Liên Hệ Chí Phèo Của Nam Cao (10+ Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Hay)

Liên Hệ Chí Phèo Của Nam Cao ❤️ 10+ Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Hay ✅ Trọn Bộ Văn Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Chí Phèo Đặc Sắc Nhất.

Cách Liên Hệ Bài Chí Phèo Của Nam Cao

Bài viết này sẽ hướng dẫn các bạn cách liên hệ bài “Chí Phèo” của Nam Cao đơn giản nhất, mời các bạn cùng theo dõi nhé!

  • Bước 1: Tìm hiểu chung
    • Xác định tác phẩm chính cần làm rõ “Chí Phèo”
    • Xác định tác phẩm liên hệ, ví dụ “Tắt đèn”, “Lão Hạc”,…
  • Bước 2: Phân tích
    • Phân tích “Chí Phèo”, nhân vật, diễn biến câu chuyện, cao trào,…
  • Bước 3: Liên hệ
    • Ví dụ liên hệ với nhân vật chị Dậu trong “Tắt đèn”
    • Điểm giống nhau: Cả 2 người đều là những người nông dân dưới đáy xã hội phong kiến, bị áp bức, bóc lột và khinh rẻ. Cả 2 sinh ra đều là những con người lương thiện, mơ ước cuộc sống bình thường.
    • Khác nhau: Trong khi Chí Phèo bị tha hóa, mất hết nhân tính, chuyên rạch mặt ăn vạ thì chị Dậu dù có phải bán hết tất cả chứ cũng không bán “nhân tính”.
  • Bước 4: Đánh giá và nhận xét
    • Lên án xã hội trước 1945 là xã hội mục ruỗng thối nát.
    • Xã hội ấy đã đẩy những con người như Chí Phèo vào con đường tù tội để rồi phải tự tử
    • Câu nói cuối cùng của Chí “ai cho tao lương thiện” đã để lại nhiều suy nghĩ cho người đọc.

Quà cho bạn may mắn 👉 Thẻ Cào Viettel Miễn Phí [Tặng Card 50k 100k 200]

Chí Phèo Liên Hệ Với Bài Nào ?

Cùng SCR.VN tham khảo các bài có thể liên hệ “Chí Phèo” mà chúng tôi gợi ý nhé!

1. Cùng viết về tình cảnh khốn khổ của người nông dân trước cách mạng tháng tám, có thể khai thác hình ảnh Chí Phèo với hình ảnh người Vợ nhặt trong tác phẩm của Kim Lân. Để từ đó thấy được số phận bất hạnh của người lao động trước khi có cách mạng tháng tám nổ ra. Những hạn chế trong cách giải quyết số phận của con người trên trang văn của Nam Cao.

2. Liên hệ với các tác phẩm của chính nhà văn Nam Cao như Lão Hạc. Cùng viết về số phận của người nông dân trước cách mạng tháng 8, nếu Chí Phèo tiêu biểu cho những người nông dân bị tha hoá, bần cùng hoá đến mất hết hình người, tính người thì Lão Hạc lại tượng trưng cho con người dù có gặp hoàn cảnh bi đát, bị đẩy vào bước đường cùng vẫn giữ được phẩm chất của con người.

3. Liên hệ với hình ảnh người Vợ nhặt trong tác phẩm của nhà văn Kim Lân để thấy được vẻ đẹp nhân đạo trong tác phẩm của hai tác giả hiện thực.

4. Liên hệ với chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố để thấy được số phận chung của những người nông dân nghèo trước 1945 và bản tính con người lương thiện trong họ.

5. Liên hệ sự thức tỉnh bản tính con người bình thường, lương thiện của Chí Phèo sau khi ăn bát cháo hành của thị Nở với cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù để thấy được cái đẹp cũng có thể “mọc lên” trong chính nơi tăm tối nhất.

Tham khảo 🌸 Dàn Ý Chí Phèo  🌸 chi tiết!

Những Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Chí Phèo Hay Nhất

Gửi tặng bạn đọc những mẫu bài văn liên hệ mở rộng bài “Chí Phèo” hay nhất!

Mở Rộng Liên Hệ Chí Phèo Đặc Sắc

Dưới đây là bài văn liên hệ mở rộng bài “Chí Phèo” đặc sắc, mời các bạn cùng xem:

“Nền đất ẩm, chiếu manh, trang giấy trắng
Anh khai sinh bao nhân vật cho đời
Nên anh chết như chuyến đi dài hạn
Bởi họ thay anh có mặt giữa muôn người”
(Trần Canh)

Quả thực, giữa những ngã rẽ nhộn nhịp của “nghệ thuật” và “cuộc đời”, nhà văn hiện thực luôn là người dẫn dắt người đọc dấn thân vào một cuộc đời đau khổ, những vòng lặp luẩn quẩn bế tắc mà ẩn chứa bề sâu khôn cùng và mở ra những suy tư, trăn trở mới. Đến với Nam Cao, ta được chứng kiến tấn bi kịch đau thương tha hóa tính người trong xã hội cũ qua tác phẩm “Chí Phèo”.

Trong số những kiệt tác văn học hiện thực của nền văn học Việt Nam thời kỳ trước, thì “ Chí Phèo” của Nam Cao là tác phẩm nổi bật khi phản ánh được hiện thực rõ nét của xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công và tội ác của những kẻ xấu xa. Đồng thời hình ảnh người nông dân bần cùng bị hoàn cảnh xô đẩy cũng được khắc họa rất thành công.

Nhân vật chính của tác phẩm cùng tên với tiêu đề, đó chính là Chí Phèo. Vốn là một người nông dân hiền lành, lương thiện thật thà nhưng lại bị xã hội chà đạp, chèn ép, dẫn đến bước đường cùng là trở thành một kẻ sát nhân. Chí Phèo xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm bằng những tiếng chửi rủa, “ hắn chửi trời, chửi đất, hắn chửi cả làng Vũ Đại… chửi đứa nào đẻ ra hắn…” Những tiếng chửi như để bắt đầu cho cuộc đời tăm tối và đầy bi kịch của hắn.

Chí Phèo sinh ra đã bị bỏ rơi trong một cái lò gạch cũ, người làng truyền tay nhau nuôi hắn lớn. Vì có sức khỏe nên hắn đi làm ở cho nhà Bá Kiến. Thấy hắn như vậy, Bá Kiến ghen tuông, tìm cách đẩy hắn vào tù. Và bắt đầu từ đây, Chí Phèo sinh ra những nỗi đau, những oán hận chồng chất với cuộc đời. Chí Phèo dần dần không còn là một người nông dân lương thiện nữa mà đánh mất đi chính bản thân mình.

Hết hạn tù, Chí Phèo về làng và trở thành một con người hoàn toàn khác. Chí Phèo xuất hiện với hình ảnh “ cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết.” Người nông dân hiền lành trước đây đã biến mất, thay vào đó là hình ảnh gớm ghiếc khiến người khác nhìn vào cũng có vài phần ghê sợ.

Chính những con người trong xã hội phong kiến thối nát ấy, đã khiến cho bản tính hiền lành, nhân cách lương thiện cùng ham muốn làm người của Chí Phèo bị cướp mất. Hắn biến thành một kẻ xấu xa, sống nhờ việc đi rạch mặt ăn vạ, đâm thuê chém mướn. Không biết bao nhiêu gia đình ở cái làng Vũ Đại này đã bị hắn phá tan. Dân làng không ai không sợ khuôn mặt gớm ghiếc cùng những hành động tàn bạo ấy. Hắn bị mọi người xa lánh, ghét bỏ.

Cuối cùng, không còn cách nào khác lại trở về làm thuê cho nhà Bá Kiến. Chí Phèo có lẽ đã tiếp tục lâm vào bước đường cùng, khi hắn phải trở về làm thuê cho kẻ đã đẩy hắn xuống địa ngục như bây giờ. Nỗi đau của Chí Phèo nhưng có lẽ cũng là nỗi đau chung của những con người thấp cổ bé họng, bị áp bức đến nỗi rơi vào bế tắc trong xã hội phong kiến ấy.

Hình tượng Chí Phèo được Nam Cao xây dựng rất thành công. Nhân vật điển hình cho sự tha hóa, bế tắc, bần cùng của xã hội phong kiến thối nát ngày ấy. Và nếu chỉ có như vậy thì chưa đủ để Chí Phèo trở thành kiệt tác. Nam Cao đã khơi gợi sự khát khao một mái ấm gia đình, được yêu thương như bao người khác của Chí Phèo.

Tình huống tác giả đưa ra, để cho Chí Phèo gặp Thị Nở trong vườn chuối sau khi hắn uống rượu say khướt. Thị Nở xuất hiện trong đời hắn với bát cháo hành đã khiến cho chính bản thân Chí Phèo cũng như người đọc cảm thấy vẫn còn chút hy vọng thắp sáng cuộc đời tăm tối của hắn.

