Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Nông Dân Nghĩa Sĩ ❤️️ 27+ Mẫu ✅Chia Sẻ Tuyển Tập Những Bài Văn Đặc Sắc Nêu Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Nông Dân Nghĩa Sĩ.
Dàn Ý Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Nông Dân Nghĩa Sĩ
Chia sẻ cho bạn đọc mẫu dàn ý cảm nhận về hình tượng Người nông dân nghĩa Cần Giuộc sau đây, hãy tham khảo nó ngay nhé!
I. Mở bài: Giới thiệu về tác giả Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
II. Thân bài:
* Nguồn gốc xuất thân:
- Những người nông dân nghèo khổ, quanh năm chân lấm tay bùn
- Không quen việc binh đao
=> Người nông dân nghèo lương thiện vì bảo vệ cuộc sống, bảo vệ độc lập đất nước họ trở thành những nười nghĩa sĩ
* Tình yêu nước sâu sắc
- Chiến tranh nổ ra–> Trông chờ tin quan
- Nhận thức được tình hình và trách nhiệm bản thân với đất nước–> Đứng lên đấu tranh
=> Tình yêu nước đã tạo động lực để những người nông dân cùng nhau đứng lên, cùng nhau chiến đấu.
* Tinh thần bất khuất, sẵn sàng hi sinh:
- Bằng những vũ khí thô sơ–> lập nên những công trạng đáng tự hào
- Tinh thần quyết chiến, quyết thắng, không ngại hi sinh
III.Kết bài: Khái quát cảm nhận về hình tượng những người nghĩa sĩ
Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Nông Dân Nghĩa Sĩ Trong Tác Phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc – Bài 1
Bài văn Cảm nhận về hình tượng người nông dân Nghĩa sĩ trong tác phẩm văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sau đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), là một nhà thơ nổi tiếng của vùng Nam Bộ có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam. Các sáng tác của ông tập trung vào hai đề tài chính ứng với hai thời kỳ trước và sau khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược.
Có thể nói rằng Nguyễn Đình Chiểu chính là lá cờ tiên phong cho phong trào văn thơ yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỷ XIX, với nhiều tác phẩm xuất sắc cả về nội dung, tư tưởng và tình cảm như Chạy giặc, Ngư tiều y thuật vấn đáp, Văn tế Trương Định,… Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc chính là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của ông thời kỳ này, với hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc mang vẻ đẹp thời đại, bi tráng.
Trong sự kiện tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc đêm 16-2-1861, do sự chênh lệch lực lượng và nghĩa quân còn non yếu nên kết quả 20 nghĩa sĩ của quân ta hi sinh sau trận tập kích. Dù mất mát và đau xót nhưng chính sự hi sinh vì đại nghĩa này đã trở thành niềm cổ vũ, khích lệ to lớn đối với phong trào chống Pháp của nhân dân miền lục tỉnh.
Để tưởng nhớ công ơn của những người đã hi sinh, tuần phủ Gia Định Đỗ Quang đã nhờ Nguyễn Đình Chiểu viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, bài văn tế với lời lẽ xúc động đã nhanh chóng truyền đi khắp cả nước và nhân dân yêu mến vô cùng. Đặc biệt, hình tượng người nông dân nghĩa sĩ chống giặc ngoại xâm lần đầu tiên trong lịch sử được dựng một tượng đài bất tử với những vẻ đẹp bi tráng, hào hùng.
Đầu tiên vẻ đẹp của người nghĩa sĩ thể hiện ở chính xuất thân của họ – người nông dân cùng khổ. Trong văn học trung đại Việt Nam trở về trước hầu như hình tượng người nông dân xuất hiện trong các tác phẩm rất hiếm hoi, hầu như là không có, chính vì vậy sự xuất hiện của hình tượng người nghĩa sĩ nông dân đã mở ra một chân trời mới trong văn học, lần đầu tiên những người nông dân được bước vào sách vở với vẻ đẹp chân chất, nhưng kiêu hùng.
Những người nghĩa sĩ có bản chất là người nông dân nghèo khổ, cùng cực, cả cuộc đời họ chỉ biết phấn đấu “côi cút làm ăn toan lo nghèo khó”, bởi trong lịch sử tầng lớp nông dân là tầng lớp bần cùng nhất xã hội, nỗi sợ lớn nhất của họ chính là cái đói cái nghèo luôn luôn rình rập, hơn thế nữa họ cũng là những con người thân cô thế thế cô, không có chỗ dựa, không có tổ chức, cuộc sống của họ hoàn toàn lệ thuộc vào ruộng vườn, ao chuôm và chịu sự thống trị của giai cấp khác.
Thế nên ở người nông dân chúng ta luôn thấy hiện lên những đức tính tốt đẹp đó là sự cần cù, chịu khó, tấm lòng chân chất lương thiện, thành thạo các công việc nhà nông “việc cuốc việc bừa việc cày việc cấy tay vốn quen làm”. Đặc biệt vẻ đẹp chân chất, lương thiện của họ còn thể hiện ở việc họ xa lạ với những thứ khí giới gây thương tích, những chuyện binh đao khói lửa, yên ngựa, trường nhưng, giáo mác, khiên súng, đều là những thứ quá lạ lẫm, xa vời.
Thứ hai vẻ đẹp của người nghĩa sĩ nông dân thể hiện ở tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm thù quân xâm lược sâu sắc. Dẫu rằng họ chỉ là những người nông dân chân lấm tay bùn, ít chữ, cũng không hiểu việc chính trị thế nhưng bản năng lòng tự tôn dân tộc sâu sắc vốn đã ăn sâu vào giống nòi mà tùy thời nó có thể sẵn sàng bộc phát, trở thành nguồn động lực mạnh mẽ chống giặc ngoại xâm.
Họ đã từng tin tưởng vào triều đình, thế nhưng vô ích, cuối cùng sự căm phẫn vì những tội ác giặc thù gây ra họ đã vùng dậy đấu tranh bằng tất cả những gì mình có. Nỗi căm thù quân giặc được thể hiện một cách sâu sắc và phù hợp với hình tượng chân chất của người nông dân, sụ căm ghét của họ được so sánh một cách dân dã, giản dị ứng với chính nghề nghiệp hằng ngày “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”, đặc biệt sự căm thù được bộc lộ một cách trực tiếp và mạnh mẽ “muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ”.
Cuối cùng, vẻ đẹp của người nông dân còn hiện lên thông qua tinh thần chiến đấu anh dũng, sự hi sinh kiêu hùng và bi tráng của người nghĩa sĩ trong trận đánh Tây ác liệt tại Cần Giuộc. Văn tế có một câu rất hào hùng rằng “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi chuyến này dốc ra tay bộ hổ”, đó chính là khẩu khí anh hùng của người nông dân nghĩa sĩ, phải nói rằng nếu so sánh với bè lũ vua quan bù nhìn, người nông dân hoàn toàn thắng thế về mặt tinh thần trách nhiệm và phẩm cách cao thượng.
Đối với họ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lòng tự tôn dân tộc là nghĩa vụ cao cả của mỗi một con người Việt Nam, họ hoàn toàn tự nguyện xung trận đi đầu giết giặc bằng tất cả sự căm thù, lòng nhiệt huyết mà không cần ai nài nỉ, ép buộc.
Trong chiến đấu có thể người nông dân nghĩa sĩ bị thiếu hụt về vũ khí, về kinh nghiệm nhưng ở họ lại toát ra vẻ sáng tạo, tùy cơ ứng biến, giặc có súng có gươm, thì ta đây cũng có cuốc, có cày, có dao phay, có hỏa mai bằng rơm, có gậy tầm vông xung trận, nói chung có gì dùng đó, và ta vẫn có thể khiến cho “mã tà, ma ní hồn kinh” đấy thôi.
Không chỉ vậy, vẻ đẹp bi tráng của người nông dân còn được thể hiện nổi bật ở bộ áo vải, điều ấy khiến người ta liên tưởng đến người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ, cũng xuất thân từ tầng lớp nông dân bần hàn, nhưng chiến công thì vô số kể. Như vậy bộ áo vải chính là minh chứng cho lòng yêu nước nồng nàn, sẵn sàng xả thân vì đất nước, không màng hung hiểm của người nông dân nghĩa sĩ, ở họ bừng lên những tố chất của người anh hùng thời đại.
