Phân Tích Việt Bắc Những Đường Việt Bắc Của Ta ❤️️22+ Mẫu ✅ Tuyển Tập Bài Viết Nghị Luận Văn Học Hay Và Đặc Sắc Nhất Được Chọn Lọc Tại SCR.VN.
Dàn Ý Phân Tích Đoạn Thơ Việt Bắc Những Đường Việt Bắc Của Ta
Lập dàn ý phân tích đoạn thơ Việt Bắc những đường Việt Bắc của ta sẽ giúp các em học sinh nắm được hệ thống những luận điểm chính để triển khai bài viết, tham khảo gợi ý sau đây:
1.Mở bài phân tích Việt Bắc đoạn thơ “Những đường Việt Bắc của ta”:
- Giới thiệu tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc
- Giới thiệu nội dung cần phân tích – đoạn thơ “Những đường Việt Bắc của ta” trong bài Việt Bắc.
2.Thân bài phân tích Việt Bắc đoạn thơ “Những đường Việt Bắc của ta”:
*Phân tích 12 câu thơ trên thành 2 luận điểm:
- Luận điểm 1: 8 câu đầu chính là khí thế dũng mãnh của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Nam
- Luận điểm 2: 4 câu còn lại chính là khí thế, niềm vui chiến thắng tại các chiến trường khác nhau.
1.Khí thế dũng mãnh của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Nam
-2 câu đầu: Mở ra một cảnh tượng sôi động của Việt Bắc trong những đêm hành quân vào chiến dịch:
- “Những đường Việt Bắc”: không gian vô cùng rộng lớn.
- Điệp từ “đêm đêm” “thời gian liên tục tiếp nối.
- So sánh “như là đất nung” + từ láy “rầm rập” ” Khí thế hào hùng làm rung đất chuyển trời.
- Sự lớn mạnh của quân đội ta về lực lượng, khí thế.
-6 câu tiếp: Sự phối hợp các lực lượng chiến đấu:
+Đoàn quân:
- Từ láy: “ điệp điệp trùng trùng” ” những đoàn quân tiếp nhau bước đi như những đợt sóng trào kéo dài vô tận.
- Hình ảnh “ánh sao đầu súng” là một tứ thơ đẹp gợi nhiều liên tưởng:
- Nghệ thuật nhân hóa: ánh sao theo chân đoàn quân, treo lơ lửng trên đầu súng, soi sáng khắp các ngả đường hành quân _thiên nhiên đã thành người bạn đồng hành cùng chiến sĩ.
- Ần dụ: ánh sao _lí tưởng cách mạng luôn soi sáng dẫn đường, đến tương lai tươi sáng _niềm tin tưởng lạc quan đầy khí thế.
+Đoàn dân công:
- Những bó đuốc đỏ rực soi đường, làm sáng bừng lên hình ảnh những đoàn quân dân công tiếp lương, tải đạn với đủ cả: già, trẻ, gái, trai… họ đến từ những miền quê với đủ mọi phương tiện chuyên chở: xe đạp thồ, gùi, cáng…quyết tâm kiên cường vượt qua khó khăn nguy hiểm để bảo đàm vũ khí, thuốc men, lương thực…cho tiến tuyến.
- Cách nói cường điệu “bước…bay”: vừa diễn tả lực lượng đông đảo vừa diễn tả một sức mạnh hùng hậu phục vụ chiến trường. Cuộc chiến đấu cảu ta là đấu tranh nhân dân, đã phát huy sức mạnh toàn dân.
- Hình ảnh thơ thật đẹp “ muôn tàn lửa bay”, “đỏ đuốc” _ xua tan những lạnh lẽo, tăm tối nơi rừng núi.
- Từ láy” điệp điệp” “trùng trùng” + từ “nát đá” ” góp phần tạo nên âm điệu hùng tráng mạnh mẽ.
+Đoàn ô tô quân sự:
- Hình ảnh “ đèn pha bật sáng” ” ánh sáng rực rỡ xuyên thủng đêm dày tăm tối.
- Hình ảnh ẩn dụ: “nghìn đêm” Quá khứ nô lệ. “sương dày”: những khó khăn vất vả, thiếu thốn trong hiện tại.
- So sánh: “Như ngày mai lên” “niềm tin tưởng, lạc quan _hình ảnh thơ mang ý nghĩa biểu trưng cho tương lai tươi sáng của đất nước.
- Nhịp điệu dồn dập, mạnh mẽ, gấp gáp. Âm hưởng hào hùng, sôi nổi nào nức; hình ảnh thơ hoành tráng, mỹ lệ.
- Đoạn thơ tràn ngập ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha…, ánh sáng của niềm tin tưởng, niềm vui tràn ngập. Tất cả tạo thành khúc hùng ca chiến thắng. Việt Bắc không còn là của mình hay là cảu riêng ta mà là của ta – của chúng ta, của tất cả mọi người Việt Nam kháng chiến.
2.Niềm vui khi tin chiến thắng cũa mọi miền đất nước tiếp nối báo về:
- Điệp từ ”vui” như tiếng reo mừng chiến thắng, cảm xúc náo nức, vui sướng, tự hào khi tin vui chiến thắng dồn dập đổ về từ khắp mọi miền đất nước.
- Liệt kê những địa danh kết hợp từ “trăm miền” mở ra không gian rộng lớn của chiến thắng từ miền núi đến đồng bằng, từ bắc tới nam.
- Nhịp điệu thơ dồn dập, tươi vui, náo nức cho thấy tốc độ thần kỳ, nhanh chóng của những chiến thắng.
- Những từ: “vui về”, “vui lên”, ‘vui từ” đã đặt Việt Bắc làm tâm điểm của mọi niềm vui.
- Giọng thơ say mê, náo nức tràn ngập niềm vui sướng trong lòng hàng triệu con người từ bắc chí nam.
3.Kết bài phân tích Việt Bắc đoạn thơ “Những đường Việt Bắc của ta”:
- Khái quát lại ý nghĩa của đoạn thơ.
- Nêu cảm nhận của bản thân.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Sơ Đồ Tư Duy Việt Bắc, Bức Tranh Tứ Bình 🍀 18 Mẫu Ngắn Hay
Phân Tích Việt Bắc Những Đường Việt Bắc Của Ta Đêm Đêm Rầm Rập Như Là Đất Rung – Mẫu 1
Bài văn mẫu phân tích Việt Bắc những đường Việt Bắc của ta đêm đêm rầm rập như là đất rung dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý làm bài cụ thể nhất.
Tố Hữu là lá cờ đầu trong thơ ca Cách mạng. Sự nghiệp của ông đồ sộ với một khối lượng lớn các tác phẩm cổ vũ, ca ngợi cách mạng và kháng chiến ở Việt Nam.
Nổi bật trong đó là tác phẩm Việt Bắc, được ông viết khi Trung ương Đảng và Chính Phủ quyết định rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử và hiệp định Giơnevơ được ký kết. Không chỉ miêu tả giây phút chia li đầy lưu luyến, bịn rịn của người cách mạng về xuôi và con người chiến khu, qua Việt Bắc, Tố Hữu còn tái hiện sống động khung cảnh ra trận tràn ngập khí thế và rạng ngời niềm vui chiến thắng của quân dân Việt Nam trong những ngày tháng kháng chiến.
Khung cảnh ra trận được tái hiện qua 12 câu thơ trong bài. Chỉ với mười hai câu thơ ngắn gọn, Tố Hữu đã miêu tả không chỉ khí thế dũng mãnh của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà còn gợi ra không khí hân hoan khi giành chiến thắng vang dội khắp mọi chiến trường.
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Đây là đoạn thơ miêu tả sự hào hùng, mạnh mẽ của quân và dân ta trong giai đoạn ba của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Người đọc được chiêm ngưỡng cả không gian núi rừng Việt Bắc rộng lớn với những đoàn quân cách mạng. Đoạn thơ như một khúc sử thi rộn rã, dồn dập, mạnh mẽ.
Mở đầu khung cảnh ra trận của quân dân ta là hình ảnh của chiến khu Việt Bắc trong mùa chiến dịch với hàng ngàn người lính, dồn dập những bước chân đi, tiếng xe của đoàn quân ra trận:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Khí thế bừng bừng xông trận của quân dân ta đã được Tố Hữu thu gọn vào trong tám câu thơ. Những từ láy tượng hình, tượng thanh như “rầm rập”, “điệp điệp trùng trùng” đã miêu tả sự hồ hởi, sự tự tin chiến thắng cũng như sức mạnh như lũ của quân và dân ta. Thêm vào đó, những hình ảnh so sánh ” đêm đêm rầm rập như là đất rung” đã diễn tả quy mô lớn mạnh của những trận đánh sắp tới cũng như sự hào hùng, âm vang của cuộc kháng chiến của dân tộc.
Khung cảnh ra trận bừng bừng khí thế, mạnh mẽ, mãnh liệt. Tố Hữu đã miêu tả rất sinh động, rất chân thực hình ảnh của những người lính cụ Hồ trên chiến khu Việt Bắc khi họ hành quân chuẩn bị xung trận. Đó là khí thế của người lính can trường, không một chút sợ hãi. Đoàn quân của chúng ta đi như nối dài vô tận “điệp điệp trùng trùng” mãi không dứt, như trải dài khắp núi rừng Việt Bắc với một sức mạnh và tinh thần to lớn không gì có thể cản nổi.
Thêm vào đó, hình ảnh hoán dụ “ánh sao đầu súng” vừa hiện thực lại vừa có một chút gì đó thơ mộng. “Ánh sao” đó có thể là ánh sao của bầu trời, nhưng cũng có thể là ánh sao của lý tưởng cách mạng kết hợp cùng với đầu súng, hình ảnh lãng mạn kết hợp với hiện thực, thể hiện một sức mạnh hiên ngang, một tinh thần bất khuất. Nhưng đây cũng có thể là lời để chỉ những người dân công hỏa tuyến cũng những lực lượng khác đang kề vai nhau để chuẩn bị chiến đấu mà hình ảnh này ta đã từng bắt gặp trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
[…]
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Những người lính sát bên những người dân công, cùng nhau tạo thành một đoàn quân mạnh mẽ, một làn sóng mãnh liệt không gì có thể vượt qua. Điều đó thể hiện sức mạnh đoàn kết một lòng của dân tộc ta.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm ấy, ta đã phải hành quân trong đêm, vận chuyển vũ khí đạn dược trong đêm, lấy đêm làm ngày để chuẩn bị chiến đấu. Bởi vậy, bên cạnh những người lính còn là những người dân công, những con người hết lòng vì đất nước, hăng hái như một người lính thực thụ.