Nhân vật Thị Nở hiện lên là một người phụ nữ thô kệch, xấu xí, nhưng lại là điểm sáng thắp lên hy vọng của Chí Phèo. Thị Nở xuất hiện đã đánh thức lương tri, đánh thức con người vốn lương thiện hiền lành của Chí Phèo. Chi tiết “ bát cháo hành” là một chi tiết, hình ảnh nghệ thuật đắt giá, giàu giá trị nhân văn sâu sắc, biểu hiện cho tình cảm giữa người với người trong xã hội thối nát đó.

Từ khi gặp Thị Nở, Chí Phèo nhận ra cuộc đời ngoài kia vẫn còn nhiều điều tốt đẹp. “ Hắn thấy già yếu, bệnh tật và cô độc còn đáng sợ hơn cả ốm đau bệnh tật. Hắn khát khao làm hòa với mọi người.” Đến giờ phút này, có lẽ hắn đã biết rằng mình cũng cần một cuộc sống như mọi người. Một cuộc sống bình thường, không phải đâm thuê chém mướn, không phải rạch mặt ăn vạ người ta nữa. Mong ước bình dị nhưng dường như với Chí Phèo lại vô cùng lớn lao, khó thực hiện.

Vậy nhưng một lần nữa, xã hội phong kiến thối nát, nghiệt ngã, tàn nhẫn ấy đã không để cho mong ước bình dị làm người lương thiện của Chí Phèo được trở thành hiện thực. Đó là khi bà cô của Thị Nở xuất hiện, và bà cô phản đối Chí Phèo và Thị Nở đến với nhau.

Bà cô ấy có lẽ chính là nhân vật tiêu biểu, hiện thân của xã hội phong kiến xấu xa, đã cự tuyệt, từ chối một cách tàn nhẫn khát khao làm người lương thiện của Chí Phèo, đẩy hắn vào bước đường cùng của cuộc đời. Chính vì thế, Chí Phèo một lần nữa rơi vào tuyệt vọng, hắn đau đớn tìm đến nhà Bá Kiến để trả thù, để giết cái kẻ đã làm hại đời hắn.

Chí Phèo giết chết Bá Kiến, sau đó hắn tự tay kết liễu cuộc đời tối tăm của mình. Hình ảnh Chí Phèo nằm giãy đành đạch giữa vũng máu ở sân nhà Bá Kiến, hét to lên rằng “ Ai cho tao làm người? Ai cho tao lương thiện?” đã khắc sâu vào trong tâm trí cũng như ám ảnh bất cứ người đọc nào. Không ai cho hắn lương thiện. Từng con người không cho, nên cái xã hội ấy chắc chắn không cho. Một tấn bi kịch đối với cuộc đời của Chí Phèo, người nông dân lương thiện nhưng sinh ra trong xã hội đầy rẫy những bất công cùng sự tàn nhẫn.

Trái ngược với Chí Phèo, nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên cũng của tác giả Nam Cao lại là một người dù có lâm vào bước đường cùng cũng giữ cho mình phẩm chất cao quý. Ông là một lão nông nghèo, vợ mất, con trai đi làm xa, ông dù già cả, nghèo túng cũng không muốn phiền đến ai. Mảnh ruộng giữ lại làm quà cưới cho con trai cũng nhất quyết không đụng vào. Để rồi cuối đời ông phải ăn bả chó tự vẫn.

Qua đây, ta thấy chỉ có ngòi bút sâu sắc của Nam Cao mới có thể xây dựng được một cách thành công đến thế hình tượng nhân vật điển hình của sự áp bức, bất công thời bấy giờ. Đọc Chí Phèo, người đọc sẽ ám ảnh mãi không thôi, cũng như đọng lại sâu sắc niềm thương cảm với thân phận của những con người sinh ra nhầm thời, vì hoàn cảnh mà phải lâm vào bước đường cùng, trượt dài trong hố sâu của tội lỗi.

Tổng hợp 🌸 Dẫn Chứng Chí Phèo 🌸 thú vị!

Liên Hệ Tác Phẩm Chí Phèo Xuất Sắc

Mời các bạn cùng xem bài văn liên hệ mở rộng tác phẩm “Chí Phèo” xuất sắc nhất sau đây!

“Chí Phèo” của Nam Cao là kiệt tác của văn học hiện thực phản ảnh đậm nét xã hội phong kiến đầy rẫy những tội ác và bất công, đồng thời khắc họa thành công hình ảnh người nông dân bị bần cùng hóa. Đọc những trang viết của Nam Cao, người đọc có thể mường tượng ra được bức tranh xã hội phong kiến nhiều ám ảnh.

Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh nhân vật Chí Phèo – một người nông dân lương thiện nhưng bị xã hội chèn ép, chà đạp, đẩy đến bước đường cùng thành kẻ sát nhân. Nam Cao đã để cho nhân vật Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm bằng “tiếng chửi”. Một loạt tiếng chửi của Chí Phèo như mở màn một cuộc đời nhiều tăm tối của hắn “Hắn chửi trời, hắn chửi đất, hắn chửi cả làng Vũ Đại. Hắn chửi đứa nào đẻ ra hắn…”.

Chí Phèo sinh ra tại một cái lò gạch cũ, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi hắn đi ở cho Bá Kiến. Bá Kiến vì ghen tuông mà đã đẩy Chí Phèo vào tù, nơi đó bắt đầu hình thành những oán hận và cả nỗi đau. Chí Phèo đã dần đánh mất đi bản thân, đánh mất đi sự lương thiện. Sau mấy năm ở tù, CHí Phèo về làng, trở thành một con người khác. Nam Cao đã khắc họa rõ từng đường nét trên khuôn mặt của Chí Phèo, như phản ánh sự đau lòng của chế độ và sự tha hóa của một đời người. Chí Phèo xuất hiện “Cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Hình ảnh người nông dân hiền lành đã biến mất sau những năm tháng ở tù.

Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí Phèo. Hắn trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ, hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình ở làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm giếc và hành động tàn bạo.

Cuộc sống của một con người thay đổi hoàn toàn, hắn lấy nghề rạch mặt, đâm thuê chém mướn làm nghề sống. Chí Phèo bị người làng xa lánh, hắn trở về làm cho nhà Bá Kiến. Lại một lần nữa người đọc thấy được sự bế tắc, bước đường cùng của Chí Phèo. Hắn lại trở về nơi ngày xưa đã đẩy hắn vào cảnh cơ cực như bây giờ. Có lẽ đây chính là sự bế tắc của người dân thấp cổ bé họng trong xã hội phong kiến.

Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo. Đây là hình tượng điển hình cho sự tha hóa trong xã hội phong kiến, là sự bế tắc, cùng đường lạc lối.

Nhưng Nam Cao đã không để cuộc đời Chí Phèo dừng lại ở đó, tác giả đã khơi gợi sự khát thèm yêu thương, khát thèm cuộc sống như một con người nơi hắn. Tình huống truyện Chí Phèo gặp Thị Nở ở vườn chuối sau lần hắn uống rượu say khướt. Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành đã khiến người đọc vẫn cảm thấy còn chút gì đó hi vọng cho một cuộc đời bình dị.

Thị Nở xấu xí, thô kệch, nhưng lại là vết sáng trong cuộc đời tăm tối của Chí Phèo. Sự xuất hiện của Chí Phèo thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với Chí Phèo, đánh thức lương tri, đánh thức bản tính lương thiện của hắn. “Bát cháo hành” là một chi tiết nghệ thuật giàu giá trị nhân văn, cho tình người còn lấp lánh giữa xã hội thối nát.

Sau khi gặp gỡ với Thị Nở, hắn thấy cuộc đời ngoài kia thật tốt đẹp, nghe thấy những người đàn bà đi chợ đang nói chuyện. Hơn hết có một chi tiết, một suy nghĩ khiến người đọc chùng xuống “Hắn thấy già yếu, bệnh tật, và cô độc còn đáng sợ hơn cả đau ốm bệnh tật…hắn khát khao làm hòa với mọi người”.

Sự nổi lọan của cái đẹp đó chúng ta còn bắt gặp trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.  Cảnh Huấn Cao cho chữ viên cai ngục có thể coi là cuộc nổi lọan của cái đẹp. Đó là vẻ đẹp đầy uy lực của nhân cách và tài hoa: Cái đẹp không vụ lợi: “Ông Huấn Cao nổi tiếng viết chữ đẹp nhưng không vì quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ và cả đời mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân”. Nhưng lần này, ông viết cho người quản ngục, trong nhà ngục và trước chỉ vài giờ là lên đường vào kinh chịu tử hình.

Khi viết xong, ông thở dài, buồn bã không vì thán phận mình mà vì người biết được giá trị của cái đẹp như thầy Quản mà phải làm cái nghề này và phải ở một nơi khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi. Điều đó chứng tỏ cái đẹp có thể sinh thành nơi không đẹp nhưng không thể tồn tại nơi ấy.

Điều này lại đúng với cảnh ngộ của Chí Phèo, Chí sinh ra là 1 con người lương thiện, nhưng xã hội phong khiến đã biến Chí thành kẻ thân tàn ma dại. Đến khi cái đẹp trong con người Chí được khai sáng bởi “bát cháo hành” thì cũng là lúc xã hội phong kiến tiếp tục dìm hắn xuống. Bà cô của Thị Nở là hiện thân của xã hội phong kiến, cự tuyệt khát khao làm người, quyết dồn Chí vào bước đường cùng. Chính điều này đã khiến cho Hắn đau, rơi vào tuyệt vọng và quyết tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến.