Dẫu biết rằng, sau trận chiến là những hi sinh mất mát, nhưng máu của họ đã mở đầu cho một thời đại chống giặc ngoại xâm cứu nước của dân tộc ta sau gần một ngàn năm kiên cường, độc lập. Như vậy sự hi sinh của người nghĩa sĩ có ý nghĩa vô cùng to lớn, tuy bi thương, nhưng không hề bi lụy, bởi đó là sự hi sinh đầy vinh dự cho Tổ quốc.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài văn tế có giá trị ý nghĩa vô cùng to lớn, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam tạo dựng hình tượng người nông dân nghĩa sĩ với những vẻ đẹp mang tính thời đại. Thúc đẩy và thức tỉnh phong trào đứng lên đấu tranh giành độc lập cho dân tộc trong nhân dân cả nước, đồng thời cũng ngầm lên án chế độ phong kiến vô năng, lạc hậu cùng với quân cướp nước độc ác khiến nhân dân ta phải chịu cảnh lầm than.
Tham khảo👉 Thuyết Minh Về Tác Giả Nguyễn Đình Chiểu ❤️️10 Bài Hay Nhất
Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Nông Dân Nghĩa Sĩ Cần Giuộc Ngắn Hay – Bài 2
“Cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc ngắn hay” – với yêu cầu này thì các em học sinh có thể tham khảo ngay bài văn mẫu sau đây.
Trong văn học Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, chưa có một hình tượng nhân dân nào chân thực và cảm động hơn người nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ông. Nói đúng ra, trước Nguyễn Đình Chiểu, con người bình thường cũng xuất hiện trong văn chương Việt Nam. Tuy nhiên, đó hoặc là những ngư phủ, tiều phu hình bóng thấp thoáng, khi xa khi gần trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, hoặc là đám đông lố nhố, hằng ngày là cục đất củ khoai, khi cỏ dịp trở nên những “kiêu binh” lỗ mãng trong Hoàng Lê nhất thống chí.
Người nông dân xuất hiện trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn khác hẳn. Họ thật sự là những người bình thường, là dân ấp, dân lân, ngoài cật có một manh áo vải. Bản tính lại hiền lành, chất phác, quanh năm suốt tháng côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó. Bên trong lũy tre làng, họ chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ, thành thục với nghề nông trang: Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm.
Nói như nhà thơ Thanh Thảo sau này, “họ lấm láp sình lầy ấy đã bước vào thơ Đồ Chiểu. Đành rằng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tấm lòng sáng để phát hiện ra họ, nhưng trước hết bởi dù không áo mão cân đai phẩm hàm văn võ, họ vẫn để lại những vệt bùn làm vinh dự cho thơ”. Đó chính là tấm lòng yêu nước, trọng nghĩa của người nông dân.
Khi nghe tin quân giặc đến, dù là dân thường nhưng những người nông dân vẫn lòng đầy sốt ruột. Trong xã hội xưa, những chuyện quốc gia đại sự trước hết là việc của quan. Dân nghe theo quan mà làm dân. Dân nhìn thấy quan mà theo. Vì thế, họ trông chờ tin quan như trời hạn trông mưa. Mắt còn trông đợi nhưng lòng thì đã rõ: Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Lòng yêu nước không độc quyền của ai. Huống chi, với những người nông dân chân chất, khi mùi tinh khiết vấy vá đã ba năm thì họ ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Vì thế, dù là dân ấp, dân lân, trong tay chỉ còn một tầm vông, họ đã sẵn sàng xả thân vì nghĩa cả:
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ. Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ni hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.”
Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu nước với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức. Họ thất thế ngay từ ban đầu khi tự giác đứng lên, không có ai tổ chức (ai đòi, ai bắt), chẳng có binh thư, binh pháp. Còn quân giặc thì chuẩn bị bài bản, có quy mô, quy củ.
Họ thất thế khi xung trận mà ngoài cật có một manh áo vải, trong tay cầm ngọn tầm vông, còn kẻ thù lại có tàu sắt, tàu đồng, đạn nhỏ, đạn to. Song chí căm thù, lòng yêu nước đã khiến những người nông dân trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ, liều mình như chẳng có ai. Ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành động ấy. Nhưng nghĩa sĩ nông dân càng biết rõ điều đó: “Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm trao mộ.”
Những nghĩa sĩ nông dân trở thành “những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang’’ (Phạm Văn Đồng). Hình tượng người nghĩa sĩ chân đất lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam đã mang hình dáng đầy bi tráng. Nó như một tượng đài sừng sững tạc vào không gian lẫn với thời gian để nói với muôn đời rằng: Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sự gắn bó, lòng yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình Chiếu ghi tạc vào thơ văn mình hình tượng người nghĩa sĩ cần Giuộc thật bi tráng. Hình tượng ấy mang sức nặng của một thời đại “nước mắt anh hùng lau chẳng ráo” và tấm lòng yêu thương bi thiết của nhà thơ mù đất Đồng Nai – Gia Định. Những người anh hùng “sống đánh giặc – thác cũng đánh giặc”. Còn nhà thơ của họ đã dựng lại tượng đài ấy “nghìn năm” trong kí ức tâm hồn của người đời bằng văn chương.
Xem thêm ➡️Cảm Nhận Về Cái Chết Của Cô Bé Bán Diêm ❤️️ 10 Bài Hay
Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Nông Dân Nghĩa Sĩ Ngắn Gọn – Bài 3
Nếu bạn đang gặp khó khăn trong việc triển khai bài văn cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ ngắn gọn thì có thể tham khảo văn mẫu mà scr.vn gợi ý dưới đây.
Vẻ đẹp của người nông dân từ lâu đã đi vào ca dao, dân ca và văn học. Vẻ đẹp ấy được khai thác trên nhiều bình diện khác nhau. Đến với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ta bắt gặp hình tượng người nghĩa sĩ nông dân đầy hùng tráng, anh dũng. Đó là hình tượng hết sức cao đẹp, khơi gợi tình yêu và sức mạnh đấu tranh cho muôn đời.
Người nông dân Cần Giuộc chịu nhiều vất vả, khó nhọc, ngày đêm cặm cụi bên đồng ruộng. Trông trời yên bể lặng cho vụ mùa xanh tốt. Quanh năm chịu khó làm ăn, họ sống thật thà lương thiện. Dù có nghèo nàn thiếu thốn về vật chất nhưng vẫn mang tinh thần của lòng nhiệt thành và sôi nổi. Chính điều đó đã giúp họ có bản lĩnh để vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Vươn dậy, tự nguyện đứng lên đấu tranh bằng lòng yêu nước vô hạn, lòng căm thù giặc sâu sắc.
Giặc đến thì đánh, chẳng đợi chiếu vua ban, hay chạy trốn lấy người, họ anh dũng chiến đấu kiên cường bằng tinh thần bất khuất, kiên trung. Vũ khí chiến đấu thô sơ, manh áo mỏng thay cho áo giắp sắt trên chiến trận, vậy mà vẫn sẵn sàng đương đầu với những thách thức trước súng đạn, giáo mác của quân giặc. không gươm đao, búa lớn nhưng bằng nỗi căm hờn tội ác của đich, bằng tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” họ đã xông vào chiến trận như vũ bão, chẳng màng đến cái chết.
Sự bản lĩnh, can trường nơi đầu sóng ngọn gió, nơi mà cái chết có thể đến trong gang tấc mà những người lính áo vải vẫn đầy hiên ngang trong chiến trận khóc liệt. Họ đã chiến đấu với tinh thần “thà chết vinh còn hơn sống nhục” không chịu khuất phục, quỳ gối đầu hàng. Họ đã cống hiến hết sức mình cho hai tiếng Tổ quốc thân yêu. Cuộc chiến nào mà chẳng có hi sinh, mất mát.
“Đau đớn mấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều,
Não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, con bóng xế vật vờ trước ngõ.”
