vợ nhặt trước khi đưa nàng về làm dâu “bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về”.
Không những thế, anh còn mua hai hào dầu thắp. Tràng đã chuẩn bị cả về vật chất và tinh thần cho cuộc sống mới. Mấy ai có đủ dũng cảm để đón nhận hạnh phúc của mình ngay giữa nạn đói giống anh cu Tràng? Hạnh phúc đến với anh hết sức éo le, bất ngờ nhưng cũng vô cùng thiêng liêng. Tràng đã vượt lên trên hiện thực đói khát để đón lấy thứ hạnh phúc bình dị, trần thế.
Việc Tràng có vợ không chỉ gây bất ngờ cho những người dân xóm ngụ cư mà còn gây bất ngờ cho cả bà cụ Tứ – mẹ của anh. Bà lo lắng không biết “chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Bà hiểu và thương cảm cho thân phận của nàng dâu mới, cũng nhờ vậy mà con bà mới có được vợ. Bà xót thương cho tình cảnh của người vợ nhặt. Đó là lòng cưu mang, là sự đùm bọc lẫn nhau của những người cùng cảnh ngộ.
Bà có niềm tin vào tương lai và có nghị lực sống mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện trong những suy nghĩ, lời nói, hành động của bà. Trong bữa cơm sáng, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bà nói với anh cu Tràng khi nào có tiền thì mua lấy đôi gà và khen món chè khoán ngon. Thực chất đây là món cháo cám đắng chát, bà khen ngon như để an ủi chính bản thân mình cũng như để an ủi các con và giấu đi
Tô Hoài và Kim Lân đều là những nhà văn nổi tiếng, tài giỏi của nền văn học hiện đại Việt Nam.Các ông đã để lại cho người đọc và nền văn học nước nhà một kho tàng đồ sộ các tác phẩm quý giá. Trong đó nổi bật nhất vẫn là “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”. Tác phẩm đã thể hiện thành công số phận và vẻ đẹp của người lao động.
Tham khảo 🌸 Dàn Ý Vợ Chồng A Phủ Nhân Vật Mị 🌸 đầy đủ!
Liên Hệ Vợ Chồng A Phủ Với Tắt Đèn Ấn Tượng
Gửi tặng bạn bài văn liên hệ mở rộng “Vợ chồng A Phủ” với “Tắt đèn” ấn tượng nhất!
Ai đó đã từng nói rằng, nhân vật là linh hồn của tác phẩm. Đó là công cụ để người cầm bút khái quát bối cảnh hiện thực. Có lẽ thế mà khi tìm hiểu tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài viết về nhân vật Mị và tác phẩm “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố viết về nhân vật chị Dậu, người đọc được dịp ngỡ ngàng trước thực tại cuộc sống, về phẩm cách của từng nhân vật khi tồn tại ở giai đoạn khác nhau trong chặng đường lịch sử đất nước.
Có thể xem, nhân vật chị Dậu và nhân vật Mị là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ thời kì xưa. Tuy ra đời vào hai hoàn cảnh khác nhau, song có thể thấy, cả Mị lẫn chị Dậu có nhiều điểm tương đồng khi đặt lên bàn cân so sánh.
Chị Dậu xuất hiện trong tác phẩm “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố với hoàn cảnh éo le, hẩm hiu. Gia đình chị thuộc vào hạng cùng đinh trong làng. Nhà nghèo, đông con, ấy mà, khi người em chồng của chị mất, bọn tay sai không tha, bắt gia đình phải đóng sưu cho người đã mất. Và thậm chí, chị phải bán cả đứa con mình đứt ruột sinh ra cho nhà Nghị Quế nhưng vẫn không đủ tiền trả nợ. Chị Dậu có lẽ một trong những nhân vật khổ nhất vào thời điểm đấy.
Còn với nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài, đây vốn là cô gái độ tuổi đôi mươi xinh đẹp, được nhiều thanh niên trai tráng trong làng mến mộ theo đuổi, thế nhưng, vì hoàn cảnh gia đình, cô về làm dâu nhà thống lí Pá Tra để gán nợ. Cuộc đời từ đấy không vui vẻ, hạnh phúc. Đó là chuỗi ngày sống trong đau khổ, quên đi chính mình khi ngày ngày làm việc quần quật không khác gì con trâu con ngựa.