Hình ảnh ám ảnh người đọc là hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nằm giữa vũng máu ở sân nhà Bá Kiến. Hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước khi chết Chí phèo còn hét lên “Ai cho tao làm người lương thiện”, xã hội này không cho, con người cũng không cho. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.

Nam Cao với ngòi bút sâu sắc đã xây dựng nhân vật điển hình trong xã hội điển hình như kéo người đọc về với thời kỳ đau thương của đất nước ta hồi đó. Nghệ thuật đặc tả tính cách, hành động đã khiến cho truyện ngắn thêm sinh động, hấp dẫn.

Sưu tập mẫu 🌸 Mở Bài Chí Phèo 🌸 xuất sắc!

Liên Hệ Bài Chí Phèo Ngắn Gọn

Gợi ý cho bạn bài văn liên hệ mở rộng bài “Chí Phèo” ngắn gọn, xem ngay bạn nhé!

Nam Cao được biết đến là một cây bút tài hoa trên diễn đàn văn học Việt Nam, những tác phẩm ra đời mang màu sắc hiện thực sâu sắc. Những tác phẩm của ông mang cái nhìn về thời đại và cuộc sống hoàn toàn mới, cũng như hình ảnh trong các tác phẩm cũng đa dạng và phong phú, mang những mảng tính cách mà sự pha trộn sáng tối lại như được tương phản rõ rệt.

Chí Phèo là một tác phẩm điển hình khi nhắc tới Nam Cao. Đây là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao, câu chuyện cũng gợi một những ý nghĩa nhân văn sâu sắc

Tác phẩm mở đầu thật đặc sắc và đầy ấn tượng với tiếng vừa đi vừa chửi của Chí Phèo, và xung quanh hắn chỉ có mấy con chó đứng chầu chực sủa. Ngoài mấy con chó, không có ai đáp lời hắn. Ở cái làng Vũ Đại đã quen với hình ảnh này của nó, cho nên cứ khi nào hắn chửi mọi người cũng chẳng để ý và nghĩ rằng:” chắc hắn trừ mình ra”.

Tới đây ắt hẳn mọi người lại ngạc nhiên tại sao hắn lại có hành động như vậy, theo thông thường người ta chửi bới khi uất ức một chuyện gì hay quá áp lực. Quả là như vậy, hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bỏ hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Lí Kiến.

Vì ghen tuông với sự trẻ trung lực lưỡng của hắn và vì bà Ba để ý tới hắn, nên Bá Kiến tìm cách bỏ tù hắn, để hắn không thể xuất hiện nữa. Như có một sự vô cớ, Chí Phèo vốn dĩ là một người lương thiện, nghèo đói nên đi ở, nhưng trong xã hội đó,ai có tiền có quyền người đó được làm mọi thứ, và cứ thế từ một con người lương thiện, Chí dần bị đẩy vào con đường tha hóa và lưu manh hóa.

Sau khi được thả tù, bộ dạng Chí thay đỏi hẳn,với cái đầu cạo trọc và hàm răng trắng hếu, trên mặt hiện lên vết sẹo dài. Trông hắn chẳng khác gì một con quỷ, quỷ đội lốt trong hình hài của một con người. Và người hắn tìm đến đầu tiên không ai khác chính là Bá Kiến. Bá Kiến là người khôn khéo, khi thấy hình ảnh đó, quay sang Lí Cường mắng sa sả như tỏ ra nhượng bộ, rồi đỡ Chí Phèo dậy, mời Chí vào nhà và cho ăn uống hậu hĩnh.

Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ờ tù lần nữa vì Chí cho rằng đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm dùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dùng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ, có vườn cho Chí. Sau khi Chí đã hoàn thành công việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Bắt đầu từ lúc này Chí bõng nhiên trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh.

Cuộc sống và con người của Chí Phèo thay đổi khi một lần trong lúc uống say ,hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị Nở là người nghèo rớt mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích và họ đã ăn nằm với nhau và thứ tình cảm đó đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí.

Bát cháo hành của Thị sau đêm hôm ấy như liều thuốc tiên đánh thức con người lương thiện luôn giấu kín trong một bộ dạng quỷ dữ của hắn. Cái mùi cháo hành thơm kia như đã bốc lên và cử chỉ quan tâm của Thị đã khiến chí bùi ngùi và chợt nhận ra, anh muốn có một gia đình, với vợ dệt vải chồng đi làm, cứ thế cuộc sống êm đềm trôi qua.

Nhưng, dường như niềm vui sướng chưa được bao lâu thì người bà cô của Thị đã cự tuyệt Chí, rồi Thị cũng giống mọi người quay lưng lại với Chí. Chiếc thang bắc cầu cho lòng lương thiện của Chí được sang bến bờ được sống như một người bình thường giờ đây hắn cũng không còn nữa. Chính vì thế,mà Chí Phèo đã mang dao tới nhà bá Kiến kết thúc đời bá Kiến và sau đó cũng tự sát, hắn không còn một lựa chọn nào khác.

“Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn đặc sắc mà dường như dung lượng hiên thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, và tình huống khác nhau…tác phẩm như mang tầm vóc của một tiểu thuyết.

Cuộc đời của những người nông dân bất hạnh như Chí rất nhiều, chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố cũng là 1 nhân vật khiến người đọc không khỏi suy nghĩ. Chị Dậu có một cuộc đời bất hạnh, dù có cố gắng, vất vả làm đây làm đó thì chị cũng không thay đổi được gì, thậm chí còn tệ hơn trước kia.

Tài sản 2 vợ chồng chẳng có gì ngoài căn nhà liêu xiêu cùng 3 đứa con, đàn chó, 2 gánh khoai. Gia đình chị bị bọn tham quan chà đạp, ức hiếp. Chúng nghĩ ra đủ loại thuế bắt người dân phải nộp. Không có tiền, chị phải bán cả đàn chó, rồi đến bán cả con gái của mình. Chẳng có người mẹ nào là không thương con mình cả, nhưng đễn mức đường cùng, nhà chẳng còn gì để bán được nữa, nên chị mới đành phải đưa ra quyết định nhói lòng đến vậy.

Bất hạnh này nối tiếp bất hạnh khác, gia đình chị vẫn cứ bị bọn quan lại hành hạ, vùi dập. Chồng chị bị bọn chúng tra tấn đánh đập dã man mà chị cũng chẳng có tiền, có gạo để chăm sóc chồng. Không có tiền, cũng không còn gì để bán, chị phải làm 1 nghề hết sức “bất hạnh”: đó là bán… “sữa người”. Công việc cũng chẳng được yên lành gì, ông ta giở trò đồi bại khiến chị không chịu nổi phải bỏ chạy giữa đêm tối mịt.

Chí Phèo hay chị Dậu là những mảnh đời đầy bất hạnh và sóng gió. Tất cả cũng chỉ vì cái nghèo, cái xã hội đầy bất công! Với cách kết thúc dữ dội trong Chí Phèo, Nam Cao đã sáng tạo nên nhân vật nô lệ thức tỉnh đứng lên đòi quyền làm người, đồng thời cũng dự báo sự thật đó là mâu thuẫn trong nông dân và địa chủ đã phát triển tới mức báo động. Nó đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết. 

Tuyển tập mẫu 🌸 Kết Bài Chí Phèo 🌸 ấn tượng!

Liên Hệ Chí Phèo Và Vợ Nhặt Nâng Cao

Chia sẻ đến bạn đọc bài văn liên hệ mở rộng bài “Chí Phèo” với “vợ nhặt” nâng cao giúp bạn làm bài tốt hơn!

Chí phèo của Nam Cao là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp của nhà văn hiện thực này. Là một trong những cây đại thụ của nền văn học hiện thực, Nam Cao khẳng định được sở trường, tài năng của mình và chứng tỏ một cây bút có chiều sâu trong việc khai thác số phận của nhân vật nông dân trước cách mạng. Liên hệ mở rộng bài chí phèo của Nam Cao với tác phẩm cùng thời kỳ là Vợ nhặt của Kim Lân để thấy rõ điểm khác nhau trong cách khai thác đề tài, số phận của hai tác giả chuyên mảng văn học hiện thực.

Cả Chí Phèo và Vợ Nhặt đều được sáng tác trước 1945, thời kỳ đen tối của lịch sử Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, phong kiến. Chí Phèo được sáng tác năm 1938 thời kỳ cách mạng tháng tám chưa thành công, các nhà văn trí thức như Nam Cao đều rất trăn trở về hướng đi cho mình. Còn Vợ nhặt được sáng tác năm 1945, thời kỳ đen tối khi có nạn đói khủng khiếp làm chết hơn 2 triệu người, cách mạng tháng 8 đã có dấu hiệu khởi sắc.