Dù chịu nhiều tổn thất, khi mà bao nhiêu người phải chịu cảnh goá phụ, bao nhiêu trẻ phải chịu cảnh không cha. Nhưng rõ ràng, vì nghĩa lớn họ đã vững vàng vượt qua và chấp nhận. Trong tay giặc là những vũ khí hiện đại trái ngược với quân ta công cụ chiến đấu thô sơ nhưng ta đã dành được đầy rẫy những chiến công. Những người nông dân Cần Giuộc đã anh dũng hi sinh trong chiến trận, ra đi họ vẫn con lo cho nhân dân, cho đất nước, họ vẫn tiếp tục chiến đấu cho quê hương:
” Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh muôn kiếp nguyện được trả thù kia
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành một chữ ấm đủ đền công đó”
Hình tượng những người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã thôi thúc trong lòng mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ chúng em về lòng yêu quê hương đất nước. Tinh thần và ý thức công dân, sẵn sàng đứng lên mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, là những người trẻ nhiệt huyết và bản lĩnh, vững vàng đấu tranh cho những điều đẹp đẽ của dân tộc. Đó là một hình tượng những người nghĩa sĩ đầy cao đẹp, xứng đáng là tượng đài bất hủ mãi ngàn năm.
Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Nông Dân Nghĩa Sĩ Hay Nhất – Bài 4
Bài văn mẫu Cảm nhận về hình tượng nông dân nghĩa sĩ hay nhất sau đây sẽ giúp các em học sinh dễ dàng ôn tập để hoàn thành tốt bài kiểm tra trên lớp.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là đỉnh cao sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và cũng là tác phẩm biểu hiện tập trung nhất, sâu sắc nhất tư tưởng yêu nước, thương dân của ông. Với lòng thương cảm và khâm phục chân thành, nhà thơ đã dựng nên một tượng đài nghệ thuật bất hủ về người anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong thời kỳ lịch sử chiến đấu chống ngoại xâm của dân tộc. Có thể nói bài Văn tế là khúc ca bi tráng về người nghĩa sĩ nông dân dám xả thân vì sự sống còn của đất nước.
Vẻ đẹp đầu tiên ở họ là tinh thần tự nguyện đánh giặc, vốn là những người dân cày quanh năm côi cút làm ăn, điều lo toan hằng ngày của họ là làm sao cho đủ ăn đủ mặc, đừng đói khổ, rách rưới. Họ biết thân phận mình là hèn mọn trong xã hội, ngoài sưu thuế phải nộp cho đủ, họ đâu dám nghĩ đến công to việc lớn. Quốc gia đại sự là của vua quan và triều đình.
Vậy mà giờ đây, giặc Lang Sa tràn sang cướp nước, gieo rắc tanh hôi (tinh chiên) đã ba năm mà mặt mũi quan quân chẳng thấy ở đâu, có chăng nữa thì chỉ là lũ hèn nhát chạy dài. Cảnh tượng ấy khiến họ không thể bưng tai bịt mắt làm ngơ. Lòng yêu nước hun đúc từ nghìn xưa trong huyết quản sôi sục, họ tự nguyện đứng lên đánh giặc:
“Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
Họ nhận về mình công việc cực kỳ khó khăn, to lớn: đoạn kình, bộ hổ, tức là đánh lại quân giặc mạnh hơn mình gấp bao lần. Vẻ đẹp tinh thần của họ là dám đánh, dám hy sinh; một lòng xin ra sức, ra tay, cống hiến sức mình cho Tổ quốc. Tinh thần dám đánh, dám hi sinh ấy càng đẹp biết bao nhiêu khi họ chỉ là những người dân ấp dân lân, tự liên kết thành đội ngũ để chiến đấu chứ không phải là quân lính của triều đình.
Từ cửa nếp nhà tranh của mình, họ xông thẳng vào trận, không hề được luyện tập mảy may. Tinh thần ấy lại thêm lớn lao khi nhìn vào vũ khí trong tay họ. Có thể nói, trang bị sắc bén của họ chính là tấm lòng yêu nước và nghĩa lớn vì nước, chứ rơm con cúi, lưỡi dao phay, gậy tầm vông làm sao đem đối chọi được với súng song tâm, với tàu thiếc tàu đổng.
Cái sắc bén, cái sức giết giặc của nó chi là ở trái tim, ở dũng khí của người cầm dao, cầm gậy – vẻ đẹp của họ thật hào hùng, nhưng bên cạnh cái hào hùng ấy lại là nỗi đau, nỗi thương muốn rơi nước mắt!
Vậy mà ta hãy xem họ xung trận. Bao nhiêu lời văn là bấy nhiêu chất hùng ca, hừng hực khí phách, rực lửa chiến đấu của một trận đánh quyết liệt và anh dũng:
“Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh, bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.”
Quả là tuyệt vời! Ai đó đã dùng một cách nói rất đắc, là hình tượng người nghĩa sĩ nông dân cực nhọc, nghèo khó đã hiện lên thành một hình ảnh anh hùng lồng lộng giữa chiến trường, làm chủ trận chiến, áp đảo tất cả. Lưỡi dao phay, ngọn tầm vông của họ đâm ngang chém ngược, tung hoành, hiên ngang chiếm lĩnh cả không gian trận địa, làm cho giặc hồn kinh phách lạc. Tiếng hè, tiếng ó của họ át cả tiếng đại bác của tàu thiếc tàu đồng. Rơm con cúi, lưỡi dao phay cũng đốt xong đồn giặc, cũng chém rớt đầu quan hai giặc.
Đoạn văn đầy những động từ, những cụm động từ miêu tả hành động mãnh liệt, hào khí bừng bừng. Trước những con người anh hùng ấy, quân giặc hung dữ với súng đạn nghênh ngang đều như co rúm lại, thấp bé, tồi tàn đến thảm hại. Có thể nói hình bóng người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc nổi lên trên nền trời rực lửa, sừng sững như một tượng đài kỳ vĩ.
Cảm xúc chủ đạo của bài văn tế là cảm xúc bi tráng, lời văn rắn giỏi, âm điệu sôi sục, dồn dập. Nghệ thuật đối đã phát huy hiệu quả cao nhất của nó. Tất cả hợp thành một âm hưởng chiến trận hào hùng, phấn khích của một thiên anh hùng ca tuyệt diệu. Ngòi bút tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của người nghĩa sĩ nông dân, với những tư tưởng cực kì lớn lao mà tác giả đã phát hiện ra trong hành động tự nguyện giết giặc cứu nước của họ.
Gần ba chục nghĩa sĩ nông dân bỏ mình trong cuộc chiến đấu ác liệt và không cân sức. Cái chết bi tráng của họ khiến thiên nhiên và con người thảy đều thương tiếc: “Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ”. Người chết vì đất nước, vì dân tộc, hỏi làm sao không xúc động đến đồng bào, non nước?
Tượng đài nghệ thuật về người nghĩa sĩ nông dân mang tính chất bi tráng. Nó được dựng lên trong nước mắt, trong tiếng khóc thống thiết của nhà thơ và của nhân dân. Đây là thành cồng nghệ thuật xuất sắc của nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn tế như một tấm bia, một cái mốc, một tượng đài vinh quang về người nông dân Nam Bộ anh hùng, về nhân dân lao động muôn thuở sáng ngời.
Tham khảo➡️ Cảm Nhận Về Cô Bé Bán Diêm ❤️️ 15 Bài Văn Cảm Nghĩ Hay
Văn Cảm Nhận Về Hình Ảnh Người Nông Dân Nghĩa Sĩ Chọn Lọc – Bài 5
Thêm một bài văn cảm nhận về hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ chọn lọc hay sau đây, tham khảo ngay nhé!
Trong văn học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu – một nhà nho yêu nước dùng con mắt yêu thương và kính phục để viết nên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì hình ảnh người nông dân mới thực sự xuất hiện. Đó là hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực và đầy chất bi tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của đất nước.
Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại: “Hỡi ôi! Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”. Họ đâu đã quen nghe tiếng súng. Âm thanh ấy đã phá tan cuộc sống bình lặng của họ.
Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống chật vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã làm họ thật nhỏ bé suốt ngày “cui cút làm ăn”… Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của người dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó.
Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được những “cung ngựa”, “trường nhung” trong cái nhìn của họ chỉ có “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đến việc cuốc, việc cày, bừa đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập súng thật lạ lẫm.
Những tưởng họ mãi cam chịu như thế. Nhưng không, khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, chúng đang giày xéo lên từng mảnh ruộng, từng đám đất quê hương ruột thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” không chỉ có đói nghèo mà còn là những thấp thỏm, lo âu: “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa…”
Thấy “mùi tinh chiên vấy vá” không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên mà đợi. Triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng nàn ở họ. Bọn xâm lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yên nơi thôn quê, làm sao không căm cho được. Nỗi uất hận đến tột cùng ấy đã biến những con người nhỏ bé tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức. Lòng yêu nước đã biến thành lòng căm thù giặc đến sôi sục:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan. Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu. Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó”.
Lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiến họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc “đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”, “bày bố binh thư”, không màng tới trên mình chỉ có “một manh áo vải”. Các chàng Gióng của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi giặc cũng như không.
Hỡi ôi, “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”, “rơm con cúi”, liệu có thể thắng được “tàu chiến tàu đồng”, “đạn nhỏ đạn to”. Đó là bi kịch của nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chăng là tấn bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất lên trong tiếng nấc lòng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lượng, chênh lệch với kẻ thù.
“Chi nhọc quan quản. Gióng trống kỳ trống giục…. súng nổ”
Hình tượng của người nghĩa sĩ áo vải được khắc nổi trên cảnh u ám khói bom ấy: Những âm thanh vang động (hè trước, ngó sau…) những động tác quyết liệt (đốt, chém…). Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành đấng anh hùng của một thời kì đáng nhớ. Trong tư thế quật cường ấy, lấp lánh chân dung của những con người gánh trên vai vận mệnh của non sông. Họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh hùng nhưng điều cao cả nhất họ để lại là triết lý sống phù hợp đến muôn đời:
“Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà chịu chữ đầu Tây ở với man di rất khổ.”
Tinh thần ấy, ý chí ấy vẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để chịu nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh quang cho dân tộc.
“Ôi thôi thôi!” – Một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ ngã xuống nơi chiến trường khói lửa. Vẫn còn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thoáng nơi đây bóng mẹ già với ngọn đèn le lói trong đêm
“Đau đớn bây! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.”
Người tử sĩ đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con thơ… Mai đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong..
“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương vì hai chữ thiên dân, cây hương nghĩa sĩ thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.”
Nguyễn Đình Chiểu đã bằng tấm lòng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy và dựng nên một tượng đài hoành tráng mà mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học nước nhà hình ảnh người nông dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiểu thì chưa một ai công khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”.
Hơn thế nữa, việc thổi vào văn chương chất dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng văn vừa hào hùng, bi tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị.
Cụ Đồ Chiểu chỉ là nhà thơ mù – “người hát rong của nhân dân”. Nhưng hình ảnh người nông dân khởi nghĩa trong bài văn tế đã cho ta cái nhìn về cả một thời đại. Tự hào thay những con người nhỏ bé nhưng vẫn hiên ngang trước thế lực bạo tàn. Tự hào thay những người dân, người lính, nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn cho non sông. Họ là bức tượng đài bất tử, lưu mãi tới muôn đời.
Xem thêm ➡️Cảm Nhận Về 3 Cô Gái Thanh Niên Xung Phong Trong Những Ngôi Sao Xa Xôi❤️️
Cảm Nhận Về Người Nông Dân Nghĩa Sĩ Cần Giuộc Ấn Tượng – Bài 6
Bài văn mẫu cảm nhận về người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc ấn tượng với những ý văn phong phú và giàu hình ảnh sẽ giúp bài văn của bạn trở nên ấn tượng hơn với người đọc.
Nguyễn Đình Chiểu – nhà văn suốt đời mình dùng ngòi bút làm vũ khí chiến đấu cho chính nghĩa, đạo lí và độc lập dân tộc. Những trang viết của Đồ Chiểu bao giờ cũng thấp thoáng tấm lòng yêu nước, thương dân và lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa. Và có thể nói “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một trong số những minh chứng tiêu biểu cho điều đó.
Tác phẩm là tiếng khóc bi tráng cho một thời đại bi thương mà vĩ đại của dân tộc. Và đặc biệt, bài văn tế đã dựng nên bức tượng đài lịch sử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm hi sinh vì Tổ quốc.
Trước hết, người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc mang vẻ đẹp bình dị, chân chất bởi họ xuất thân.
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó
Chưa quen cung ngựa, đâu tới tường nhung, chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm, tập khiên, tập súng, tập măc, tập cờ, mắt chưa từng ngó”
Với những câu văn biền ngẫu nêu trên, cùng với nghệ thuật tương phản “vốn quen” – “chưa từng ngó” đã giúp chúng ta thấy rõ hoàn cảnh sống, nguồn gốc xuất thân của những người nghĩa sĩ. Họ chỉ là những người nông dân bình thường, sống cuộc sống bình dị, “cui cút”, chăm lo làm ăn, nghèo khó, lam lũ và vất vả. Và chính hoàn cảnh, chính tình yêu tổ quốc đã thôi thúc họ, đưa họ trở thành những người nghĩa sĩ.
Đồng thời, người nông dân nghĩa sĩ còn là những người có lòng yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc. Những người nông dẫn nghĩa sĩ ấy vốn quen với mảnh vườn, con trâu, ấy vậy mà khi giặc xâm lược đến, những con người ấy mang hết thảy lòng yêu nước, căm thù giặc lên đường chiến đấu để bảo vệ quê hương, đất nước:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan, ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu, hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kính, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”
Với việc sử dụng hàng loạt động từ mạnh “ăn gan”, “cắn cổ” và “đâu dung lũ treo dê bán chó”, “ra sức đoạn kình”, “chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi” tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả một cách sâu sắc lòng yêu nước căm thù giặc của những người nông dân nghĩa sĩ. Chỉ khi mang trong mình tính yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc, những người chiến sĩ ấy mới đủ dũng cảm để bước vào cuộc chiến đầy cam go, thử thách ấy.
Thêm vào đó, những người nông dân nghĩa sĩ còn hiện lên với vẻ đẹp anh dũng trong chiến đấu và sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc, họ là tượng đài bất tử, bi tráng trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Những người nông dân ấy vốn không phải là lính diễn bính nhưng vì “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”, họ đã dấn thân vào con đường chinh chiến, đấu tranh.
Trang bị của họ ra trận chỉ là những vật giản dị, bình thường “một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chỉ nài sắm dao tu, nón gõ”, “hoa mai đốt bằng rơm con cúi”, “gươm đeo bằng lưỡi dao phay” ấy vậy mà họ đã chiến đấu anh dũng và giành được thật nhiều chiến công.
Với việc sử dụng hàng loạt động mạnh “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”, “kẻ đâm ngang, người chém ngược” đã diễn tả một cách sâu sắc khí thế, sức mạnh, quyết tâm của những người nông dân. Và chỉ với những vật dụng thô sơ nhưng với bằng tất cả sức mạnh của mình những người nông dân đã giành được những chiến công vang dội “đốt xong nhà dạy đạo”, “chém rớt đầu quan hai nọ”, “làm cho mã tà ma ní hồn kinh”.
Và để rồi cuối cùng, chính họ, những người tự nguyện chiến đấu với những vũ khí thô sơ nay lại hi sinh anh dũng trên chiến trường để lại niềm tiếc thương nhưng tự hào cho người ở lại và họ trở thành tượng đài bất tử cho lòng yêu nước, cho tinh thần chiến đấu vì Tổ quốc.
Tóm lại, bài văn tế đã xây dựng nên một tượng đài bằng ngôn ngữ về vẻ đẹp của những người nông dân nghãi sĩ Cần Giuộc – bình dị trong cách xuất thân nhưng lại kiên cường, anh dũng trong chiến đấu và sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc.