Bên cạnh đó, dù sống trong hoàn cảnh thê thảm, cứ ngỡ như chìm sâu không lối thoát, thì may thay, cả Ngô Tất Tố lẫn Tô Hoài đều mở cho Mị và chị Dậu con đường mới.
Mị chạy theo A Phủ – một người làm bị trói trong nhà thống lí Pá Tra chỉ vì làm mất bò. Hành động chạy của Mị là minh chứng cho việc Mị đã thức tỉnh, Mị muốn tìm lại chính mình của ngày xưa, Mị muốn được rời khỏi chốn địa ngục trần gian này, nơi đã hành hạ Mị cả thể xác lẫn tinh thần.
Với chị Dậu, khi thấy chồng bị đánh đập dã man, không chịu đựng được nữa, chị vùng dậy, đánh tên cai lệ, tên hậu cận lí trưởng. Hành động này của chị là sự phản kháng khi bị dồn đến bước đường cùng. Đúng như câu nói “Con giun xéo mãi cũng quằn”.
Cả hai nhân vật, dù ít hay nhiều, đều đã đứng lên đấu tranh để tự giải thoát cho chính mình.
Nếu như chị Dậu, hành động đánh trả những tên đánh đập chồng mình, và hành động chạy trong bóng đêm thoát khỏi nhà Nghị Quế trong đêm tối mà nhà văn Ngô Tất Tố hé mở khiến chúng ta trăn trở liệu cuộc sống của chị sau đêm đấy, sẽ như thế nào? Chị có được giải thoát không hay vẫn trong bóng tối u mục đấy?
Hơn nữa, tác phẩm được sáng tác vào năm 1937 trong hoàn cảnh đất nước xảy ra nhiều thiên tai, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Vậy mà, bọn thực dân, quan lại, tay sai không những không cảm thông, thậm chí còn ra sức bóc lột, đàn áp và ra thêm nhiều chính sách sưu thuế. Đó là lí do tại sao nhân vật chị Dậu được ra đời và còn có giá trị đến tận hôm nay.
Còn với “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài, tác phẩm ra đời vào thời điểm đất nước đã tìm được con đường cách mạnh đúng đắn. Cho nên, hành động chạy của Mị cùng A Phủ là minh chứng cho việc Mị chắc chắn được giải thoát và sau này, Mị sẽ làm Cách mạng để giải phóng.
Tuy mang trong mình số phận éo le, hẩm hiu nhưng ở mỗi nhân vật lại cho chúng ta thấu được nhiều tính cách người phụ nữ xưa. Tính cam chịu của Mị, là một điểm đặc trưng của người phụ nữ xưa – lớp người yếu thế. Còn chị Dậu, chị là người vợ, người mẹ giàu tình yêu thương.
Chính vì mang yếu tố lịch sử, cho nên, chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố vẫn còn trong trạng thái bế tắc, chưa tìm thấy lối ra. “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài thì ngược lại. Nhân vật Mị đã tìm thấy con đường ánh sáng mình cần đi. Và đó, là điểm khác nhau quan trọng không chỉ riêng hai tác phẩm mà còn là điểm khác nhau cơ bản nhất của văn học Việt Nam vào trước và sau năm 1945.
Nhân vật được sinh ra từ tâm trí nhà văn và chỉ thực sự sống khi đọng lại trong tâm trí người đọc. Nhân vật ra đời đại diện cho một giai cấp hoặc một nhóm người cụ thể ngay tại bối cảnh xã hội thuở bấy giờ. Không phải ngẫu nhiên mà khi nhắc đến một nhân vật, người ta dễ dàng nhận biết được hoàn cảnh đương thời. Làm được điều này, là cả một quá trình xây dựng bằng cả tài năng lẫn trái tim của nhà văn.