Chính trong thời kỳ đó hai nhà văn đã tìm được điểm chung trong việc phản ánh số phận của người nông dân trước cách mạng. Chí Phèo phản ánh số phận của kẻ lưu manh bị tha hoá đến mất hết cả nhân tính lẫn hình tính. Trước đó Chí Phèo là một thanh niên khoẻ mạnh, chất phác, nhưng chỉ vì bị vu oan giá hoạ mà chàng canh điền đó bị đẩy vào vòng lao lý.

Ra tù Chí Phèo bị tha hoá, biến chất và trở thành một tên lưu manh chuyên đi rạch mặt ăn vạ, gây ra nỗi khiếp sợ cho cả làng Vũ Đại. Và cuối cùng bi kịch đến với hắn chính là cái chết để giải thoát cho số phận người không ra người của mình.

Với Vợ Nhặt Kim Lân cũng khai thác về số phận cuả người nông dân trước cách mạng, đó là số phận của những con người trong cái đói khủng khiếp năm 1945. Vì đói quá mà một người phụ nữ sẵn sàng bán rẻ danh dự để theo một chàng trai xa lạ về làm vợ. Cái đói bao trùm lên không gian và gây ra cái chết cho bao người. Cả cái làng nặng mùi tử khí, không ngày nào là không có người vì chết đói. 

Khai thác số phận những người nông dân trước cách mạng tuy có điểm khác nhau về cách triển khai, cảm nhận nhưng chúng ta đều thấy điểm chung ở họ chính là cảm hứng thương xót, đồng cảm với nỗi đau của người nông dân, đồng cảm với những khát vọng rất người của họ, nhặt lấy những điểm sáng trong phẩm chất của người nông dân. Đó cũng là điểm chung trong các tác phẩm cùng thời với hai nhà văn này.

Tuy có điểm giống nhau nhưng hai nhà văn vẫn có những tiếp cận khác nhau trong việc phát hiện và thể hiện số phận của người nông dân trước cách mạng. Trước hết là khai thác số phận riêng không giống nhau. Chí Phèo là hình ảnh của người nông dân bị lưu manh hoá, tha hoá đến mất tính người, hắn đi đến đâu cũng gây ra nỗi kinh hoàng cho người dân Vũ Đại.

Tuy nhiên trong cái lưu manh ấy Nam Cao vẫn khai thác và tìm ra điểm “người” còn sót lại trong gã đàn ông này. Và thật bất ngờ khi càng tìm kiếm chúng ta lại càng thấy Chí Phèo rất đời, rất người, tuy bị lưu manh nhưng bản tính lương thiện của cậu thanh niên canh điền ngày nào vẫn còn nguyên vẹn. Chỉ một bát cháo hành cũng khiến cái phần thiện lương ấy trỗi dậy, khiến Chí muốn sống đúng với bản chất của mình.

Nhưng vì xã hội nghiệt ngã quá, người ta đã có định kiến quá sâu với Chí, xã hội đã từ chối không cho Chí được làm người, thế nên Chí quyết định hành động để đưa cái tên đã biến mình thành như vậy xuống địa ngục và kết thúc quãng đời đầy đau khổ cho chính mình, giải thoát bằng cái chết.

Còn Vợ nhặt cũng là hình ảnh của người nông dân nhưng là hình ảnh trong cái đói, người nông dân bị rẻ rúng vì cái đói, thế nhưng Kim Lân không coi thường họ, chế nhạo hay tìm cách để khắc họa sâu thêm cái nhục nhã của con người do cái đói gây ra mà tìm thấy những bản chất đẹp đẽ của con người ngay trong cái đói.

Vì thế chỉ sau một đêm người vợ nhặt lại trở về đúng bản chất của người phụ nữ, đảm đang, tháo vát, biết ngượng ngùng, xấu hổ, biết yêu thương và vun vén cho cuộc sống. Vì trong cái đói nghèo, trước cái chết cận kề con người lại càng sống có tình, có nghĩa, đó chẳng phải điểm đáng tôn trọng và ngợi ca ở con người hay sao?

Liên hệ mở rộng bài Chí Phèo sâu hơn còn cho thấy điểm độc đáo trong cách kết thúc truyện của hai tác phẩm cùng thời. Kết thúc Chí Phèo không có lối thoát, bế tắc.Vợ nhặt hé lộ tương lai tươi sáng hơn. Đó là do quan niệm nghệ thuật chi phối ở hai tác giả không giống nhau và hoàn cảnh sáng tác cũng có điểm khác biệt nhất định.

Nếu Nam Cao là nhà văn của nghệ thuật vị nghệ thuật nên ông trung thành với cách khai thác đúng chất hiện thực, vả lại thời kỳ đó cách mạng tháng 8 chưa nổ ra, người nông dân và cả những trí thức như Nam Cao vẫn chưa có con đường đi cho mình. Còn Kim Lân lại khác, khi ông sáng tác thời điểm sau này khi các phong trào đã có những khởi sắc, con đường giải phóng dân tộc tất yếu sẽ thành công. 

Dù kết thúc còn nhiều hạn chế tuy nhiên Chí Phèo của Nam Cao vẫn là một trong những tác phẩm đóng đinh trong sự nghiệp nghệ thuật của nhà văn này. Với Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện ngòi bút nội lực,khám phá và khai thác chiều sâu tâm lý nhân vật để có thể sống chết với nhân vật.Liên hệ bài mở rộng Chí Phèo của Nam Cao với Vợ Nhặt của Kim Lân để thấy rõ những thành công của hai tác giả trong việc khai thác chủ đề này.

Liên Hệ Chí Phèo Và Tràng Ấn Tượng

Tham khảo bài văn liên hệ mở rộng bài “Chí Phèo” với nhân vật Tràng ấn tượng dưới đây!

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo. Sáng tác trước cách mạng của ông xoay quanh hai đề tài chính là nông dân nghèo và trí thức nghèo. Truyện ngắn Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của ông.

Chí là một người hiền hậu, chất phác được dân làng Vũ Đại cưu mang. Anh cũng ước mơ có một cuộc sống bình dị như bao người “một cuộc sống nho nhỏ, chồng cày thuê, vợ dệt vải” . Chỉ vì cường quyền của chế độ phong kiến khi chưa có Đảng lãnh đạo mà đứa con tinh thần của tác phẩm đã bị chà đạp không thương tiếc. Chí Phèo là nhân vật điển hình cho người nông dân bần cùng dẫn đến lưu manh hóa – quy luật có tính phổ biến trong xã hội trước Cách mạng.

Sau cuộc gặp gỡ tình cờ của Chí Phèo với thị Nở, Chí Phèo lần đầu tiên tỉnh rượu. Chí đã tỉnh rượu sau một cơn say rất dài. Trước đó Chí đã là tay sai cho kẻ thống trị nham hiểm Bá Kiến. Bá Kiến lợi dụng Chí Phèo để trừ khử những phe cánh đối nghịch, gây ra bao tội ác với dân làng mà yếu tố hỗ trợ cho Chí là rượu. Vì thế đời Chí là một cơn say dài mênh mông. Cơn say đã lấy mất của hắn già nửa cuộc đời, đẩy hắn vào kiếp sống thú vật tăm tối.

Sau khi tỉnh rượu, Chí nhận ra và cảm nhận được những thanh âm của cuộc sống. Đó là âm thanh vang vọng của cuộc sống thường nhật. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Âm thanh ấy như cơn mưa rào mùa hạ, như dòng suối ngọt ngào đổ vào tâm hồn quỷ dữ và thức dậy cả một trời ký ức tươi đẹp.

Vậy là Chí tỉnh, hắn đâu có say. Chính vì Chí tỉnh nên hắn mới cảm nhận được những hương vị của cuộc sống, của tình yêu. Những chi tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nữa của Chí. Đó là tính thiện Nam Cao tin rằng: Lương thiện là thứ không bao giờ mất đi ở người nông dân. Đó là tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn dành cho nhân vật.

Gặp thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến niềm vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy. Chí khát khao trở lại tháng ngày tươi đẹp. Và thị Nở sẽ là chiếc cầu nối đưa hắn trở về xã hội loài người nhưng niềm mong mỏi ấy đã bị chặn đứng bởi định kiến của bà cô, mà cũng là của xã hội ấy.

Tác phẩm Chí Phèo ra đời trước Cách mạng tháng Tám, đồng nghĩa với việc, số phận và cuộc đời người nông dân hoàn toàn bế tắc, không lối thoát. Không phải vậy mà Chí Phèo với bản chất vốn lương thiện đã không thể tồn tại trong xã hội ấy đó sao? Anh phải tìm đến cái chết để được làm người.. lương thiện.

Cũng khai thác đề tài về nông thôn và hình tượng người nông dân. Vợ nhặt của Nam Cao là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí. Qua việc khắc họa hai nhân vật trong hai đoạn trích trên, ta thấy được sự thành công của hai nhà văn trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.

Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân xoay quanh nhân vật Tràng trong nạn đói 1945. Buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ, Tràng có nhiều thay đổi. Tràng sung sướng, hạnh phúc, hãnh diện: Thấy trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra, việc có vợ đối với hắn vẫn hết sức bất ngờ.

