Liên Hệ Tự Tình, Tự Tình 2 Với Bánh Trôi Nước ❤️ 9+ Mẫu Mở Rộng Ngắn Gọn ✅ Những Bài Văn Liên Hệ Mở Rộng Tự Tình Của Hồ Xuân Hương Hay Nhất.
Cách Liên Hệ Bài Tự Tình Của Hồ Xuân Hương
Cùng SCR.VN xem ngay 2 bước đơn giản để có thể liên hệ bài Tự tình của Hồ Xuân Hương nhé!
- Bước 1: Chuẩn bị kiến thức
- Đọc hiểu về tác giả Hồ Xuân Hương, cuộc đời, phong cách thơ văn và hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.
- Đọc hiểu bài thơ “Tự tình”, hoàn cảnh sáng tác, nội dung.
- Đọc thêm các bài thơ khác có nội dung nói về thân phận người phụ nữ xưa, xấu số, bất hạnh,…
- Bước 2: Làm bài
- Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm chính “Tự tình”
- Thân bài:
- Phân tích bài thơ “Tự tình”
- Liên hệ mở rộng với “Bánh trôi nước”, “Truyện Kiều”,… => nói lên thân phận chung của người phụ nữ xã hội phong kiến, trọng nam khinh nữ.
- Kết bài: Nhận xét về tác phẩm “Tự tình”
Những mẫu 🌸 Dàn Ý Tự Tình 2 Hồ Xuân Hương 🌸 chi tiết!
Tự Tình 2 Liên Hệ Với Bài Nào ?
Tham khảo các bài thơ có thể dùng để liên hệ với “Tự tình” mà SCR.VN chia sẻ bên dưới nhé!
- Liên hệ “Tự tình 2” với bài “Tự tình 1” của Hồ Xuân Hương:
Tiếng gà xao xác gáy trên vòm,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om.
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau hận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá,
Thân này đâu đã chịu già tom.
- Liên hệ “Tự tình 2” với bài “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm mấy nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
- Liên hệ “Tự tình 2” với nhân vật Mị trong bài “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài:
- Liên hệ “Tự tình 2” với bài “Thương vợ” của Trần Tế Xương:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
- Liên hệ “Tự tình 2” với bài “Truyện Kiều” của Nguyễn Du:
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Những mẫu 🌸 Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình Hồ Xuân Hương🌸 chi tiết!
Những Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Tự Tình Hay Nhất
SCR.VN mách bạn những bài văn liên hệ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương hay nhất, xem ngay bạn nhé!
Liên Hệ Bản Thân Bài Tự Tình Ngắn Gọn
Nếu vẫn gặp khó khăn trong việc viết bài văn liên hệ bản thân bài “Tự tình”, mời các bạn xem thêm mẫu sau đây:
Một số ít tác phẩm văn học trung đại đã đề cập đến hình ảnh người phụ nữ Việt nam thời phong kiến. Như “Tức nước vỡ bờ” của Ngô Tất Tố, “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, “Truyện Kiều” Nguyễn Du và “Thương vợ” của Tế Xương… Tiêu biểu nhất là Tự tình II của Hồ Xuân Hương.
Lê Trí Viễn có viết: “Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ, thể hiện một bản lĩnh sông mạnh mẽ khác thường“. Qua bài thơ, “Bà chúa thơ Nôm” đã nêu bật lên được sự bất hạnh và đầy đau thương, hơn thế nữa là niềm khao khát được hạnh phúc của thân phận người phụ nữ lúc bấy giờ. Tình cảm đầy xót xa , bẻ bàng và cay đắng:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan mấy nước non.
Đêm khuya đối lập với không gian vắng lặng, tĩnh mịch, bà cảm thức về sự cô đơn. “Trống canh dồn” tiếng trống dồn dập, gấp gáp, rối bời chờ người chồng đến trong vô vọng. Ở đây, tác giả đã sử dụng từ láy “văng vẳng” lấy động nói tĩnh, để nhấn mạnh mức độ yên ắng đến tột đỉnh. Thể hiện sự cô đơn vô đói.
Theo đó, “trơ cái hồng nhan” từ “trơ” là một trong những từ ngữ thể hiện sự chua chát của cuộc đời. Còn “hồng nhan” hể hiện vẻ đẹp cao quý của người phụ nữ. Nó đáng được nâng niu, được hạnh phúc. Qua đây, ta thấy nữ sĩ đã nhận thức rõ về thân phận, sự rẻ rúng và mỉa mai cho thân phận chúng mình. Đó chính là thân phận hẩm hiu, thân phận của người khách hồng nhan bạc mệnh.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Mượn rượu để tiêu sầu, giải khuây, chìm hồn vào đáy cốc nhưng càng uống lại càng tỉnh, lại càng sầu. “Vầng trăng bóng xế”, “khuyết chưa tròn” rõ ràng “bóng xế” phải là sắp sáng, gần sáng mà sao vẫn còn “khuyết chưa tròn”? Phải chăng bà đang so sánh cảnh đêm khuya, ánh trăng với tuổi xuân và hạnh phúc của mình?
Giữa các chi tiết trên, ta thấy được Hồ Xuân Hương đã sử dụng phép ẩn dụ rất hài hòa và vô cùng tinh tế. Bà lấy hình ảnh ánh trăng để nói lên sự bất mãn với hạnh phúc không trọn vẹn của mình. Ta lại càng thấy rõ hơn về số phận hẩm hiu, bất hạnh của người phụ nữ đương thời.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Sự phản kháng trước số phận hẩm hiu, tình duyên dang dở. Thái độ bức phá, vùng vẫy, bà muốn xé trời, vạch đất cho thỏa nỗi uất ức tủi hờn. Một nội tâm bị dồn nén, từ than thở đến tức tối muốn đập phá, muốn giải thoát khỏi sự cô đơn. Đó chính là nét độc đáo, táo bạo trong thơ nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình son trẻ tí con con.
Xót xa và tiếc nuối ngao ngán trước số phận, tình duyên và thực tại. Thời gian quy luật của tự nhiên, mùa xuân cứ thêm một vòng luân chuyển. Nhưng quy luật của đời người thật nghiệt ngã, nỗi cô đơn vẫn cứ thế cũng thêm một vòng luân chuyển.
Và theo ta biết, sự cô đơn kéo dài với thời gian quá lâu có thể khiến con người ta dần lạnh lùng đi và dẫn đến vô cảm. Thậm chí có thể biến một người hiền lành giàu tình cảm thành một người độc ác không có tình người. vì thế, tác giả có nói ở cuối bài là “Mảnh tình san sẻ tí con con!”, như vậy sự cô đơn tác dụng với thời gian chính là thủ phạm trực tiếp gặm nhấm mảnh tình dang dở của vị nữ sĩ tài ba. Qua chi tiết này, tác giả đã bộc lộ rõ ràng mức độ đáng thương đến đau xót của thân phận người phụ nữ xưa.
Qua bài “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương ta đã thấm thía được thân phận bạc bẽo, éo le, hẩm hiu của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến nói chung và Hồ Xuân Hương nói riêng. Đó chính là biểu hiện của phong tục “trọng nam khinh nữ” thể hiện sự bất công của xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
Đoạn văn mẫu 🌸 Mở Bài Tự Tình Hồ Xuân Hương 🌸 đầy đủ!
Liên Hệ Bản Thân Qua Bài Tự Tình 2 Đặc Sắc
Gợi ý cho bạn bài văn liên hệ bản thân qua bài “Tự tình” đặc sắc, xem thêm bên dưới:
Thân phận lẽ mọn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài khá phổ biến trong văn học dân gian và văn học viết thời hiện đại. Tình yêu và hanh phúc gia đình là một trong những mối quan tâm lớn của văn học từ xưa đến nay. Nó góp phần thế hiện rõ tinh thần nhân đạo trong văn học. Chùm thơ Tự tình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về người phụ nữ trong văn học Việt Nam – Hồ Xuân Hương.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan mấy nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình son trẻ tí con con.
Người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng nghe tiếng trống cầm canh báo thời khắc đi qua. Canh khuya là thời gian từ nửa đêm cho đến sáng. Nàng cảm thấy tiếng trống canh báo hiệu thời gian khắc khoải mong ngóng một điều gì. Nhưng càng mong lại càng không thấy.
Tiếng trống canh đang dồn dập kia chính là thông báo về thời gian tâm trạng của nàng. Nó thể hiện nỗi chờ mong khắc khoải, thảng thốt thiếu tự tin, đầy lo âu và tuyệt vọng của người đàn bà. Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng bẽ bàng của người vợ cô đơn chờ mong chồng mà chồng không đến bằng một chữ trơ – trơ trọi, trơ cái hồng nhan, cái thân phận phụ nữ với nước non, với đời, với tình yêu.