Họ đưa tới góc nhìn vừa hiện thực vừa nhân đạo. Họ khiến chúng ta rơi vào trầm ngâm suy nghĩ về một thời đã xa. Hai tác phẩm dẫu ở hai thời điểm khác nhau, hai nhân vật dẫu có nhiều điểm khác nhau, nhưng tựu chung lại, đâu đó, vẫn mang nét tương đồng về một người phụ nữ Việt Nam “con giun xéo mãi cũng quằn”.
Như vậy, nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài và nhân vật chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố đã đem tới bạn đọc nhiều cung bậc cảm xúc, nhiều vấn đề về hiện thực cuộc sống đáng để suy ngẫm.
Liên Hệ Vợ Chồng A Phủ Với Hai Đứa Trẻ Ý Nghĩa
Mẫu bài văn liên hệ mở rộng “Vợ chồng A Phủ” với “Hai đứa trẻ” ý nghĩa nhất ở bên dưới, mời bạn xem ngay:
Tô Hoài là một trong số những nhà văn lớn, có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại với một phong cách nghệ thuật rất riêng, độc đáo và hấp dẫn. Và có thể nói, Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của ông. Đọc Vợ chồng A Phủ, người đọc sẽ không thể nào quên hình ảnh của nhân vật Mị trong đêm giải cứu cho A Phủ.
Đồng thời, thông qua nhân vật Mị trong đêm giải cứu cho A Phủ cùng tâm trạng của chị em Liên đợi tàu trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, chúng ta có thêm cách cảm nhận sâu sắc hơn về tình cảm của nhà văn đối với người lao động trong xã hội cũ.
Như chúng ta đã biết, Mị là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra và cũng kể từ ngày về làm dâu, Mị như mất hết đi sức sống, tê liệt hoàn toàn về mặt cảm xúc. Nhưng khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng trong đêm, dường như đã khiến Mị thay đổi và sức sống tiềm tàng trong Mị lại trỗi dậy.
Thoạt đầu, khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn “thản nhiên ngồi sưởi lửa”. Mị vô tâm, thản nhiên như thế cũng dễ hiểu thôi, bởi trong nhà Pá Trá từ trước đến nay điều đó đâu có gì lạ lẫm. Những tưởng, Mị vẫn sẽ thản nhiên ngồi sưởi lửa như thế.
Nhưng không, khi nhìn thấy “dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen của A phủ” Mị đã hoàn toàn thay đổi. Giọt nước mắt ấy của A Phủ đã đánh thức trong Mị bao nỗi niềm xúc cảm. Mị thấy thương, thấy đồng cảm với A Phủ và thương cho chính cả số phận của mình nữa.
Mị cắt đứt sợi dây để giải cứu cho A Phủ và cũng chính là giải cứu cho cuộc sống tù túng, bị giam hãm của mình. Hành động ấy của Mị không phải là bộc phát mà là một tất yếu, phù hợp với logic phát triển tâm lí của nhân vật.
Đồng thời, qua việc miêu tả Mị trong đêm giải cứu cho A Phủ, chúng ta cảm nhận được tài năng miêu tả tâm lí, cách sử dụng từ ngữ độc đáo và tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn Tô Hoài đối với những người lao động nghèo khổ, bị áp bức trong xã hội xưa.
Thêm vào đó, từ việc phân tích nhân vật Mị trong đêm giải cứu cho A Phủ, chúng ta nhớ tới hình ảnh của chị em Liên trong cảnh đợi tàu ở truyện ngắn Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam. Có lẽ, với chị em Liên nói riêng, những người dân nơi phố huyện nghèo nói chung, đợi chuyến tàu đi qua mỗi đêm đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của họ.
Đêm nào cũng vậy, chị em Liên cũng thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua với một tâm trạng háo hức bởi lẽ, đấy là chuyến tàu từ Hà Nội về. Chuyến tàu ấy gợi lại trong chị em Liên biết bao kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ nhưng hơn hết còn bởi, chuyến tàu ấy đi qua và “mang theo một thứ ánh sáng khác”. Đó là ánh sáng của những ngày mai tươi sáng, của những điều tốt đẹp mà những người dân phố huyện và cả chị em Liên hằng ao ước.