Xem thêm ➡️Cảm Nhận Về Nhân Vật Đăm Săn ❤️️ 12 Bài Cảm Nghĩ Hay
Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Nghĩa Sĩ Cần Giuộc Chi Tiết – Bài 7
Bài văn cảm nhận về hình tượng người Nghĩa sĩ Cần Giuộc chi tiết sau đây sẽ giúp các em học sinh nắm vững phương pháp làm văn biểu cảm về các nhân vật văn học
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù yêu nước có tấm lòng thương dân thương đời sâu sắc. Ông để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị bên cạnh truyện thơ “Lục Vân Tiên” nổi tiếng thì “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là đỉnh cao trong sáng tác biểu hiện cao độ nhất tư tưởng yêu nước thương dân của tác giả.
Với lòng khâm phục và cảm thương chân thành, nhà văn đã xây dựng tượng đài bất hủ về người nông dân – những con người chân chất mộc mạc lại mang trong mình nét đẹp của người hùng dân tộc tự nguyện đánh giặc và xả thân vì sự sống còn của đất nước.
Trước tiên họ là những người nông dân thuần phác nhà quê nông thôn. Những con người ấy chỉ “Cui cút làm ăn toan lo nghèo khó”, cuộc sống của họ chỉ bó hẹp ở trong làng bộ với công việc của người nhà nông với ruộng trâu, với “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”.
Họ đầu tắt mặt tối lo làm lụng mưu sinh. Họ chỉ là những người dân ấp dân lân “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung”, họ cũng chẳng hay việc “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ”, không hề biết gì về việc quân, việc lính, việc binh đao chinh chiến. Người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc thật thuần phác với chất thôn quê, mộc mạc sống trong cái nghèo cái đói của người nhà nông.
Tuy nhiên họ lại mang trong mình vẻ đẹp của con người có tinh thần tự nguyện đánh giặc. Bởi khi giặc loạn nhũng nhiễu, triều đình chống cự yếu ớt, “tấc đất ngọn rau, miếng cơm manh áo” của họ bị cướp, lãnh thổ đất nước bị giặc xâm lăng. Vốn là con người của dân tộc có truyền thống yêu quê hương đất nước, đánh giặc ngoại xâm bao đời nay họ tự nguyện đánh giặc mà không cần đợi “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Tinh thần hăng hái, khí thế hào hùng tiếp nối hào khí Đông A của thời đại nhà Trần. Họ xung phong đánh giặc dù cho có khó khăn, gian lao và nguy hiểm là đoạn kình, bộ hổ tức chém cá kình, bắt hổ lớn. Giặc lúc này vô cùng hung hãn, số lượng lớn, vũ khí hiện đại hơn ta gấp trăm lần nhưng những người nông dân áo vải ấy không hề run sợ.
Người nông dân nghĩa sĩ anh dũng chiến đấu, quyết tâm xả thân vì nước. Dù cho giặc mạnh và hiện đại, dù cho biết trước sẽ hy sinh, dù cho ra trận chỉ với tinh thần yêu nước và lòng căm thù giặc nhưng họ không hề nao núng.
Tinh thần ấy đẹp biết bao, đáng phục, đáng nể biết bao khi chỉ là những người dân nghèo khó lam lũ lại dám xông pha trận mạc như những người lính thực thụ nhưng ra trận chỉ với “manh áo vải” chẳng có bao tấu, bầu ngòi, dao tu hay nón gõ họ chiến đấu với vũ khí thô sơ, là công cụ lao động của nhà nông “trong tay cầm một ngọn tầm vông” rồi rơm con cúi và lưỡi dao phay… đem đối chọi với vũ khí hiện đại của quân thù.
Họ chiến đấu bằng trái tim đến hơi thở cuối cùng, họ trở thành bức tượng đài lý tưởng sừng sững trong lòng người dân Việt Nam với một khí thế đánh giặc mãnh liệt làm chủ trận chiến cam go.
Bức tranh chân thực và sinh động đặc tả hình ảnh anh dũng của người nông dân trong phút công đồn được Đồ Chiểu khắc họa qua đoạn văn: “Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ trống giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”.
Hàng loạt các động từ mạnh, giới từ, nhịp điệu dồn dập, mạnh mẽ, câu văn như bị ngắt ra thành vụn nhỏ khắc họa hình tượng người nghĩa sĩ anh dũng liều mình xông vào xả thân vì nền độc lập dân tộc, tinh thần ấy làm cho lũ giặc phải kinh hồn bạt vía hoảng sợ. Có thể nói hình tượng người nông dân nghĩa sĩ sừng sững nổi bật trên nền trời đầy khói lửa làm nên bức tượng đài kỳ vĩ để lại dấu ấn khó quên trong lòng người dân Việt.
Hình tượng người nông dân bấy lâu đã xuất hiện trong văn chương như: “Dụ chư tỳ tướng hịch văn”, “Bình Ngô đại cáo”…nhưng phải đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” lần đầu tiên người nông dân Việt Nam đi vào trong tác phẩm văn học với đầy đủ từ dáng vóc, tính cách, suy nghĩ, cảm xúc và hành động chân thực đến thế.
Bài tế ra đời trong hoàn cảnh cam go trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Một mặt vừa để tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với những người nghĩa sĩ đã nằm xuống với đất mẹ và ca ngợi lòng dũng cảm, bất khuất của họ, một mặt tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phê phán thái độ chiến đấu của vua quan nhà Nguyễn, một mặt để khích lệ, động viên tinh thần đánh giặc của nhân dân.
Như vậy, bằng lối dùng các từ ngữ sinh động, giọng điệu linh hoạt, gần gũi với đời sống nông dân, đậm chất Nam Bộ. Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng nên hình tượng người nông dân nghĩa chân chất, mộc mạc, lam lũ nghèo khó mà cao đẹp vĩ đại với tấm lòng yêu nước sâu sắc. Đây là hình tượng đẹp nhất về người nông dân trong lịch sử văn học dân tộc.
Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Nông Dân Nghĩa Sĩ Sinh Động – Bài 8
Cùng khám phá cách diễn đạt và triển khai các ý văn trong bài Cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ sinh động dưới đây.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu là bức tượng đài bi tráng về người anh hùng nông dân nghĩa sĩ. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học, hình tượng người nông dân mới được dựng lên hoàn chỉnh và đẹp đẽ đến vậy. Với tác phẩm này, Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn chỉnh bức tranh về vẻ đẹp anh hùng, dũng cảm của người nông dân.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Đến tháng 2/1859 thực dân Pháp chiếm được Gia Định và tấn công các vùng phụ cận (Gò Công, Cần Giuộc). Ngày 14 tháng 12 năm 1861, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giuộc giành được thắng lợi ban đầu: chém đầu được một tên quan hai của Pháp và khá nhiều lính thuộc địa, chiếm đóng được đồn giặc.
Ngày 16 tháng 12 năm 1862, giặc phản công, hai mươi nghĩa quân bị giết chết. Bởi vậy, tuần phủ Gia Định lúc bấy giờ là Đỗ Quang đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết một bài văn tế để đọc trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Hình ảnh người nông dân, không phải là chưa bao giờ xuất hiện trong văn học Trung đại, tác phẩm Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã từng nhắc đến họ: “Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập” (Dựng gậy làm cờ, mạnh lệ bốn phương tụ hội). Đây là lần đầu người nông dân được nhắc đến trong văn chương, song vì tính chất của một bản tuyên ngôn nên Nguyễn Trãi không có điều kiện để khắc họa rõ nét chân dung người nông dân mà mới chỉ dừng lại ở việc khẳng định vị trí, vai trò của họ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Còn đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, bức tranh chân dung và tinh thần người nông dân được dựng lên hoàn chỉnh đến vậy. Họ được khắc họa từ cuộc sống sinh hoạt đời thường cho đến đời sống tinh thần, từ vẻ ngoài chất phác, hồn hậu cho đến lòng dũng cảm, kiên cường sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước. Đây chính là phát hiện mới mẻ của Nguyễn Đình Chiểu đối với người nông dân – lực lượng nòng cốt trong mọi cuộc kháng chiến, song lại ít khi được nhận thức đúng đắn về vai trò lịch sử.