Hai câu tiếp theo, Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng tuyệt vọng của người vợ chờ chồng. Câu thơ ẩn chủ từ, chỉ thây hành động và trạng thái diễn ra. Chén rượu hương đưa nghĩa là uống rượu giải sầu cho quên sự đời, nhưng say rồi lại tỉnh, tức là uống rượu vẫn không quên được mối sầu!
Vầng trăng bóng xế trong câu bốn có nghĩa là đêm đã gần tàn, nhưng trăng chưa tròn mà đã xế, thể hiện cảm xúc về hạnh phúc chưa tròn đầy. Vầng trăng bóng xế cũng có thể có hàm ý chỉ tuổi người đã luống mà hạnh phúc chưa đầy. Nếu như bốn câu thơ đầu tiên diễn tả cái tâm trạng chờ đợi mòn mỏi có phần tuyệt vọng, buông xuôi, thì ở hai câu năm và sáu, Hồ Xuân Hương đã bất ngờ vẽ ra hình ảnh một sự cảm khái.
Cái đám rêu kia còn được bóng trăng xế xiên ngang mặt đất soi chiếu tới. Ta có thể tưởng tượng: mấy hòn đá kia còn được ánh trăng đâm toạc chân mây để soi đến. Hoá ra thân phận mình cô đơn không bằng được như mấy thứ vô tri vô giác kia! Đây không nhất thiết phải là cảnh thực, mà có thể chỉ là hình ảnh trong tâm tưởng. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc có ý tiếp cái mạch văn trũng bóng xế ở câu trên.
Nhưng các sự vật, hình ảnh thiên nhiên ở đây diễn ra trong dáng vẻ khác thường, do việc tác giả sử dụng những từ ngữ chỉ hành động có tính chất mạnh mẽ, dữ dội: Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám, Đâm toạc chân mây, đá mấy hon. Hai câu thơ này cũng có thể hiểu là đảo ngữ: rêu từng đám xiên ngang mặt đất, còn đá mấy hòn vươn lên đâm toạc chân mây.
Và đó không phải là hình ảnh của ngoại cảnh, mà là hình ảnh của tâm trạng, một tâm trạng bị dồn nén, bức bối muốn đập phá, muốn làm loạn, muôn được giải thoát khỏi sự cô đơn, chán chường. Nó thể hiện cá tính manh mẽ, táo bạo của chính Hồ Xuân Hương. Những dồn nén, bức bôi, đập phá của tâm trạng nhà thơ bất ngờ bộc phát, và cũng bất ngờ lắng dịu, nhường chỗ cho sự trở lại của nỗi buồn chán và bất lực, chấp nhận và cam chịu.
Câu thơ Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại chứa đựng biết bao nhiêu là thời gian và sự chán ngán kéo dài. Cuộc đời cứ trôi đi, thời gian cứ trôi đi, tình yêu và hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút. Tác giả đã đi, tình yêu mà hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút.
Tác giả đã dùng từ mảnh tinh để nói cái tình bé như mảnh vỡ. Lại nói san sẻ – Chắc là san sẻ với chồng, san sẻ với vợ cả chăng? Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ, như một tổng kết, như một lời than thở thầm kín của người phụ nữ có số phận lẽ mọn về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn trong xã hội xưa.
Bài thơ là lời than thở cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ chịu cảnh lẽ mọn, thể hiện thái độ bi quan, chán nản cùa tác giả và thân kiếp thiệt thòi của con người. Đặc sắc nhất về nghệ thuật của bài thơ là sử dụng những từ ngữ và hình ảnh gây ấn tượng mạnh.
Tác giả chủ yếu sử dụng các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét với sắc thái đặc tả mạnh, bằng những động từ chỉ tình thái: dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc, đi, lại lại, san. sẻ, … và tính từ chỉ trạng thái: say, tỉnh, khuyết, tròn… để miêu tả những cảm nhận về sự đời và số phận.
Hình ảnh trong bài thơ gây ấn tượng rất mạnh bởi nghệ thuật đặc tả. Nhà thơ thường đẩy đối tượng miêu tả tới độ cùng cực của tình trạng mang tính tạo hình cao. Nói về sự cô đơn, trơ trọi đến vô duyên của người phụ nữ thì: Trơ cái hồng nhan với nước non. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc đều là những hành động mạnh mẽ như muốn tung phá, đầy sức sông thể hiện những cảm xúc trẻ trung.
Tác phẩm trình bày một cách nghệ thuật mối mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn của người phụ nữ trong cảnh lẽ mọn với hiện thực phũ phàng là sống trong cô đơn, mòn mỏi mà họ phải chịu đựng, giữa mong ước chính đáng được sống trong hạnh phúc vợ chồng với việc chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc sống đem lại.
Bài thơ bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi bất hạnh của người phụ nữ, phê phán gay gắt chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện rõ sự bất lực và cam chịu của con người trước cuộc sống hiện tại.
Bài thơ diễn tả một tình cảm đáng thương, một số phận đáng cảm thông, một khát vọng đáng trân trọng, một tâm trạng đáng được chia sẻ của người phụ nữ trong xã hội xưa. Những mơ ước hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện được trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ, đó là bi kịch không thể giải toả. Vì thế giọng điệu của bài thơ vừa ngậm ngùi vừa ai oán. Yêu cầu giải phóng con người, giải phóng tình cảm chỉ có thể tìm được lời giải đáp dựa trên cơ sở của những điều kiện lịch sử – xã hội mới mà thôi.
Tham khảo 🌸 Kết Bài Tự Tình Hồ Xuân Hương 🌸 hay nhất!
Liên Hệ Mở Rộng Bài Tự Tình Ấn Tượng
Dưới đây là mẫu bài văn liên hệ mở rộng “Tự tình” ấn tượng nhất, xem ngay nhé!
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Từ lâu, thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa đã gắn liền với thân phận bèo bọt, trôi nổi, bất hạnh. Có lẽ, ai cũng đã từng khóc thương tha thiết cho nàng Kiều tài hoa mà bạc mệnh, từng ấm ức thay cho nỗi oan khuất thấu tận trời xanh của Vũ Nương. Và giờ đây, khi đến với tác phẩm “Tự tình 2” của Hồ Xuân Hương, ta lại thêm phần xót thương cho thân phận trôi nổi của người phụ nữ trong xã hội Phong kiến xưa. Bài thơ là tiếng lòng chất đầy nỗi niềm sâu kín của nữ thi sĩ.
Với thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật được viết theo ngôn ngữ Nôm thuần Việt, bài thơ có lẽ đã được nữ sĩ viết về cuộc đời của chính bản thân mình, trong một phút suy tư. Nữ sĩ đã cảm nhận cuộc sống qua những âm thanh, quang cảnh lạnh buồn, vắng lặng và tự cảm thương cho số phận hẩm hiu của bà. Đó cũng là số phận chung của những người phụ nữ trong Xã hội đương thời..
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non
Hai câu thơ mở đầu trên còn được gọi là hai câu thơ đề trong thể thơ độc đáo này. Nhắm mắt suy nghĩ về cuộc sống, từng nhịp thở của người phụ nữ trong đêm khuya lạnh tanh hoà theo tiếng trống thông báo dồn dập, diễn tả sự qua đi nhanh chóng của thời gian.
Đêm nay, người phụ nữ đang lẻ loi, cô độc một mình. Không còn một âm vang nào khác, không còn những tiếng ồn ào náo nhiệt của một ngày dài, chỉ còn tiếng trống canh cùng người phụ nữ. Từ “Trơ” – một trong những từ ngữ thể hiện sự chua chát của cuộc đời và sự đối lập giữa vẻ đẹp “Hồng nhan” – “Nước non”.
Từ “trơ” còn hàm chứa nhiều ngữ nghĩa hơn thế: “trơ” có nghĩa là tủi hổ: “Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ” (Nguyễn Du, Truyện Kiều). Càng nghĩ càng thấy phẫn uất, đắng đót, ngậm ngùi. Đời Hồ Xuân Hương sao chẳng thể vui với nước non, mà chỉ thấy “Bảy nổi ba chìm với nước non”, chỉ thấy “Trơ cái hồng nhan với nước non”? Nghĩa là Hồ Xuân Hương đau khổ những vẫn vững vàng bản lĩnh như “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” (Bà huyện Thanh Quan, Thăng Long thành hoài cổ)
Tại sao nữ sĩ Hồ Xuân Hương lại đặt mình vào trong nhân vật với một không gian buồn bã, tàn lụi đến như vậy? Đối với riêng nữ sĩ khi đối mặt với cái thực tế đó, tâm trạng bà thế nào? Phải chăng bà muốn diễn tả thân phận không chỉ của riêng bà, mà còn là của những người phụ nữ khác trong cái quy luật cổ hủ, vô nhân đạo “Hồng nhan bạc phận” ? Hay cái thân phận phải đi làm “Vợ lẽ” – Không được tôn trọng cả về phẩm giá và tâm hồn ? Thật đớn đau …
Bước qua hai câu thơ kế, cũng là hai câu thực, liệu rằng ta có cảm nhận được điều gì trong sáng hơn, tươi đẹp hơn hay không ?