Chính vì thế, tâm trạng háo hức đợi tàu mỗi đêm của chị em Liên xét đến cùng là niềm khao khát về một thế giới mới, một cuộc sống mới và về một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Đồng thời, qua cảnh đợi tàu, chúng ta nhận thấy tấm lòng yêu thương và sự trân trọng của nhà văn Thạch Lam với những khát khao bình dị, chính đáng của những người dân nơi phố huyện nghèo.
Như vậy, ta thấy rằng cả nhà văn Tô Hoài và nhà văn Thạch Lam đều viết rất hay, rất độc đáo và phản ánh một cách chân thực về cuộc sống của những người lao động khốn khổ trong xã hội. Đồng thời, viết về họ, cả hai nhà văn đều thể hiện cái nhìn đồng cảm sâu sắc và sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp tâm hồn và những khát khao, những ước mơ tươi sáng của họ.
Tuy nhiên, ta cũng nhận thấy, mỗi nhà văn cũng có những điểm khác nhau, tạo nên nét độc đáo riêng trong sáng tác của họ. Nếu như trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn Thạch Lam dành cái nhìn thương cảm, xót xa cho những người dân phố huyện nghèo, sống mòn mỏi, khổ cực và luôn chờ đợi cuộc sống khác từ những chuyến tàu đêm thì với nhà văn Tô Hoài, ông đã khám phá và khẳng định sức sống tiềm tàng, khả năng phản kháng và sự đấu tranh để tự giải phóng mình, hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn của những người lao động nghèo khổ.
Sở dĩ, cả hai nhà văn đều có những điểm gặp gỡ nhau trong phản ánh hiện thực và thể hiện tình cảm với các nhân vật bởi cả hai đều là những nhà văn có tấm lòng nhân đạo và tình cảm yêu thương con người sâu sắc. Song, ở hai ông vẫn có những điểm khác biệt. Sự khác biệt ấy xuất phát từ đặc trưng của văn học – văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, nó không cho phép sự lặp lại. Thêm vào đó, mỗi nhà văn có một phong cách sáng tạo nghệ thuật khác nhau, tạo nên dấu ấn riêng của mỗi người.
Tóm lại, tuy cách viết khác nhau và ở hai giai đoạn văn học khác nhau, nhưng qua cách xây dựng tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ của Tô Hoài và tâm trạng chị em Liên trong cảnh đợi tàu của Thạch Lam, người đọc hiểu hơn về tấm lòng trân trọng của nhà văn với ước mong giản dị, cao đẹp của con người trong xã hội xưa.
Văn mẫu 🌸 Phân Tích Vợ Chồng A Phủ 🌸 hay nhất!
Liên Hệ Vợ Chồng A Phủ Đêm Tình Mùa Xuân Nâng Cao
Các bạn học sinh đang tìm kiếm bài văn liên hệ mở rộng Mị trong đêm tình mùa xuân trong “Vợ chồng A Phủ” thì đừng bỏ qua bài viết này nhé!
Lang thang trong cõi ta bà, Basho chợt đón lấy nhành hương mà cất lên tiếng thở nhẹ nhàng :
Mùi hoa mơ ơi
Con đường núi mọc
Bỗng nhiên mặt trời.
Còn ta khi long dong trong cõi thơ văn ta được gì ? Một bài học kinh nghiệm triết lý nhân sinh ? Hay nhiều lúc là những xúc cảm, là những lần được thức tỉnh trong tiếng sáo, tiếng trống thu không hay tiếng những người nô nức đi chơ ? Có lẽ ai trong đời cũng sẽ một lần được cùng thơ văn xúc động, ngẫm nghĩ về chuyện đời, chuyện người qua những mẩu âm thanh thường nhật của đời sống.
Tô Hoài từ tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân đã gọi thức Mị một thứ cảm xúc mà Mị đã đánh mất trong suốt quãng đời khổ đau của mình, Nam Cao từ những tiếng chim hót, tiếng những người đi chợ về đã chợt bồi hồi trong lòng Chí Phèo những mong ước hoàn lương. Vậy phải chăng chính những khoảnh khắc ấy đã vô tận chạm vào người đọc để mở ra cho người đọc những cảm hứng đặc biệt quan trọng ? Có lẽ là thế .