Nhà thơ đã sử dụng những từ chỉ số lượng lớn như “từng đoàn”, “muôn” để khẳng định lực lượng đông đảo của đoàn dân công – những con người vốn chỉ là những người nông dân quen chân lấm tay bùn. Thế nhưng, với tình yêu nước và tinh thần đoàn kết mạnh mẽ, họ đã kết thành từng đoàn lớn với những bó đuốc sẵn sàng chi viện cho cuộc tổng tiến công lớn của toàn dân tộc.
Đảo ngữ “đỏ đuốc” được dùng để nhấn mạnh hình ảnh lửa đỏ bay lập lòe trong đêm tối, biểu trưng cho lòng quyết tâm, nhiệt huyết quyết “dời núi lấp sông” của dân tộc ta. Đặc biệt, Tố Hữu còn dùng biện pháp cường điệu để nói sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết dân tộc, đó là hình ảnh “bước chân nát đá”.
Với nhiệt huyết và lòng quyết tâm, với một số lượng đông đảo, mỗi bước chân của quân dân ta là một bước chân vững chãi, phá tan cả đá núi, đạp lên mọi chông gai để tiến lên chiến thắng vẹn toàn. Tố Hữu đã mượn ý tứ từ một câu ca dao quen thuộc của cha ông “Trông cho trời cứng đá mềm/ Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng” để sáng tạo nên một câu thơ đặc biệt. Chính điều này đã mang tới sự mới lạ mà cũng rất quen thuộc của câu thơ ngợi ca sức mạnh và ý chí của con người Việt Nam ta.
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”
Ra trận, hành quân giữa đêm khuya không thể thiếu hình ảnh của những chiếc xe tăng, xe cơ giới, xe tải hùng dũng nối nhau ra trận:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày” có lẽ là hình ảnh ẩn dụ cho những ngày tháng lầm than, đen tối của dân tộc ta khi phải chịu ách thống trị của bọn thực dân. Những ngày tháng đó như đêm trường tăm tối với lớp sương mù dày đặc. Nhưng giờ đây, ánh sáng Cách mạng đã chiếu rọi như “đèn pha bật sáng”, dẫn dắt dân tộc Việt Nam ta qua khỏi màn đêm tối tăm đó.
Hình ảnh so sánh “như ngày mai lên” cũng là hình ảnh so sánh hết sức tinh tế. Bởi đó là tinh thần lạc quan, là niềm tin chiến thắng, là hi vọng về một ngày mai tươi sáng, độc lập tự do của dân tộc ta. Đó là thành quả xứng đáng cho lòng quyết tâm, cho sự đoàn kết đồng lòng của cả dân tộc.
Cuối cùng, sau tất cả những khó khăn, vất vả, niềm tin tất thắng của dân tộc ta đã được khẳng định bằng chiến thắng vang dội khắp mọi miền Tổ quốc:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Các địa danh của nước ta được liệt kê liên tiếp như để khẳng định những chiến công, khẳng định niềm vui, tự hào của đất nước, con người Việt Nam. Điệp từ “vui” được lặp lại liên tiếp cùng các giới từ như “lên, về, từ” gợi lên niềm vui sướng, hân hoan với những chiến thắng vang dội, dồn dập của dân tộc ta.
Với thể thơ lục bát truyền thống cùng với nhịp thơ dồn dập, những hình ảnh thơ vừa mang nét hiện thực lại vừa mang nét phóng đại, đã gợi tả lên khung cảnh ra trận với khí thế vô cùng hào hùng của dân tộc ta. Từ đó, bộc lộ niềm tự hào, niềm vui mừng, phấn khởi cho những chiến thắng vang dội của dân tộc.
Khổ thơ miêu tả khung cảnh ra trận trong bài thơ Việt Bắc đã khẳng định khí thế, tinh thần, ý chí của cả dân tộc ta. Tố Hữu đã dùng lời thơ để ghi lại những hình ảnh đẹp đẽ ấy để thế hệ chúng ta có thể cảm nhận và tự hào về cha ông của mình. Với tác phẩm Việt Bắc, Tố Hữu xứng danh là lá cờ đầu của phong trào thơ ca cách mạng.
Gợi ý cho bạn ☔ Bài Thơ Việt Bắc ☔ Nội Dung, Cảm Nhận, Dàn Ý, Nghị Luận
Phân Tích Việt Bắc Những Đường Việt Bắc Của Ta Hay Nhất – Mẫu 2
Đón đọc bài văn mẫu phân tích Việt Bắc những đường Việt Bắc của ta hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Bài thơ Việt Bắc được nhà thơ Tố Hữu viết vào tháng 10 – 1954, tức sau chiến thắng Điện Biên Phủ (5 – 1954), miền Bắc được giải phóng. Các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước chuyển từ Việt Bắc (thủ đô của cuộc kháng chiến) về Hà Nội. Sự lưu luyến kẻ ở người về là nguồn cảm xúc lớn cho Tố Hữu viết nên bài thơ này. Bài thơ Việt Bắc được trích trong tập thơ Việt Bắc (1947 – 1954) của Tố Hữu.
Bài thơ đã bộc lộ nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng (cũng chính là nhà thơ) đối với chiến khu Việt Bắc khi rời chiến khu về thủ đô Hà Nội. Bài thơ là lời ca ngợi phong cảnh và con người Việt Bắc: cảnh vật Việt Bắc đẹp, hùng vĩ… con người Việt Bắc đáng yêu, cảnh vật và con người nơi đây đã ghi dấu nhiều chiến công là làm nên những kỉ niệm thật vô cùng sâu sắc mà nhà thơ không thể nào quên được.
Đặc biệt, trong bài thơ, Tố Hữu đã viết nên một khúc ca hùng tráng về con người kháng chiến và cuộc kháng chiến. Điều đó thể hiện rõ trong đoạn thơ sau:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như lá đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Dấu chân nát đá muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng
Bài thơ có tiêu đề là Việt Bắc. Việt Bắc được xem là quê hương của cách mạng, ở đây có Pắc Pó, nơi Bác Hồ đặt chân đầu tiên khi Người trở về nước (tháng 2/1941), ở đây, diễn ra hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám, thành lập mặt trận Việt Minh. Việt Bắc lại có mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào – nơi họp Quốc dân đại hội ngày (16/8/1945) bầu ra ủy ban dân tộc giải phóng toàn quốc và cũng là nơi xuất phát của đội quân cách mạng tiến về giải phóng Thái Nguyên
Trong kháng chiến chống Pháp, Việt Bắc là một chiến khu vững chãi, nơi đóng các cơ quan của Đảng và Nhà nước. Việt Bắc cũng là nơi chứng kiến biết bao nhiêu chiến công oanh liệt, thể hiện khí thế hào hùng của quân và dân ta trong chín năm kháng chiến.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta là một cuộc kháng chiến toàn dân. Các tầng lớp nhân dân bất phân già trẻ, gái trai, lớn bé đều tham gia kháng chiến. Trong đó, nổi bật nhất là hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ. Người lính thời chống Pháp đã trải qua biết bao nhiêu hi sinh gian khổ nhưng rất hùng tráng và đầy lạc quan.
Hình ảnh hào hùng của đoàn quân ấy được thể hiện trong hai câu đầu của đoạn thơ:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Hai từ láy “điệp điệp” và “trùng trùng” đi liền nhau ở câu thơ có sức gợi tả đó, nó vừa gợi lên hình ảnh của một đoàn quân đông đúc, vừa gợi lên sức mạnh, khí thế hào hùng của một đoàn quân. Đoàn quân ra mặt trận hùng tráng, mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù.
Câu thơ thứ hai đưực ngắt theo nhịp 4/4: “Ánh sao đầu súng / bạn cùng mũ nan” càng làm tăng thêm vẻ đẹp của người lính – một vẻ đẹp vừa mang tính lãng mạn vừa mang tính hiện thực sâu sắc.
Hình ảnh “Ánh sao đầu súng” có thể là hình ảnh ánh sao trời treo trên đầu súng của những người lính trong mỗi đêm hành quân như “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu; “ánh sao đầu súng” ấy cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi, như nhà thơ Vũ Cao trong bài Núi đôi đã viết:
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Góp phần vào sự hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta có cả một tập thể quần chúng nhân dân tham gia kháng chiến. Họ là những “dân công đỏ đuốc từng đoàn” tải lương thực, súng đạn để phục vụ cho chiến trường. Hình ảnh của họ cũng thật đẹp, thật hào hùng và đầy lạc quan không kém những người lính:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Dấu chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Bằng một cách nói cường điệu “dấu chân nát đá “, nhà thơ đã làm nổi bật sức mạnh yêu nước, yêu lí tưởng cách mạng, ý chí quyết tâm đánh thắng quân thù của người nông dân lao động.
Người nông dân lao động (lực lượng nòng cốt của cách mạng) là lực lượng góp phần rất lớn để đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn sau này – Họ là những người nông dân đôn hậu, chất phác, lớn lên từ bờ tre, gốc lúa nhưng họ đi vào cuộc kháng chiến với tất cả những tình cảm và hành động cao đẹp, họ bất chấp những hi sinh, gian khổ, chấp mưa bom bão đạn của quân thù, đạp bằng mọi trở lực để đi theo tiếng gọi của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng như nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã nói trong bài Đất Nước:
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.
Hai hình ảnh “dấu chân nát đá” và “muôn tàn lửa bay” đã thể hiện cái khí thế hào hùng đó của nhân dân.