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Trong cái không gian cô quạnh không bóng người của bầu trời đêm, người phụ nữ tìm đến những chén rượu để giải thoát mình khỏi nỗi sầu não của cuộc đời. Thật độc đáo khi sử dụng nghệ thuật “Mượn cảnh ngụ tình” trong hai câu thực này. Nỗi buồn đau, tủi nhục – như đã đề cập ở trên, có thể là thân phận làm vợ lẽ, phải chịu sự ghen ghét, cay nghiệt của người vợ cả ? Một chút hương rượu nồng có thể đã đưa người phụ nữ đến những giấc mơ trong cơn mê để xoa dịu những nỗi đau trong giây phút thực tại.
Nhưng… Càng về khuya, khi tiếng trống canh dãn dài ra, thời gian bắt đầu chậm lại, thì cũng là lúc mùi hương nhè nhẹ của những chén rượu không còn tác dụng. Người phụ nữ chợt bừng tỉnh về phút giây hiện tại chan chứa nỗi buồn. Ba từ : “Say lại tỉnh” đã chứng minh được điều đó. Càng uống càng tỉnh, càng tỉnh lại càng nghĩ suy.
Trong cái “Bóng xế khuyết chưa tròn” của Vầng trăng tưởng chừng như êm đềm, phải chăng tác giả đang nghĩ về nhan sắc của mình đang tàn phai theo năm tháng, mà tình duyên vẫn chưa thể vẹn toàn? Ánh trăng đêm là ánh trăng của kỷ niệm, của hẹn ước yêu đương, của bao đôi tình nhân. Ánh trăng cũng là biểu tượng của sự thuỷ chung của bao tình yêu đôi lứa.
Giờ đây, ánh trăng đó sắp tàn và đang dần khuất bóng sau những rặng dừa cao, người phụ nữ vẫn chưa thể chìm sâu vào giấc ngủ. Trăng chưa thể tròn, như cuộc tình dang dở của người phụ nữ. Có lẽ, nữ sĩ Hồ Xuân Hương muốn đưa cái sự suy nghĩ về lẽ đời, về sự hạnh phúc mà tác giả đang mong đợi vào chính tâm trạng của nhân vật.
Trong lúc suy tư đó, mà đối với những bạn trẻ đang hạnh phúc là vầng trăng cổ tích, còn đối với người phụ nữ là ánh trăng suy tư, tác giả đã đánh động người đọc ra khỏi sự suy nghĩ về nỗi đau của phái đẹp trong xã hội phong kiến lạc hậu bằng hai câu thơ luận:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn
Ánh mắt ngước nhìn bầu trời đêm có trăng, có sao, có mây trôi, có gió thổi từ lúc “Trống canh dồn”, giờ đây người phụ nữ lạc lõng đó đang ngắm nhìn những sự vật xung quanh mình. Có lẽ nào người phụ nữ ấy đang dạo quanh đâu đó trong khung cảnh khi bình minh chưa ló dạng, và phát hiện ra một sự thật hiển nhiên mà lâu nay không một ai để ý đến?
Những động từ mạnh mẽ như “Xiên ngang” – “Đâm toạc” được sử dụng trong phép đảo ngữ đã toát lên được sức mạnh của sự sinh tồn từ trong những sự vật nhỏ bé. Giữa mặt đất đầy đất và đá, đâu đó mọc lên một nhành cây con con, xanh tươi. Cũng đâu đó dưới khung trời rộng lớn nhưng trống trải, những hòn đá tuy nhỏ bé thôi, cũng đủ làm khung cảnh trở nên sinh động… Ta đang cảm nhận được sức mạnh của thiên nhiên.
Những ngọn cỏ tí hon hay những sự vật vô tri như hòn đá kia, đã được tác giả tô điểm bằng nghệ thuật vô cùng độc đáo. Chính điều đó đã đánh thức người đọc ra khỏi tâm trạng u uẩn của người phụ nữ cô đơn trong bóng đêm. Ta cũng cảm nhận được sức sống mãnh liệt để sinh tồn, dù trước mắt hiện tại đang rất rất khó khăn của từng sự vật thiên nhiên.
Nếu như thế, phải chăng tác giả đang hướng người đọc đến sự hạnh phúc, niềm tin ở tương lai, dù khó khăn, bất hạnh ở phút hiện tại, đối với nhân vật trong bài thơ, với tác giả hay toàn thể những người phụ nữ trong Xã hội phong kiến? Dưới góc nhìn của chúng ta ở thời này, có thể cho là như vậy. Với hai câu Luận này, khát vọng sống và được sống, yêu và được yêu của nữ sĩ được thể hiện vô cùng quyết liệt ! Thật là một người phụ nữ có ý chí và niềm tin
Tưởng chừng như cảnh cửa cuộc đời đang mở ra cho người phụ nữ và toàn thể phái đẹp trong Xã hội phong kiến một hạnh phúc và niềm tin mới, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã kéo chúng ta về suy nghĩ hiện tại, cũng chính là hai câu thơ kết, vừa chua xót, vừa đắng cay của cuộc đời :
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Tâm trạng mong mỏi chờ đợi của người phụ nữ lại trở về khi ngày mới bắt đầu. Quy luật của thời gian chính là chỉ trôi theo một chiều chứ không tương tác song song. Xuân đến rồi Xuân lại đi. Ngày xuân hôm qua cũng chẳng giống ngày xuân hôm nay. Mùa xuân năm sau cũng khác hẳn mùa xuân năm nay. Chẳng có sự vật gì có thể thoát khỏi quy luật chung đó.
Thế nhưng Xuân thì có thể đến, chứ người thì không thể trường tồn mãi mà không già đi. Tuổi xuân – là nhan sắc mà mỗi ngày một phai tàn của những “Hồng nhan”. Người phụ nữ ấy vẫn mong chờ một ngày nào đó được cảm nhận hạnh phúc trọn vẹn thật sự, bằng cả trái tim nồng cháy của người đối diện, để nàng có thể trao đi tất cả những gì được gọi là sự thuỷ chung, sự vẹn toàn của tình yêu.
Đó cũng là nỗi uất ức khi “Tình đã nhỏ, mà còn xé nhỏ hơn” thì cũng tương tự việc chia cắt trái tim. Thật không còn gì có thể diễn tả được nỗi đau đó. Bằng nghệ thuật tăng tiến giảm dần, ta thấy được sự ít ỏi, nhỏ bé của hạnh phúc trong cảnh cái cảnh chồng chung đáng phê phán, chê trách ấy…
“Tự tình 2” chính là tiếng lòng của Hồ Xuân Hương đúng như nhận định “ Thơ là tiếng lòng” của Diệp Tiến. Tiếng lòng thiết tha vừa u buồn vừa phảng phất ánh sáng của khao khát, ước mơ hạnh phúc như một viên ngọc sáng thách thức bước đi nghiệt ngã của thời gian. Qua bao thế kỷ, Hồ Xuân Hương cùng tiếng thơ “ Tự tình” vẫn in sâu trong tâm trí độc giả ngàn đời.
Xem ngay mẫu 🌸 Mở Bài Tự Tình 2 🌸 đa dạng!
Liên Hệ 2 Câu Đề Tự Tình Sáng Tạo
Mẫu bài văn liên hệ “Tự tình” 2 câu đề sáng tạo nhất ở bên dưới, mời bạn xem thêm:
Hồ Xuân Hương một nữ sĩ đại tài của văn học Việt Nam, bà được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Các vần thơ của bà tập trung nói về người phụ nữ với sự ý thức cao độ về vẻ đẹp hình thức và nhân cách. Nhưng đằng sau những vần thơ ấy còn là nỗi đau thân phận bị rẻ rúng. Nỗi niềm đó được thể hiện trong bài thơ Tự tình II, và điều này được thể hiện rất rõ qua hai câu đề và 2 câu thực của bài thơ.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Câu đề mở ra thời gian và không gian nghệ thuật rất đặc biệt: đêm đã về khuya, không gian quá mênh mông và vắng lặng. Chính là nhờ tính từ “văng vẳng” được nữ sĩ dùng vừa tự nhiên, vừa rất tinh tế mà ta nhận ra cùng một lúc không gian mênh mông (tiếng trống cầm canh từ xa xôi theo gió “vẳng” tới,vọng tới; và không gian vắng lặng (bút pháp lấy động tả tĩnh quen thuộc của thi pháp cổ điển).
Đã có hai trong tổng số ba bài thơ Tự tình nhà thơ chọn thời gian và không gian nghệ thuật giống nhau đặt ở câu đề. Cách cảm nhận bước đi của thời gian qua tiếng trống điểm canh và tiếng gà gáy là cách cảm nhận rất Á Đông. Đó là thời gian tâm lí, thấm đẫm chất trữ tình.