Mở đầu, phần lung khởi tác giả đã khái quát được bối cảnh thời đại và khẳng định vị trí, ý nghĩa của người nghĩa sĩ nông dân: “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ/Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Đây là một thời đại bi tráng, khổ nhục như vĩ đại, thời đại đó đã sản sinh ra những người nông dân nghĩa sĩ với lòng yêu nước nồng nàn.
Câu văn ngắn, chỉ có tám chữ: “súng giặc/lòng dân, đất rền/trời tỏ” gợi lên không khí thời đại sục sôi, căng thẳng, quyết liệt của nhân dân ta trong quá trình chiến đấu với kẻ thù. Hai câu văn tuy ngắn nhưng lại có ý nghĩa quan trọng, tạo thành bệ đỡ để thấy được vẻ đẹp của tượng đài nghĩa sĩ nông dân phía sau.
Những người nghĩa sĩ nông dân khi chưa có quân giặc xâm lược họ sống và làm việc với cuộc đời đầy lam lũ, cực nhọc: “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo đói”. Cuộc đời họ quanh quẩn sau lũy tre làng, cùng với công việc đồng áng vất vả: “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”, “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm” họ hoàn toàn xa lạ với việc đao binh: “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Cuộc đời họ gắn bó với làng ruộng, gắn bó với quê hương, bởi vậy, khi nghe tin giặc tới xâm lược, họ đặt trọn niềm tin vào triều đình: “Trông tin quan như trời hạn trông mưa” và họ mang trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Không chỉ vậy, họ còn là người có ý thức trách nhiệm với quê hương, đất nước khi tổ quốc lâm nguy, dù không được học binh pháp nhưng họ sẵn sàng hi sinh bản thân vì sự bình yên của quê hương, đất nước.
Người nông dân vốn chỉ tay cuốc, tay cày “trong trận nghĩa đánh Tây vụt đứng lên thành những anh hùng hiên ngang, lẫm liệt”. Đâu còn hình bóng của những con người chỉ biết trong làng bộ, tầm nhìn hạn hẹp, chỉ trong phút chốc họ đã lớn dậy trưởng thành với tinh thần chiến đấu sục sôi.
Vũ khí được trang bị thô sơ, hầu hết là những vật dụng sinh hoạt hàng ngày: ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay,… Nhưng tinh thần của họ lại bừng bừng khí thế và sự nhiệt huyết xông tới chiến đấu với kẻ thù: “đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không”, “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”,…
Hành động hết sức mạnh mẽ, quyết liệt: “kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ”. Đoạn thơ đã miêu tả được không khí hào hùng của trận đấu, tác giả sử dụng liên tiếp các động từ: đạp, lướt, xô, xông, đâm,… giúp cực tả không khí hào hùng, hành động dứt khoát, dũng mãnh của những con người vì nghĩa lớn mà quên thân mình.
Khi khắc họa hình tượng người nông dân nghĩa sĩ, người viết hoàn toàn sử dụng bút pháp hiện thực, chân dung của họ được tái hiện chân thực nhất từ dáng vẻ về ngoài, cho đến cuộc sống lao động vất vả hàng ngày,… Nguyễn Đình Chiểu đã vận dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh, đặc biệt là thủ pháp đối lập được sử dụng nhiều: lướt tới/ xông vào, đâm ngang/ chém ngược, manh áo vải, ngọn tầm vông/ đạn to, đạn nhỏ,… Các thủ pháp nghệ thuật trên đã góp phần khắc họa vẻ đẹp anh dũng, bi tráng của người nông dân nghĩa sĩ.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bản anh hùng ca ngợi ca những người nông dân nghĩa sĩ anh dũng, bất khuất, kiên cường. Hình ảnh, sự hy sinh của họ là minh chứng cho lòng yêu nước nồng nàn, cho triết lý sống ngàn đời của ông cha ta: “Chết vinh còn hơn sống nhục”.
Tham khảo thêm 👉Cảm Nhận Về Nhân Vật Ông Sáu ❤️️
Văn Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Nông Dân Nghĩa Sĩ Hay – Bài 9
Giới thiệu cho các em học sinh bài văn cảm nhận vè hình tượng người nông dân nghĩa sĩ hay để cùng tham khảo.
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”
Hai câu thơ trên đã thể hiện quan điểm sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu – “Ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ dân tộc” (theo cách nói của Phạm Văn Đồng). Một trong những mạch ngầm xuyên suốt trong tư tưởng về “đạo” của Nguyễn Đình Chiểu chính là “yêu nước thương dân”. Điều này đã được thể hiện qua rất nhiều tác phẩm, tiêu biểu là “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”.
Bằng niềm xúc động mạnh mẽ trước sự hi sinh của những người nông dân, tác giả đã xây dựng thành công bức tượng đài bi tráng, chân thực, hào hùng tinh thần yêu nước mãnh liệt cùng quyết tâm chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước.
Mở đầu tác phẩm, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện bối cảnh thời đại lúc bấy giờ qua những câu văn giàu cảm xúc: “Súng giặc đất rền/ Lòng dân trời tỏ”. Đó là bối cảnh gắn liền với tiếng súng cùng bước chân xâm lược của thực dân Pháp đối với dân tộc ta, nhưng cũng chính trong thời đại căng thẳng, sục sôi và quyết liệt đó, hình tượng những người nông dân nghĩa sĩ vụt sáng với tư thế hiên ngang, lẫm liệt. Trước đây, họ chỉ là những con người quẩn quanh lối sống bình dị qua sự vất vả, tần tảo sớm hôm cùng ruộng đồng, nương bãi:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn,
Toan lo nghèo đói”
Bằng những câu thơ ngắn, ngôn ngữ thơ bình dị, tác giả đã tái hiện thành công bức chân dung người nông dân trong cuộc sống thường nhật: “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ” và hoàn toàn xa lạ với việc binh đao. Họ chưa từng trải qua sự rèn luyện nơi “cung ngựa”, “trường nhung” và hoàn toàn lạ lẫm đối với những công việc như tập súng, tập khiên.
Thông qua phần Lung khởi, tác giả đã hồi tưởng lại hình tượng người nông dân nghĩa sĩ với những phẩm chất cần cù, lam lũ, đặc biệt là tinh thần căm thù giặc sâu sắc: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Những câu văn gợi liên tưởng đến những tinh thần sục sôi chiến đấu của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn trong tác phẩm “Hịch tướng sĩ”.
Xuất phát từ ý chí đánh đuổi giặc ngoại xâm đó, họ tự giác đứng lên chiến đấu vì nghĩa lớn: “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Người nông dân tự nguyện sẵn sàng xả thân, hi sinh để bảo vệ đất nước. Bởi vậy, trong trận nghĩa đánh Tây, họ xuất hiện với tư thế kiên cường, bất khuất và hành động quả cảm, mạnh mẽ: “đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không”; “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có…”.
Sự quyết liệt được tô đậm hơn nữa thông qua biện pháp liệt kê: “Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ”. Bởi vậy, dù trang bị, vũ khí hết sức thô sơ: “manh áo vải”, “ngọn tầm vông”, “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay”,… nhưng họ vẫn bước ra chiến trường với tư thế dũng mãnh của người làm chủ: “cũng chém rớt đầu quan hai họ”.
Tác phẩm kết thúc bằng lời khẳng định về sự hi sinh cao đẹp của người nông dân – nghĩa sĩ qua câu văn ngắn gọn tám chữ: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ”. Từ ngữ “nghìn năm” đã gợi mở phạm trù thời gian vĩnh hằng để ngợi ca linh hồn bất tử của người nông dân.
Để khắc họa thành công hình tượng người nông dân, nghĩa sĩ, tác giả đã sử dụng bút pháp hiện thực. Đây là một trong những đóng góp mới mẻ trong nền văn học trung đại – giai đoạn chủ yếu sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng. Nhờ vậy, hình tượng người nông dân đã hiện lên chân thực qua nhiều nét vẽ, từ dáng vẻ bề ngoài đến cuộc sống lao động cùng những tâm tư, suy nghĩ và hành động.