Tràng nhận ra sự thay đổi xung quanh khiến anh cảm động: Có cái gì vừa thay đổi mới lạ: Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc cây ổi đã kín nước đầy ăm ắp, bà cụ Tứ lúi húi giẫy cỏ, nàng dâu quét tước, nấu nướng.

Tất cả những cảnh tượng đó thật bình thường nhưng đủ làm cho hắn cảm động vì chưa bao giờ Tràng được trải qua niềm hạnh phúc giản dị như thế. Tràng có sự thay đổi trong suy nghĩ, yêu thương, gắn bó với gia đình; thấy có trách nhiệm phải lo lắng cho vợ con; và ngời lên niềm tin vào tương lai tươi sáng. Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn, hắn thấy mình trưởng thành và cần có trách nhiệm với gia đình của mình.

Như vậy, qua phân tích diễn biến tâm trạng của Chí và Tràng ta thấy được cả Nam Cao và Kim Lân đều rất quan tâm đến đời sống tâm hồn của những người lao động nghèo Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Hai nhà văn đều mô tả chi tiết, chân thực, sinh động diễn biến tâm trạng của mỗi nhân vật ở thời điểm buổi sáng gắn liền với sự thức tỉnh/ đổi thay của mỗi nhân vật thông qua cảm xúc và dòng ý nghĩ.

Khi so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo, người đọc mới cảm nhận hết nỗi đau số phận của người nông dân trong thời đại bấy giờ. Nếu không là một cuộc sống đói khát đến chết trong Vợ nhặt thì kinh khủng hơn đó là những định kiến của xã hội khô khốc và lạnh lùng ấy đã làm biến dạng một nhân cách con người trong Chí Phèo.

Với Tràng, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một người nông dân với những nét phẩm chất, tính cách, trí tuệ, ngôn ngữ tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam. Với Chí Phèo, Nam Cao đã xây dựng được một nhân vật điển hình cho một tầng lớp của xã hội. Đặc biệt, thông qua hai nhân vật này, người đọc cảm nhận được tấm lòng nhân đạo cũng như sự nhìn nhận đa chiều để trân trọng vẻ đẹp con người của hai nhà văn.

Văn mẫu 🌸 Phân Tích Cái Chết Của Chí Phèo 🌸 hay nhất!

Liên Hệ Chí Phèo Và Mị Ý Nghĩa

SCR.VN mách bạn bài văn liên hệ mở rộng bài “Chí Phèo” với nhân vật Mị ý nghĩa nhất, xem ngay bạn nhé!

Nam Cao và Tô Hoài là hai gương mặt nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Bằng tài năng và tấm lòng nhân đạo sâu sắc, hai nhà văn đều dùng ngòi bút của mình hướng đến phản ánh cuộc sống và số phận của những người nông dân nghèo khổ.

Nếu như Nam Cao đi sâu khai thác về bi kịch bị tha hóa của con người thông qua nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên thì Tô Hoài lại tìm đến những người nông dân nghèo khổ, bị chà đạp về thể xác và tinh thần tại vùng núi Tây Bắc, điển hình có thể kể đến là Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.

Cả Nam Cao và Tô Hoài trong tác phẩm của mình không chỉ xây dựng được nội dung tác phẩm sâu sắc mà còn gặp gỡ trong tinh thần nhân đạo sâu sắc. Thông qua nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo) và Mị (Vợ chồng A Phủ), hai nhà văn đã thể hiện tiếng nói cảm thông đối với những người nông dân nghèo khổ, bất hạnh, đồng thời lên án sâu sắc đối với xã hội phong kiến đã chèn ép, bóc lột, chà đạp lên nhân phẩm của những con người lương thiện.

Mị và Chí Phèo là những người có xuất thân nghèo khổ, bị cường quyền chèn ép, chà đạp đến mức tê liệt, đánh mất khả năng phản kháng, phải sống trong cuộc sống tăm tối, đánh mất chính mình. Tuy nhiên, bên trong những con người bất hạnh ấy lại là sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, họ không mãi cam chịu cuộc sống đen tối mà đã vươn lên vượt thoát ra khỏi bóng đen của cường quyền, thức tỉnh để hồi sinh quay trở lại với bản chất lương thiện của mình.

Chí Phèo vốn là một người nông dân lương thiện, chân chất, vì sự ghen tuông của Bá Kiến mà bị đẩy vào tù một cách vô lí, oan uổng. Nhà tù thực dân đã biến Chí Phèo một người lương thiện trở thành một tên lưu manh với vẻ ngoài ngang ngược, hống hách.

Với lí lịch “đen” sau khi ra tù, Chí Phèo khó có thể quay trở về với những công việc lương thiện như trước đây, không ai muốn, cũng không ai dám thuê Chí. Để tiếp tục sống, Chí Phèo đã tìm đến chính kẻ thù của mình, kẻ đã đẩy mình vào con đường tù tội – Bá Kiến. Từ khi chấp nhận làm tay sai cho Bá Kiến cũng là khi Chí Phèo bước vào con đường tội lỗi, một tay Chí Phèo đã gây nên bao tội ác, Chí dần bị tha hóa và trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Cả làng Vũ Đại đều căm ghét, từ chối công nhận quyền làm người của Chí. Những tưởng Chí sẽ mãi trượt dài trên con đường tha hóa, mãi là con quỷ dữ của làng Vũ Đại nhưng bát cháo hành của Thị Nở đã đánh thức phần nhân tính bên trong con người của Chí. Những ước mơ bình dị thời trai trẻ bỗng sống dậy trong Chí, Chí khát khao muốn làm hòa với mọi người, muốn trở về với con đường lương thiện.

Khi biết mình mãi mãi không thể trở về cuộc đời lương thiện được nữa, Chí Phèo thà lựa chọn cái kết bi thảm nhất cho mình chứ không chịu bắt tay với tội ác một lần nữa. Cái chết của Chí Phèo không chỉ lên án xã hội phong kiến thối nát mà còn thể hiện thái độ đồng cảm sâu sắc của Nam Cao đối với số phận bi thảm của người nông dân.

Còn Mị là người con gái xinh đẹp, yêu đời với sức sống thanh xuân căng tràn nhưng buộc trở thành con dâu trừ nợ cho gia đình thống lí. Sống tại gia đình thống lí, Mị phải làm việc quần quật ngày đêm, bị đối xử như con trâu, con ngựa, chà đạp cả về thể xác và tinh thần.

Sống lâu trong cái khổ, Mị từ một cô gái trẻ trung, yêu đời trở thành người đàn bà cam chịu, lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Mị bị tê liệt, đánh mất đi khả năng phản kháng trước thực trạng đau khổ trước mắt. Trong đêm tình mùa xuân, sức sống bên trong Mị đã được đánh thức nhưng sau đó lại bị thực tại tàn nhẫn đè nén để cô trở lại đối với cuộc sống cam chịu thường ngày.

Trong đêm tình mùa xuân sức sống bên trong Mị được đánh thức thì giọt nước mắt của A Phủ đã khiến cho sức sống ấy bùng cháy dữ dội để thôi thúc Mị vùng lên cứu sống A Phủ cũng là giải thoát cho cuộc sống của chính mình.

Qua hai nhân vật Chí Phèo và Mị, hai nhà văn Nam Cao và Tô Hoài đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với những người nông dân nghèo bất hạnh. Sự hồi sinh của Chí Phèo và Mị thể hiện sự trân trọng, niềm tin của hai nhà văn đối với những giá trị nhân phẩm, sức sống tiềm tàng bên trong con người, đồng thời phê phán sâu sắc đối với xã hội đen tối đã đẩy con người đến con đường tha hóa.

Liên Hệ Chí Phèo Và Vợ Chồng A Phủ Hay Nhất

Mẫu bài văn liên hệ mở rộng bài “Chí Phèo” với “Vợ chồng A Phủ” hay nhất ở bên dưới, mời bạn xem ngay:

Tô Hoài và Nam Cao được xem là hai cây bút xuất sắc trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Hai ông có đặc điểm chung là ưa thích viết về những người nông dân chịu thương chịu khó bị áp bức bọc lột.

Nếu như Nam Cao đi sâu khai thác hình ảnh người nông dân ở làng Đại Hoàng – quê hương nhà văn tiêu biểu là nhân vật Chí Phèo. Thì Tô Hoài lại tìm đến những người nông dân chịu thương chịu khó ở vùng núi Tây Bắc xa xôi tiêu biểu là nhân vật Mị. Hai nhân vật khác nhau nhưng đều có điểm chung là sự hồi sinh thức tỉnh sau những ngày tháng dài sống trong tăm tối.

Nam Cao và Tô Hoài được xem là có sự đồng điệu tâm hồn, gặp gỡ về mặt tư tưởng nhân đạo.Khi văn thơ của họ đều là tiếng nói yêu thương cảm thông sâu sắc với số phận con người trong xã hội phong kiến phải chịu áp bức bóc lột đến tha hóa cả bản thân.Tuy nhiên, nhân vật của họ không bị khuất phục trước bóng đen của quyền lực mà ngay cuối đường họ đã được hồi sinh quay trở lại với bản ngã thiện lương.