Đêm khuya là lúc vạn vật chìm trong giấc ngủ, mọi hoạt động ban ngày dừng lại, đó cũng là lúc tâm tư sâu lắng nhất. Người đang thao thức, suy tư trong đêm khuya lại là một phụ nữ. Đó cũng là điều bất thường. người phụ nữ được đặt trong một không gian mênh mông vắng lặng, giữa đêm hôm khuya khoắt chắc là đầy ắp nỗi niềm không biết ngỏ cùng ai, chẳng có ai bên cạnh đề mà sẻ chia, thấu hiểu. Nàng hoàn toàn trơ trọi, lẻ loi, cô độc.
Thời gian nghệ thuật thể hiện sự tự cảm thấy của con người trong thế giới. Cảm thức thời gian luôn gắn liền với ý thức về “cái tôi”. Ý thức về “cái tôi” càng trưởng thành, càng sâu sắc thì cảm thức về thời gian trôi chảy càng mãnh liệt.
Đã đành thời gian khách quan là vô thủy vô chung. Nhưng thời gian chủ quan của một đời người là hữu hạn. Tuổi xuân của người phụ nữ lại càng ngắn ngủi, cho nên thời gian trong cảm thức cá nhân gắn liền với sự tàn phai và có sức hủy diệt ghê gớm. Cái tiếng “trống canh dồn” kia cũng là một thứ âm thanh tâm lí, nó như “dồn” nén lòng người, nhất là lòng người phụ nữ cô đơn, niềm phẫn uất, nỗi hoang mang, lo sợ.
Cái đáng sợ nhất là cảm thức về sự trôi chảy của thời gian luôn luôn ở thế nghịch đối với niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau của con người. khi vui sướng, hạnh phúc thì có cảm giác “ngày vui ngắn chẳng tày gang” (Nguyễn Du), khi sầu thương, đau khổ thì thời gian bò như ốc, như sên. Trong thời gian và không gian ấy, với Hồ Xuân Hương, chỉ còn lại cái vô duyên, bẽ bàng:
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Trong phép đảo ngữ, nữ sĩ đã đặt tử “trơ” lên đầu câu thơ gây một ấn tượng mạnh mẽ. Từ “trơ” đứng riêng ra,ăn hẳn một nhịp vừa nói được thế lẻ loi, trơ trọi lại vừa nói đến sự vô duyên (trơ ra). Từ “trơ” còn hàm chứa nhiều ngữ nghĩa hơn thế: “trơ” có nghĩa là tủi hổ:
“Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ”
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Càng nghĩ càng thấy phẫn uất, đắng đót, ngậm ngùi. Đời Hồ Xuân Hương sao chẳng thể vui với nước non, mà chỉ thấy “Trơ cái hồng nhan với nước non”? Nghĩa là Hồ Xuân Hương đau khổ những vẫn vững vàng bản lĩnh như “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” (Bà huyện Thanh Quan, Thăng Long thành hoài cổ).
Qua phân tích hai câu đề bài Tự Tình chúng ta đã hiểu được phần nào nỗi cô đơn, lẻ loi, nỗi xót xa, đau đớn trước cái số phận nghiệt ngã lắm truân chuyên của Hồ Xuân Hương, đồng thời cũng là của những người phụ nữ thời bấy giờ.
Liên Hệ Tự Tình Với Vợ Chồng A Phủ Nâng Cao
Chia sẻ cho các bạn bài văn liên hệ “Tự tình” với “Vợ chồng A Phủ” nâng cao, tham khảo ngay bạn nhé!
Trong xã hội phong kiến với những lễ giáo khắt khe người phụ nữ luôn phải chịu nhiều cay đắng, thiệt thòi. Họ bị ràng buộc bởi “Tam tòng tứ đức”, bởi “Công dung ngôn hạnh” mà mất đi quyền làm chủ, quyền hạnh phúc. Đó là nguồn cảm hứng cho các nhà văn nhà thơ luôn có tấm lòng nhân đạo đồng cảm, xót thương cho con người.
Hồ Xuân Hương là nữ thi sĩ có nhiều tác phẩm viết về đề tài người phụ nữ cũng là để than ngẫm, thương xót cho chính thân phận của mình. Chùm thơ Tự tình của bà gồm ba bài là sự phản ánh đặc sắc tâm tư, tình cảm của nhà thơ. Trong đó Tự tình bài II được coi là bài thơ hay nhất khắc họa hình ảnh người phụ nữ “hồng nhan bạc phận” đường tình duyên không trọn vẹn, quá lứa lỡ thì nhưng luôn khao khát có một hạnh phúc bình dị, đời thường.
Người phụ nữ xuất hiện trong hoàn cảnh không gian, thời gian là đêm khuya thanh vắng con người trở nên cô đơn, bé nhỏ, lạc lõng cùng với biết bao những đắng cay, tủi hờn cho thân phận bẽ bàng của mình.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Người phụ nữ ấy có nhan sắc “hồng nhan” vẻ đẹp bên ngoài cũng là để nói đến cái phẩm hạnh, đức hạnh “tấm lòng son” ở bên trong nhưng lại phải chịu số phận bất hạnh, dở dang. Từ “Trơ” đứng ở đầu câu càng nhấn mạnh thêm nỗi đau
Nếu xét về phương diện tính cách của Hồ Xuân Hương có cá tính mạnh mẽ, táo bạo thì đó lại là sự thách thức, trơ lì ra của một con người chịu quá nhiều tủi hờn, đau buồn mà trơ ra với “nước non”. “Cái hồng nhan”gợi sự rẻ rúng bị coi khinh. Người phụ nữ đầy đủ vẻ đẹp hình thể và tâm hồn nhưng phải sống một cuộc đời khổ đau, hẩm hiu về duyên phận.
Hồ Xuân Hương ý thức được số phận của người phụ nữ sống trong chế độ phong kiến thối nát phải chịu nhiều ngang trái nên bà muốn mượn chén rượu, mượn chút hương nồng để quên đi nỗi sầu. Nhưng càng uống càng tỉnh càng ý thức rõ ràng hơn về thực tại khổ đau, bà luôn luẩn quẩn trong vòng xoáy nghịch cảnh của cuộc đời.
Bà chúa thơ Nôm không phải là người phụ nữ cam chịu, chấp nhận số phận mà bà luôn mang trong mình cá tính táo bạo kháng cự quyết liệt. Bà đã từng lên tiếng khinh bỉ, coi thường những bậc nam nhi vô dụng trong xã hội xưa mà nói rằng:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
Một con người tự tin dám khẳng định bản thân mình thì không bao giờ chịu chấp nhận nghịch cảnh mà thay vào đó là một ý thức phản kháng mạnh mẽ, muốn vượt lên số phận, mong mỏi một hạnh phúc đời thường. Bà nhìn thấy trong những sự vật nhỏ bé tưởng chừng như yếu ớt nhưng lại mang trong mình một sức sống dồi dào
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Trong đôi mắt của một tâm hồn mạnh mẽ thì những vật vô tri vô giác như rêu, đá cũng căng tràn nhựa sống mà “xiên ngang”, “đâm toạc” được cả những sự vật lớn lao, rộng lớn là “mặt đất”, là “chân mây”. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến không phải ai cũng ý thức và có được thái độ cứng rắn như Hồ Xuân Hương.
Càng kháng cự bao nhiêu càng cho thấy khao khát được hạnh phúc bấy nhiêu. Người phụ nữ cần và đáng được hưởng một mái ấm gia đình, được chồng yêu thương chăm sóc, tay ấp tay gối bên chồng chứ không phải cô đơn, giường đơn gối chiếc trong đêm khuya thanh vắng một mình xót xa, tủi hờn.
Nhưng càng ước vọng bao nhiêu lại càng thất vọng, thương xót cho thân phận mình bấy nhiêu khi
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Hồ Xuân Hương chán chường, ngán ngẩm khi ngày qua ngày hết năm này qua năm khác “xuân đi xuân lại lại” nhưng vẫn cô đơn lẻ bóng một mình, bà cũng xót xa cho tuổi xuân của mình qua đi, tuổi đời càng thêm nhưng tình yêu chưa bao giờ được trọn vẹn, được thương yêu với đúng nghĩa của một người làm vợ.
Mảnh tình ấy đã mỏng manh, ít ỏi lại còn phải “chia năm sẻ bảy” để rồi chỉ còn “tí con con”. Mặc dù thi sĩ là người có tài năng, giỏi giang, xinh đẹp đức hạnh nhưng phải chăng vì lẽ “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” mà bà cũng không thể vượt qua được nghịch cảnh của số phận.