Trong làng văn của Việt Nam, Tô Hoài đứng vào bậc trưởng lão, cả về tuổi đời, tuổi văn và cả gia tài đồ sộ mà ông đã cống hiến cho văn học nước nhà. Ông là cây bút hàng đầu về hồi kí, sáng tác về loài vật và đặc biệt nhất là thể loại truyện ngắn. Một trong những đề tài ưa thích của ông là cuộc sống và phong tục của người dân miền núi Tây Bắc.
Viết về người miền núi, nhất là trong tác phẩm vợ chồng A Phủ, ông đã chạm đến ở một tầng bậc nào đó, những nỗi đau và niềm khát khao sâu kín của người lao động nghèo những người đã cùng ông trải qua những năm cơ khổ chống Pháp. Bởi thế mỗi trang viết của Tô Hoài là một cuộc dò tìm bằng trái tim để chạm đến những góc nhỏ, những ẩn khuất lớn, những khát vọng tiềm tàng trong con người.
Đoan trích Vợ chồng A Phủ : là phần đầu của tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đồng thời cũng là phần hay nhất trong truyện ngắn này. Cuộc sống của người lao động miền núi với những sức sống tột bậc và đau khổ tột cùng đã chạm khắc trên từng biến động của số phận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.
Nỗi khổ của Mị là nỗi khổ của một người phụ nữ tràn đầy khát vọng sống nhưng lại bị đẩy đưa vào những tấn bi kịch của con dâu gạt nợ, quẩn quanh trong kiếp sống không bằng con trâu con ngựa Cuộc sống ấy không chỉ lấy đi hai điều trong căn tính của con người là cảm nhận thời gian và cảm nhận nỗi đau mà còn lấy đi một khát khao khác đó là khát khao được giao cảm Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Cái xó cửa ấy đó là căn buồng, một căn buồng kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng .. Như thế từ việc tách biệt Mị khỏi thế giới của những cảm nhận về thế giới xung quanh, chính giai cấp thống trị đã tàn nhẫn chặn con đường trở về cái tôi cá nhân của mình bằng những sự kín mít, tù đọng.Mị trở thành những xác vô tri trôi vào hố đen vô tận. Bặt tăm.
Trong những năm tháng ở lâu trong cái khổ, trong những năm tháng vất vưởng trong không gian và vô thức với nỗi đau, Mị đã chợt nghe tiếng sáo. Tiếng sáo ấy ngân vang tha thiết và bồi hồi:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.
Tiếng sáo là một phần không hề thiếu để tạo nên không khí của những đêm hội xuân ở Hồng Ngài. Trong khung cảnh rộn ràng của ngày Tết. Thế mà tiếng sáo ấy vẫn hoàn toàn có thể vọng lại với Mị, khiến cô thiết tha bổi hổi. Tiếng sáo gọi dậy trong tâm hồn Mị cái tha thiết của kí ức và vực dậy niềm vui sống tưởng chừng đã hóa tro tàn theo tháng năm. Mị lại nhẩm thầm bài hát của người đang thổi như một lời trả lời từ trái tim, Mị khởi đầu hòa mình vào tiếng sáo .
Cùng với hơi rượu tiếng sáo dẫn đường cho Mị trở lại, sống lại những cảm giác ngày xưa, Tiếng sáo văng vẳng có thể thật sự là tiếng sáo gọi bạn của hiện tại cũng có thể là tiếng sáo của mùa xuân năm xưa nay vọng về từ kí ức. Vả chăng tiếng sáo cùa thực tại và tiếng sáo của hồi ức là một sự trùng hợp? Đã từng có một thời Mị rạo rực sức sống dạt dào sức trẻ. Khi đó Mị thổi sáo giỏi, Mị uống rượu trên bếp và thổi sáo, có biết bao người thổi sáo đi theo Mị.