Trước khi hồi sinh về với ước vọng sống bình thường cả Chí và Mị đều là những người nông dân hiền lành chăm chỉ.

Chí Phèo vốn là một anh nông dân chăm chỉ ở đợ cho nhà Bá Kiến. Vì ham mê nhục dục của bà Ba cùng sự ghen tuông đớn hèn của Bá Kiến đã đẩy chàng thanh niên đó vào tù. Nhà tù thực dân nơi đầy oan trái đã làm tha hóa con người hiền lành của Chí và trả lại một kẻ mất đi cả nhân hình và nhân tính. Trên mặt Chí có biết bao nhiêu là vết sẹo “vằn dọc vằn ngang”, “răng cạo trắng hớn”, “đầu trọc lốc” trông gớm ghiếc.

Về nhân tính hắn được xem là con quỷ của làng Vũ Đại chuyên rạch mặt ăn vạ. Chí đã phải đối mặt với bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời cha mẹ ruồng bỏ hắn, dân làng từ chối hắn.Không một ai đón nhận hắn trở về với xã hội.Hắn bị xã hội chối bỏ quyền làm người và coi như “cục thịt thừa” trong làng.

Mị vốn là một cô gái xinh đẹp tài giỏi được biết bao chàng trai ngưỡng mộ muốn có được nàng.Tuy nhiên, người con gái hương sắc vẹn toàn ấy lại rơi vào tấn bi kịch của cuộc đời khi phải làm dâu gạt nợ cho gia đình nhà Thống Lí Pá Tra. Từ đây, cuộc đời của Mị bước vào chuỗi ngày dài tăm tối.

Mị sống ở nhà Thống Lí lầm lũi như một con rùa trong xó cửa. Ngày ngày chỉ biết quay sợi, thái cỏ ngựa, lên nương…làm quần quật từ sáng đến đêm. Đến con trâu con ngựa còn có lúc được nghỉ ngơi ăn cỏ còn đàn bà con gái nhà này không lúc nào được ngơi tay. Vì thế mà lúc nào, mặt cô cũng buồn rười rượi.Mị sống một cuộc sống không biết ngày mai sống mà như đã chết.

Để lý giải cho sự hồi sinh của hai nhân vật Chí Phèo và Mị cả Nam Cao và Tô Hoài đã xây dựng những tình huống kịch tính thức tỉnh nhân vật có bước chuyển biến về suy nghĩ cũng như hành động.

Ta thấy, ở nhân vật Chí Phèo sau những ngày dài chìm trong men rượu. Đêm hôm đấy Chí đã gặp Thị Nở – người con gái xấu như ma chê quỷ hờn của nàng Vũ Đại. Sau cái đêm tình trong vườn chuối đó đã thực sự hồi sinh con người Chí. Hắn lại nghe thấy những tiếng động thân thương của cuộc sống hàng hàng. Hắn cũng nhớ ra cũng đã có thời mình mơ ước được sống một cuộc sống bình dị. Vợ chồng bảo nhau làm ăn, nuôi lợn, chăn gà xây dựng gia đình hạnh phúc.

Một ước mơ về cuộc sống bình thường như bao người khác nay lại được khơi gợi lên từ khi gặp Thị Nở. Chí lại muốn làm người lương thiện. Hắn đến tìm Bá Kiến và kết thúc cuộc đời đầy đau khổ của mình bằng câu hỏi “Ai cho tao lương thiện”. Mặc dù, Chí Phèo đã chết nhưng trước khi chết hắn đã tìm lại được thiện lương trong con người.

Đối với nhân vật Mị sự thức tỉnh của Mị nằm ở hoàn cảnh Mị trong cái đêm tình mùa xuân ấy và khi nhìn thấy những giọt nước mắt lăn dài trên gò má của A Phủ. Lòng ham sống mãnh liệt được đánh thức trong Mị. Mị nghe thấy tiếng áo gọi bạn tình và cô lại muốn mặc váy, muốn được sửa soạn đi chơi hội như ngày xưa. Những hành động đấy cho thấy chứng tỏ Mị đã đã thức tỉnh.

Sức sống tiềm tàng trong con người đã được đánh thức nhờ tiếng sáo. Rồi đến khi cô chứng kiến A Phủ bị cha con nhà Thống Lí hành hạ trói ở cây cột ngoài sân. Cô biết nếu không chạy khỏi đây thì cũng chết dần chết mòn như những người con dâu sống trong nhà Thống Lí trước đây. Nên cô đã cởi trói cho A Phủ và cùng anh trốn đi tìm chân trời mới.

Cả Nam Cao và Tô Hoài đều xót thương và đồng cảm cho nhân vật của mình.Sự hồi sinh về nhân tính cũng như khát vọng sống mãnh liệt của Chí Phèo và Mị là tiếng nói phê phán gay gắt xã hội phong kiến thối nát. Nơi mà con người ta đã dùng quyền lực để áp bức đẩy những người nông dân hiền lành trở nên bị tha hóa mất hết ý thức sống.

Hai truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Chí Phèo của Nam Cao đã cho ta thấy mặc dù viết về cuộc đời của hai nhân vật có số phận khác nhau. Nhưng điểm chung giữa nhân vật Chí Phèo và Mị là đều có một cuộc đời bất hạnh. Trải qua nhiều đau khổ mất mát họ mới tìm lại được con người trước đây của mình.Sự hồi sinh và thức tỉnh của họ chính là tiếng nói cảm thương của tác giả. Và thể hiện được giá trị nhân văn sâu sắc trong hai tác phẩm.

Bài văn hay 🌸 Phân Tích Chí Phèo Sau Khi Tỉnh Rượu 🌸 bạn nên biết!

Liên Hệ Chí Phèo Và Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt Sáng Tạo

Nếu bạn đang gặp khó khăn khi viết bài văn liên hệ mở rộng bài “Chí Phèo” với “Hồn Trương Ba da hàng thịt” thì hãy dành thời gian tham khảo mẫu dưới đây:

Lưu Quang Vũ được xem là nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại với gần năm mươi vở kịch lớn nhỏ, trong đó không thể không nói đến vở “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Kịch của ông phản ánh vấn đề của thời đại, đồng thời mang triết lí sâu sắc.

Còn Nam Cao là nhà văn lớn, có những đóng góp tích cực cho văn học Việt Nam, nếu chọn ra tác giả văn xuôi nổi tiếng thế kỉ XX thì không thể thiếu ông – nhà văn tri thức viết về người nông dân khốn cùng, cực khổ được thể hiện qua tác phẩm “Chí Phèo”. Tuy hai tác phẩm không ra đời cùng hoàn cảnh xã hội nhưng vẫn đề cập đến bi kịch con người bị tha hoá.

Người ta cho rằng bi kịch là tâm trạng đau khổ về tinh thần khi con người đứng trước những mâu thuẫn không thể hoá giải, còn tha hoá theo một cách dễ hiểu đó là đánh mất giá trị, bản chất vốn có. Do những nguyên nhân khác nhau nhưng Trương Ba và Chí Phèo đều rơi vào bi kịch tha hoá.

Trương Ba – người nông dân có đạo đức, hiền lành, tâm hồn trong sáng, yêu cái đẹp không may phải lìa đời và sống lại trong thân xác người hàng thịt. Từ đó trở nên thô lỗ, cộc cằn, lượm thượm. Ông gặp nhiều rắc rối vì không làm chủ được bản thân. Nhận ra mình không thể sống một cách bị tha hoá nên quyết định chết để trả xác cho hàng thịt.Trương Ba được toại nguyện vì không cần mượn xác của ai để ở bên vợ con, người thân nữa. “Vườn cây rung rinh ánh sáng” nơi ấy từng là không gian quen thuộc với con người Trương Ba, nơi ông chăm sóc cho từng mầm sống.

“Ở một góc nhà đó hiện lên hình ảnh Cu Tị đang nằm ôm chầm lấy mẹ, chị Lụa quấn quít vuốt ve con…”. Sự ra đi của Trương Ba mang lại sự sống mới cho Cu Tị, trong giây phút mong manh nào đó ông đã có ý định sẽ sống trong thân xác Cu Tị, nhưng rồi quyết định của ông thật thiêng liêng.

“Tôi ở đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta. Trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, con dao bà giẫy cỏ, cái cơi bà đựng trầu,..không phải mượn thân xác ai cả, tôi vẫn ở đây trong vườn cây nhà ta, những điều tốt lành của cuộc đời, mỗi trái cây cái gái nâng niu”.

Lời thủ thỉ của Trương Ba nói lên chân lí cuộc đời rằng sống không chỉ là tồn tại sinh học, sống là hoà hợp giữa tâm hồn và thể xác. Giờ đây tuy Trương Ba không thể tự tay chăm sóc vườn cây, không thể tâm tình trò chuyện với người thân, nhưng ông vẫn hạnh phúc khi chết, vì tâm hồn là bất diệt, ông chỉ là ông, một Trương Ba trọn vẹn. Trái tim nhân hậu của Trương Ba gieo lên mầm non cho con cháu, cái gái nâng niu từng quả na ông trồng.