Thương thay cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa khiến cho Nguyễn Du thi hào nhân đạo chủ nghĩa của nhân loại cất lên tiếng khóc:
“Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Thân phận của người đàn bà dù ở bất kì xã hội nào cũng đều rẻ mạt và cay đắng. Đã từng có 1 cô Mị trong “Vợ chồng A Phủ” xinh đẹp, là 1 bông hoa của vùng núi Tây Bắc. Người con gái Tây Bắc ấy cũng xinh đẹp và tài năng như Hồ Xuân Hương, cô ấy có tài thổi sáo khiến bao chàng trai say mê.
Thế nhưng “hồng nhan bạc phận”, vì món nợ truyền kiếp mà cô bị bắt về làm “con dâu gạt nợ”, từ 1 cô gái trẻ trung ở tuổi đôi mươi, Mị trở thành người đàn bà sống lầm lũi nơi xó bếp. Mặt lúc nào cũng buồn rười rượi, cô đơn buồn tủi trong căn phòng chỉ có 1 ô cửa sổ bằng bàn tay nhìn ra bên ngoài cũng không biết nắng hay sương.
Tô Hoài và Hồ Xuân Hương thông qua 2 tác phẩm của mình đã thể hiện nỗi đắng cay tủi nhục của số phận người phụ nữ, tiếng nói đồng cảm sẻ chia trước nỗi đau con người, đặc biệt người phụ nữ, tiếng nói tố cáo xã hội bất công tàn bạo. Nếu Mị là nạn nhân của cường quyền, thần quyền, sức mạnh đồng tiền trong xã hội nửa thực dân phong kiến thì nỗi đau của Hồ Xuân Hương trong Tự tình là do thành kiến xã hội bất công trọng nam khinh nữ.
Với tài năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc cùng với các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương đã khắc họa được hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn phải chịu nhiều bất hạnh, đắng cay nhưng chưa bao giờ thôi khao khát hạnh phúc gia đình, hôn nhân trọn vẹn, có thể làm chủ được số phận của mình. Bên cạnh đó càng điểm tô thêm vẻ đẹp và những phẩm chất, đức hạnh của người phụ nữ Việt Nam cần được gìn giữ và tiếp nối.
Học hỏi cách 🌸 Kết Bài Tự Tình 2 🌸 thú vị!
Liên Hệ Tự Tình Và Thương Vợ Xuất Sắc
Mẫu bài văn liên hệ “Tự tình” với “Thương vợ” xuất sắc nhất đã được biên soạn ở dưới, xem ngay bạn nhé!
Hồ Xuân Hương sáng tác nhiều bài thơ nổi tiếng về đề tài phụ nữ. Thơ bà là tiếng nói đòi quyền sống tự do và thể hiện khát khao hạnh phúc. Trần Tế Xương cũng có một số bài thơ nói về những vất vả gian truân mà người phụ nữ phải gánh chịu trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.
Ở bài thơ Tự tình II, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng bức xúc cao độ của bản thân, đồng thời cũng là tâm trạng chung của bao phụ nữ cùng cảnh ngộ trong xã hội phong kiến:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Nói đến người phụ nữ là nói đến cái đẹp, tình yêu thương và đức hi sinh. Họ cống hiến hết cho cuộc đời mà không đòi hỏi quyền lợi vật chất nào ngoài sự trân trọng, cảm thông và chia sẻ. Nhưng những cái đó hầu như không được gia đình và xã hội quan tâm vì cho rằng thiên chức của phụ nữ là phục tùng vô điều kiện. Hiểu rõ điều bất công đó nên Hồ Xuân Hương đã viết nên những câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa, chua chát như trên.
Hồng nhan là cách gọi những phụ nữ đẹp, rộng hơn là để chỉ chung giới nữ. Nhưng gọi là cái hồng nhan có nghĩa là đã hạ nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác khác. Nỗi hờn tủi, bẽ bàng chất chứa trong câu thơ: Trơ cái hồng nhan với nước non in đậm dấu ấn phong cách diễn tả độc đáo của Xuân Hương.
Tâm sự trĩu nặng nỗi buồn thân phận và duyên phận của nữ sĩ không biết ngỏ cùng ai nên càng cuộn xoáy, day dứt trong lòng giữa đêm khuya thanh vắng. Nhưng dù bị phụ phàng hay quên lãng thì nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn không tuyệt vọng, vẫn khao khát sống mạnh mẽ, vẫn ước ao đến cháy lòng hạnh phúc tròn đầy, vẫn mong muốn được san sẻ và bù đắp những tình cảm chân thành nhất giữa người với người.
Đồng cảm với thân phận người phụ nữ, thay vì để người phụ nữ tự lên tiếng bênh vực mình thì giờ đây đã có Tú Xương dám nói lên sự bất công, bất hạnh ấy. Điển hình là bài “Thương vợ”, đây có thể coi là bài thơ trào phúng khắc họa chân dung tương đối hoàn chỉnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Ngày xưa, Nho giáo buộc phụ nữ phải có bổn phận thờ chồng, nuôi con. Thờ chồng đối với bà Tú bao hàm cả việc nuôi chồng, thế là bất công vì đúng ra, người đàn ông phải giữ vai trò trụ cột trong gia đình về mọi mặt.
Bà Tú vốn con nhà gia giáo, khá giả. Lúc còn ở với cha mẹ, bà không phải chịu cảnh vất vả nắng sương. Làm vợ ông Tú lận đận về đường khoa cử, lại không nghề không nghiệp nên bà đành chấp nhận cảnh sống long đong, khổ sở.
Quanh năm lo tảo tần buôn bán nơi mom sông, bến chợ để Nuôi đủ năm con với một chồng. Mà nuôi ông chồng đặc biệt tài hoa như ông Tú thì không phải chỉ lo miếng cơm, manh áo bình thường mà còn phải chuẩn bị sẵn cho ông ít rượu ít trà, ít tiền bỏ túi để có lúc ông vui bạn vui bè, chuẩn bị cho ông một hai bộ cánh tươm tất để nhỡ đi đâu ông khỏi tủi…
Như vậy là bà Tú phải lo rất nhiều, phải làm rất nhiều mà không dám kể lể, thở than: Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Bà âm thầm coi đó là định mệnh đã an bài. Suy nghĩ và tâm trạng của bà Tú cũng là suy nghĩ, tâm trạng chung của phụ nữ thời xưa.
Nhà thơ Trần Tế Xương từng tự nhận mình là ông chồng vô tích sự, để vợ phải lặn lội thân cò… chẳng khác chi những thân cò thân vạc đáng thương trong ca dao – dân ca, tượng trưng cho thân phận vất vả, cực nhọc của người phụ nữ.
Bên cạnh nỗi khổ vật chất, bà Tú còn nỗi khổ tinh thần. Bà hết lòng vì chồng, vì con nhưng chồng con nào có biết cho chăng?! Thế nên mới có tiếng thở dài như một lời than não ruột: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!
Có lẽ ông Tú đã hoá thân vào vợ mình, để thấu hiểu và thông cảm với bà. Lấy chồng mà chẳng được nhờ vả, cậy dựa; lấy phải ông chồng hờ hững thì quả là có cũng như không mà thôi.
Hai bài thơ cùng một đề tài và cùng toát lên thân phận nhỏ bé, phụ thuộc rất đáng thương của người phự nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Nhà thơ Hồ Xuân Hương và nhà thơ Trần Tế Xương đã góp tiếng nói đáng kể vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi chính đáng của một nửa nhân loại – những người gánh vác trọng trách duy trì sự sống trên trái đất này.
Liên Hệ Tự Tình 2 Với Truyện Kiều Ý Nghĩa
Nếu bạn đang tìm kiếm bài văn liên hệ “Tự tình” với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du thì nên tham khảo mẫu mà chúng tôi gợi ý sau đây:
Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Mỗi bài thơ là tiếng hát của trái tim, là những cảm xúc chân thành mà mãnh liệt của người nghệ sĩ. Bởi vậy, Diệp Tiến cho rằng, “thơ là tiếng lòng”. Trong số những “ tiếng lòng” trong thơ, ta bắt gặp nỗi lòng người phụ nữ sống trong xã hội xưa đầy xót xa, tủi hổ, nổi bật là Hồ Xuân Hương với tác phẩm “ Tự tình II”.
Thơ là thư kí trung thành của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ phản ánh cuộc sống con người, xã hội để qua đó, nhà thơ bộc bạch nỗi lòng mình. Họ như những con ong chăm chỉ bay xa để đem về hương phấn làm nơi mật ngọt, tái tạo tài tình bằng những cảm xúc cá nhân để tạo mật ngọt toả ngát cho đời.
Trong những con ong chăm chỉ như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Hồ Xuân Hương nổi lên là một hiện tượng văn học độc đáo chuyên viết về phụ nữ với thể loại trữ tình và trào phúng, kết hợp văn học dân gian và văn học bác học. Xuyên suốt các tác phẩm của bà là nỗi lòng người phụ nữ với những đau xót, buồn tủi về thân phận và khao khát một cuộc sống hạnh phúc, tự do. Bài thơ “ Tự tình II” đã thể hiện rõ điều đó.