Dù có trải qua bao nhiêu gian khổ, có nghìn đêm đi trong “thăm thẳm sương dày” nhưng niềm lạc quan tin tưởng vào ngày mai thắng lợi vẫn sáng ngời. Như “ngọn đèn pha bật sáng” giữa cái “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” ấy, mang một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, đó chính là ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi đường cho dân tộc ta bước qua đêm trường nô lệ để đến một ngày mai tươi sáng, một thời đại thắng lợi huy hoàng của cách mạng – một thời đại độc lập, tự do:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Chính những sức mạnh ấy, niềm tin ấy đã đem lại những niềm vui chiến thắng. Những tin vui chiến thắng dồn dập, liên tục trên nhiều mặt trận được gửi về làm nức lòng quân và dân ta:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng
Điệp từ “vui” được lặp đi lặp lại nhiều lần gợi lên những đợt sóng tình cảm trào dâng, đợt sóng này kế tiếp đợt sóng kia cứ dâng lên, dâng lên mãi, tràn ngập tâm hồn nhà thơ, trong lòng quân dân cả nước.
Với lối thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, với chất thơ trữ tình cách mạng, thật sôi nổi, hào hùng, thiết tha, nhà thơ Tố Hữu trong đoạn thơ này đã thể hiện nổi bật khí thế hào hùng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc; đồng thời đoạn thơ còn thể hiện niềm lạc quan cách mạng, ý chí chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, làm nên những chiến thắng vẻ vang, mang niềm vui về cho dân tộc. Đoạn thơ như một đoạn sử thi của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Đọc nhiều hơn 🌻 Cảm Nhận Bài Thơ Việt Bắc 🌻 15 Bài Văn Mẫu Ngắn Hay
Phân Tích Việt Bắc Những Đường Việt Bắc Của Ta Ngắn Gọn – Mẫu 3
Bài văn phân tích Việt Bắc những đường Việt Bắc của ta ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo những ý văn súc tích, cô đọng nội dung.
Tố Hữu là một trong những tác gia xuất sắc, thơ anh để lại chính là một phần to lớn trong lịch sử đất nước từ trước đến nay. Gắn liền với cách mạng Việt Nam, thơ ca Tố Hữu đã phản ánh những điều trọng đại trong lịch sử nước mình. Trong đó có tác phẩm thơ Việt Bắc cùng khổ thơ ra trận đã để lại trong lòng bạn đọc những giá trị khó phai mờ.
Là một tác gia lớn, không quá ngạc nhiên khi thơ ca Tố Hữu rất dễ đi vào lòng bạn đọc, viết về kháng chiến nhưng có một điều đặc biệt lại thể hiện được những cảm xúc vẫn rất đỗi trữ tình, ngọt ngào đằm thắm – một chất Huế rất riêng trong con người anh.
Vốn là một chiến sĩ cách mạng, lấy Đảng là chân lí, là ánh sáng điểm tựa, là nơi anh sẽ nguyện trung thành đi cùng và gắn bó. Vì thế, từ khi chọn lựa chân lí giác ngộ lí tưởng đảng đến khi Việt Bắc ra đời, chính là lúc Tố Hữu hiện thực hóa những lí tưởng cao đẹp của mình. Anh đã nguyện sống và kháng chiến với họ để cùng gắn bó cùng cùng sẻ chia. Khổ thơ ra trận đã phản ánh rõ điều đó:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân quân đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Những đoàn dân quân trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau ra trận trên khắp mọi nẻo đường. Nổi bật lên một tư thế làm chủ, những đoàn quân cứ thế bước đi cứ thế nối nhau, như thể hiện tinh thần hăng say, ý chí quyết liệt, ngày đêm nối tiếp ra trận. Những từ ngữ chỉ số nhiều “những” “đêm đêm” “của” chỉ sự sở hữu. So sánh “như là đất rung” và từ láy rầm rập thể hiện khí thế sôi động, lực lượng đông đảo, sức mạnh và tinh thần to lớn như kết thành làn sóng không gì có thể ngăn cản được.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Tiếp đó là hình ảnh “trùng điệp” được tách ra làm hai từ láy “điệp” và “trùng” để diễn tả hình ảnh những đoàn quân nối dài, hoán dụ “ánh sao đầu súng” có thể là mũ của những người dân công hỏa tuyến, cùng các lực lượng kháng chiến đang kề vai sát cánh bên nhau.
Nó đều là những hình ảnh thực, khi đặt cạnh nhau khiến thể hiện lên rõ nét khối sức mạnh vĩ đại của dân tộc ta. Hình ảnh ấy càng được thể hiện đẹp đẽ hơn sau khi nối tiếp những đoàn quân là những đoàn dân công hỏa tuyến. Những con người giản dị, vốn chân lấm tay bùn chân thật mộc mạc, cũng ngày đêm nối tiếp nhau, tạo thành một làn sóng.
Dân quân đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Các từ ngữ chỉ số nhiều “từng” “muốn” chỉ những lực lượng đông đỏ, không chỉ bộ đội chính quy mà con là những người dân công, từ “đỏ đuốc” là phép đảo trật tự từ nhấn mạnh màu đỏ, một ánh lửa rực hồng ở những bó đuốc, và phải chăng hình ảnh này còn biểu tượng cho nhiệt huyết của mỗi người dân Việt Nam, tinh thần kháng chiến ác liệt, cách nói cường điệu “bước chân nát đá” như nhấn mạnh tới sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân. Một cảm hứng lãng mạn vô cùng.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Trên bước đường ra trận không thể thiếu được hình ảnh những chiếc xe tăng nối đuôi nhau ngày đêm vượt núi vượt bom đạn để mang ra tiền tuyến. “nghìn đêm” cùng từ láy “thăm thẳm” và hình ảnh “sương dày” gợi ý nghĩa biểu tượng đó chính là những khó khăn đang luôn đợi chờ, những gian khổ gập ghềnh trong thời kì kháng chiến.
Phép so sánh “như ngày mai lên” ngược lại với những khó khăn, nó đã thể hiện một niềm tin chiến thắng, một tinh thần lạc quan, những hi vọng vẫn luôn đợi chờ ta phía trước, đó chính là sự xứng đáng cho sự đồng lòng đoàn kết của toàn dân tộc.
Bằng việc sử dụng thể thơ lục bát quen thuộc, và Tố Hữu được coi như một người có tài năng sử dụng thành thạo, hóa phép cho câu thơ như bừng tỉnh, đẹp thêm trăm phần. Cùng giọng thơ linh hoạt, lúc hăng say, lúc đằm thắm, tha thiết và vui tươi, đã cho ta thấy những hình ảnh thật đẹp.
Đó không chỉ là nguồn cổ vũ to lớn trong thời chiến mà còn có ý nghĩa như động lực to lớn trong thời bình, ca ngợi và khẳng định giá trị của khối đại đoàn kết dân tộc, không gì có thể ngăn cản, dập tắt được. Cảm ơn Tố Hữu, cảm ơn khổ thơ ra trận, đã cho ta niềm tin, sức mạnh sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Bài Thơ Việt Bắc Những Đường Việt Bắc Của Ta Ngắn Nhất – Mẫu 4
Với bài văn mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc những đường Việt Bắc của ta ngắn nhất dưới đây, các em học sinh có thể nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài viết trên lớp.
Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam nói chung và nền thơ ca cách mạng nói riêng, thơ của ông luôn song hành cùng với những cột mốc cách mạng của dân tộc. Đặc biệt, bài thơ Việt Bắc được in trong tập thơ cùng tên được xem là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cùng là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Việt Bắc là mở đầu phần I của bài thơ Việt Bắc vốn dĩ viết về hoàn cảnh chia tay của quân và dân ta đầy lưu luyến, bịn rịn giữa kẻ ở – người đi, những con người đã từng gắn bó lâu dài (15 năm từ 1945 – 1954) với biết bao nghĩa tình sâu nặng sau chiến thắng 1954. Tác phẩm này chất chứa trọn vẹn phong cách thơ đặc trưng của Tố Hữu – bài ca trữ tình chính trị với tính đậm đà dân tộc được thể hiện đặc sắc qua cả nội dung và nghệ thuật.
Trong đoạn thơ sau, người đọc như thấy được Việt Bắc trưởng thành với khí thế hào hùng, sôi động của cuộc chiến đấu:
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Từ quá khứ, tác giả mở ra một hình ảnh đoàn quân ngày càng lớn mạnh, nối tiếp liên tục hành quân trong đêm khuya ở một không gian vô cùng rộng lớn. Nghệ thuật so sánh kết hợp với những từ láy đã diễn tả lực lượng đông đảo, sự lớn mạnh cùng khí thế hào hùng của quân đội ta.
Nếu hình ảnh đoàn quân “điệp điệp, trùng trùng” như gợi tưởng tới những dãy núi, nối tiếp nhau không dứt là một hình ảnh có tính mạnh mẽ thì hình ảnh ẩn dụ “ánh sao đầu súng” là một tứ thơ đẹp, trữ tình để liên tưởng đến lý tưởng cách mạng soi sáng dẫn đường và thiên nhiên Việt Bắc như người bạn đồng hành với các chiến sĩ cách mạng.
Những bó đuốc đỏ rực của đoàn dân công soi đường kết hợp với hình ảnh phóng đại “bước chân nát đá” thể hiện sức mạnh lực lượng đông đảo và tinh thần quyết tâm cùng trái tim rực cháy đạt bằng mọi gian khổ chông gai. Là một bức tranh về ban đêm mà không hề tối tăm, ánh sáng đèn pha xua đi bóng tối, nghệ thuật so sánh “như ngày mai lên” kết hợp với nhịp thơ mạnh mẽ dồn dập đã thể hiện được niềm tin tưởng lạc quan vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Nhớ Việt Bắc cùng nhớ đến niềm vui chiến thắng, tin thắng trận từ mọi nơi trên đất nước báo về đây cùng từ đây mà lan truyền ra. Nghệ thuật liệt kê các địa danh gắn liền cùng với chiến thắng, nhịp điệu thơ sôi nổi, giọng thơ náo nức say mê thể hiện niềm tự hào vui sướng chiến thắng.
Vị trí của Việt Bắc cũng như của của Tổ Hữu trong nền thơ ca Việt Nam là chuyện không thể bàn cãi. Bài ca vừa là sự hào hùng về kháng chiến vừa là sự nghĩa tình trong tình cảm cách mạng quân dân này được Tố Hữu gửi gắm toàn bộ tâm tư tình cảm cũng như phong cách thơ ca của ông vào.