Nó lấy hạt vùi xuống đất và nói: “Cây na này…mãi mãi..”. Nếu lúc trước cái gái không chấp nhanh ông trong thân xác của hàng thịt thì giờ đây khi Trương Ba chết nó chấp nhận những gì Trương Ba để lại. Một lần nữa tác giả nhấn mạnh chỉ khi được sống là chính mình cuộc sống mới có ý nghĩa.

Với tình huống kịch phát triển tự nhiên hợp lí, mâu thuẫn giữa hồn và xác được đẩy tới đỉnh cao, cần phải giải quyết. Sự kết hợp giữa diễn biến hành động bên ngoài và bên trong thể hiện cuộc đối thoại giữa hồn và xác. Tác giả đã đưa ngôn ngữ giàu chất triết lí từ lời nhân vật với những câu, những đoạn là những châm ngôn mang tính triết lí, có ý nghĩa như chân lí: “Không thể bên một đằng, bên một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”, “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác”.

Khác với Trương Ba, Chí Phèo không hề nhận ra rằng mình bị tha hoá. Qua cách dẫn dắt của người kể ta thấy rằng Chí Phèo trước kia vốn hiền lành, tự trọng. Mơ về cuộc sống bằng chính hai bàn tay lao động với một gia đình nho nhỏ, sau khi làm canh điền và bị bà ba lợi dụng, Bá Kiến đẩy vào tù bảy, tám năm thì thay đổi hẳn:

“Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng trơn,…Cái mặt hắn cũng trở nên dị biệt…”. Cứ tưởng sau khi ra tù cuộc sống lại bình thường, ấm áp với bát cháo hành bốc khói, với người đàn bà quê mùa lương thiện, nhưng vừa tỉnh lại sau cơn say rượu hắn nhận thêm sự thật đau lòng khác, đó là bị cự tuyệt khỏi tình yêu. Nỗi đau ấy dẫn dắt hắn đến nhà Bá Kiến: “Tao muốn làm người lương thiện” Chí Phèo la to dõng dạc, nhưng cho dù trở nên lương thiện thế nào thì người dân làng Vũ Đại vẫn chỉ nhìn hắn với hình ảnh một con quỷ dữ. Điều đó không thể thay đổi được nữa. Hắn kết liễu Bá Kiến và tự kết liễu đời mình. Hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch trong vũng máu tươi là hình ảnh người nông dân bị tha hoá đến cùng cực.

Cái tài của Nam Cao là khi chuyển từ hình ảnh con người hung tợn, giận dữ sáng cái chết thương tâm, điềm tĩnh mà không chút gượng ép: “Đột nhiên chị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…”

Ở cuối bài Thị Nở chợt nghĩ đến cái lò gạch – nơi Chí được sinh ra, thì giờ đây khi Chí chết điều đó lại tiếp diễn. Tác giả sử dụng kết cấu vòng tròn nói lên cuộc sống của người nông dân trước Cách Mạng Tháng Tám khốn cùng, không lối thoát.

Qua cả hai tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” và “Chí Phèo” ta thấy Lưu Quang Vũ hướng đến cái kết đẹp, có hậu, pha chút màu truyện cổ tích. Trái lại Nam Cao vào thời kì trước Cách Mạng Tháng Tám nên chưa tìm được lối thoát cho nhân vật, thể hiện một cái kết buồn, không có hậu.

Liên Hệ Chí Phèo Và Lão Hạc Độc Đáo

Các bạn học sinh đang tìm kiếm bài văn liên hệ mở rộng bài “Chí Phèo” với “Lão Hạc” độc đáo thì đừng bỏ qua bài viết này nhé!

Nam Cao là nhà văn tiêu biểu với những sáng tác về người nông dân, tác phẩm Chí phèo được coi là kiệt tác, khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của ông. Nhà văn đã dựng lên bức tranh về cuộc sống của những người nông dân dưới sự áp bức của địa chủ cường hào, đã đẩy họ con đường tha hóa và xuống tận cùng của xã hội.

Truyện Chí Phèo đã tái hiện lại hình ảnh nông thôn Việt Nam, của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Xã hội này được đặc trưng, một bên bởi những bộ mặt như Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo, Bát Tùng và những bè đảng xung quanh chúng, sống phè phỡn, gian ác, bạo ngược, vừa “du lại với nhau để bóc lột con em, nhưng ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau”; một bên là đông đảo những người dân quê thấp cổ bé miệng, nơm nớp lo sợ, nhẫn nhục, quanh năm đầu tắt mặt tối vẫn không đủ ăn.

Tầng lớp những người như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức họp thành một nhóm riêng. Họ là những dân thường, những người lao động nghèo, nhưng đã lưu manh hóa, bị mua chuộc và trở thành tay sai của bọn cường hào, lí dịch và gây nên không biết bao nhiêu tai vạ cho những người lương thiện.

Thông qua nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã trực tiếp nêu lên vấn đề con người bị tha hóa, bị vong thân, mất nhân tính, nhân cách vì bị áp bức bóc lột, vì đói khổ, cùng cực. Tác giả đã mổ xẻ vấn đề cuộc sống và số phận mỗi con người, ý thức về quyền sống, quyền làm người, ý thức về nhân cách, nhân phẩm ngay ở những con người bị cộng đồng khinh bỉ, hắt hủi, gạt ra bên lề xã hội, ngay ở một “thằng cùng hơn cả dân cùng”, tưởng như đã bị hủy hoại hoàn toàn cả nhân hình và nhân tính.

Bên cạnh đó, truyện Chí Phèo còn giúp người đọc có cơ sở để chia sẻ với những dằn vặt, đau khổ của con người khi không được làm người, chỉ mong ước được sống bình thường, “được làm người lương thiện” như mọi người khác mà không được. Sự kết hợp hai mặt xã hội và nhân bản trong chủ đề mà truyện ngắn Chí Phèo đặt ra càng làm cho tác phẩm này có giá trị văn học sâu hơn, có sức ngân vang lớn hơn.

Câu chuyện đã tạo nên một ngã rẽ cho cuộc đời Chí từ khi gặp thị nở. Trong những ngày được hạnh phúc với Thị Nở, Chí cũng biết vui, biết mơ ước, biết buồn, biết ăn năn. Bị Thị Nở từ chối, đối với Chí, là một đòn đau không chịu đựng nổi. Từ kinh nghiệm sống, từ tiềm thức vô thức, Chí cảm nhận tình trạng bé tắc vô vọng của mình có nguyên nhân sâu xa hơn tội ác của Bá Kiến. Giết Bá Kiến cũng không có được sự giải thoát. Và hắn đã tự sát.

Dưới ngòi bút của Nam Cao Chí Phèo không chỉ là hình ảnh những tên cố cùng liều thân hoặc là điển hình, của những người nông dân lưu manh hóa vì sự áp bức bóc lột của bọn thực dân phong kiến, mà còn thể hiện bi kịch của con người bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người, quyền được hưởng hạnh phúc.

Nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên cũng được Nam Cao khắc họa với một số phận bi thảm. Cuộc đời Lão Hạc đã nghèo lại còn nghèo hơn khi vợ mất sớm, một mình nuôi con, đến khi trưởng thành anh con trai không lấy được vợ vì nhà nghèo quá nên phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su.

Từ ngày đó, lão mòn mỏi mong con về, đơn độc, chỉ có con chó bầu bạn cùng. Lão sống qua ngày trong cái đói nghèo và cô độc. Lão có tiền bòn vườn, nhưng lão nhất định để dành không tiêu để khi con trai về, lão nhẩm tính thêm vào cho con cưới vợ và làm kế sinh nhai. Rồi cuối cùng, lão chọn cái chết để bảo toàn số tiền ấy cho đứa con trai đi đồn điền không biết bao giờ mới về!

Lão Hạc cũng vì lâm vào bước đường cùng nên chọn cách kết liễu cuộc đời mình như Chí Phèo, thế nhưng, Lão hơn Chí ở chỗ dù nghèo, dù sống trong xã hội phong kiến tàn nhẫn nhưng lão vẫn giữ cho mình cốt cách trong sạch, không bị tha hóa.

Xây dựng lên những nhân vật tiêu biểu, nhà văn đã dùng những ngôn ngữ của đời sống, ngôn ngữ được quần chúng nhân dân sử dụng hằng ngày, rất phong phú, sinh động, giàu hình ảnh. Có thể nói hơn bất kì một nhà văn nào khác cùng thời, ngôn ngữ Nam Cao cho đến bây giờ vẫn tỏ ra không cũ với thời gian, cả về mặt từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp.

Phải có sự cảm thông sâu sắc với thân phận những người nông dân Nam Cao mới có mới có một tác phẩm giá trị như vậy. Ông đã khắc họa lên bức tranh xã hội với những bọn địa chủ cường hào gian ác, những con người nông dân tội nghiệp, bị chèn ép, bóc lột, không để cho họ một con đường sống.

Mẫu bài viết 🌸 Phân Tích Tiếng Chửi Của Chí Phèo 🌸 sáng tạo!