Mở đầu bài thơ, chúng ta như đồng cảm với tâm trạng cô đơn, buồn tủi của Hồ Xuân Hương:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Câu thơ mở ra không gian vắng lặng, yên tĩnh trong đêm khuya tĩnh mịch. Trong không gian nghệ thuật ấy, cùng với bước đi vội vã của thời gian “ trống canh dồn”, “ trơ” lại “ cái hồng nhan với nước non”. “ Trơ” nghĩa là trơ trọi gợi lên nỗi cô đơn, cô độc nhưng cũng có nghĩa là trơ trẽn gợi lên nỗi xấu hổ, bẽ bàng. “Trơ” lại một “cái hồng nhan” gợi lên sự mỉa mai, rẻ rúng cùng nỗi tủi hổ, bẽ bàng, cô đơn của một thân phận phụ nữ nhỏ bé và bất hạnh. Không chỉ cô đơn, buồn khổ, bài thơ còn thấm đượm nỗi xót xa, bẽ bàng, nỗi đau thân phận của nhân vật trữ tình:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
Cụm từ “ say lại tỉnh” tạo nên một vòng luẩn quẩn cho câu thơ cũng là vòng luẩn quẩn của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Mượn rượu để men cay làm quên sự đời, quên đi những tủi hổ, bẽ bàng nhưng, hơi rượu cũng không thể xua tan đi nỗi đau thân phận. Như vậy, uống rồi say, say rồi tỉnh, tỉnh rồi đau, đau rồi lại uống.
Ở đây, người phụ nữ đau bởi nhận thức rõ “vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Hình ảnh ẩn dụ đầy sức gợi thể hiện rõ nỗi đau tột cùng của nhân vật trữ tình bởi tuổi xuân sắp qua đi như “ vầng trăng bóng xế” mà nhân duyên chưa trọn vẹn nên “ khuyết chưa tròn”. Dường như càng khao khát một hạnh phúc nhỏ nhoi, người phụ nữ càng xót xa, đau đớn cho phận mình. Đau đớn, xót xa ắt dẫn đến phẫn uất, phản kháng. Người phụ nữ đã phản kháng lại số phận để mong muốn thay đổi cuộc đời:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
Hai câu thơ được cấu tạo đặc biệt: đảo vị ngữ là những động từ mạnh lên đầu câu. “Xiên ngang” và “đâm toạc” là hành động của những vật vô tri vô giác. Trong tự nhiên, rêu là sự vật bé nhỏ, yếu mềm, thế mà ở đây dường như nó mạnh mẽ hơn, cứng cỏi thêm để “xiên ngang mặt đất”. “Đá” là vật bất động, thế mà ở đây cũng đang to hơn, nhọn hơn, đang cựa quậy, “nổi loạn” phá tan không gian tù túng bị giới hạn bởi “chân mây”.
Hình ảnh thiên nhiên động, thiên nhiên “nổi loạn” này không chỉ xuất hiện một lần mà còn có trong nhiều những tác phẩm khác của bà. Lí giải cho sự xuất hiện những hình ảnh thiên nhiên như thế là ở cá tính mạnh mẽ của nữ sĩ. Thiên nhiên được miêu tả thể hiện rõ tâm trạng con người, như đại thi hào Nguyễn Du từng đúc kết về mối quan hệ giữa cảnh và tình:
“Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ”.
Quyền được sống, được tự do yêu đương và nhu cầu hạnh phúc là điều nhỏ nhoi mà bất kỳ người phụ nữ nào cũng được hưởng. Nhưng, chế độ xã hội xưa không cho phép họ được sống với quyền lợi chân chính của mình. Xã hội với tư tưởng “ trọng nam khinh nữ”, với quan niệm vạn đời bất biến “ trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” đã ngang nhiên chà đạp lên cuộc đời người phụ nữ. Cố ngoi đầu lên họ lại bị dìm xuống sâu hơn nữa. Cố phản kháng họ lại chuốc thêm đau buồn:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mối tình san sẻ tí con con.”
Câu thơ thể hiện nỗi chán chường, ngao ngán khi tuổi xuân con người ra đi mà không bao giờ trở lại. “ Xuân” vừa là mùa xuân của đất trời vừa là tuổi xuân của con người. Cùng là “ xuân” thế nhưng xuân của đất trời đi rồi đến còn xuân của con người một đi không trở lại. Bởi thế, sao tránh khỏi nỗi đau buồn, tủi hổ!
Đã nhiều lần chính nhà thơ lên tiếng “ chém cha cái kiếp lấy chồng chung” nhưng rồi lại đau buồn bởi quy luật “ gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi” (Nguyễn Du). Khao khát hạnh phúc trọn vẹn nhưng cuối cùng chỉ còn lại sự xót xa của một thân phận hai lần làm lẽ. “ Mảnh tình san sẻ tí con con.”
Chỉ đơn độc, duy nhất một “ mảnh tình” nhưng cũng phải “ san sẻ” từng “ tí con con”. Tấm lòng cô độc mềm yếu nhưng cũng chẳng được vẹn toàn. Trong xã hội phong kiến, hạnh phúc với người phụ nữ như một chiếc chăn quá hẹp, người này ấm thì người kia lạnh “ kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”.
Cả bài thơ “ Tự tình II” toát lên nỗi đau thân phận của Hồ Xuân Hương cũng là nỗi đau của tất cả người phụ nữ trong xã hội đương thời. Đó là tâm trạng vừa đau buồn, vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Tất cả khái quát thành quy luật như Nguyễn Du đã viết trong “ Truyện Kiều”:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
Đó là tiếng nấc nghẹn ngào cho thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội đương thời mà Nguyễn Du khóc thương thay cho họ. Dường như, ông thấu hiểu rõ sự đau khổ và bất lực của họ khi sống trong một xã hội thối nát với đầy rẫy những bất công, định kiến, của tư tưởng trọng nam khinh nữ.
Người phụ nữ đương thời, ai cũng đều thùy mị, đảm đang nhưng chẳng bao giờ giữ được hạnh phúc cho riêng mình. Đến cả việc mưu cầu hạnh phúc cũng chỉ như một giấc mơ xa vời với họ. Họ mang thân phận người phụ nữ hèn mọn, dù mỗi người một cuộc sống riêng, nhưng chẳng ai thoát khỏi sức nặng của hai từ “bạc mệnh.
Người phụ nữ xuất hiện trong văn chương đều là những người xinh đẹp, đẹp cả ngoại hình cho đến tính cách và nội tâm. Hồ Xuân Hương và Thúy Kiều chính là những nhân vật đại diện cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ không có quyền lợi, không có tự do, cũng chẳng có quyền được hạnh phúc – một cái quyền cơ bản nhất của con người. Dù họ cam chịu hay vùng vẫy, họ cũng chẳng bao giờ thoát được nanh vuốt của xã hội thối nát đó. Nhưng sau tất cả, họ vẫn giữ được cho mình vẻ đẹp đáng trân quý của tâm hồn thanh cao.
“Tự tình II” giúp người đọc thấu hiểu nỗi đau thân phận và khát vọng mạnh mẽ muốn vươn lên số phận của người phụ nữ qua nỗi đau và khát vọng của Hồ Xuân Hương nhưng cũng giúp ta nhận ra và trân trọng tài năng độc đáo của “ Bà chúa thơ Nôm” trong nghệ thuật sử dụng từ ngữ và xây dựng hình ảnh. Quả là “ Nghệ thuật làm nên câu thơ, trái tim làm nên thi sĩ”.
“Tự tình II” chính là tiếng lòng của Hồ Xuân Hương đúng như nhận định “ Thơ là tiếng lòng” của Diệp Tiến. Tiếng lòng thiết tha vừa u buồn vừa phảng phất ánh sáng của khao khát, ước mơ hạnh phúc như một viên ngọc sáng thách thức bước đi nghiệt ngã của thời gian. Qua bao thế kỷ, Hồ Xuân Hương cùng tiếng thơ “ Tự tình” vẫn in sâu trong tâm trí độc giả ngàn đời.
Bài văn 🌸 Phân Tích Tự Tình Hồ Xuân Hương 🌸 đặc sắc!
Liên Hệ Tự Tình 2 Với Bánh Trôi Nước Hay Nhất
Mẫu bài văn liên hệ “Tự tình” với “Bánh trôi nước” dưới đây được đánh giá hay và ngắn gọn, mời bạn xem ngay
Người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa là một đề tài quen thuộc, để thương, để nhớ cho chủ nghĩa nhân đạo trong văn học. Chỉ qua một số ít bài thơ trong số đó như “Bánh trôi nước”, “Tự tình” (Hồ Xuân Hương), ta đã phần nào cảm nhận được vẻ đẹp và nỗi bất hạnh của những số phận éo le này.