Như vậy, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã tái hiện thành công bức chân dung người nông dân, nổi bật là tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết tâm chống lại giặc ngoại xâm. Đó là những phẩm chất chung của nhân dân ta qua mọi thời đại, làm nên giá trị truyền thống cốt lõi của dân tộc. Tuy nhiên, qua việc sử dụng bút pháp hiện thực, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hình tượng người nông dân với những nét mới mẻ của sự bi tráng trong thời đại văn học trung đại Việt Nam.
Xem thêm👉 Cảm Nhận Về Nhân Vật Tnú ❤️️Hay nhất
Văn Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Nông Dân Nghĩa Sĩ Điểm Cao – Bài 10
Tham khảo bài văn cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ điểm cao với những ý văn hay và cách diễn đạt giàu ý nghĩa để lại nhiều ấn tượng với người đọc.
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ đầu tiên ở Nam kỳ có những sáng tác nổi tiếng bằng chữ Nôm, trước khi thực dân Pháp xâm lược văn chương của ông chủ yếu viết về những lý tưởng cao đẹp, về đạo lý làm người, mong ước một cuộc sống mà ở đó con người đối xử với nhau bằng tình nghĩa, đạo đức, tiêu biểu như truyện thơ Lục Vân Tiên và Dương Từ – Hà Mậu.
Đến giai đoạn sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, ông chuyển qua viết về đề tài yêu nước, cổ vũ, ủng hộ phong trào đấu tranh chống thực dân với nhiều tác phẩm xuất sắc cả về giá trị nội dung và tư tưởng, tiêu biểu nhất phải kể đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Trong tác phẩm này, hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ đã hiện lên một cách rõ nét, hào hùng và bi tráng trên từng vần thơ.
Hình ảnh người nông dân, người nghĩa sĩ bắt đầu hiện lên với câu “Nhớ linh xưa”, Nguyễn Đình Chiểu đã ngược dòng thời gian hồi tưởng về quá khứ, nhớ về nguồn gốc của những người nông dân Việt Nam, người nghĩa sĩ đã hi sinh trong thời kỳ Pháp thuộc. Nông dân vốn chỉ biết lặng lẽ, âm thầm gắn bó với ruộng lúa, trâu cày, “Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”, được bữa hôm nay lại phải nghĩ tới ngày mai, cuộc sống cơ cực bần hàn.
Bởi vậy có ai biết thế nào là “cung ngựa”, “trường nhung”, miếng ăn miếng mặc chưa xong, những việc cưỡi ngựa, luyện võ quả thật chẳng ai còn dám nghĩ tới, suốt cả cuộc đời họ chỉ biết quanh quẩn ruộng đồng, làng bộ, chưa bao giờ nghĩ xa xôi, bàn thế sự. Đối với người nông dân những công việc tay chân đồng áng thì như đã ăn sâu và máu, nhắm mắt cũng vẫn làm được, còn với những việc nhà binh, đao thương, kiếm mác họ chưa từng được thấy bao giờ.
Ấy thế mà khi nghe tin dữ có giặc ngoại xâm, người nông dân chỉ biết trông chờ vào tin quan phụ mẫu cả 3 năm trời, nhưng rồi lại chẳng thấy tăm hơi, sự nhiễu loạn của thực dân khiến người nông dân căm hận thấu xương tựa như “nhà nông ghét cỏ”. Mối căm tức ấy thể hiện một cách mạnh mẽ và đậm chất dân dã như “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”.
Dù chưa bao giờ tham dự chuyện chính sự thế nhưng tinh thần tự tôn dân tộc, lòng yêu nước sâu sắc vẫn luôn tồn tại trong tâm hồn mỗi người dân quê, “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc sức ra tay bộ hổ”, người nông dân lập tức đồng lòng đứng lên, trở thành những người nghĩa sĩ anh hùng xin ra sức giết giặc, rửa sạch non sông, tất cả đều dựa trên tinh thần tự giác cùng lòng yêu quê hương, mối căm thù sự nhũng nhiễu của quân thực dân sâu sắc.
Nhưng chuyện chiến đấu há phải dễ dàng, người nông dân vốn quen chuyện ruộng đồng nay động binh đao hẳn sẽ có nhiều bỡ ngỡ, bởi họ không được huấn luyện bài bản, không có võ nghệ phòng thân, đầu óc cũng chưa biết thế nào là binh thư, vậy những người nghĩa sĩ ấy sẽ phải chiến đấu làm sao? Chẳng trách Nguyễn Đình Chiểu đã phải thương xót mà than một câu “Khá thương thay!”.
Thay vì được trang bị đầy đủ thì người nông dân lại bước ra chiến đấu với những trang bị vô cùng sơ sài, vũ khí thô sơ mà chưa từng chứng kiến ở một đội quân nào, “Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”, hình ảnh người nông dân áo vải, tay cầm gậy tầm vông xông pha giết giặc quả thật khiến người ta đau xót, cũng cảm phục tấm lòng dũng cảm, thiện chiến hi sinh hết lòng vì dân tộc.
Thế nhưng, đội quân áo vải ấy đã làm được điều mà khiến người ta phải nể phục, khiến quân thù phải e dè, người nông dân tận dụng tất cả những gì mình có để đánh giặc từ rơm rạ, đến cả dao phay: “Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.”
Tinh thần thiện chiến, đoàn kết của người nông dân nghĩa sĩ chẳng cần trống, cờ rầm rộ thúc giục, họ cứ phăm phăm tiến về phía trước, trong mắt chỉ có một ý chí duy nhất là giết thứ giặc cỏ xâm lược, đầy khí thế và hào hùng.
Trong mắt những con người anh hùng ấy giờ đây chẳng còn bận tâm đến súng đạn của giặc, tâm hồn họ đã hóa sắt thép, thân thể họ đã trở nên liều hơn tất cả, chẳng cần một chiêu thức võ nghệ hay vũ khí nào cả, chỉ cần thấy giặc là giết không tha “Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.”. Khí thế ấy của nghĩa quân khiến quân giặc ấy thấy mà khiếp đảm, chưa từng thấy một đội quân nào liều lĩnh đến vậy.
Thế nhưng thật đau buồn, bởi cho dù khí thế có mạnh mẽ, nghĩa quân có anh dũng đến bao nhiêu cũng chẳng thể tránh khỏi tội thương vong “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ”. Người nông dân nghĩa sĩ đã nằm xuống vì súng đạn của giặc, vì lòng yêu quê hương đất nước, vì lòng tự tôn dân tộc sâu sắc, tất cả những điều ấy đã khiến cho sự hi sinh của người nông dân thành một bản anh hùng ca bất diệt bi tráng, cảm xúc ở đây mang nặng sự bi thương nhưng không hề bi lụy.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm xuất sắc, là tiếng khóc đầy bi tráng của Nguyễn Đình Chiểu cho một thời kỳ lịch sử đen tối, đầy đau thương và vĩ đại của dân tộc, ở đó có những nghĩa sĩ Cần Giuộc anh hùng, hi sinh thân mình cho Tổ quốc mà tiền đề đó là tấm lòng yêu quê hương đất nước, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc, họ chính là những tượng đài bất tử trong lòng nhân dân Việt Nam, mà chúng ta phải tưởng nhớ muôn đời.
Tham khảo 🌺Cảm Nhận Về Nhân Vật Bé Thu ❤️️Hay nhất
Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Nông Dân Nghĩa Sĩ Văn Mẫu – Bài 11
Không nên bỏ lỡ bài văn mẫu cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu mà scr.vn gợi ý cho bạn đọc dưới đây.
Đọc thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, ta bắt gặp những hình ảnh về người anh hùng đầy bản lĩnh, đó là một Lục Vân Tiên giữa đường gặp chuyện bất bình chẳng tha, làm ơn há dễ mong người trả ơn. Hay một Phan Tòng trong cơn đau khổ của nỗi đau mất mẹ, vẫn gác lại tình riêng cầm quân ra chiến trận để lại gương sáng cho muôn đời. Đến với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, tác giả đã xây dựng nên quan niệm mới mẻ và đúng đắn về người anh hùng, họ là những tượng đài bất hủ, không tên tuổi nhưng sáng mãi với thời gian.