Dẫn Chứng Liên Hệ Chí Phèo Chọn Lọc

Cuối cùng là dẫn chứng liên hệ mở rộng bài “Chí Phèo” chọn lọc, bạn xem qua nhé!

Tác giả Nam Cao sinh ra và lớn lên tại làng Đại Hoàng, một vùng quê nghèo khổ có nạn cường hào ức hiếp đời sống nhân dân thậm tệ. Từ đó, làm nên vẻ đẹp tâm hồn giàu yêu thương luôn trăn trở day dứt về số phận và cuộc đời của con người, hình thành nét phong cách nghệ thuật độc đáo trong các sáng tác của tác gia. Có thể nói, truyện ngắn “Chí Phèo” mang nét đặc trưng của một phong cách cao đẹp của Nam Cao, thể hiện đầy đủ nhất bức tranh hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.

Tác phẩm “Chí Phèo” được ra đời khi trào lưu phong trào văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ nhất, dù được Nam Cao khai thác chủ đề rất quen thuộc: người nông dân, vậy mà cách thể hiện của truyện ngắn lại hoàn toàn so khác với các tác phẩm cùng thời. Không còn là một chị Dậu, anh Pha, một lão Hạc khốn đốn vì tiền sưu, thuế nặng; Chí Phèo mang nỗi đau của một chàng thanh niên nông thôn có ước bị định kiến ép trở thành một kẻ tha hóa. Cái khốn đốn đến tận cùng trong số phận của Chí Phèo chính là nguyên nhân khiến tác phẩm khẳng định vị trí của mình trong phong trào văn học hiện thực phê phán.

Xuất thân của Chí Phèo đem theo sự u uất của cả một cuộc đời hắn. Bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ bên chiếc váy đụp, được anh thả ống lươn nhặt về cho bà góa mù, bà góa mù đem cho bác phó cối, để sau này bác phó cối mất đi Chí đi ở hết nhà này đến nhà khác.

Cậu thanh niên mang tên Chí ấy giờ đây đã có nơi ăn chốn ở nhờ làm việc cho Bá Kiến, hắn mang theo mình ước mơ không thể giản dị hơn, rằng sẽ sống một cuộc sống bình yên bên vợ mua mấy con lợn mà nuôi có một thửa ruộng để trồng trọt, sống như một người nông dân. Chí, chàng trai tuổi hai mươi giàu ước mơ và khát vọng. Nhưng với xã hội lúc bấy giờ, lại không cho Chí được thực hiện ước mơ đó.

Bá Kiến, tên cường hào có giọng nói rất sang kia đã đẩy Chí bước chân vào con đường tha hóa bằng việc cho Chí vào tù,chỉ vì lão ghen với Chí. Chí bị chà đạp về đời sống tinh thần, bị Bá Kiến tước đi giấc mơ bình dị của một con người bình thường mà đỉnh cao cho hành vi đó là sự kiện Chí đi tù. Sau bảy, tám năm trở về Chí đã mang theo một hình hài khác, một con người khác với tên gọi Chí Phèo.

Bi thương bắt đầu ngay khoảnh khắc Chí bước vào làng. Người ta thấy hắn khác hẳn, cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng, hai mắt gườm gườm lại thêm những nét chạm trổ rồng phượng trên ngực. Chí trở về, với những thay đổi ấy là kết quả, là bằng chứng sống cho tội ác ghê tởm của tù khổ sai, của chế độ và hành vi tàn nhẫn của Bá Kiến.

Chưa dừng lại ở đó, Bá Kiến với tài trị người một lần nữa đẩy con người nửa ta nửa thực dân kia chính thức tha hóa về tâm hồn, trở thành tay sai đắc lực của lão, thay lão làm vô số việc xấu xa. Hắn, rạch mặt sẽ có rượu, cứ rạch mặt sẽ có đồ ăn dần là những vết thẹo làm gương mặt hắn biến dạng, người ta chẳng còn nhớ nổi dáng vẻ trước đây của hắn, thay vì thương cảm dân làng lại thấy sợ hắn chẳng khác một con vật lạ.

Cuộc sống đầy rẫy lỗi lầm của Chí Phèo kể từ khi có sự xuất hiện của Thị Nở, người đàn bà ngơ ngơ, có tật bạ đâu ngủ đó, người mà cả làng Vũ Đại tránh như tránh một con vậy rất tởm. Thị Nở xấu đến mức “ma chê quỷ hờn”. Cuộc gặp gỡ giữa đôi lứa xứng đôi mang đến phép màu cho cuộc đời của Chí. Sau đêm tình mùa ở bụi chuối, bát cháo được Thị mang đến chất chứa tình người, Chí Phèo chỉ thấy nghẹn ngào đến khóe mi ươn ướt. Lần đầu tiên trong cuộc đời hắn được bàn tay người phụ nữ chăm sóc, mà cao hơn nữa là hắn được cho ăn không cần phải rạch mặt ăn vạ.

Bát cháo hành của Nở mang tính biểu tượng của tình yêu “đẹp” và như một bàn đạp khiến Chí mong mỏi thành một con người lương thiện. Hắn nhớ lại ước mơ thuở hai mươi, khát vọng thực hiện nó khi đã đến đến cái tuổi bên kia dốc của cuộc đời, lắng nghe những âm thanh buổi sáng yên bình trước đây hắn chưa bao giờ nghe thấy.

Nhưng cuối cùng Thị vẫn rời xa hắn, hắn sửng sốt, níu lấy tay Thị mong muốn vớt vát lại tình yêu thế nhưng tất cả đều đã kết thúc, hắn nghĩ mọi chuyện như ngày hôm nay là do lỗi của bà cô con Đĩ Nở. Hắn lại tìm đến rượu nhưng càng uống càng tỉnh ra, chỉ hít thấy hương cháo hành. Rồi rốt cuộc hắn đã biết, hắn đã thấu cái kẻ khiến hắn thành ra ngày hôm nay không ai khác chính là Bá Kiến.

Chí Phèo đến nhà Bá Kiến và kết thúc chuỗi ngày không ước mơ, triền miên trong những cơn say. “Tao muốn làm người lương thiện” câu nói gào lên trong ruột gan Chí, khát vọng vượt khỏi tâm trí, thúc giục hắn đến đây. Hắn chết, nhưng tâm hồn luôn được sống mãi chẳng phải sẽ tốt hơn, đó là cái chết đau đớn và đầy ám ảnh, Chí Phèo phải chăng muốn nói những lời xám hối muộn màng, lời ăn năn của một con “quỷ dữ” và lời khao khát của người nông dân lương thiện đã tìm lại được ý nghĩa của cuộc đời.

Truyện ngắn “Chí Phèo” kết thúc nhưng vẫn còn đó những ám ảnh về một chế độ nửa thực dân nửa phong kiến tàn nhẫn. Tác phẩm đã lên án mạnh mẽ, phê phán chính xác một xã hội đầy vô cảm. Chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố cũng là nạn nhân của chế độ mục rữa ấy.

Chị Dậu phải bán đi tất cả: bán con, bán chó, rồi bán sữa đi ở vú… Người nông dân còn có gì nữa để mà bán! Ấy thế mà Chí Phèo vẫn tìm ra một tài sản để bán, cái tài sản cuối cùng mà chị Dậu chưa phải bán: ấy là nhân tính, là hồn người. Mất tài sản này thì con người thành con quỷ. Chị Dậu dù khổ cực thế nào, nhưng vẫn còn được là người trong khi Chí Phèo phải trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại…

Ngô Tất Tố qua hình tượng chị Dậu, chẳng những thông cảm sâu sắc với mọi nỗi khổ cực của người nông dân trong xã hội cũ, mà còn tỏ thái độ kính trọng thật sự những con người thuộc tầng lớp dưới đáy của xã hội ấy nữa.

Tuy nhiên, chị Dậu dù sao cũng là một con người bình thường, một người đàn bà lành mạnh của đời sống lương thiện. Còn Chí Phèo của Nam Cao thì đã bị nhà tù của chủ nghĩa thực dân và thủ đoạn độc ác của Bá Kiến biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vậy mà Nam Cao vẫn tin rằng dưới đáy sâu của tâm hồn tưởng như hoàn toàn đơn độc của Chí, vẫn tồn tại bản chất lương thiện của người nông dân lao động mà không một sức mạnh nào, dù ghê tởm đến đâu cũng không thể tiêu diệt được.

Với khả năng sáng tạo văn học điêu luyện kết hợp lối viết chân thực đan xen những biện pháp tu từ độc đáo, Nam Cao đã để lại một tuyệt phẩm cho văn học nước nhà. Tác phẩm kết thúc trong nỗi rưng rưng của người đọc, có một tình thương nỗi xót xa lan thấm trong tâm trí của người đọc, còn lại đó cả một nỗi bâng khuâng cho số phận cuộc đời người dân vô tội trước năm 1945, mang cả giá trị nhân sinh sâu sắc vừa có sức mạnh tố cáo.

Đọc thêm 🌸 Liên Hệ Nói Với Con 🌸 ý nghĩa!

Viết một bình luận