Tiếng sáo gợi cho Mị nhớ về những giá trị của chính mình, về vùng kí ức tươi đẹp mà Mị từng có nhưng lại trót mất đi. Mọi thứ như một cuộn băng được tua lại bỗng rè mờ vài đoạn. Mị lén lấy hũ rượu- cứ uống ực từng bát. Trong những thoáng nghĩ về hiện tại, Mị uống như nuốt hết cay đắng, uất hận vào mình.
Trong những khe hở giữa quá khứ- hiện tại- tương lai ấy, sự khát sống của Mị từng bước hòa vào cơn say để trỗi dậy. Mị mơ tưởng. Và Mị phơi phới trở lại. Mị còn trẻ lắm ,Mị muốn đi chơi cứ thế hối thúc, cứ thế vội vã dấy lên trong tâm hồn Mị. Và rồi Mị nhận thức được những bất công mà mình cam chịu. Mị cảm nhận nỗi đau đớn của thực tại, của những con người không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Và Mị muốn chết để thoát khỏi những cay đắng hiện hình.
Phải chăng vì Mị nhận ra : cái chết chính là sự phản kháng mạnh mẽ nhất cho mọi sự hữu hình vô nghĩa đang tồn tại? Có lẽ là thế. Từng tầng cảm xúc cứ vậy mà dần men theo tiếng sáo bủa vây tâm hồn Mị. Tiếng sáo từng hồi vang lên, hoàn thành những mảnh ghép về một cuộc đời đẹp đẽ rộn ràng bên ngoài, một thế giới rộng lớn hơn. Thế giới ấy Mị sẽ không còn đau buồn và tủi nhục, lo lắng và sợ hãi vì thế lực thần quyền và cường quyền nữa. Cứ như vậy, tiếng sao dẫn lối khát vọng thôi thúc Mị niềm khát khao sống, tình yêu và hạnh phúc.
Nhưng tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường :
Anh ném pao em không bắt
Em không yêu quả pao rơi rồi
Tất cả chỉ còn lại những âm thanh da diết trong tâm hồn Mị. Nó hối thúc Mị phải thắp sáng cho số phận cuộc đời mình thay vì chấp nhận sống mãi trong cái buồng tối kín mít. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ ,xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.để rồi, ánh sáng từ đèn kia cũng như ánh sáng từ một vùng mây tươi đẹp nào đó sẽ lại soi sáng cho cuộc đời Mị.
Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. Người ta nói rằng : người phụ nữ thường chăm chút ngoại hình là khi trong họ tồn tại những khát khao được yêu thương, được tự do, được hạnh phúc. Mị trong tiếng sáo dần được dẫn lối đến những cuộc chơi. Và những ý thức rằng Mị vẫn còn trẻ và đêm hội mùa xuân là chút niềm vui Mị vừa góp nhặt được.
Rõ ràng tiếng sáo vẫn luôn ở đó, rập rờn từng nhịp trong Mị. Bất chợt ta nhớ đến hơi cháo hành lan tỏa trong tâm trí Chí Phèo (Chí Phèo Nam Cao). Hơi cháo ấy quặn thắt những nỗi đau trong Chí- nỗi đau về sự ruồng bỏ của Thị Nở, của cuộc đời và những khát vọng lương thiện trỗi dậy là vội tan.
Trong cuộc sống, đôi khi sẽ có những giọng nói, những âm thanh, những mùi hương khiến ta khắc khoải về một điều gì đó, một ai đó. Khi chúng trở về, con người sẽ dễ dàng vỡ òa trong chúng, con người sẽ ngừng bị chúng thôi thúc để phản kháng với hiện thực, với những bất công mà mình đang phải chịu đựng.
Chí Phèo từ hơi cháo hành đã khóc nức nở trong niềm tiếc nuối da diết những tháng ngày hạnh phúc hiếm hoi trong đời bên Thị Nở. Hắn đã không thể ngăn những bước chân của mình đến nhà Bá Kiến để đòi nợ máu, để đòi được lương thiện, để đòi sự công bằng từ những bi kịch hắn phải gánh chịu trong cả đời mình.