Biến hóa và sáng tạo thể thơ lục bát, vừa dân dã lại vừa hiện đại. Sử dụng cách đối đáp trong ca dao dân gian một cách bình dị, nhẹ nhàng mà tha thiết. Vừa nhấn mạnh ý vừa tạo ra nhịp thơ cân xứng có nhạc điệu, thấm sâu vào tâm tư bằng cách sử dụng những tiểu đối. Lời ăn tiếng nói đầy mộc mạc và giản dị, ngôn ngữ giàu hình ảnh, đặc biệt cặp đại từ mình – ta quen thuộc đầy sáng tạo. Các biện pháp tu từ: nhân hóa, liệt kê,… được sử dụng tinh tế và khéo léo.
Tất cả đưa ta vào quá khứ cùng với những kỷ niệm ngọt ngào, tha thiết và tình nghĩa da diết, son sắt, thủy chung.
Mời bạn tham khảo 🌟 Phân Tích Bài Việt Bắc 🌟 Những Bài Văn Cảm Nhận Hay
Phân Tích Bài Việt Bắc Đoạn Những Đường Việt Bắc Của Ta Chi Tiết – Mẫu 5
Tham khảo văn mẫu phân tích bài Việt Bắc đoạn những đường Việt Bắc của ta chi tiết dưới đây để củng cố lại những nội dung kiến thức về đoạn thơ.
Đoạn thơ trích trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu diễn tả cảm xúc đầy chất sử thi và lãng mạn của cái Tôi thi sĩ về một Việt Bắc – căn cứ kháng chiến hào hùng với biết bao kỉ niệm chiến đấu và chiến thắng.
Ở những đoạn thơ trước, Tố Hữu bày tỏ nỗi niềm về Việt Bắc cảnh và người ân tình, ân nghĩa, thuỷ chung son sắt; một Việt Bắc nghèo mà chân tình, rộng mở thì ở đoạn thơ này, nhà thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu và chiến thắng với không gian núi rừng rộng lớn, với những hoạt động tập nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức.
Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng; đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên, con người Việt Bắc cùng sức mạnh vô địch của khối đoàn kết toàn dân kháng chiến:
Những đường Việt Bắc của ta
Ngày đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Khổ thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng vẻ của một sử thi hiện đại. Chỉ một vài nét phác hoạ khung cảnh hùng tráng của cuộc kháng chiến ở Việt Bắc, Tố Hữu đã cho người độc thấy khí thế hào hùng, mạnh mẽ của khối đoàn kết toàn dân toàn diện, của sự hoà quyện, gắn bó giữa thiên nhiên với con người – tất cả tạo thành hình đất nước đứng lên chiến đấu vì độc lập tự do, vì hạnh phúc, tương lai của dân tộc.
Bức tranh hoành tráng trước hết được thể hiện ở không gian rộng lớn, những nẻo đường chiến khu Việt Bắc giờ đây là của ta. Đêm đêm những bước chân hành quaan rầm rập, làm rung chuyển của đất trời, bước chân của những con người khổng lồ đội trời đạp đất, làm nên những kì tích anh hùng.
Nổi bật lên là hình ảnh quân đội nhân dân Việt Nam, ý thơ phô trương sức mạnh hùng hậu: Quân đi điệp điệp trùng trùng/Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan, chỉ với hai câu mà tạc được bức phù điêu điệp trùng, hùng vĩ của Việt Bắc kháng chiến. Càng đẹp đẽ và sống động hơn là hình ảnh ánh sao đầu úng lấp lánh dười trời đêm, khiến người đọc nhớ đến “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu. Những câu thơ giàu chất tạo hình, vừa hiện thực, vừa lãng mạn gợi nhiều liên tưởng về vẻ đẹp của người chiến sĩ.
Hình ảnh của Dân công đỏ đuốc từng đoàn cũng kì vĩ và tràn đầy sức mạnh. Kháng chiến của chúng ta là cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện, người người đánh giặc, nhà nhà đánh giặc, nông dân miền xuôi tấp nập lên đường đóng góp sức người sức của cho tiền tuyến lớn.
Hình ảnh của họ thật hào hùng, hoành tráng qua câu: Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay, sự kết hợp kì diệu giữa hình ảnh thực và những liên tưởng lãng mạn bay bổng vừa làm sống dậy nguồn sức mạnh to lớn của một dân tộc, vừa thần thoại hoá sức mạnh của con người, sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bước chân của họ là bước chân của những con người đội đá vá trời, rung chuyển càn khôn, đạp bằng mọi gian nguy làm nên chiến thắng kì diệu khiến thế giới phải khâm phục.
Cảm hứng sử thi lãng mạn, hào hùng đã khiến ý thơ được mở rộng đến viễn cảnh tương lai tươi sáng:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Nhà thơ sử dụng hình ảnh Nghìn đêm thăm thẳm sương dày/ Đèn pha bật sáng như ngày mai lên diễn tả cảm hứng tự hào, lạc quan tin tưởng về một tương lai tươi sáng của chiến khu trường kì gian khổ. Dù hôm này cà cả nghìn đêm đã qua, dân tộc phải chìm trong thăm thẳm của khói lửa đau thương; tăm tối, mịt mù của chiến tranh, của đói nghèo thì hãy tin rằng ngày mai, ngày mai chúng ta sẽ chiến thắng. Cuộc đời sẽ rộng mở, tươi sáng như ánh đèn pha đang chiếu vào bóng tối, sương mù, mở đường cho xe ta ra mặt trận.
Chúng ta sẽ được độc lập, tự do, ấm no và hạnh phúc. Nhịp thơ cũng từ cảm hứng ấy mà trở nên mạnh mẽ, dồn dập như âm hưởng bước chân hành quân của quân và dân ta, nườm nượp, trùng điệp trên những nẻo đường ra trận. Hệ thống từ vựng mở căng độ diễn tả (Nát đá, thăm thẳm, bật sáng.). Hình ảnh con người kì vĩ, ý thơ phóng xa vào viễn cảnh. Tất cả tạo nên một bức tranh sử thi hoành tráng để ngợi ca sức mạnh của nhân dân anh hùng, đất nước anh hùng.
Việt Bắc là căn cứ địa hào hùng, mồ chôn giặc Pháp, nhà thơ không thể không nhắc đến những tên đất, tên làng, tên sông, tên núi của trăm miền hoà với những chiến công lừng lấy cùng Việt Bắc đã đi vào sử xanh của dân tộc.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Niềm vui chiến thắng tràn ngập những câu thơ, tràn vào tâm tư người độc niềm vui chiến thắng bất tận của chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Viết về Việt Bắc chiến đấu và chiến thắng, Tố Hữu không thể viết riêng về một vùng đất mà trở thành biểu tượng cho sức mạnh kháng chiến, cho linh hồn cách mạng, cho ý chí của toàn dân tộc trong cuộc trường chinh vĩ đại. Thơ ca cách mạng đã tìm được vẻ đpẹ toàn bích trong thành công của bài thơ Việt Bắc.
Nhà thơ nói về lí tưởng, về cách mạng, về truyền thống tinh thần của dân tộc, đất nước với tình cảm say mê nồng nhiệt, với những rung động của một trái tim yêu nước. Tiếng lòng của nhà thơ cũng là tiếng lòng của nhân daan kháng chiến, của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Mở Bài Việt Bắc 🌟 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Việt Bắc Những Đường Việt Bắc Của Ta Học Sinh Giỏi – Mẫu 6
Bài văn mẫu phân tích Việt Bắc những đường Việt Bắc của ta học sinh giỏi dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích trong quá trình làm bài.
Nhà văn Tố Hữu, lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Có thể nói, thơ Tố Hữu là bản tình ca về đất nước và con người Việt Nam. Trong số những bản tình ca ấy, ta không thể không nói kể tới “Việt Bắc” – đỉnh cao của Tố Hữu, là tác phẩm xuất sắc trong văn học kháng chiến chống Pháp.
Việt Bắc không chỉ là bản tình ca sâu sắc mặn nồng giữa kẻ ở người đi mà còn là khúc hùng ca về những người anh hùng dân tộc. Bên cạnh những vần thơ trữ tình ngọt ngào, ta còn bắt gặp những vần thơ tràn đầy khí thế chiến thắng của quân và dân ta:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui thắng trận trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Việt Bắc là một tác phẩm gồm 150 câu thơ lục bát, được viết vào thánh 10/1954 khi Trung ương Đảng và chính phủ, Bác Hồ và cán bộ từ giã “Thủ đô gió ngàn” đề về với “Thủ đô nắng Ba Đình” Bài thơ được chia làm hai phần: phần đầu tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến, phấn sau gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước và ngợi ca công ơn của Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc.
Đoạn thơ “Những đường Việt Bắc của ta…Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” tập trung tái hiện lại không khí hào hùng của cuộc kháng chiến lúc quân và dân ta đang dành được lợi thế.
Trong 8 câu thơ đầu, nhà thơ đã tái hiện lại một cách chân thực hình ảnh đêm Việt Bắc trong mùa chiến dịch:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Câu thơ Những đường Việt Bắc của ta vang lên khỏe khoắn, hùng tráng, chứa chan niềm tự hào kiêu hãnh. Trăng ngả, trăng đường hướng về Việt Bắc, trăm nẻo đường từ Việt Bắc tỏa đi muôn nơi đều là “của ta”: Hai tiếng của ta giản dị mà vô cùng thiêng liêng. Chúng thể hiện rõ ý thức làm chủ của người kháng chiến đất nước mình cũng như niềm tự hào về sự bất khả xâm phạm của vùng căn cứ. Có sống trong những ngày kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ khó khăn, ta mới thấm thía niềm tự hào kiêu hãnh chống Pháp gian khổ khó khăn.
Sau bao ngà tháng trong tình thế ngặt nghèo, phải phòng thủ ta đã vươn lên dành thế chủ động trong mọi mặt trận. Những con đường từng bị giặc chiếm đóng nay đã là của ta. Hình ảnh thơ Đêm đêm rầm rập như là đất rung đặc tả sự lớn mạnh nhanh chóng, vượt bậc và khí thế ra trận hào húng, ngất trời của đoàn quân và dân ta. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại chọn thời điểm ban đêm.