Trải qua bao thế kỉ, nhân dân luôn có vai trò vô cùng lớn trong chiến thắng với kẻ thù. Họ không phải là những người được đào tạo, cũng không phải là kẻ trí dũng song toàn, nhưng ở họ có cốt cách anh hùng, mang những tầm vóc cao đẹp của người anh hùng dân tộc.
Cuộc sống của những người nông dân vốn vẫn vậy, họ chăm chỉ làm ăn, chịu nhiều vất vả, dãi nắng dầm mưa suốt một đời mong kiếm đủ ăn, cuộc sống đâu mấy phần dư dả. Họ chân chất, mộc mạc, bình dị, lúc đất nước yên bình, họ sống trong lao động cuốc cày ruộng vườn, quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”.
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.”
Nhưng khi quân giặc ngang nhiên xâm lược bờ cõi, cướp phá miếng cơm manh áo thì họ đứng lên đấu tranh, có áp bức thì phải có đấu tranh. Họ cùng nhau đoàn kết, vươn mình dậy như những vị anh hùng đấu tranh giành lấy tự do cho chính mình, cho đất nước thân yêu. Họ sẵn sàng hi sinh thân mình vì dân tộc. Những vị anh hùng vô danh ấy vốn quen với cuốc cày ruộng vườn, đâu quen với chiến trận, gươm giáo, vậy mà họ bỗng vụt lớn, trở thành những vị anh hùng.
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
Vũ khí chiến đấu chỉ là manh áo mỏng, lưỡi dao phay hay rơm con cúi, võ nghệ không đợi rèn, binh thư chiến lược không đợi bày, tự nguyện lên đường giết giặc. Lòng dũng cảm và căm thù giặc sâu sắc cùng với một tinh thần dũng mãnh là thứ vũ khí sắc bén để chiến đấu với lũ giặc tàn nhẫn, bạo ngược.
Những người anh hùng ấy luôn hiểu giữa ta và giặc không bao giờ có thể đứng chung một bầu trời, là hai thái cực khác nhau, không thể cùng tồn tại. Họ đã chiến đấu hết mình bằng những gì có được, tinh thần ấy thật kiên cường, bất khuất, dũng cảm. Họ xem thường cái chết của chính mình, không hề lo lắng, hoang mang. Họ chiến đấu bằng chính tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
“Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.”
Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định được vai trò, tầm quan trọng của những người nông dân trong mọi cuộc chiến. Họ là một tập thể anh hùng của một dân tộc anh hùng. Họ đã làm rạng rỡ truyền thống yêu nước quật cường của nhân dân Nam Bộ nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng.
Họ là những vị anh hùng “vô danh” nhưng sáng mãi muôn đời trong lòng những thế hệ mai sau, là đại diện cho ý chí, nghị lực của người dân Việt. Họ bình dị, chân chất, nặng tình với quê hương đất nước, là linh hồn của dân tộc mang cốt cách dân tộc, là bức tượng đài sừng sững của dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Đình Chiểu đã mang tới một quan niệm mới về anh hùng, đó là một bài ca dạt dào, thấm đẫm niềm xót thương và tự hào về người anh hùng thất thế nhưng mãi bất tử, hiên ngang với non sông, đất nước.
Không thể bỏ lỡ cơ hội 🔜Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí🔜
Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Nông Dân Nghĩa Sĩ Hay Xuất Sắc – Bài 12
Cùng học hỏi cách viết văn cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc hay xuất sắc thông qua bài văn được chia sẻ sau đây.
Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tấm gương sáng về tình yêu nước, thương dân cũng như ý chí trước kẻ thù. Điều đó được thể hiện ngay trong chính tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” khi tác giả đã khắc họa được hình tượng người nông dân trở thành một tượng đài bất tử về sự anh dũng, kiên cường.
Bài văn tế được mở đầu bằng hai chữ “Hỡi ôi!” vang lên thật thống thiết. Đó giống như một tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo.
Những người nông dân có nguồn gốc xuất thân nghèo khổ, thiếu thốn quan năm. Suy nghĩ của họ quanh năm là làm sao để ăn đủ no, mặc đủ ấm:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó.”
Họ ý thức thân phận mình là kẻ hèn mọn và không dám nghĩ đến những việc quốc gia đại sự – vốn là việc của triều đình. Khi giặc Lang Sa kéo đến cướp nước, “gieo rắc tanh hôi (tinh chiên) đã ba năm mà mặt mũi quan quân chẳng thấy ở đâu” – cho thấy sự hèn nhát của quan quân và triều đình. Cảnh tượng mất nước khiến họ không thể nhắm mắt làm ngơ. Lòng yêu nước mãnh liệt vốn có từ ngàn đời nay đã thôi thúc họ tự đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thù:
“Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
Họ nhận lấy về mình công việc thật khó khăn – chẳng màng đến sống chết chỉ mong sao đưa đất nước trở về bình yên dù quân giặc có mạnh mẽ, uy lực hơn. Những người nông hiền lành tự liên kết thành đội ngũ để chiến đấu. Từ căn nhà tranh đơn sơ, họ ra đi xông thẳng vào trận mạc khi chưa từng cầm vũ khí, chưa từng biết đến việc binh đao.
Tinh thần ấy lại thêm lớn lao khi nhìn vào vũ khí trong tay họ. Những vũ khí của người nông dân cũng thật thô sơ, gần gũi với cuộc sống của họ: rơm con cúi, lưỡi dao phay, gậy tầm vông làm sao đem đối chọi được với súng song tâm, với tàu thiếc tàu đổng. Tuy vậy, cái sắc bén nhất chính là tấm lòng yêu nước cùng với quyết tâm đánh bại kẻ thù của họ.
Đến khi tác giả miêu tả cảnh xung trận của những người lính áo vải mới thật là oai hùng: “Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh , bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.”
Không còn hình ảnh những người nông dân hiền lành, chất phác nữa. Khi bước ra chiến trường, trong suy nghĩ của họ chỉ có đánh bại kẻ thù. Hình ảnh những anh hùng lồng lộng giữa chiến trường, làm chủ trận chiến, áp đảo tất cả.
Lưỡi dao phay, ngọn tầm vông của họ “đâm ngang chém ngược”, tung hoành, hiên ngang chiếm lĩnh cả không gian trận địa, làm cho giặc hồn kinh phách lạc. Tiếng hè, tiếng ó của họ át cả tiếng đại bác của tàu thiếc tàu đồng. “Rơm con cúi, lưỡi dao phay cũng đốt xong đồn giặc, cũng chém rớt đầu quan hai giặc”. Trước sự mạnh mẽ của họ, quân giặc hung dữ đã trở nên thật đáng thương.
Họ chiến đấu anh dũng và hy sinh cũng thật vẻ vang. Sự hy sinh của những nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài học quý báu mà họ đã để lại. Đó là tinh thần: “Thà chết vinh còn hơn sống nhục”. Người nông dân phải gắn bó máu thịt với từng tấc đất của quê hương như thế nào, thì họ mới cảm thấy đau đớn khi chứng kiến cảnh giặc xâm lấn từng mảnh đất của đất nước như vậy. Để rồi thà chiến đấu và hy sinh, chứ nhất định không chịu nhục nhã trước kẻ thù cướp nước. Họ là tấm gương sáng để dân tộc Việt Nam noi theo mà làm, là ngọn đèn soi sáng cho dân tộc Việt Nam.
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…” Lời khẳng định của Nguyễn Đình Chiểu về công lao của những nghĩa sĩ Cần Giuộc: “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”
Công lao của họ sẽ được sử sách ghi danh. Con cháu đời sau phải ghi nhớ, trân trọng và ngưỡng mộ. Những người nông dân nhỏ bé, vô danh nhưng đã góp phần to lớn vào công cuộc bảo vệ đất nước.
Tóm lại, qua phân tích trên, có thể thấy “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là bức tượng đài bi tráng về những người anh hùng nông dân. Họ quả thật xứng đáng với truyền thống yêu nước của nhân dân ta.
Hướng dẫn cách 🔥Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí🔥 cực hay