Và Mị trong sự rập rờn của tiếng sáo, tâm hồn đã hòa vào tiếng sáo, vào khát vọng sống. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách. Mị vẫn được đi chơi, vẫn có thể khoát lên chiếc váy hoa như bao người phụ nữ bình thường khác. Câu văn của Tô Hoài ngắn thôi mà dồn dập như một tiếng gọi đầy thôi thúc từ bên trong tâm hồn Mị, như những nhịp đập mạnh mẽ của một người phụ nữ đang trở về mùa xuân của chính mình.
Tiếc thay, sự đời vần vùng. A Sử lại xuất hiện như một vết thương lở loét trong tâm hồn ham sống của Mị. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị.. Mị muốn đi chơi, A Sử lại trói đứng Mị vào cột nhà. Mị quấn lại tóc ,A Sử quấn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi không nghiêng đầu được nữa.. Mị thắp sáng đèn, A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại.
Từng hành động của A Sử cứ thế giăng đầy sự giã man, tàn độc, lạnh lùng trong từng khát vọng sống vừa được nhen nhóm của Mị. Từng chút từng chút một. Cái sợi dây oan nghiệt, cái sợi dây đay mà Mị từng quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. lại quay ngược trở lại đối đầu với Mị, với khát khao của Mị.
Nhưng Mị không phản ứng. Như thể sợi dây kia tựa như bọn thống trị miền núi, như thế lực của thống lí Pá Tra, như sự lạnh lùng không còn lương tri của A Sử dù tàn độc đến đâu cũng chỉ có thể trói được thể xác Mị chứ không thể trói được tâm hồn Mị, khát vọng sống chính đáng của Mị. Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi. Mị vùng bước đi như kẻ mộng du, quên đi cảnh ngộ là mình đang trói, vẫn thả hồn theo những cuộc chơi đang diễn ra bên ngoài.
Tiếng sáo ấy là một liều thuốc xoa dịu những vết thương tinh thần và thể xác của Mị. Nhưng sợi dây trói oan nghiệt lại lần nữa kéo Mị về thực tại, lại lần nữa vô tình, lạnh lùng dập tắt tiếng sáo và mùa xuân của Mị. Tiếng sáo lại hiện về trong ,buồn thương tan dần trong kí ức Mị. Chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên,gãi chân, nhai cỏ. Tất cả những khát vọng sống lại chìm vào đêm dài. Lặng im và buồn thương.
Tô Hoài đã rất tinh tế khi xen kẽ hai âm thanh trái ngược nhau tiếng sáo gọi bạn tình và tiếng chân ngựa đạp vào vách cạnh nhau. Một bên lặp lại da diết như một khúc hát đẹp đẽ tôn vinh sự sống bất diệt của con người. Một bên lại xót thương trong sự chà đạp tận cùng lên cuộc sống Mị.
Cả đêm Mị sống trong tâm trạng lúc mê lúc tỉnh như thế trong hơi rượu tỏa, trong tiếng sáo, trong tiếng chó sủa xa xa. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc vẫn tồn tại âm ỉ như một đám than hồng không bao giờ bị dậptắt và sẽ bùng lên mạnh mẽ từ dưới lớp tro buồn trong một khoảnh khắc nào đó mà chính Mị, chính bản thân chúng ta cũng không thể biết được.
Bằng cách chắp ghép những tâm trạng từ phía cách nhân vật, ta như bị cuốn vào một chuyến phiêu lưu không gian và thời gian, một chiếu phiêu lưu để ta tìm về những bản ngã và những khát vọng thực sự của con người : khát vọng tự do, khát vọng được sống một cuộc đời lương thiện và hạnh phúc bằng những giá trị tốt đẹp của chính mình.
Tô Hoài và Nam Cao đã gặp nhau khi khai thác cùng một nỗi thống khổ của những con người bị chà đạp, bị dồn đẩy đến bước đường cùng trong xã hội đầy rẫy những điều phi nhân. Đó là một Chí Phèo đã từng được sống lương thiện nhưng lại thay hình đổi dạng chỉ vì sự ghen tuông vô cớ của Bá Kiến, chỉ vì những khinh miệt của người đời. Đó là một Mị đã từng uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo, đã từng mạnh mẽ nhưng không thể chối bỏ thân phận khốn cùng của người con dâu gạt nợ.