Trong cuộc sống, đêm là lúc yên bình, tĩnh mịch, vạn vật đã chìm vào giấc ngủ say nông nhưng trong kháng chiến, đêm thường là điểm khởi đầu của những hoạt động, chiến dịch chuẩn bị cho ngày mai thắng lợi. Trong màn đêm bao la bao phủ, trùm khắm, đoàn quân của ta ra trận rầm rập như vũ bão khiến đất rung, trời lờ.
Với những từ láy rắn rỏi, hình ảnh so sánh, phóng đại, nhịp thơ đanh, chắc kết hợp với những phụ âm rung, câu thơ bật lên âm hưởng khỏe khoắn hùng tráng góp phần tái hiện sống động cuộc diễu binh hùng vĩ. Có thể nói, tinh thần chiến đấu quả cảm, khí thế ra trận hào hùng của cha ông trong suốit bồn nghìn năm dựng nước, giữ nước đã sống dậy trong ngày tháng ra trận.
Chúng ta từng tự hào trước các tráng sĩ thời Trần mang tinh thần Sát Thát, về nghĩa quân Lam Sơn với sức mạnh Đánh một trận sạch không kình ngạc – Đánh hai trận tan tác chim muông. Và cho đến bây giờ, chúng ta lại càng tự hào về cuộc kháng chiến thần thánh của thời đại cách mạng:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sáo đầu súng, bạn cùng mũ nan
Các từ tượng thanh và các từ tượng hình như rầm rập, điệp điệp, trùng trùng được sử dụng một cách tài tình, diễn rả chính xác khí thế tự tin, hồ hởi bao trùm cả dòng người đang ra trận với sức mạnh như dòng thác tuôn trào, không gì có thể cản bước nổi quân ta. Hình ảnh thơ ánh sao đầu súng đậm chất lãng mạn.
Nơi đầu súng của người lính cụ Hồ người sánh ánh sao lí tưởng cách mạng, hòa bình của niềm tin chiến thắng. Hình ảnh ánh sao đầu súng gợi liên tƣởng đến hình ảnh đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu. Chỉ bằng một hình ảnh thơ, Tố Hữu đã tạc khắc chân dung của đoàn quân chủ lực bình dị mà cao cả.
Cùng ra trận với những đoàn quân chủ lực còn có lực lượng dân công hỏa tuyến hùng hậu. Tuy là bức tranh buổi đêm nhưng vẫn rừng rực ánh sáng – ánh sáng của đuốc đỏ, tàn lửa, đèn pha:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm, sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Dân công đỏ đuốc từng đoàn và muôn tàn lửa bay là những hình ảnh huy hoàng, rực rỡ tái hiện không khí ra trận sôi nổi của lực lượng tiến công. Với khát vọng giải phóng đất nước cháy bỏng, những đoàn quân lấy đêm là ngày, từng đoàn, từng đoàn, với bó đuốc rực cháy trên tay hối hả nối nhau ra trận.
Với bước trân nát đá, muôn tàn lửa bay ấy, núi rừng như bừng thức. sự im lặng, tăm tối bỗng bị xé toang bởi ánh sáng đèn pha. Hình ảnh Đèn pha bật sáng như ngày mai lên vừa cực tả ánh sáng chói lòa của đoàn xe cơ giới, vừa nên bật sự trưởng thành lớn mạnh của quân đội ta, đồng thời, nó cũng thể hiện niềm tin vào một ngày mai huy hoàng, sáng chói.
Khúc ùng ca Việt Bắc ra trận được khép lại bằng tiếng reo ca khi toàn thắng về ta:
Tin vui thắng trận trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Diệp từ “vui” được điệp đi, điệp lại nhiều lần cùng với nhịp thơ ngắn, nhanh mạnh tạo nên âm hưởng hào sảng, hùng tráng. Những cụm vui từ, vui về, vui lên tạo nên không khí phấn chấn, vui tươi, hồ hởi. Từ Việt Bắc, tốc độ của chiến thắng bùng lên, chiến thắng nối tiếp chiến thắng, niềm vui gọi niềm vui.
Điểm đáng chú ý trong đoạn thơ là việc liệt kê hàng loạt các địa danh mà không làm mất đi sự hấp dẫn của đoạn thơ. Nếu ở Tây Tiếm, những địa danh của Quang Dũng xuất hiện với niềm thương nỗi nhớ thì Tố Hữu lại gọi tên những địa danh lừng lẫy chiến công mà làm bừng tỉnh lòng người. Có thể nói, đây là điểm độc đáo trong thơ Tố Hữu.
Nhìn chung, đoạn thơ Việt Bắc ra trận là minh chứng tiêu biểu cho phong cách thơ đậm tính sử thi và dạt dào cảm hứng lãng mạn của Tố Hữu. Đọc đoạn thơ, ta thấy như một khúc ca thắng trận của quân dân Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp Khẳng định, ngợi ca, tự hào về quê hưong Việt Bắc.
Chia sẻ 🌼 Kết Bài Việt Bắc 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Việt Bắc Những Đường Việt Bắc Của Ta Nâng Cao – Mẫu 7
Đón đọc bài văn mẫu phân tích Việt Bắc những đường Việt Bắc của ta nâng cao dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Bài thơ “Việt Bắc” là một trong những thành công lớn của thơ Tố Hữu và thơ ca kháng chiến chống Pháp. Thông qua cuộc đối đáp có tính chất tưởng tượng của kẻ ở người đi đầy lưu luyến, vấn vương thương nhớ trong cuộc chia tay người về miền xuôi kẻ ở miền ngược sau ngày Thủ đô Hà Nội được giải phóng 10 – 10 – 1954, bài thơ không chỉ ngợi ca những tình cảm điển hình của con người kháng chiến mà còn tái hiện một cách chân thực và sinh động bức tranh “Việt Bắc ra trận” rất hùng vĩ qua những vần thơ hào hùng:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đèm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”.
Ngay ở câu thơ đầu tiên mở đầu đoạn thơ, tác giả đã nêu lên cái nhìn khái quát chung cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Đây là một cuộc chiến tranh sáng ngời chính nghĩa hợp với ý trời lòng dân. Cho nên lực lượng của ta ngày càng trưởng thành lớn mạnh không ngừng.
Từ một đội quân chỉ có ba mươi tư người xuất phát từ cây đa Tân Trào hôm nào, dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, hôm nay chúng ta đã có một đội quân hùng mạnh liên tiếp gặt hái được những chiến công chói lọi: Thu Đông, Sông Lô, Biên Giới… Giờ đây, chúng ta đang chuẩn bị tổng phản công bằng một chiến dịch lịch sử.
Chúng ta hoàn toàn làm chủ chiến trường Việt Bắc cả về thê và lực. Cho nên đoàn quân ra trận hôm nay xuất phát từ mọi ngả đường Việt Bắc như những gọng kìm nhằm bao vây quân giặc đang co cụm ở những cứ điểm cuối cùng:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”
“Những đường” chứ không phải “một đường” và Việt Bắc là “của ta”. Câu thơ bình dị mà chất chứa biết bao niềm tự hào về quang cảnh ra trận và khí thế của ta trên chiến trường.
Câu thơ thứ hai mở ra một bối cảnh khác, đó là ngày kháng chiến chống Pháp, máy bay địch chủ yếu hoạt động ban ngày. Do đó ta phải hành quân đêm “xưa là rừng núi là đêm” (Tố Hữu). Trên các nẻo đường Việt Bắc đêm nối đêm cứ “rầm rập” tiến quân ra trận. Từ láy “rầm rập” là một từ tượng thanh rất gợi cảm. Nó diễn tả bước chân đi đầy khí thế hăng say và sức mạnh áp đảo của một tập thể người đông đúc có đội ngũ chỉnh tề. Với từ “rầm rập” đặc sắc ấy, cuộc ra trận của quân ta bỗng trở thành một cuộc duyệt binh, diễu binh hùng tráng:
“Xuân hãy xem! Cuộc diễn binh hùng vĩ
Ba mươi mốt triệu nhân dân
Tất cả hành quân
Tất cả thành chiến sĩ”.
Vì thế mà bước chân của đoàn quân ấy đêm đêm như làm rung chuyển cả mặt đất. Hình ảnh thơ mang đậm màu sắc thần thoại.
Từ cái nhìn chung ở câu một và hai đến đây, tác giả đi vào cái nhìn cụ thể. Nếu câu trên, tác giả tả khí thế ra trận của quân ta qua ấn tượng thính giác, thì các câu sau, tác giả tả bằng thị giác: “Quân đi điệp điệp trùng trùng”. Từ láy từ “điệp điệp trùng trùng” thật giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gợi lên trong ta những đoàn quân ra trận nối dài vô tận và rất hùng vĩ như những dãy núi kế tiếp nhau vậy. Sau này nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã viết:
“Từ nơi em gửi tới nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận”
Ở đây ta lại bắt gặp một hình ảnh thơ được viết với bút pháp cường điệu mang đậm màu sắc anh hùng ca. Vì vậy sức mạnh khí thế của đoàn quân ra trận đã được nâng ngang tầm với sức mạnh của thiên nhiên sông núi
“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Câu thơ vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa khái quát tượng trưng sâu xa. Trước hết nó diễn tả đoàn quân đi trong đêm, đầu súng lấp lánh ánh sao trời. Nhưng đó cũng là lấp lánh ánh sao lí tưởng:
“Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường”
(Vũ Cao)
Hình ảnh tươi sáng ấy kết hợp với hình ảnh chiếc mũ nan giản dị trang bị còn thiếu thốn của anh bộ đội, tạo cho anh một vẻ đẹp bình dị mà cao cả, bình thường mà vĩ đại. Nhà thơ Chính Hữu cũng đã có câu thơ rất hay “Đầu súng trăng treo”.
Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện. Cho nên trong cuộc tổng phản công hôm nay có đủ mọi binh chủng, tầng lớp ra trận. Tiếp theo những binh đoàn bộ đội, là dân công tiếp tế lương thực, đạn dược. Cũng như những người chiến sĩ rầm rập lên đường, những nam nữ dân công cũng vào trận đầy khí thế và sức mạnh:
“Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” “Nát đá” được viết theo phép đảo ngữ, từ dùng rất bạo khoẻ vừa gợi lên được những gánh hàng rất nặng vừa nói lên bước chân đầy sức mạnh tiến công của họ. Ngày nào dân ta mơ ước “trông trời, trông đất, trông mây… trông cho chân cứng đá mềm” thì giờ đây niềm mơ ước ấy đã trở thành hiện thực kỳ diệu ở chiến trường Điện Biên.
“Muôn tàn lửa bay” lại là một hình ảnh rất đẹp. Đoàn dân công đi dưới ánh đuốc, có “muôn tàn lửa bay”. Đó là lửa của đuốc đang bay, hay có cả ánh lửa từ trái tim của những anh, chị dân công hoả tuyến? ở hai câu thơ này, tấc giả sử dụng được nhiều hình ảnh giàu màu sắc tạo hình vừa chân thực, vừa bay bổng. Đoàn dân công đi vào chiến dịch mà như thể đi trong đêm hội hoa đăng. Thật đẹp đẽ biết bao mà cũng tự hào biết bao về khí thế và niềm vui ra trận của quân ta. Đúng “cách mạng là ngày hội của quần chúng” (Mác)
Hai câu thơ cuổì cùng của đoạn thơ cho ta thấy khí thế khẩn trương của cuộc kháng chiến:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
Tiếp theo đoàn dân công là những đoàn xe chở vũ khí đạn được ra chiến trường. Xe nối đuôi nhau, đèn pha bật sáng trưng như ánh sáng ban ngày. Chỉ bằng một hình ảnh ấy, Tố Hữu đã diễn tả được cái đông đảo hùng mạnh của lực lượng cơ giới quân ta.
Hai câu thơ có hai hình ảnh đối lập: “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” với “đèn pha bật sáng như ngày mai lên” đã làm nổi rõ được sự trưởng thành vượt bậc của quân ta và niềm tin tất thắng của những người ra trận. Mới hôm nào, chúng ta phải mai phục, nương náu nơi rùng sâu, núi thẳm hàng ngàn đêm tăm tối gian khổ “thăm thẳm sương dày” để có giờ phút bừng sáng quật khởi đầy niềm tin chói lọi này.
Niềm vui nối tiếp niềm vui, “đèn pha bật sáng” để chiếu rọi hình ảnh nhân dân Việt Nam anh hùng trên vũ đài thế giới với những chiến thắng lẫy lừng:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Hàng loạt các địa danh gắn với chiến thắng vang dội được liệt kê liên tiếp: Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê, Việt Bắc, Đèo De, Núi Hồng,… Nghe trong câu thơ có cái hào sảng, có niềm tự hào của những chiến thắng “trúc chẻ tre bay” Lê Lợi diệt giặc Minh trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi ngày trước:
“Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về
Ninh Kiều máu chảy thành sông tanh hôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”.
Chỉ bằng mười hai câu thơ, Tố Hữu đã khắc họa được một bức tranh cả dân tộc ra trận bằng cuộc chiến tranh nhân dân thật hùng tráng. Bức tranh không chỉ làm sống dậy một thời kì hào hùng của dân tộc ở căn cứ địa Việt Bắc đang chuẩn bị cho một chiến công “lừng lẫỵ năm châu chấn động địa cầu” mà còn đem lại cho ta niềm tin yêu quê hương cách mạng anh hùng. Nó xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất của “Việt Bắc”.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Nghị Luận Việt Bắc 🌟 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn Trích Những Đường Việt Bắc Của Ta Đơn Giản – Mẫu 8
Tham khảo bài phân tích đoạn trích những đường Việt Bắc của ta đơn giản dưới đây với những luận điểm tóm lược cơ bản nhất.
Thơ Tố Hữu là những vần thơ thể hiện tiếng nói của dân tộc, của tâm hồn những con người gắn bó sâu sắc với sự nghiệp cách mạng, với quê hương, với đất nước. Trong những vần thơ ấy ta sẽ bắt gặp những tình cảm mến thương sâu sắc, trữ tình, xuất phát từ một trái tim trung thành với dân tộc với nhân dân và tiêu biểu hơn cả là bài thơ Việt Bắc, một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu.
Tố Hữu (1920-2002), tên khai sinh là Nguyễn Duy Thành, quê ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cái nôi của văn học dân gian. Tố Hữu là nhà thơ lớn, là người tiên phong của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, thơ ông luôn gắn bó với những chặng đường cách mạng của dân tộc.
Phong cách thơ mang tính trữ tình chính trị vô cùng sâu sắc, hướng đến những cái tôi chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn, cái tôi trong thơ của ông luôn nhân danh Đảng, cộng đồng dân tộc, những vần thơ ấy vừa giàu nhạc điệu lại mang tính dân tộc đậm đà. Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, gây chấn động địa cầu đã mở ra cho nước ta một trang sử mới một kỷ nguyên mới. Sau khi kí hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954), miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, Pháp rút quân về nước.
Tháng 10/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị toàn bộ các cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc dời về thủ đô. Từ đây, những người chiến sĩ cách mạng chia tay với miền rừng núi bạt ngàn để về xuôi, bước sang một trang mới của cách mạng đất nước, Việt Bắc đã ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy.
Nổi bật trong tác phẩm là đoạn thơ khắc hoạ khung cảnh con người Việt Bắc ra trận với khi thế hào hùng:
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Câu thơ “Những đường Việt Bắc của ta” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của mảnh đất Việt Bắc, của chiến khu Việt Bắc với nhân dân với đất nước bởi đây là quê hương cách mạng là trái tim của cả nước trong những tháng ngày kháng chiến chống Pháp. Biện pháp nghệ thuật tu từ so sánh “như là đất rung” kết hợp với hình ảnh “quân đi điệp điệp trùng trùng” đã thể hiện sức mạnh vĩ đại của đoàn quân ra tiền tuyến, đoàn quân dài như vô tận rất kỳ vĩ và hào hùng.
Câu thơ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” đã kết hợp ba biện pháp nghệ thuật tu từ ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, hình ảnh “ánh sao đầu súng” gợi nhắc đến hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong thơ của Chính Hữu và “súng ngửi trời” trong thơ Quang Dũng thể hiện tầm cao của người lính, đây là một hình ảnh đẹp và rất giàu chất thơ.
Hình ảnh đoàn dân công vô cùng mạnh mẽ, đông đúc “đỏ đuốc từng đoàn”, “bước chân nát đá”, gợi nhắc đến thành ngữ “Chân cứng đá mềm” khẳng định sức mạnh và sự vững chãi, bền bỉ của con người Việt Nam trước bão tố chiến tranh. Trong đêm tối của chiến tranh, quân và dân ta luôn hướng về ngày mai, luôn nuôi dưỡng niềm tin mãnh liệt về một ngày mai chiến thắng.
Và cuối cùng tin vui đã về trên khắp đất nước, những người chiến sĩ về Hà Nội, về miền xuôi, nhưng vẫn đọng lại trong trái tim họ biết bao kỷ niệm, biết bao yêu thương, họ mang theo niềm vui toàn thắng trong những ngày cuộc kháng chiến khép lại.
Cả đoạn thơ như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người kháng chiến anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình cảm tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào.
Qua đó, tác giả cũng nhắn nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những những trang sử thấm đượm tình cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.
Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Phân Tích Việt Bắc Ta Về Mình Có Nhớ Ta 🌺 10 Bài Văn Hay
Phân Tích Việt Bắc Đoạn Những Đường Việt Bắc Của Ta Lớp 12 – Mẫu 9
Đón đọc bài phân tích Việt Bắc đoạn những đường Việt Bắc của ta lớp 12 dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.
Tố Hữu là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam nói chung và trong mảng văn học cách mạng nói riêng, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến. Ở Tố Hữu có sự thống nhất hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ.
Chính vì vậy có thể nói rằng, qua các tác phẩm của ông, ta không chỉ thấy được thế giới tâm hồn tình cảm, thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của ngòi bút thơ Tố Hữu mà qua đó dường như nhà văn đã phản ánh một cách rõ nét nhất những dấu mốc lịch sử quan trọng xuyên suốt quá trình kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc, người đọc vì thế mà có thể thấy được trọn vẹn những trang sử vẻ vang của đất nước như những thước phim quay chậm. Cùng phân tích bài thơ Việt Bắc bạn sẽ rõ.
Bài thơ được sáng tác vào tháng mười năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc – thủ đô gió ngàn của dân tộc trở về Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó với người dân và thiên nhiên Việt Bắc, nay trở về chia tay đầy ngậm ngùi và lưu luyến, nhà thơ xúc động viết nên bài thơ này.
Bài thơ được viết theo thể lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc mang âm hưởng nhẹ nhàng uyển chuyển thấm đẫm chất trữ tình của những câu ca dao. Trong cảm xúc lắng đọng ngậm ngùi của buổi chia li, việc sử dụng thể thơ này để biểu đạt tình cảm và hồi tưởng lại những kỉ niệm gắn bó với núi rừng Việt Bắc, người dân Việt Bắc là hoàn toàn hợp lí. Trên tất cả tình dân quân thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ man
Dân công đuốc đỏ từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng.
Khí thế của đoàn quân vô cùng mạnh mẽ được thể hiện thông qua hình ảnh so sánh “đêm đêm rầm rập như là đất nung”, qua những từ ngữ gợi hình gợi tả “điệp điệp trùng trùng”, qua hình ảnh hoán dụ ánh sao đầu súng và mũ nan – những hình ảnh biểu tượng cho bộ đội và những người dân Việt Bắc.
Ngọn đuốc trên tay quân dân không chỉ thắp sáng lên cả bầu trời Việt Bắc khi ấy mà nó còn thắp lên cả những thế hệ, thắp lên tương lai, thắp lên niềm tin và hi vọng về một chiến thắng không xa. Sức mạnh của cả một đoàn quân khí thế đến nỗi có thể làm cho đá nát lửa bay không một thế lực nào có thể ngăn cản được.