Xã hội phong kiến với nhiều thành kiến về người phụ nữ cùng những hủ tục lạc hậu đã đè nén, bóp nghẹt quyền sống của họ. Họ bị “vùi liễu giập hoa tơi bời” như nàng Kiều của Nguyễn Du. Hoặc không thì cũng chẳng còn đất sống như Vũ Nương của Nguyễn Dữ,…
Số phận người phụ nữ là một phần nội dung quan trọng trong thơ Hồ Xuân Hương. Qua đó, nữ sĩ làm sống lại đời sống, tâm tư người phụ nữ trong xã hội xưa. Điều đặc biệt nằm ở chỗ bà viết những điều ấy thông qua lăng kính chủ quan của một cái “tôi” đầy cá tính. Hay nói cách khác, bằng việc cất lên tiếng nói cá nhân, Xuân Hương làm sống lại hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa. Trong thơ bà, ta hay bắt gặp giọng điệu tự sự, tâm tình rất thật, đầy tâm trạng (“Tự tình I, II, III”, “Mời trầu”, “Bánh trôi nước”,…)
Nhắc đến người phụ nữ là nhắc về cái đẹp. Không phải tự nhiên cổ kim đều ngợi ca phái nữ là phái đẹp: đẹp cả ngoại hình, đẹp cả tâm hồn, việc làm, hành động. Hoá thân vào viên bánh trôi bé nhỏ, người phụ nữ tự sự về mình, họ ý thức được vẻ đẹp ngoại hình của chính họ:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”.
Cách nói “thân em” tác giả sử dụng đã rất quen thuộc trong ca dao. Nó gợi đến những vẻ đẹp đẽ, trong sáng, mỏng manh của nữ giới: “Thân em như dải lụa đào”, “Thân em như giếng giữa đàng”, “Thân em như hạt mưa sa”,…
Trong “Bánh trôi nước”, “thân em” được gắn với hình ảnh viên bánh trôi “vừa trắng”, “vừa tròn”. Đối với viên bánh trôi, có được dáng hình “vừa trắng lại vừa tròn” là hoàn mĩ lắm. Nó chứng tỏ sự xinh xắn, vừa vặn, đẹp đẽ của hình dáng “tròn”; lại khẳng định phẩm chất trong sạch của bột, có vậy mới có được màu sắc “vừa trắng”. Được ví như viên bánh trôi hoàn hảo như vậy, người phụ nữ được ngợi ca, khẳng định về vẻ đẹp ngoại hình.
Trong “Tự tình”, Hồ Xuân Hương đã táo bạo đặt tên, gọi tên vẻ đẹp ấy bằng ba chữ: “cái hồng nhan”. Gọi như vậy đã mặc nhiên thừa nhận cái đẹp ở phái yếu. Chẳng những vậy, nữ sĩ còn đạt cái đẹp ấy đối sánh cùng non nước: “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Từ “trơ” – tức là phơi ra, lộ ra. Phơi ra, lộ ra điều gì? Đó là môi tương quan giữa “cái hồng nhan” và “non nước”. Viết như vậy để thấy được vẻ đẹp lớn lao, kì vĩ của “cái hồng nhan”.
Hồ Xuân Hương trừu tượng và khái quát hơn khi nhắc đến nét đẹp trong phẩm chất của một nửa yếu mềm trong thế giới. Họ trải qua bao nhiêu long dong, lận đận “Bảy nổi ba chìm với nước non”, ở đây, ta lưu ý rằng Hồ Xuân Hương luôn đặt người phụ nữ sánh với non nước. Cách viết ấy đối lập với quan niệm xã hội, khẳng định vị thế, vai trò người phụ nữ trong đời sống đất nước. Dẫu gian nan, chìm nổi, dẫu bị giập vùi, giày xéo nhưng ở người phụ nữ vẫn sáng người vẻ đẹp trung trinh son sắt:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Từ đầu đến cuối bài thơ “Bánh trôi nước” nữ sĩ vẫn mượn hình ảnh chiếc bánh trôi để viết về người phụ nữ. Viên đường thắm đỏ mà bánh trôi bao bọc, ôm ấp bên trong như tấm lòng son sắt thuỷ chung, là tâm hồn trung trinh với những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Bước vào thơ ca, vẻ “đẹp người đẹp nết” của người phụ nữ được tô đậm, ngợi ca thật sâu sắc.
Với những gì đã có và đã làm, người phụ nữ xứng đáng được hưởng cuộc sống ấm êm, hạnh phúc. Nhưng với người phụ nữ xa, chân lí ấy quá xa vời. Với họ “hồng nhan” là “bạc mệnh”. Xã hội bất công, mục ruỗng đẩy họ vào những hoàn cảnh éo le, họ phải chịu nhiều oan trái, bất hạnh.
Như viên bánh trôi dẫu xinh xẻo, đẹp đẽ “vừa trắng lại vừa tròn” nhưng vẫn phiêu đạt “bảy nổi ba chìm”… Người phụ nữ dẫu vẹn toàn là thế vẫn không tránh khỏi cái “đa truân” của “kiếp hồng nhan”. Hết “bảy nổi ba chìm” phiêu dạt, đến số phận cuộc đời mình cũng không thể tự chủ “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”. Phải vậy thôi, không còn cách khác.
Phải số “thập nữ viết vô“, họ sống theo đạo tam tòng “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, hôn nhân cũng là “cha mẹ đặt đâu con ngồi đây”. Có bao giờ trong xã hội phong kiến người phụ nữ được sống cho riêng mình? Cả cuộc đời chỉ lê gót theo chân kẻ khác….
Có ra mặt ca thán cũng là chồng chửi thay, cuôc đời than giúp, những người phụ nữ dẫu có táo bạo, mạnh mẽ như Hồ Xuân Hương cũng nào có to tiếng. Họ chỉ trầm lắng cất tiếng “Tự tình” lúc canh khuya cô độc:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan mấy nước non.
Chao ôi! Còn gì bẽ bàng hơn đối với một người phụ nữ, mà đó lại là một người phụ nữ đẹp? Không bạn bè, không người san sẻ, trông bốn bề hỏi ai là kẻ tri âm. Đêm khuya là thời điểm con người phải đối diện với chính mình, tự chất vấn, tự suy ngẫm, tự phán xét. Xuân Hương dùng từ rất đắt “trơ” – “trơ cái hồng nhan với nước non”. Đằng sau từ ấy là bao nhiêu ngơ ngác, buồn tủi.
Những tưởng chỉ bậc chính nhân quân tử mới mượn rượu giải sầu. Nhưng không, ở người phụ nữ cũng có những nỗi buồn không thể san lấp:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Người ta uống rượu đang tỉnh thành say, say để quên đi mọi lo toan phiền muộn, ở đây, Xuân Hương càng uống, càng say, càng tỉnh “say lại tỉnh”. “Tỉnh” lại càng thấm thìa hơn nỗi cô độc, buồn phiền. Bực bội, tức tối, nhà thơ cũng chỉ trút vào những hình ảnh thơ mạnh mẽ thế nàỵ:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Dùng phép đảo ngữ “xiên ngang mặt đất”, “đâm toạc chân mây” chẳng những khiến khung cảnh trở lên dữ dội mà nhịp thơ cũng rắn rỏi, mạnh mẽ hơn 4/3, 4/3. Qua đó bộc lộ tâm trạng bức bách, đang quẫy đạp đòi giải phóng của nhà thơ. Nhưng Xuân Hương vẫn là Xuân Hương, dù “cứng cỏi đến thành ngổ ngáo” thì bà vẫn là một người phụ nữ. Sau nhưng vần thơ phá phách bà trở lại cái trầm lắng thủa ban đầu:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình son trẻ tí con con.
Vẫn biết mùa xuân là tươi đẹp nhưng xuân là xuân của đất trời, xuân của ai kia chứ không phải xuân của người thiếu phụ. Bởi “mỗi năm mỗi tuổi nó đuổi xuân đi”. “Xuân lại lại” – tức là xuân lại về, lại đến, nó chỉ báo hiệu người ta thêm già, thêm hẩm hiu bẽ bàng. Vậy nên nữ sĩ “ngán nỗi” xuân đến xuân đi. Ngán ngẩm hơn thế là nỗi tình duyên không thoả ý:
“Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Theo sau cái già nua của tuổi tác còn là sự phai nhạt của tình duyên. “Mảnh tình” đã nhỏ bé, đã bị cắt xén ít nhiều nay phải “san sẻ” lẫn nhau chia năm sẻ bẩy, biết làm sao khi:
“Trai quân tử năm thê bẩy thiếp
Gái chính chuyên chỉ có một chồng”
Để rồi mỗi người chỉ còn tí chút “tí con con”. Cái nhỏ bé mong manh của chút tình hiếm hoi là nguyên nhân gây lên nỗi cô độc, éo le của người thiếu phụ đang độ tuổi rực rỡ. Khi ấy, bao nhiêu xuân sắc, son trẻ chỉ là bi kịch của đời người mà thôi. Rõ ràng, khi ấy, bất hạnh là điều không người phụ nữ nào tránh khỏi.