Thế nhưng cả Tô Hoài và Nam Cao đều bằng tấm lòng của mình cho họ một cơ hội, chiếu cho cuộc đời họ một tia sáng, một tia sáng để họ lần theo đó mà định vị lại chính mình, khát vọng đã từng quên đi vì những cay đắng hiện thực.
Cả hai nhà văn đều không hối hả vội vàng để nhân vật nhận thức nỗi đau và khát vọng tương lai. Họ tạo ra những tầng khúc tâm trạng, tạo những dòng cảm nghĩ liền mạch nối tiếp nhau. Tâm lí nhân vật vì vậy trong giai đoạn này sẽ là tiền đề cho diễn biến của giai đoạn khác khiến người đọc dễ dàng cảm nhận và đồng cảm với những câu chuyện, những cuộc đời trong cả hai tác phẩm.
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ vẫn lan tỏa chất thơ của khát vọng sống chân chính trong từng bước nhịp tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xông. Để từ đó, Vợ Chồng A Phủ cùng Chí Phèo đã trở thành những khúc hát của khát vọng để trở thành một lời nhắc nhở về một thời đã qua, là một lời thôi thúc con người vươn đến tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn.
Sưu tập 🌸 Nhận Định Về Vợ Chồng A Phủ 🌸 đa dạng!
Dẫn Chứng Liên Hệ Vợ Chồng A Phủ Ngắn Gọn
Cuối cùng là dẫn chứng liên hệ mở rộng “Vợ chồng A Phủ” ngắn gọn, bạn xem qua nhé!
Con người nhỏ bé cùng số kiếp nhọc nhằn, họ vẫn đang “vật lộn” với những lo toan riêng trong đời sống chung, họ lẩn khuất khắp mọi nơi không chỉ trên đất ta. Và rồi “nhà văn tồn tại trên đời trước hết là để làm công việc như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường … để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” – Nguyễn Minh Châu.
Tô Hoài, qua những tác phẩm của mình, ông đã làm tròn thiên chức ấy, đặc biệt là với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Ở đó ta sẽ thấy một cô Mị – cái mảng sống im lìm, tối tăm, cực nhọc được phơi bày cạnh cái giàu sang, tấp nập của nhà quan thống lí: “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”.
Năm tháng trôi đi, người con dâu gạt nợ sống trong nhà thống lí Pá Tra là một chuỗi dài cực nhọc, vất vả nối tiếp nhau, là sự bóc lột và hành hạ mà Mị phải chịu đựng: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau tiếp nhau vẽ ra trước mắt, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại… Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm cả ngày”.
Thêm vào sự đọa đày về thể xác ấy, còn là ách áp chế về tinh thần. Mị bị ràng buộc trong ý nghĩ: bố con Pá Tra đã “trình ma” mình là người nhà nó rồi, thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác ở đây thôi! Mê tín, thần quyền đã hỗ trợ đắc lực cho giai cấp thống trị, nó là thứ “thuốc phiện của tinh thần” đối với Mị, với những người dân bé mọn.
Mãi về sau, khi dân mình đã giành được độc lập, chẳng còn thực dân hay chúa đất, một cuộc sống mới sẽ mở ra với đầy hứa hẹn và hi vọng. Nhưng trong chính cuộc sống ta hằng mơ ước đó, Nguyễn Minh Châu lại tìm thấy những số kiếp nhọc nhằn. Một người đàn bà hàng chài cùng cuộc sống bấp bênh; khốn khó; tệ nạn xã hội: rượu chè, bạo hành gia đình; thậm chí còn là sự bất lực của công lí… Chồng chất, ngợp thở, thắt lòng!
Thời đại nào cũng vậy! Con người sẽ luôn chịu sự ảnh hưởng của xã hội, chỉ khác là họ ôm những nỗi đau riêng của thời đại đó mà thôi!
Đọc thêm đề tài 🌸 Liên Hệ Hạnh Phúc Của Một Tang Gia 🌸 tiêu biểu!