Bằng nghệ thật phóng đại cường điệu, nhà thơ Tố Hữu dường như đã tái hiện lại bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ để rồi giờ đây chỉ qua những dòng thơ ngắn gọn, ta như trở về với một thời hào hùng của cha ông. Giữa bóng tối vây quanh ngọn đèn pha như thắp lên niềm tin niềm hi vọng của quân dân về một tương lai tốt đẹp hơn.
Cuối cùng, sau những tháng ngày chiến đấu gian lao và khổ cực quân và dân ta đã giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang. Hạnh phúc vỡ òa không từ ngữ nào có thể diễn tả. Từ Hòa Bình Tây Bắc hay Điện Biên, nhân dân như vui cùng một niềm hạnh phúc. Điều này chứng tỏ sự gắn bó máu thịt sự đoàn kết không thể nào phá rời của quân và dân ta khi đất nước gặp khó khăn.
Bài thơ Việt Bắc để lại trong lòng người đọc những dư vị khó phai. Có được thành công như vậy trước hết là phải kể đến những nét đặc sắc về nghệ thuật. Thể thơ lục bát – một thể thơ quen thuộc trong dân gian được nhà thơ sử dụng hết sức thành công, âm hưởng nhẹ nhàng tinh tế in sâu vào tâm trí mỗi người. Chất văn xuôi cũng được đưa vào trong thơ và được vận dụng sáng tạo linh hoạt, những hình ảnh so sánh, những cách nói ví von cũng góp phần tạo nên giọng điệu của bài thơ.
Bài thơ Việt Bắc không chỉ tái hiện lại được không khí vào những năm kháng chiến chống Pháp mà còn đưa người đọc ngược dòng thời gian để tìm về với những nét đẹp trong tâm hồn người quân dân: vẻ đẹp của tấm lòng thủy chung son sắt, vẻ đẹp của sự đoàn kết gắn bó, rộng hơn nữa đó chính là ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc với nhân dân.
Cũng từ đó mà ta thấy được tài năng và khả năng giao cảm tinh tế với cái đẹp của thiên nhiên, của con người Việt Bắc của Tố Hữu. Để làm được điều đó Tố Hữu đã trải qua một thời gian dài sống và gắn bó với người dân, với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc.
Bài Việt Bắc của Tố Hữu cùng với những bài thơ khác cùng thời, cùng đề tài như Đồng chí của Chính Hữu, Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, đã góp phần rất lớn vào trong chủ đề thơ ca cách mạng không những có tác dụng cổ vũ động viên tinh thần người chiến sĩ mà còn như những tấm gương phản chiếu về một thời đại vẻ vang của dân tộc, để cho thế hệ sau mãi tự hào từ đó mà càng thấy được
Đón đọc tuyển tập 🌟 Phân Tích Việt Bắc Đoạn 2 🌟 7 Bài Phân Tích Khổ 2 Hay
Phân Tích 2 Câu Những Đường Việt Bắc Của Ta – Mẫu 10
Tham khảo gợi ý phân tích 2 câu những đường Việt Bắc của ta dưới đây để hiểu thêm những tầng ý nghĩa được thể hiện trong câu thơ.
Việt Bắc là bài thơ được Tố Hữu sáng tác sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Điện Biên Phủ vang dội, chấn động thế giới. Có thể coi Việt Bắc là một bản tổng kết về một giai đoạn lịch sử bằng thơ, tái hiện lại hiện thực đau thương và oanh liệt của cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược bảo vệ chủ quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. 2 câu thơ dưới đây là bức tranh sống động, hào hùng về khí thế tiến công như vũ bão của quân dân ta:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Theo dòng hồi tưởng, nhà thơ dẫn dắt người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian là núi rừng rộng lớn, với những hoạt động tấp nập, những hình ảnh, những âm thanh sôi nổi, dồn dập làm náo nức lòng người. Ánh sáng cách mạng đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Câu thơ mang dáng vẻ một sử thi hiện đại, tràn đầy âm hưởng anh hùng ca. Giọng điệu dìu dặt, du dương ở những đoạn thơ trước đến đây đã chuyển thành giọng điệu dồn dập, rắn rỏi và phấn khích. Tố Hữu miêu tả rất chân thực và sinh động khung cảnh chiến khu Việt Bắc trong mùa chiến dịch qua hình ảnh những con đường đêm đêm rầm rập bước chân của bộ đội, dân công, bập bùng ánh sáng của lửa đuốc và ánh đèn pha của những đoàn xe ra trận.
Trong thời gian đó, ban ngày máy bay địch bắn phá dữ dội nhưng ban đêm thì chúng đành bất lực. Màn đêm bao la đã mang lại ưu thế cho quân dân ta. Không phải ngẫu nhiên mà thơ ca kháng chiến có nhiều bài tả cảnh ban đêm:
Những đêm dài hành quân nung nấu,
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Đêm nay, rừng hoang sương muối,
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới,
Đầu súng trăng treo
(Đồng Chí – Chính Hữu).
Trong đời sống bình thường, ban đêm là lúc vạn vật chìm trong giấc ngủ, là thời điểm nghỉ ngơi yên tĩnh của con người. Nhưng trong chiến tranh, đêm thường là điểm khởi đầu của những trận đánh, những chiến dịch lớn nối tiếp nhau: Những đường Việt Bắc của ta, Đêm đêm rầm rập như là đất rung. Hai từ của ta thể hiện rõ ý thức làm chủ của người dân đối với đất nước, đồng thời thể hiện niềm tự hào về tính chất bất khả xâm phạm của vùng căn cứ địa kháng chiến.
Trên các nẻo đường ra hỏa tuyến, bộ đội, dân công với súng đạn, gánh gồng, với khí thế bừng bừng xung trận. Các từ tượng thanh và tượng hình như rầm rập, điệp điệp, trùng trùng được sử dụng rất phù hợp diễn tả chính xác không khí tự tin, hồ hởi và sức mạnh như triều dâng thác lũ của quân dân ta. Hình ảnh so sánh: Đêm đêm rầm rập như là đất rừng đặc tả quy mô lớn của các trận đánh chuẩn bị diễn ra. Tác giả đã thể hiện được sự thống nhất, hòa hợp giữa con người với thiên nhiên trong một thời điểm lịch sử đặc biệt.
2 câu thơ trên giàu chất sử thi, thể hiện rất rõ khả năng tạo dựng những bức tranh hoành tráng về lịch sử cách mạng của Tố Hữu bằng ngôn ngữ thơ ca. Đọc đoạn thơ, chúng ta tưởng như đang được sống lại trong không khí sục sôi của một thời lửa đạn không thể nào quên – cái thời của những sự kiện lớn lao và những niềm vui, niềm tin tưởng, cũng rất đỗi tự hào.
Khám phá thêm 💕 Phân Tích Khổ 3 Việt Bắc 💕 11 Bài Phân Tích Đoạn 3 Hay
Phân Tích Những Đường Việt Bắc Của Ta Facebook – Mẫu 11
Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích những đường Việt Bắc của ta Facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
Tố Hữu để lại một sự nghiệp văn chương vô cùng phong phú, giàu giá trị và một phong cách nghệ thuật độc đáo mang tính trữ tình sâu sắc, đậm đà, tính dân tộc. Tiêu biểu cho những tìm tòi, sáng tạo không ngừng của nhà thơ là bài thơ Việt Bắc. Việt Bắc không chỉ là khúc ca ân tình mà còn là bản tổng kết 15 năm cách mạng. Bên cạnh những đoạn trữ tình ngọt ngào, ta lại gặp những khúc ca hùng ca đầy khí thế chiến thắng của quân dân ta mà tiêu biểu là bức tranh “Việt Bắc ra quân” hào hùng.
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954 ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, các cơ quan Trung ương Đảng và chính phủ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.
Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt đầy xúc động, bâng khuâng. Tố Hữu đã vận dụng thành công thể thơ lục bát, sử dụng cặp đại từ nhân xưng là mình với ta, lối đối đáp quen thuộc trong ca dao, giọng thơ tâm tình ngọt ngào mở ra bao nỗi niềm nhớ thương, bác bỏ niệm thời kháng chiến oai hùng. Qua đó, nghĩa tình gắn bó thắm thiết thủy chung của những người kháng chiến với nhân dân, với Việt Bắc, với đất nước bộc lộ một cách thấm thía và cảm động.
Có thể nói, tinh hoa của tác phẩm lắng đọng trong mười hai câu thơ diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh Việt Bắc hùng tráng trong kháng chiến. Và có lẽ, đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc là ấn tượng không phải về những con đường kháng chiến.
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”
Với hình ảnh đầu tiên ra bắt gặp: “Những đường Việt Bắc của ta”. Tiếng gọi “của ta” rất dứt khoát của quân và dân ta với tinh thần làm chủ đất nước. Nối tiếp là hình ảnh “đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Với từ láy “đêm đêm” và “rầm rập” kết hợp với nghệ thuật so sánh “như là đất rung”, vừa hiện thực, vừa cường điệu, đã cho ta thấy đất như rung chuyển dưới bàn chân của những người chiến sĩ. Đây là hình ảnh hào hùng là âm vang của cuộc kháng chiến của dân tộc mà không có thế lực nào ngăn cản được.
Tiếp mạch hào hùng là đoàn quân vô cùng hùng hậu:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Hình ảnh “quân đi” rất đẹp. Đẹp trong đội ngũ “điệp điệp trùng trùng” như một sức mạnh vô tận. Hai từ láy “trùng trùng điệp điệp” đã ghi lại ấn tượng về cuộc hành quân không ngừng nghỉ của một đoàn quân đông đào như trải dài khắp rừng Việt Bắc. Hình ảnh hoán dụ “ánh sao đầu súng” “mũ nạn” vừa tả thực vừa gợi ra một vẻ đẹp thơ mộng về đoàn quân kháng chiến.
Hình ảnh “ánh sao đầu súng” ánh sao đến phản chiếu vào nòng súng thép, ánh sao của bầu trời Việt Bắc, ánh sao của lý tưởng cách mạng. Một hình ảnh thơ vừa hiện thực, vừa lãng mạn, gợi nhiều liên tưởng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ.