Tranh mẫu 🌸 Sơ Đồ Tư Duy Tự Tình 2 Hồ Xuân Hương 🌸 dễ hiểu!
Liên Hệ Tự Tình 2 Với Tự Tình 1 Độc Đáo
Cuối cùng là bài văn liên hệ “Tự tình 1” với “Tự tình 2” độc đáo, bạn xem qua nhé!
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân Hương được biết đến là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ với tiếng nói cảm thương, tiếng nói khẳng định, tiếng nói tự ý thức về bản thân đầy bản lĩnh. “Bà chúa thơ Nôm” có chùm thơ “Tự tình” bao gồm ba bài, là tiếng nói của thân phận, là những khát khao, đau buồn của kiếp người. Trong đó, bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện rõ tâm trạng, thái độ của nữ sĩ: vừa buồn đau, vừa phẫn uất trước nghịch cảnh éo le cùng khát vọng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch.
Bốn câu thơ mở đầu bài thơ đã cho thấy hoàn cảnh và tâm trạng của nữ sĩ:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan mấy nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Câu thơ gợi nên sự vắng lặng, tĩnh mịch của đêm khuya trong âm điệu buồn thương. Tiếng trống canh giữa đêm khuya cho thấy cảm nhận về bước đi dồn dập của thời gian. Trong thời gian và không gian đó, tác giả cay đắng nhận ra sự bẽ bàng của thân phận.
Những từ ngữ giàu giá trị biểu cảm đã được sử dụng để thể hiện tâm trạng: “Trơ” được đặt đầu câu kết hợp với biện pháp đảo nhấn mạnh cảm giác tủi hổ, chai lì. Hai chữ “hồng nhan” lại đi với từ “cái” đặc trưng cho phong cách nghệ thuật vừa trữ tình vừa trào phúng của tác giả, gợi lên ý thức về sự rẻ rúng, mỉa mai của thân phận. Bi kịch về tâm trạng càng được xoáy sâu thêm.
Câu thơ: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” vừa miêu tả ngoại cảnh vừa diễn tả tâm cảnh, thể hiện sự thống nhất giữa thiên nhiên và con người. “Vầng trăng bóng xế” (trăng sắp tàn) mà vẫn “khuyết chưa tròn” trở thành hình ảnh ẩn dụ, nhấn mạnh hai lần bi kịch của cuộc đời nữ sĩ: tuổi xuân trôi qua mà nhân duyên vẫn không trọn vẹn, thậm chí chỉ là sự dang dở.
Ý thức sâu sắc về bi kịch tình duyên, tác giả không chỉ cảm thấy bẽ bàng, tủi hổ mà còn phẫn uất:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Bức tranh thiên nhiên hiện lên với những nét chấm phá về rêu và đá. “Rêu” và “đá” là những sinh vật vô tri vô giác, bé nhỏ nhưng vẫn không chịu khuất phục mà vẫn hiên ngang tồn tại một cách mạnh mẽ: “xiên ngang mặt đất”, “đâm toạc chân mây”.
Biện pháp đảo ngữ đưa những động từ mạnh lên đầu câu đã làm nổi bật sức sống mãnh liệt của cỏ cây, cũng chính là ẩn dụ cho tâm trạng phẫn uất muốn vượt lên trên nghịch cảnh éo le của tác giả. Nữ sĩ tuy nhận ra sự ngang trái, éo le của phận mình nhưng không hề cam chịu mà luôn muốn vùng vẫy, vượt lên trên hoàn cảnh bằng những hành động phản kháng.
Bài thơ mở đầu bằng cảm thức về thời gian: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”, và kết thúc cũng bằng cảm thức về thời gian, cho thấy tâm trạng chán chường, buồn tủi:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình son trẻ tí con con.
Hai câu thơ tiếp tục thể hiện tài năng trong việc sử dụng ngôn ngữ của tác giả. “Ngán” mang sắc thái chỉ sự chán ngán, ngán ngẩm. Từ “xuân” được điệp lại hai lần mang những sắc thái ngữ nghĩa khác nhau: vừa chỉ mùa xuân, vừa chỉ tuổi xuân.
Mùa xuân của đất trời luôn lặp đi lặp lại theo quy luật tuần hoàn: xuân, hạ, thu, đông nhưng với con người thì tuổi xuân chỉ đến một lần duy nhất, và không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng được sử dụng với hai sắc thái ý nghĩa khác nhau: từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, trong khi đó, từ “lại” thứ hai có nghĩa là quay trở lại, gợi lên sự tuần hoàn, lặp lại. Tất cả đã làm nổi bật ý thức sâu sắc về bi kịch của bản thân và nỗi chán chường khi phải sống trong cuộc sống eo le, ngang trái.
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật tăng tiến ở câu thơ “Mảnh tình- san sẻ- tí- con con” nhấn mạnh bi kịch tình duyên éo le của nhân vật trữ tình. Mảnh tình vốn nhỏ bé lại còn không trọn vẹn, thậm chí là phải “san sẻ”. Câu thơ đã gợi lên hoàn cảnh đầy ngang trái của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa khi phải sống trong cảnh chung chồng, và mang thân đi làm lẽ.
Nỗi thương mình trong sự cô đơn khi phải chịu cảnh làm lẽ, qua đó cũng thể hiện khát khao sống hạnh phúc, vượt lên hoàn cảnh còn được bf đề cập trong bài “Tự tình 1”:
Tiếng gà xao xác gáy trên vòm,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om.
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau hận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá,
Thân này đâu đã chịu già tom.
Vấn là không gian đêm khuya tĩnh lặng, tiếng trống đã thay bằng tiếng gà gáy vẫn “văng vẳng” khắp xóm. Canh khuya, khi mọi người chìm trong giấc ngủ say nồng thì nữ thi sĩ vẫn còn thức, vẫn còn đang nghĩ về cuộc đời mình.
Nỗi cô đơn u uất càng ngày càng lớn hơn khi sang câu 3,4 tác giả sử dụng hình ảnh Mõ – chuông; cốc – om. Đây là hai hình ảnh đối xứng với nhau khiến cho nỗi cô đơn buồn tủi càng kéo dài hơn. Có khác gì cuộc đời nàng, cô đơn lẻ loi với thân phận làm lẽ, tưởng được hạnh phúc ai ngờ lại “kẻ đắp chăn chung, kẻ lạnh lùng”.
Những câu thơ trên là tự trách, là buồn tủi, là thương xót cho thân phận hẩm hiu, tình duyên bẽ bàng. Nhưng hai câu kết dường như lại đảo ngược lại với tâm trạng trên, nó là sự thách thức trước bi kịch cuộc đời:
Tài tử văn nhân ai đó tá,
Thân này đâu đã chịu già tom.
Câu thơ này thể hiện bản lĩnh cứng cỏi của Hồ Xuân Hương trước cuộc đời, một người phụ nữ tuy tình duyên lận đận nhưng chưa bao giờ ngưng khát vọng, ngưng tìm hạnh phúc.
Cả hai bài đều là lời tự bạch, tự trải lòng mình của Bà Chúa Thơ Nôm. Tâm trạng trong 2 bài thơ có phần giống nhau đều cùng nói lên thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, nội dung của 2 bài này tựa như nhau.
Tuy nhiên ở “Tự tình 1” nỗi oán hận, nỗi sầu thảm bởi đến duyên mà chẳng gặp duyên, duyên chín mõm mòm mà vẫn lay lắt chẳng người đoái hoài. Dẫu vậy, vãn còn có chút hi vọng, vẫn còn niềm tin và sự ngạo nghễ để khẳng định “thân này đâu đã chịu gì tom”.
Đến bài “Tự tình 2”, nỗi chán ngán, chua chát bẽ bàng vì có cũng như không. Đã có duyên, cái trái chín mõm đã được hái nhưng gắng gượng giữ duyên tình mà nó ít ỏi quá. Kết bài thơ, có bản lĩnh mấy Hồ Xuân Hương cũng không thể dấu được nỗi chán ngán vô cùng.
Bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện một cách sâu sắc, mãnh liệt khát vọng sống, khát vọng tự do và khát vọng hạnh phúc của tâm hồn một người phụ nữa vừa dịu dàng, đằm thắm vừa mạnh mẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua tài năng trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ và xây dựng hình tượng của “Bà Chúa thơ Nôm”.
Chia sẽ 10 bài văn 🌸 Phân Tích Tự Tình 2🌸 hay nhất