Tiếp đến hình ảnh những người dân công phục vụ kháng chiến cũng được Tố Hữu tô đậm:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Ước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
Trong chiến tranh nhân dân ta lấy ngày làm đêm, lấy đêm làm ngày. Bởi thế giữa đêm Việt Bắc ra quân, cảnh những đoàn quân đi ta còn thấy hình ảnh “Dân công đỏ đuốc từng đoàn” họ cũng như những người lính hăng hái ra trận, hăng hái lên đường. giữa cảnh hào hùng ấy, hình ảnh “muôn tàn lửa bay” ra từ những bó đuốc đỏ làm cho con đường ra trận thêm lung linh và huyền ảo.
Với cách nói cường điệu “bước chân nát đá” diễn tả sức mạnh và lòng quyết tâm từ hàng vạn con người, họ sẵn sàng đạp bằng mọi chông gai để đi tới chiến thắng. Đây là một sự sáng tạo của Tố Hữu khi ông đã lấy ý tưởng của câu ca dao “trông cho chân cứng đá mềm – Đời yên biển lặng mới yên tấm lòng”. Điều đó đã tạo nên một hình ảnh vừa quen thuộc, vừa mới lạ nhằm ca ngợi sức mạnh của con người Việt Nam. Ý thơ mang tầm vóc sử thi.
Hai câu tiếp là hình ảnh những đoàn xe cơ giới, xe tăng, xe tải chở lính chở vũ khí và lương thực góp phần làm cho không khí những con đường kháng chiến thêm phấn chấn
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
Đây là hình ảnh vừa thực nhưng cũng rất lãng mạn bỏ ra đằng sau cái nghĩa thực của cuộc hành quân xé rừng vượt núi, xuyên qua sương dày đêm thăm thẳm và hình ảnh của ngày mai lạc quan phơi phới “Đèn bật sáng như ngày mai lên”. Tác giả đã sử dụng rất thành công biện pháp so sánh, phóng đại “đèn pha” được ví như mặt trời mọc, như ngày mai đến từ trong đêm thăm thẳm nhờ có đèn bật sáng.
Nhờ có sức mạnh của con người cộng với lý tưởng cao đẹp. Thể hiện khí thế sôi nổi, hào hùng bộc lộ trọn niềm vui sướng, tin tưởng tuyệt đối vào ngày mai chiến thắng:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Niềm tin tưởng đã được khẳng định, niềm vui của tác giả của nhân dân Việt Bắc trước tin thắng trận trên khắp mọi miền đất nước dồn dập bay về. Hay các địa danh được liệt kê: Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên,… Mỗi địa danh đều ghi dấu những chiến công, niềm tự hào của dân tộc, cùng với những địa danh ấy là điệp từ “vui” kèm với các giới từ “tin vui chiến thắng” “vui về – vui từ – vui lên” gợi tả những chiến thắng giòn giã,dồn dập như tiếng reo mừng cất lên trong lòng hàng triệu con người từ Bắc chí Nam.
Đoạn thơ 12 cây diễn tả khí thế hào dùng sục sôi của Việt Bắc. Qua đó, đoạn thơ bộc lộ niềm tự hào sâu sắc của dân tộc ta. Đoạn thơ có âm điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ, sử dụng nhiều hình ảnh phóng đại, là đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu. Tóm lại, bức tranh Việt Bắc ra trận là một khúc ca hùng tráng, vang dội đến tận bây giờ. là một học sinh, tôi cảm thấy mình thật may mắn khi được sống trong thời bình, vô cùng biết ơn các chiến sĩ đã ngã xuống, giành lại độc lập cho quê hương, nước nhà.
Gợi ý cho bạn 🌼 Phân Tích Việt Bắc Nhớ Gì Như Nhớ Người Yêu 🌼 10 Mẫu Được SCR.VN Chọn Lọc
Phân Tích Những Đường Việt Bắc Của Ta Thầy Hiếu – Mẫu 12
Bài văn mẫu phân tích những đường Việt Bắc của ta thầy Hiếu dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết hỗ trợ các em học sinh trong quá trình làm bài.
Nguyễn Đình Thi từng nói, đại ý, trọn đời, Tố Hữu là nhà thơ và làm thơ về cách mạng, và thơ Tố Hữu luôn thiết tha, dịu dàng với quê hương đất nước và con người của đất nước quê hương. Ngày Tố Hữu ra đi, Nguyễn Đình Thi từng nói vậy, và ta cảm thấy thật xúc động, tự hào vì điều đó.
Ngay cả trong những vần thơ nói về khí thế ra trận, miêu tả cảnh hùng hồn, hào hùng của dân tộc, ta vẫn luôn cảm thấy chút dịu dàng rất Huế anh gửi gắm vào người Việt Nam mình. Và thật đặc biệt khi ta tìm ra điều đó, được viết trong khổ thơ đặc tả khung cảnh ra trận trong bài thơ Việt Bắc.
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Với từ “những” diễn tả thật nhiều đoàn quân trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau trên giải đường Việt Bắc, một không khí ra trận tựa như có thể làm rung chuyển tất cả, khí thế hào hùng, mạnh mẽ, một tâm thế của người chủ động, làm chủ đất nước.
Từ láy “đêm đêm” thể hiện một hành trình lặp đi lặp lại, liên tiếp trong nhiều ngày, những bước chân “rầm rập” của nhiều người gợi thanh, chỉ hàng triệu bàn chân bước đi. Tố Hữu sử dụng biện pháp so sánh “như là đất rung” khẳng định khí thế quật cường, mạnh mẽ, sôi động của lực lượng kháng chiến của ta lúc bấy giờ.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Khí thế càng được thể hiện rõ nét hơn, từ “điệp trùng” được tách ra thành “điệp điệp” “trùng trùng” thể hiện một số lượng rất lớn đoàn dân công đang lũ lượt tiến quân ra trận. Chiến đấu nào chẳng có hy sinh, đọc đến đây ta có chút ngậm ngùi, họ biết khi ra đi có thể khó có ngày trở về, chính tinh thần đồng lòng đồng tâm của họ khiến ta càng thêm xúc động, tự hào. Hình ảnh hoán dụ “ánh sao đầu mũ” thật giống với hình ảnh “đầu súng trăng treo” của Chính Hữu.
Một hình ảnh lãng mạn, tráng lệ, tuyệt đẹp. Đó là những người chiến sĩ giải phóng quân đang ngày đêm ra trận, hình ảnh họ không chỉ kiêu hùng, mà còn thật lãng mạn. “Ánh sao đầu súng” sóng đôi cùng “bạn cùng mũ nan” có thể là mũ của những người dân công hỏa tuyến, họ đang sát cánh cùng nhau ra trận, những hình ảnh này đặt cạnh nhau đột nhiên ta thấy thật nên thơ. Càng tô điểm thêm khối sức mạnh vĩ đại của toàn dân tộc.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Vẫn là những đoàn dân công đang nối nhau ra trận, những bước đi của họ gắn với những bó đuốc đỏ thắm. Đây là những hình ảnh tả thực, đẹp và tráng lệ, từ đỏ đuốc được đảo trật tự từ, từ đó nhấn mạnh tới màu đỏ, ánh lửa rực hồng ở bó đuốc. Và có lẽ đó chính là biểu tượng của nhiệt huyết tinh thần, của khí thế sôi sục như máu chảy trong tim, và ý chí quyết tâm của tất cả mọi người, và chính nó khiến cho những bước chân của họ càng trở nên mạnh mẽ, dường như có thể làm “nát đá” trên những chặng đường khác nhau.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Những lần hành quân không tránh được những khó khăn nối tiếp khó khăn, đó là những đêm khuya vắng lặng, u tối và bao trùm bởi sương giá của rừng già. Nhưng nhờ sự đồng lòng của mọi lực lượng kháng chiến, nên Tố Hữu đã sử dụng hình ảnh biểu tượng “đèn pha bật sáng” như ẩn dụ cho hy vọng quyết tâm và đó sẽ là điều để thắp lên ngọn lửa chiến thắng cho dân tộc ta, để “ngày mai lên” sẽ là một ngày huy hoàng và trọn vẹn nhất.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên việt bắc, đèo De, núi Hồng.
Trăm miền, không phải một miền, để chỉ chiến thắng sẽ là niềm vui lớn đến với toàn dân tộc. Điệp từ vui, cùng cụm từ “vui về” “vui từ” “vui lên” chỉ một niềm vui tự hào lớn, ta có cảm giác như niềm vui sẽ nhân lên từng nơi một, và lan tỏa khắp mọi nơi, là điều quý giá ta đã gặt hái được trong những ngày cả nước hành quân đồng lòng ra trận, cùng với đó là sự kết hợp với các địa danh trên khắp cả nước, nhằm khẳng định lại một lần nữa kết quả chiến thắng của dân tộc ta, niềm vui sẽ lan tỏa đến khắp mọi nơi trên mọi miền tổ quốc.
Ơi kháng chiến! mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường
Dường như Tố Hữu và Nguyễn Đình Thi đã gặp gỡ trong suy nghĩ này, tất cả những hy sinh đấu tranh, tựa như một ngọn lửa lớn. Và chính ý chí quyết tâm ấy sẽ là kim chỉ nang soi rọi trong tương lai, cổ vũ động viên nhân dân ta tiếp tục cố gắng giành thắng lợi trên mọi miền.
Khổ thơ Việt Bắc ra trận thể hiện tinh thần ý chí và đặc tả khung cảnh ra trận hào hùng của nhân dân ta. Tố Hữu đã dùng lời thơ mình để tiếp thêm sức mạnh cho dân tộc. Khí thế ấy là một niềm hi vọng lớn, giúp ta tiếp tục cố gắng đấu tranh giành độc lập trong tương lai. Cảm ơn Tố Hữu vì điều đó, cảm ơn người đã giữ lửa tinh thần cho dân tộc Việt Nam, để thế hệ sau tiếp tục giữ vững tinh thần của thế hệ cha anh thuở trước.
Tiếp tục tham khảo 🌹 Phân Tích Việt Bắc Ta Đi Ta Nhớ Những Ngày 🌹 10 Bài Hay Nhất